Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 01:27:35 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975)  (Đọc 130091 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #40 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:47:05 pm »

Ngày 13 tháng 11 năm 1947, một trận chống càn lớn lại diễn ra ở Phú Hữu, gây tiếng vang trong vùng. Phú Hữu là một xã nhỏ nằm bên phía tả ngạn sông Đồng Nai, xung quanh là đồng ruộng với nhiều sông rạch. Phía Tây cách Phú Hữu 2km là bót Tân Lập, phía Bắc cách 3km là bót Trường Lưu, phía Nam là chi khu Cát Lái. Đêm 12 rạng ngày 13, đại đội 10 chi đội 6 do Trần Thắng Minh và Đào Sơn Tây chỉ huy vừa hành quân về đến Gò Thắng thì được tin trinh sát cho biết Pháp đang huy động lực lượng bao vây Phú Hữu. Lực lượng địch gồm 1 trung đoàn Âu Phi, dưới sự yểm trợ và chỉ đường của máy bay, từ bốn mặt tiến vào. Cánh thứ nhất, từ bót Tân Lập hành quân bằng xe cơ giới theo đường 33 tiến công vào Phú Mĩ từ phía Tây. Cánh thứ hai từ bót Trường Lưu theo đường số 3 đánh xuống. Cánh thứ ba trên 3 tàu thủy và 5canô, từ Cát Lái theo sông Đồng Nai đổ quân phong tỏa từ Cát Lái đến Long Tân chặn đường rút lui của ta xuống Rừng Sác. Pháo địch từ phía Nam dội liên tục vào Phú Mĩ để dọn đường và hủy diệt mục tiêu. Trong tình thế khẩn cấp, đại đội 10 cùng với 2 tiểu đội du kích địa phương triển khai bố trí chặn đánh địch trên hướng khu vực cầu Ông Nhiều và dọc ngọn rạch dẫn đến cầu, nhằm mở vòng vây rút ra ngoài bảo tồn lực lượng.

Trời sắp chuyển tối, khi lực lượng của ta vừa triển khai đội hình xong thì quân địch đã tới sát trận địa. Bộ đội ta chủ động nổ súng. Bị chặn đánh bất ngờ, quân địch lúng túng khựng lại rồi dàn đội hình hàng ngang để bắn trả. Trong khi đó, cánh quân bố trí ém dọc ngọn rạch tiến lên nổ súng đánh tạt sườn quân địch. Tên đại úy chỉ huy cánh này bị bắn gục trong loạt đạn đầu. Bọn lính mất tinh thần hò hét nhau vừa bắn vừa lui về sau. Một hồi kèn xung phong vang lên, quân ta nhất loạt nhảy lên mặt đường truy kích. Tốp chạy đầu thoát về bót Tân Lập. Bộ phận còn lại bị ta diệt gọn. Bộ đội và du kích nhanh chóng thu vũ khí, gồm 1 trung liên, 1 súng cối, 1 tiểu liên, 16 súng trường, 1 súng lục.

Theo tài liệu trong chiếc cặp của tên đại úy chỉ huy mà ta thu được, quân địch sẽ hội đủ 4 cánh tại khu vực cầu Ông Nhiều. Thấy không thể ở lại tiếp tục chiến đấu trong điều kiện so sánh lực lượng quá chênh lệch, Ban chỉ huy đại đội lệnh cho bộ đội lấy quần áo của 40 xác chết địch mặc cải trang, tuần tự rút lui khỏi Phú Hữu, hành quân qua đồng trống dưới sự dòm ngó của 4 máy bay địch ra sát trên đầu, về đến Long Tân an toàn

Trong thành phố, cùng với tiếng súng diệt địch vang dội ở ngoại thành, phong trào đấu tranh chính trị dấy lên mạnh mẽ. Đáng kể nhất là cuộc đấu tranh của 400 trí thức Sài Gòn cùng kí tên vào bản tuyên bố gửi chính phủ Pháp, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, đòi chính phủ Pháp phải nghiêm chỉnh đàm phán với Chính phủ Cụ Hồ.

Sang tháng 12 năm 1947, quân và dân miền Đông liên tiếp đánh địch thu được nhiều thắng lợi ở các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Chợ Lớn, Tân An. Tại Sài Gòn và ven đô, 22 giờ đêm thứ năm, 4 tháng 12, lực lượng các chi đội 4, chi đội 6, chi đội 15, tiểu đoàn Kí Con cùng 10 đại đội du kích Thành, đồng loạt tấn công nhiều mục tiêu khắp nội và ngoại thành, từ Thị Nghè, Bà Chiểu, Gò Vấp, ngã ba Chú Ía, Bà Quẹo, Bà Điểm, Phú Thọ Hòa, Phú Lâm, cầu Chữ Y, Nhà Bè đến các trại lính Pháp, câu lạc bộ, rạp chiếu bóng, công sở, biệt thự nằm ở trung tâm thành phố. Báo Phục Hưng số ra thứ Bảy ngày 6 tháng 12 năm 1947 đưa tin: “Súng, lựu đạn nổ tung đêm thứ năm ngày 4 tháng 12 năm 1947 ở Sài Gòn - Chợ Lớn từ 7 giờ tối đến 12 giờ khuya”. Thực ra tiếng súng tấn công của ta nổ liên tục đến 5 giờ sáng ngày 5 tháng 12 mới chấm dứt.

Ngày 6 tháng 12 năm 1947, ta tổ chức tiêu diệt cái gọi là “chiến khu quốc gia” Bình Quới Tây của địch. Vòng cung Bình Quới Tây nằm biệt lập như một bán đảo ở phía Đông thành phố được bao bọc xung quanh bởi con sông Sài Gòn. Tại đây, chính phủ Lê Văn Hoạch(1) đã lập một chiến khu tập hợp một số đơn vị ngụy quân và những người kháng chiến đầu hàng giặc, dùng làm nơi lôi kéo lực lượng kháng chiến của ta quay trở về làm công cụ đắc lực cho chính sách bình định của thực dân Pháp. Biết được âm mưu của địch, qua tổ chức trinh sát quân báo của mình ở Sài Gòn, chi đội 1 (Thủ Dầu Một) từ tháng 3 năm 1947 đã đưa người cài vào tổ chức của địch, trong đó có Hoàng Của làm đến chức vụ “tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Bình Quới Tây”. Lực lượng của ta tổ chức đưa vào lên đến trên 1 đại đội. 14 giờ chiều ngày 10 tháng 12 năm 1947, ta tổ chức một cuộc đá bóng cùng đại đội địch. Nhân lúc lực lượng của ta đổi sân, dồn sang phía trước doanh trại tiểu đoàn địch, Bộ tham mưu của ta cùng Ban chỉ huy đại đội đã nổ súng bắn chết 5 sĩ quan Ban chỉ huy và tham mưu tiểu đoàn địch ngay tại sở chỉ huy của chúng. Cùng lúc, các chiến sĩ của ta, kể cả số đang đá bóng và đứng xem cổ vũ, nhanh chóng ào lên cướp súng, tiêu diệt bọn lính kháng cự và kêu gọi bọn sống sót đầu hàng. Các “sĩ quan” còn lại cùng đại đội Bình Quới Tây thu toàn bộ vũ khí, tài liệu và đồ dùng quân sự (đủ trang bị cho 1 tiểu đoàn ta). Vững tin có một bộ phận yểm trợ đã ém quân đón rước từ đêm trước, toàn đại đội ung dung thu dọn chiến trường rồi vượt sông Sài Gòn bí mật hành quân về căn cứ Thuận An Hòa (Lái Thiêu) an toàn. Sự kiện Bình Quới Tây làm cho nội bộ địch lủng củng, nghi ngờ lẫn nhau. Kế hoạch “Chiến khu quốc gia” ở Bình Quới Tây bị tan vỡ.

Những ngày cuối cùng năm 1947, tiếng súng đánh địch vẫn vang trong thành phố. Ngày 22 tháng 12 năm 1947, trung đoàn Phạm Hồng Thái phối hợp với lực lượng vũ trang nội thành đánh bót cầu Rạch Chiếc, đồn Chợ Đệm, bót Phú Thọ Hòa và sân bay Tân Sơn Nhất. Các đại đội du kích, công an xung phong dùng lựu đạn đồng loạt tấn công các bót, công sở, khách sạn tập trung nhiều sĩ quan Pháp và sĩ quan ngụy ở hộ 17, 18 Chợ Lớn. Ngày 31 tháng 12 năm 1947, đại đội du kích 1 tấn công nhà hàng La Pagode tọa lạc ở góc đường D’Espagne (nay là đường Lê Thánh Tôn) và Catinat. Đây là nơi bọn sĩ quan Pháp thường lui tới ăn nhậu, xung quanh có thiết bị lưới chắn lựu đạn và lực lượng bảo vệ canh gác cẩn mật. Các chiến sĩ ta cải trang, bất ngờ ập vào ném lựu đạn, diệt 4 thiếu tá, 2 đại úy và nhiều tên Pháp khác.

Thắng lợi của đợt hoạt động phối hợp hơn hai tháng cuối năm 1947 đã góp phần vào thắng lợi chung của chiến dịch thu đông Việt Bắc. Kẻ thù bị tấn công liên miên cả về quân sự lẫn chính trị, kinh tế ngay ở hậu phương của chúng đã không thể hoàn toàn rảnh tay chi viện cho chiến trường chính. Thắng lợi của đợt hoạt động còn biểu thị tấm lòng của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đối với đồng bào cả nước, với thủ đô kháng chiến Việt Bắc, với Bác Hồ. Năm 1947 đánh dấu một bước phát triển quan trọng về xây dựng lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Hệ thống Đảng, chính quyền, mặt trận đoàn thể kháng chiến đều được xây dựng khá hoàn chỉnh từ tỉnh thành xuống đến cơ sở. Căn cứ kháng chiến được củng cố và phát triển liên hoàn với nhiều hình thức sáng tạo, độc đáo, tạo thành hệ thống địa bàn đứng chân bao quanh thành phố. Lực lượng vũ trang nội thành có một bước phát triển quan trọng, tạo cơ sở cho sự hình thành ba thứ quân. Phong trào đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế diễn ra ngay tại trung tâm sào huyệt của kẻ thù. Mặc dù chưa nhịp nhàng phối hợp đồng bộ với nhau nhưng đợt hoạt động đã làm cho địch bối rối, gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện chiếm đóng bình định trên chiến trường Nam Bộ và chi viện cho chiến trường miền Bắc. Một năm đầu cùng cả nước kháng chiến, các lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã rút được nhiều bài học quý báu về việc tăng cường sự thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền, về tổ chức xây dựng lực lượng, về huấn luyện kĩ thuật tác chiến và hiệp đồng đánh địch trên chiến trường đặc thù nội đô và ven đô.

Nghị quyết hội nghị Trung ương mở rộng (họp từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 1 năm 1948) đánh giá: “Trong Nam Bộ, bộ đội ta sau thời kì tổ chức phức tạp lúc đầu nay đã được chỉnh đốn lại và đã thu được khá nhiều thành tích và kinh nghiệm. Nó đã thật sự có tính chất một đội quân du kích của nhân dân, trưởng thành và rèn luyện trong lò lửa của kháng chiến, từ cuộc kháng chiến gian khổ của nhân dân mọc lên. Từ chủ trương đánh các đồn, chỉ phục kích đánh lẻ cướp vũ khí nay đã tiến lên trình độ đuổi địch ra khỏi các vị trí lẻ, dồn chúng về các thành thị, đánh những trận tiêu hao và tiêu diệt hàng trăm địch, thu được khá nhiều vũ khí và thỉnh thoảng đột kích vào các châu thành.

Cuộc phản công thắng lợi ở Việt Bắc và chiến tranh mạnh mẽ ở miền Nam đã gây thêm tinh thần nỗ lực phấn khởi trong toàn dân, tăng thêm tin tưởng ở tiền đồ kháng chiến vẻ vang của dân tộc(2).


(1) Lê Văn Hoạch lên làm thủ tưởng chính phủ bù nhìn sau khi Nguyễn Văn Thinh tự sát tháng 11 năm 1946. Đêm ngày 29 tháng 9 năm 1947, Lê Văn Hoạch từ chức. Ngày 1 tháng 10 năm 1947, Nguyễn Văn Xuân lên làm thủ tướng.
(2) Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1986, t. 1, tr. 166.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #41 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:49:03 pm »

II. ĐẤU TRANH KINH TẾ, PHÁ ÂM MƯU BIẾN SÀI GÒN
THÀNH TRUNG TÂM DỰ TRỮ CHIẾN TRANH CỦA ĐỊCH.
ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ Ở NGOẠI THÀNH


Sau thất bại ở Việt Bắc thu đông 1947, thực dân Pháp buộc phải xét lại chiến lược chiến tranh ở Việt Nam. Thực tế của một năm thực hành cuộc chiến tranh xâm lược trên phạm vi cả nước chứng tỏ không thể dùng biện pháp quân sự để giải quyết cuộc chiến tranh trong thời gian “chớp nhoáng”. Trong lúc đó, chi phí của một cuộc chiến tranh xâm lược (dốc sức đánh nhanh thắng nhanh ở Đông Dương) đã trở nên quá tải đối với nền kinh tế ốm yếu của nước Pháp đang gượng dậy sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tình hình ấy buộc thực dân Pháp phải chuyển hướng chiến lược chiến tranh, từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh kéo dài, vừa bình định vùng chiếm đóng, vừa lấn chiếm vùng tự do của ta, thực hiện “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Từ dùng biện pháp quân sự là chủ yếu, chúng chuyển trọng tâm hoạt động sang việc đối phó với ta nhằm giữ vững và củng cố vùng tạm chiếm, thực hành chiến tranh tổng lực, đánh phá cơ sở kinh tế, chính trị và lực lượng dự trữ của ta.

Đối với Nam Bộ, trên cơ sở nhận định đây là nơi đông dân, nhiều của, xa trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang mới xây dựng, trang bị vũ khí yếu, thực dân Pháp chủ trương biến Nam Bộ mà Sài Gòn là trung tâm thành nơi cung cấp sức người, sức của và dữ trữ chủ yếu cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam và ba nước Đông Dương.

Thực hiện chủ trương bình định, Pháp đưa Blaizot sang thay Valluy cầm đầu bộ máy chiến tranh ở Đông Dương (Từ tháng 10 năm 1948, chúng lại đưa Pignon, viên quan cai trị cũ thay thế Bollaert nhận chức cao ủy). Mùa xuân năm 1948, thực dân Pháp tăng thêm quân, điều chỉnh lại lực lượng, chuyển quân vào chiến trường miền Nam. Ngay trong tháng 1 năm 1948, chúng điều 4 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoàn pháo binh từ miền Bắc vào Sài Gòn, đưa lực lượng địch ở Sài Gòn và các tỉnh khu 7 lên tới 25.438 tên lính Pháp và Lê dương: 5574 tên, lính ngụy: 19.864 tên(1). Chúng liên tiếp mở những cuộc hành quân càn quét với quy mô lớn vào căn cứ của ta ở xung quanh Sài Gòn và các căn cứ lớn như chiến khu Đồng Tháp Mười, chiến khu Đ, đồng thời thiết lập một hệ thống đồn bót dày đặc(2) nhằm kiểm soát vùng ven đô thị, các trục đường giao thông quan trọng, các cửa rừng cao su, xung quanh căn cứ và dọc hành lang giao thông của ta.

Ngay từ tháng 12 năm 1947, khi tin tức thắng lợi từ Việt Bắc bay về và hoạt động phối hợp đang độ cao trào trên toàn miền, từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 12 năm 1947, Xứ ủy Nam Bộ họp hội nghị đánh giá một năm đầu cùng cả nước kháng chiến và đề ra nhiệm vụ cho năm 1948. Hội nghị nhận định: Sang năm 1948, địch sẽ tập trung càn quét và đánh phá Nam Bộ, mở rộng phạm vi chiếm đóng quanh đô thị và dọc các trục đường giao thông, lấn chiếm vùng căn cứ của ta, tiếp tục xây dựng ngụy quân, ngụy quyền, triệt phá dự trữ kinh tế, dùng thủ đoạn chiến tranh gián điệp để đánh phá hậu phương của ta. Từ nhận định trên hội nghị chủ trương ra sức xây dựng lực lượng dân quân du kích rộng khắp, nhất là ở vùng tạm bị chiếm. Đẩy mạnh công tác chống bắt lính và tăng cường địch ngụy vận. Tiếp tục đánh phá giao thông địch. Tổ chức xây dựng bộ đội chủ lực phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh bẻ gãy các cuộc càn quét, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch.

Tại Việt Bắc, ngày 15 tháng 1 năm 1948, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng nhằm kiểm điểm tình hình kháng chiến và đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn mới:

“a/ Về quân sự chuyển sang giai đoạn thứ 2, giai đoạn cầm cự, đánh táo bạo, phản công bộ phận nếu nước Pháp có biến cố lớn.

b/ Về chính trị: củng cố toàn dân đoàn kết, phá chính sách “dùng người Việt hại người Việt” của thực dân Pháp, phá mọi chính quyền bù nhìn.

c/ Về kinh tế: phá kinh tế tài chính địch, thực hiện khẩu hiệu tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, cải thiện dân sinh, tịch thu tài sản của bọn phản quốc cấp cho dân nghèo và bộ đội.

d/ Về hành chính: kiện toàn cơ quan hành chính từ trên xuống dưới.

đ/ Về văn hóa: giáo dục động viên văn hóa thật sự tham gia kháng chiến, ủng hộ kháng chiến, đào tạo nhân tài và cán bộ cung cấp cho các ngành kháng chiến”(3).

Phương châm tác chiến chiến lược được đề ra là “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ”.


(1) Theo Lịch sử chiến tranh Đông Dương của tướng Yves Grass, bản dịch của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, đánh máy lưu tại phòng Khoa học lịch sử quân sự Quân khu 7, địch cần xung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn 35.000 Âu Phi, 25.000 bảo an và quân đội Cao Đài.
(2) Hệ thống tháp canh De Latour, với tư tưởng chiến thuật là tổ chức phòng vệ trục lộ giao thông các khu trọng yếu, tạo một hệ thống cứ điểm ô vuông nhằm kiểm soát giao thông, chia cắt khống chế hoạt động của đối phương. Mỗi tháp canh có từ 1 bán tiểu đội đến 1 tiểu đội tăng cường do 1 trung hoặc hạ sĩ chỉ huy, được trang bị súng trung liên phóng lựu, vũ khí cá nhân và nhiều lựu đạn. Mỗi tháp canh cách nhau 1km, có thể khoảng cách ngắn hơn nếu địa hình quanh co khuất lấp, tạo thành thế liên hoàn khống chế địa vực và yểm trợ lẫn nhau khi một cứ điểm bị tấn công. Do bị ta tấn xông thường xuyên, tháp được cải tiến ngày càng hoàn thiện hơn: hình vuông, xây gạch, cao khoảng 10 mét, xung quanh có lũy đất cao, bên ngoài có chông tre, hào lũy, kẽm gai, mìn cóc, mìn sáng. Giữa nhiều tháp canh còn có 1 tháp mẹ chỉ huy. Tháp canh mẹ lớn hơn, đóng ở điểm yếu, xây dựng kiên cố, xung quanh có nhiều lô cốt chiến đấu, được trang bị máy vô tuyến, hỏa lực cầu vồng. Hệ thống tháp canh được xây dựng trước hết ở xung quanh đô thị quan trọng, đường giao thông quanh căn cứ ta, sau đó, theo vết dầu loang từng kilômét vuông bung ra từng bước tùy điều kiện cho phép.
(3) Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1986, t. 1, tr. 169-170.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #42 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:49:52 pm »

Nội dung của nghị quyết Hội nghị Xứ ủy và Hội nghị Trung ương mở rộng đã kịp thời phát hiện sự chuyển biến lớn của tình hình, xác định phương hướng quyết tâm đẩy mạnh cuộc kháng chiến phát triển lên một bước mới một cách nhạy bén và thích hợp. Tinh thần của nghị quyết trên đã được phổ biến quán triệt xuống cấp ủy đảng các cấp ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Nhiệm vụ trọng tâm được xác định là đẩy mạnh đấu tranh kinh tế với địch, kết hợp đấu tranh chính trị quân sự, không cho chúng biến Sài Gòn thành trung tâm dự trữ, đấu tranh phá ngụy quân ngụy quyền, tiến hành địch ngụy vận. Đối với tỉnh Gia Định: đẩy mạnh du kích chiến tranh, xây dựng bộ đội, đánh giao thông, chống càn quét lấn chiếm, gia tăng sản xuất, bảo vệ cơ quan, bảo vệ lực lượng, dự trữ của ta.

Thực hiện sự chỉ đạo về chống lại chiến lược của địch, Sài Gòn - Chợ Lớn phát động một phong trào triệt phá kinh tế của địch trong nội đô và vùng nông nghiệp ngoại thành. Bước sang năm 1948, hàng loạt nhà máy xí nghiệp đình công, bãi công. Công nhân đòi tăng lương, giảm giờ làm, đòi tự do nghiệp đoàn. Tiêu biểu nhất là những cuộc đấu tranh của công nhân hãng thuốc lá Mic, nhà máy bia Chợ Lớn, nhà máy rượu Bình Tây, công nhân xe lửa Sài Gòn, công nhân công xưởng Đô Thành, hãng xà bông Việt Nam, nhà đèn, xưởng đắp vỏ xe ô tô Nguyễn Văn Bình, công nhân xe buýt và các hãng Simac, Effel, Faci, Asam…

Các vụ phá hoại máy móc, đốt cháy kho nhiên liệu, đốt cháy thành phẩm của các nhà máy diễn ra liên tục. Chỉ kể riêng trong tháng 3 năm 1948, ngày 8 tháng 3, ta đốt cháy nhà máy xay lúa Thạnh Hưng, làm thiệt hại 7 triệu đồng. Ngày 17 tháng 3, ta đốt cháy nhà máy xay lúa Tha Nam ở Chợ Lớn, báo Sài Gòn Mới đưa tin: “Lửa cháy rực trời, cứ xem sự hư hao, người ta có thể coi nhà máy này bị hư hỏng gần trọn vẹn”. Ngày 20 tháng 3, đốt cháy 2 đầu máy xe lửa ở ga Nancy. Ngày 20 tháng 3 năm 1948, kho đạn tại Bảy Hiền bị tấn công, 300 trái bom phát nổ gây chấn động dữ dội trong thành phố… hầu như ở nhà máy, cơ quan, xí nghiệp nào, công nhân viên chức cũng tìm cách phá hoại tài sản của địch. Công nhân xe lửa Sài Gòn phá hỏng 2 máy cưa, 11 máy khoan, 2 máy tiện và lấy nhiều dụng cụ khác, tự tạo 1 tiểu liên gửi cho công an xưởng Thủ Đức. Công nhân hãng Asam phá 2 máy hàn, công nhân Effel phá hoại 1 máy đục lỗ sắt làm cầu trị giá 15.000 đồng, 1 máy cắt tôn trị giá 18.000 đồng, 1 mô tơ điện trị giá 10.000 đồng, ném xuống sông 1 tấn sắt thành phầm. Công nhân ở xưởng Đô Thành mỗi ngày cho máy chạy không 1 giờ, làm lãng phí nhiên liệu hơi hàn của địch. Công nhân bến tàu trong 3 tháng 8, 9, 10 năm 1948 đã liệng xuống sông tổng số 60 bánh vải, 478 thùng rượu và nhiều thùng thuốc Tây, đồ điện, đồ quân dụng… Các cuộc bãi công, đình công ngấm ngầm hoặc công khai phá hoại máy móc tài sản cùng với phong trào phá hoại cao su diễn ra mạnh mẽ ở ngoại thành và các tỉnh miền Đông Nam Bộ đã làm cho hoạt động sản xuất của tư bản thực dân Pháp giảm sút rõ rệt. Nền kinh tế thuộc địa của chúng bị thiệt hại nặng nề. Bằng hoạt động đấu tranh kinh tế như trên, công nhân và nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã góp phần chống lại có hiệu quả âm mưu biến Nam Bộ thành hậu phương dự trữ của địch cho cuộc chiến tranh.

Vừa đấu tranh phá hoại kinh tế địch, ta vừa tích cực xây dựng lực lượng dự trữ cho cuộc kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn thành hậu phương của ta, nơi cung cấp chủ yếu của cải vật chất, đặc biệt là các loại hàng hóa như nguyên liệu cho các xưởng quân giới, vải vóc thuốc men, dụng cụ văn phòng… ra chiến khu. Các đơn vị bộ đội đều có “Hội ủng hộ Vệ quốc đoàn” cho đơn vị mình tại thành phố như hội ủng hộ chi đội 1, 6, 12, 13. Các ngành quân nhu, quân giới, quân y, rồi cơ quan kháng chiến của các địa phương, kể cả các tỉnh bạn, huyện bạn của Nam Bộ đều có tổ chức tiếp liệu trong nội thành. Đặc biệt ngành quân nhu đã tổ chức được hệ thống cơ sở tiếp liệu rộng khắp trong các quận, hộ. Các cơ sở tiếp liệu này làm nhiệm vụ khai thác các nhu cầu từ ăn mặc đến công tác sản xuất và chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ bằng cách vận động bà con ủng hộ, tiếp nhận, thu mua để chuyển về căn cứ. Ngoài các cơ sở tiếp liệu này, các cơ quan, tổ chức đoàn thể kháng chiến trong nội thành đều có bộ phận chuyên trách nhiệm vụ cung cấp hàng hóa thiết yếu.

Đồng bào thành phố, từ công nhân viên chức, tiểu thương đến cả một số thương gia lớn, chủ hãng, đều nhiệt tình đóng góp cho kháng chiến. Nhiều hộ ở khu vực Chợ Lớn, Bến Thành, Tân Định tổ chức thành từng ngành, từng giới ủng hộ riêng. Ngành nào, giới nào có khả năng về loại hàng hóa vật phẩm nào thì ủng hộ loại đó. Bác sĩ, dược sĩ, nhân viên y tế giúp đỡ thuốc men và dụng cụ y tế. Công nhân ủng hộ máy móc dụng cụ vật liệu kim khí. Thương nhân góp vải vóc, thực phẩm, văn phòng phẩm, dụng cụ văn phòng. Cả học sinh, sinh viên cũng góp gửi cả chiến khu sách vở bút mực. Nhiều gia đình gửi cả lư đồng, mâm thau, bạc trắng. Chị em phụ nữ tham gia cuộc vận động “mùa đông binh sĩ” góp gửi áo ấm, khăn quàng cổ cho bộ đội. Những câu thơ như sau được chị em truyền miệng khá phổ biến:

      Mùa Đông đã đến rồi đây
      Sầu trong gió bắc ngàn cây lạnh lùng
      Lần đầu tiên em sung sướng quá
      Đan ngự hàn gửi tặng phương xa
      Và từ đây những chiến sĩ không nhà
      Sẽ thấu hiểu lòng em qua áo ấm
(1).

Đối với những loại vật phẩm quý hiếm và đặc biệt, như thuốc súng, kim loại, vỏ đạn, hóa chất… đồng bào không có khả năng ủng hộ, ta tổ chức mua thông qua các nhà buôn. Nhiều nhà buôn nhất là thương nhân Hoa kiều có mối giao dịch rộng rãi và ít bị địch theo dõi đã nhiệt tình mua và chuyển giao cho ta. Ngoài ra trong thành phố, một số đơn vị bộ đội, công an, cơ quan địa phương còn tổ chức các cơ sở sản xuất tại chỗ. Cơ sở sửa chữa V.T.Đ chuyên mua máy thu thanh và linh kiện gửi ra chiến khu, đồng thời sửa chữa các máy hỏng từ chiến khu gửi vào. Có những cơ sở như thế trong ngành quân khí, y dược, dệt và may mặc. Về lương thực, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ vận động được nhiều thương gia Hoa kiều dùng giấy tờ của địch cấp, đi mua lúa ở các tỉnh miền Tây, miền Trung Nam Bộ, dùng thuyền chở bằng đường sông về Sài Gòn - Chợ Lớn, xay xong bán lại cho ta.


(1) Truyền thống cách mạng của Phụ nữ Nam Bộ Thành Đồng
Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ xuất bản, 1989, tr. 164-165.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #43 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:50:32 pm »

Lúa gạo, hàng hóa, vật phẩm từ Sài Gòn được chuyển ra vùng căn cứ bằng nhiều hình thức phong phú. Lợi dụng giấy tờ của địch, ta tranh thủ vận tải công khai bằng đường sông với quy mô lớn, hàng hóa xếp sẵn trong kho của các nhà buôn. Trên đường bộ, ta dùng xe lửa của nhà buôn hoặc lấy xe của địch chở hàng ra khỏi thành phố, đến vùng du kích nơi vắng địch, tranh thủ đổ hàng xuống. Ở các bến đó đã có đồng bào chiến sĩ của ta đợi sẵn, tiếp nhận và chuyển tiếp. Ta vận động ngụy binh trong các đồn bót, tháp canh dọc theo các tuyến Sài Gòn - Bà Rịa, Sài Gòn - Nam Vang, Sài Gòn - Tây Nguyên, Sài Gòn - Lộc Ninh, Sài Gòn - Mĩ Tho, Sài Gòn - Phan Thiết, bảo vệ cho ta xuống hàng ở đoạn gần địch. Còn hàng trăm hình thức vận tải có hiệu quả khác như đồng bào ngoại ô đi chợ hằng ngày ra vào nội thành, đồng bào nội thành đi nghỉ mát, lễ chùa, thăm viếng người thân, buôn bán, làm ăn ra ngoại thành, rồi xe ngựa, xe ba gác, xe bò ra vào thành phố đều phối hợp vận chuyển nhỏ. Nhiều người, nhiều chuyến, nhiều ngày tích góp lại đã góp phần chuyên chở khối lượng hàng hóa từ thành phố ra chiến khu.

Trong điều kiện bị địch bao vây phá hoại, sự chi viện tiếp tế của Trung ương xa và gặp khó khăn, nguyên vật liệu ở vùng căn cứ ít phát triển, sự đóng góp nêu trên của đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn có ý nghĩa quan trọng. Nó đã góp phần xây dựng nền hậu cần kháng chiến, làm thất bại âm mưu bao vây phong tỏa kinh tế ta của kẻ thù, đồng thời nói lên tình cảm tha thiết với kháng chiến, một lòng hướng về kháng chiến của nhân dân thành phố.

Công cuộc kháng chiến của quân và dân Nam Bộ sang năm 1948 đang phát triển lên giai đoạn mới. Yêu cầu của tình hình đặt ra nhiệm vụ cần củng cố, tổ chức lại chiến trường, phát triển lực lượng nhằm tiếp tục đưa cuộc kháng chiến tiến tới. Ngày 27 tháng 3 năm 1948, Khu ủy Khu 7 mở hội nghị mở rộng toàn khu. Hầu hết cán bộ Đảng, chính quyền, chỉ huy bộ đội ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và các tỉnh trong khu đã về dự. Hội nghị quyết định điều chỉnh chiến trường, xây dựng các trung đoàn tập trung, xử lí trường hợp bọn gián điệp và phản động lũng đoạn phá hoại trong nội bộ một số đơn vị thuộc bộ đội Bình Xuyên (Tổng hành dinh Bảy Viễn, Bộ tham mưu liên khu Bình Xuyên và Ban chỉ huy chi đội 9). Sau Hội nghị Khu ủy cuối tháng 3 năm 1948, Tư lệnh bộ khu 7 cùng Thành bộ đội Sài Gòn - Chợ Lớn triệu tập hội nghị quân sự Thành nhằm tổ chức lại lực lượng các ban công tác Thành và quán triệt chương trình hoạt động quân sự ở Sài Gòn - Chợ Lớn trong tình hình mới.

Chiến trường Khu 7 chia ra 4 địa bàn hoạt động (4 phân khu):

1/ (Phân khu đặc biệt) gồm: Sài Gòn - Chợ Lớn và các quận Gò Vấp, Thủ Đức (tỉnh Gia Định) và Đức Hòa (tỉnh Chợ Lớn.

2/ (Phân khu Duyên Hải) gồm: Bà Rịa, Vũng Tàu và các quận Nhà Bè, Cần Giờ (vùng Rừng Sác tỉnh Gia Định), Cần Giuộc, Cần Đước (tỉnh Chợ Lớn), Long Thành (tỉnh Biên Hòa).

3/ (Phân khu biên giới) gồm: Tây Ninh, quân khu Đông Thành (tỉnh Tân An) và quận Hóc Môn (tỉnh Gia Định).

4/ (Phân khu cao su) gồm: Thủ Dầu Một, Biên Hòa.

Theo quyết định của trung tướng Nguyễn Bình, tháng 4 năm 1948, 10 đại đội du kích Thành đổi trở lại thành 10 Ban công tác và chuyển trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu 7.

Đại đội du kích 1 thành Ban công tác 1
Đại đội du kích 2 thành Ban công tác 2
Đại đội du kích 3 thành Ban công tác 3
Đại đội du kích 4 thành Ban công tác 4
Đại đội du kích 5 thành Ban công tác 5
Đại đội du kích 6 thành Ban công tác 6
Đại đội du kích 7 thành Ban công tác 7
Đại đội du kích 8 thành Ban công tác 8
Đại đội du kích 9 thành Ban công tác 9
Đại đội du kích 10 thành Ban công tác 10

Quản lí đầu mối chung 10 ban công tác là một tổ chức mang tên Ban thường vụ (bí số 200/CT) gồm 10 trưởng ban công tác do Nguyễn Tứ Phương làm Tổng thư kí, Phạm Ngọc Thảo (trưởng phòng mật vụ Nam Bộ) làm ủy viên kiểm soát và Phạm Tuân giữ chức vụ ủy viên chính trị. Trực thuộc Ban thường vụ 200/CT có văn phòng, ban liên lạc, đội cảnh vệ.

Việc thành lập lại các ban công tác Thành và chuyển trở về trực thuộc khu đã làm cho cán bộ chiến sĩ các đơn vị vũ trang phấn khởi, hăng hái chiến đấu, do điều kiện đảm bảo hoạt động khá hơn thời kì trực thuộc Thành đội bộ dân quân.

Ngày 20 tháng 5, các chiến sĩ Ban công tác 9 đột nhập nhà tên sĩ quan Pháp ở đường Chasseloup Laubat (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai) giữa ban ngày giết chết tên này, lấy 1 tiểu liên, 4 súng ngắn và 500 viên đạn. Ngày 16 tháng 6 năm 1948, Ban công tác 8 dùng quả moócchiê của địch bị lép chế tạo thành quả mìn nổ chậm đặt tại trụ sở thông tin Sài Gòn. Quả mìn không nổ do dây cháy chậm bị ẩm. Hãng AFP đưa tin trên báo Thời Sự số ra ngày 18 tháng 6 năm 1948: “Nếu trái bom này nổ thì sự thiệt hại không biết đến thế nào!”. Dự luận còn đang xôn xao thi ngày 21 tháng 6 năm 1948, tên phản động đội lốt linh mục Maurrice Thiên ở nhà thờ Huyện Sĩ bị đền tội.

Vang dội nhất là trận tấn công bọn sĩ quan Pháp trong rạp chiếu bóng Majestic trên đường Catinat. Majestic là rạp chiếu bóng sang trọng bậc nhất Sài Gòn lúc bấy giờ, chỉ dành riêng cho bọn Pháp và Việt gian phản động cao cấp, giới thượng lưu chính khách ở Sài Gòn. Trước rạp là bến tàu, có nhiều lính địch canh gác và mật thám theo dõi. Riêng trước cửa rạp luôn có một tiểu đội hiến binh làm nhiệm vụ giữ trật tự và chặn xét người Việt Nam vào rạp. Được đội trinh sát báo tin, đêm ngày 10 tháng 6 năm 1948 có 30 sĩ quan Pháp đến rạp Majestic vào xem bộ phim được quảng cáo trước là “Adieu chèrie” (vĩnh biệt em yêu) và tổ trinh sát cũng biết rõ vị trí chỗ ngồi của chúng qua số ghế ghi ở vé, trung đội nữ Minh Khai do chị Dư Thị Lắm chỉ huy quyết định đánh. Một tổ 4 đội viên gồm Bùi Thị Huê, Nguyễn Thị Kim Dung, Hoàng Thị Thanh, Mạc Thị Lan xung phong thực hiện nhiệm vụ. Chính trị viên trung đội Nguyễn Thị Huê trực tiếp chỉ huy trận đánh. Lớn tuổi nhất là chị Huê, thợ may, mới 27 tuổi, chị khác còn rất trẻ, từ 15 đến 16 tuổi. Với 3 trái lựu đạn OG của Mĩ bỏ trong bóp, trong trang phục sang trọng, 4 người đã lọt vào rạp và ung dung vào tại các vị trí đã định sẵn. 20 giờ 45 phút, vừa đến phần chiếu phim chính, chị Bùi Thị Huê ra ám hiệu, cùng lúc, 3 quả lựu đạn được rút chốt và ném thẳng vào trúng khu vực riêng của bọn sĩ quan Pháp, lựu đạn nổ tung. Bọn địch la hét giãy giụa. Người xem náo loạn, chen lấn chạy ào ra cửa. Kết quả 29 tên sĩ quan Pháp, trong đó có 2 quan năm bị chết, 50 tên lính - phần đông là lính Pháp - bị thương nặng. Trận đánh làm cho bọn địch kinh hãi, dư luận báo chí xôn xao bàn tán trong một thời gian dài.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #44 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:52:08 pm »

Liên tục từ tháng 4 đến tháng 9 năm 1948, các đại đội du kích đã tấn công khá nhiều vị trí địch trong thành phố. Tính riêng 1 tháng từ ngay 15 tháng đến ngày 15 tháng 4 năm 1948, đã tác chiến 135 trận, giết chết và làm bị thương 150 tên Pháp và Việt gian, thu 9 súng, làm thiệt hại cho địch 4 triệu rưỡi đồng tiền Đông Dương ngân hàng. Tạp chí quân sự Guérilla của Pháp coi cách chiến sĩ công tác Thành như những kẻ xuất quỷ nhập thần: “Họ mặc thường phục, trang bị súng ngắn, lựu đạn, dao găm, lúc ẩn, lúc hiện, bất ngờ chớp giật, tấn công vào câu lạc bộ sĩ quan không quân Pháp, đánh vào nơi hội họp, vui chơi giải trí… của quân đội Pháp, rồi tan biến như sương mù không để lại dấu vết”(1).

Ở các tỉnh xung quanh Sài Gòn và khu vực ngoại thành, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Khu ủy Khu 7, ngày 27 tháng 3 năm 1948, các chi đội Vệ quốc lần lượt biên chế lại thành các trung đoàn. Ngoài trung đoàn Phạm Hồng Thái và trung đoàn 300 đã có sẵn, chi đội 1 (Thủ Dầu Một) được chuyển thành trung đoàn 301, biên chế đủ 3 tiểu đoàn 901, 902, 903, 1 đại đội cơ động và cơ quan trung đoàn bộ, do Nguyễn Văn Thi làm trung đoàn trưởng, Lê Đức Anh chính trị viên.

Trung đoàn 302 ra đời trên cơ sở sáp nhập liên chi đội 2 - 3 do Ngô Văn Lực làm trung đoàn trưởng. Sau đó không lâu, trung đoàn 302 sáp nhập với chi đội 9 thành trung đoàn 309 do Mai Văn Vĩnh (Hai Vĩnh) làm chỉ huy trưởng.

Trung đoàn 304 ra đời trên cơ sở sáp nhập chi đội 4 và chi đội 25. Huỳnh Văn Trí làm trung đoàn trưởng.

Trung đoàn 306 Phạm Hồng Thái ra đời, trên cơ sở biên chế lại chi đội 6 thành 2 tiểu đoàn, sáp nhập thêm lực lượng của trung đoàn Phạm Hồng Thái rút gọn còn 1 tiểu đoàn Nguyễn Văn Công, sau đó là Trần Đình Xu làm trung đoàn trưởng, Nguyễn Văn Bảo làm chính trị viên. Trung đoàn có 3 tiểu đoàn mang phiên hiệu 916, 917, 918 (Phạm Hồng Thái).

Trung đoàn 307 ra đời trên cơ sở sáp nhập các chi đội 7, chi đội 25 với lực lượng vũ trang tỉnh Bà Rịa do Mai Văn Vĩnh, sau đó Ngô Văn Lực làm trung đoàn trưởng. Từ tháng 7 năm 1948, hai trung đoàn 307 và 309 sáp nhập thành trung đoàn 397, do Hứa Văn Yến làm trung đoàn trưởng.

Trung đoàn 308 ra đời trên cơ sở sáp nhập chi đội 15 và tiểu đoàn “Nguyễn An Ninh” do Huỳnh Văn Một làm trung đoàn trưởng.

Trung đoàn 312 ra đời trên cơ sở phát triển từ chi đội 12. Tô Kí, sau là Nguyễn Văn Bứa làm trung đoàn trưởng, Lê Thanh Kiết làm chính trị viên. Trung đoàn có 3 tiểu đoàn mang phiên hiệu 934, 935, 936.

Trong quá trình thành lập các trung đoàn, tại Chiến khu Rừng Sác, Khu ủy Khu 7 tiến hành thanh lọc và củng cố một số đơn vị và nội bộ Bình Xuyên, loại trừ những phần tử phản động gián điệp, nhân viên Phòng Nhì Pháp.

Sau khi nắm được lực lượng Bình Xuyên trong tổ chức “liên khu”, khu bộ phó Lê Văn Viễn (tức Bảy Viễn) bị sự thao túng của các nhân viên Phòng Nhì Pháp như Lại Hữu Tài, Lại Văn Sang, Lâm Ngọc Đường, Maurice Thiên, ngày càng sa đà vào con đường ăn chơi xa hoa trụy lạc, ra rời kháng chiến, biến chiến khu Rừng Sác thành “chiến khu ma, án binh bất động. Nhiều cán bộ đảng viên bị thủ tiêu, khủng bố. Hành động của Bảy Viễn và bọn tay chân đàn em trong ban chỉ huy chi đội 9, Tổng hành dinh Khu bộ phó và Ban tham mưu liên khu gây sự bất bình mạnh mẽ trong đại đa số cán bộ và chiến sĩ Bình Xuyên. Sau một thời gian kiên trì giác ngộ không thu được kết quả, một số cán bộ trong Ban quân sự Nam Bộ và khu ủy Khu 7 thấy cần thiết phải thanh trừng một số phần tử phản động và gián điệp trong nội bộ Bình Xuyên. Nhằm tách Bảy Viễn ra khỏi Rừng Sác, giữ níu Bảy Viễn lại con đường kháng chiến, Ban quân sự Nam Bộ đã đề bạt Lê Văn Viễn lên chức khu bộ trưởng Khu 7 và triệu tập về căn cứ Nam Bộ tại Đồng Tháp Mười để họp hội nghị và dự lễ tấn phong. Trong khi Bảy Viễn cùng đoàn tùy tùng đang ở Đồng Tháp Mười, thì tại Rừng Sác, cuộc thanh trừng bắt đầu. Ba đại đội của trung đoàn 300 (do Trần Sơn Tiêu chỉ huy) phối hợp với 1 đại đội thuộc chi đội 9 (do Trần Công Đức chỉ huy) triển khai đội hình bao vây chặt vòng ngoài, rồi cho một bộ phận đột kích vào 3 mục tiêu: Tổng hành dinh Bảy Viễn, Bộ tham mưu liên khu Bình Xuyên và sở chỉ huy chi đội 9. Trước giờ hợp đồng nổ súng, có lệnh của Xứ ủy Nam Bộ đình chỉ cuộc thanh trừng. Nhưng bức điện đã bị giữ lại lâu ở Khu ủy Khu 7, mặt khác Rừng Sác mênh mông, các đơn vị ém quân bí mật phân tán khắp các kênh rạch chằng chịt, thông tin liên lạc chậm trễ, nên không đến kịp. 4 giờ sáng ngày 24 tháng 5, vòng vây của lực lượng tiến hành thang trừng khép chặt. Các cánh quân thọc sâu bất ngờ tiến thẳng vào ba mục tiêu, bắt hầu hết bọn phản động và nhân viên Phòng Nhì Pháp. Tên Lâm Ngọc Đường dùng ghe riêng chạy trốn, sau 7 ngày đêm bị sa lưới với đầy đủ tang vật trong tay: cặp đứng tài liệu Pháp gửi cho Bảy Viễn, danh sách bọn Phòng Nhì và phản động trong nội bộ Bình Xuyên, nhật kí ghi các vụ việc phá hoại, kế hoạch “chiến khu ma” và một cặp đầy ắp tiền Đông Dương ngân hàng(2).


(1) Xem Bước đường quyết thắng của lực lượng vũ trang nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1985, tr.21.
(2) Trong số tài liệu ta thu lượm được, có 1 văn bản kí kết giữa đại diện quân đội Liên hiệp Pháp tại khu vực Đông Nam Bộ và Tổng chỉ huy liên khu Bình Xuyên Lê Văn Viễn với nội dung: 1/ Quân đội Liên hiệp Pháp (chịu trách nhiệm về tình hình quân sự ở tỉnh Gia Định) cách mạng kết không tiến hành các hoạt động quân sự nhằm vào các lực lượng của liên khu Bình Xuyên trong căn cứ Rừng Sác. 2/ Lực lượng quân sự liên khu Bình Xuyên (và các lực lượng quân sự có liên quan hiệp đồng trong căn cứ Rừng Sác) cam kết không tiến hành các hoạt động quân sự nhằm vào các khu vực thuộc quyền kiểm soát của quân đội Liên hiệp Pháp tại các tỉnh Gia Định - Chợ Lớn… nằm dọc phía Tây hai con sông Nhà Bè và Soài Rạp. 3/ Chỉ huy quân đội Liên hiệp Pháp (chịu trách nhiệm về tình hình quân sự ở tỉnh Gia Định) có trách nhiệm báo cáo toàn bộ tình hình và đệ trình thỏa ước này lên Tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở miền Đông Nam phần Việt Nam. Thỏa nước này có hiệu lực từ ngày Tư lệnh quân đội Pháp ở miền Đông Nam phần Việt Nam chuẩn y. Ngoài ra ta còn thu được dự thảo thỏa ước giữa Bảy Viễn và quân đội Pháp, nội dung: 1/ Tổng chỉ huy liên khu Bình Xuyên bảo đảm không để xảy ra các hoạt động quân sự dọc tuyến sông Lòng Tàu, để gây thiệt hại về người và phương tiện vận chuyển thuộc quyền kiểm soát của người Pháp. 2. Đổi lại, Pháp giành cho Liên khu Bình Xuyên các khoản viện trợ về tài chính, hàng tiêu dùng theo ke hằng năm.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #45 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:54:26 pm »

Ngày 31 tháng 5 năm 1948, cuộc thanh trừng kết thúc. Mặc dù phạm một số khuyết điểm như công tác phân loại đối tượng chưa chu đáo, ở một số nơi, một số người bị bắt và xử lí oan, cuộc thanh trừng một số phần tử phản động và gián điệp trong nội bộ Bình Xuyên đã giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu gây chia rẽ nội bộ, thành lập “chiến khu ma” của thực dân Pháp, thanh lọc được kẻ thù và bọn cơ hội phản động trà trộn trong hàng ngũ kháng chiến.

Sau cuộc thanh trừng, các đơn vị còn lại của bộ đội Bình Xuyên hòa nhập vào các trung đoàn. Trên thực tế không còn bộ đội Bình Xuyên riêng rẽ. Phân khu Duyên Hải thành lập trước thanh trừng nay được củng cố lại, do Dương Văn Hà (vừa được đề bạt chức Khu bộ phó Khu 7 sau khi Lê Văn Viễn bỏ chạy về Sài Gòn theo giặc)(1) làm chỉ huy trưởng, Nguyễn Sơn Xuyên làm chỉ huy phó.

Cũng trong tháng 6 năm 1948, Chính phủ gửi điện công nhận Ban quân sự Nam Bộ và cử trung tướng Nguyễn Bình làm Tư lệnh (trước đó ngày 12 tháng 12 năm 1947, Ban quân sự Nam Bộ được thành lập do Nguyễn Thanh Sơn làm trưởng ban).

Sự kiện làm trong sạch nội bộ, củng cố lại bộ đội Bình Xuyên, và thành lập các trung đoàn đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng đối với lực lượng bộ đội tập trung của Khu 7 nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng. Nó mở ra thời kì thống nhất của các lực lượng vũ trang trên toàn bộ chiến trường dưới sự chỉ đạo tuyệt đối của Đảng, tạo điều kiện để các đơn vị bộ đội tập trung tổ chức đánh địch những trận lớn và thu được thắng lợi quan trọng trong năm 1948.

Ngày 13 tháng 4 năm 1948, 10 Ban công tác Thành tập kích đồng loạt vào các mục tiêu ở hộ 17 Chợ Lớn và khu vực Phú Nhuận, xung quanh sân bay Tân Sơn Nhất. Ngay sau đó, giặc Pháp liên tục mở các cuộc hành quân càn quét ra xung quanh thành phố, đặc biệt vào các căn cứ của ta ở Thủ Đức, Hóc Môn, Trung Quận (Chợ Lớn).

Ngày 15 tháng 4, chúng huy động 3.000 tên, phần lớn là lính Âu Phi, có pháo binh và máy bay yểm trợ, do một đại tá chỉ huy, tấn công vào Láng Le (căn cứ Vườn Thơm) nhằm diệt cơ quan đầu não kháng chiến và lực lượng vũ trang của Sài Gòn - Chợ Lớn đứng chân ở đây. Từ 6 giờ sáng, máy bay trinh sát địch đã quần đảo trên bầu trời Láng Le. 7 giờ, các cánh quân của địch từ lộ số 10 qua lộ Đông Dương 16 vào và từ sông Vàm Cỏ Đông lên bắt đầu tiến vào Tân Kiên, Tân Tạo, Tân Nhựt và chợ Lí Văn Mạnh - trung tâm căn cứ. Các mũi bộ binh, xây dựng thiết giáp trên bộ, xe lội nước dưới kinh rạch theo đội hình hàng ngang xếp thành một vòng cung từ Phú Lâm - Bình Trị phía Đông Bắc xuống Tân Kiên, Mĩ Tho, bọc xuống phía Nam và Tây Nam đến Lương Phú. Mặt bọc hậu, các loại tàu thủy, tàu lồng cu, xà lan chở lính theo sông Chợ Đệm qua kinh Xáng rải quân tạo thành phòng tuyến khóa đuôi và đánh vào sau lưng quân ta.

Lực lượng của ta gồm có 4 đại đội của trung đoàn 308, 2 tiểu đoàn của trung đoàn Phạm Hồng Thái, 4 tiểu đoàn của trung đoàn 312, cùng du kích vũ trang ban công tác Thành đóng ở khu vực cầu Bà Điểm, rạch Cai Tâm (giữ một kinh Xáng, chợ Đệm), cầu Bà Bộ, Tân Lợi (giữ mặt Bà Hom), Mĩ Phú (giữ mặt Bình Điền). Ngoài ra con có các bộ phận du kích và đơn vị bao vây cơ quan khác đóng giữ rải rác ở các điểm trung tâm căn cứ.

Khi cánh quân của địch ở phía Đông Bắc từ cầu Chùa và Bà Hom vào đến Tân Lợi, liền bị đại đội 3 (trung đoàn 308) và lực lượng trung đoàn 312 chặn đánh. Sau gần một giờ giao tranh quyết liệt, trước thế áp đảo của quân địch, lực lượng ta rút về Láng Le. Tại phía Đông Nam, cánh quân địch đã từ Bình Điền vào đến cầu Mĩ Phú bị lực lượng trung đoàn Phạm Hồng Thái và đại đội 4 (trung đoàn 308) chặn đánh. Một lúc sau, quân ta buộc phải rút lui về Láng Le hợp với lực lượng đại đội 3 triển khai đội hình chặn đánh địch. Tại phía Nam, lực lượng địch chia làm 2 mũi, một theo kinh Bà Tà lên hợp với bộ binh đánh vào Bàu Cỏ, một từ cầu Bà Điểm, theo rạch Cai Tâm lên đánh vào khu vực phòng thủ của đại đội 1, đại đội 2 (trung đoàn 308) ở Tân Nhựt. Quân địch hình thành thế bao vây, khép kín, vùng trung tâm căn cứ. Càng xế trưa, vòng vây càng khép chặt. Lực lượng của ta bố trí dựa lưng vào nhau, lợi dụng địa hình nhiều kinh rạch, làm bụi, làm chướng ngại vật để kiên quyết chặn đánh địch. Các khẩu trung liên, tiểu liên chiếm trước các vị trí thuận tiện liên tục nhả đạn rà quét vào đội hình dày đặc của địch, chặn đứng nhiều đợt xung phong của chúng. Một số bộ phận đơn vị và du kích rời khỏi công sự, vận động di chuyển chia cắt địch thành từng toán nhỏ để tiêu diệt. Các cuộc đánh xen kẽ giáp lá cà diễn ra dọc bờ kinh trong các bụi dừa nước, lùm cỏ năng đưng. Chiến sĩ Nguyễn Hữu Mai với khẩu trung liên Breun đã chiến đấu dũng cảm, diệt hàng chục tên Âu Phi cho đến khi bị trúng đạn ngã gục xuống bờ kinh.

Trời ngả chiều, quân ta tập trung lực lượng đánh phá vây, chuyển về phía Trịnh Khánh Ân, chiếm mé Tây kinh Xáng. Các loại hỏa lực đều được huy động bắn xối xả vào đội hình địch để mở đường. Sau đó, lực lượng ta ào lên đánh giáp lá cà với chúng. Trước sức đột kích mãnh liệt của ta, quân địch không chống cự nổi, quay đầu bỏ chạy. Quân ta thừa thắng quay sang đánh tạt bên sườn và đánh vu hồi sau lưng địch làm cho đội hình của chúng rối loạn. Sau đó, quân ta lần lượt rút về Rạch Rịt, Rạch Chung, đánh trả sự truy đuổi của 3 máy bay địch. Đến 17 giờ chiều, quân ta rút về vùng rừng Bà Vụ an toàn. Trận đánh kết thúc, ta diệt trên 300 tên địch (trong đó có nhiều sĩ quan), bắt sống 30 lính Pháp, làm hỏng và phá hủy 5 xe quân sự, thu 1 vô tuyến điện, 85 súng máy và súng trường, nhiều đạn dược và đồ dùng quân sự khác. Phía ta 32 cán bộ và chiến sĩ hi sinh, 40 người bị thương, 17 người mất tích. Hàng tăm ngôi nhà, lán trại bị đốt phá. Vườn ruộng của đồng bào vùng căn cứ bị xéo nát.

Cuộc chiến đấu bẻ gãy cuộc phản kích quy mô của địch ngày 15 tháng 4 năm 1948 ở Láng Le, Bàu Cỏ là trận thử sức đầu tiên của lực lượng vũ trang Gia Định, Chợ Lớn từ sau khi thành lập các trung đoàn. Thắng lợi của trận đánh thể hiện tinh thần quyết chiến, trụ bám địa bàn bảo vệ căn cứ, tiêu diệt địch, bảo vệ dân, bảo vệ cơ quan lãnh đạo của thành phố. Trận Láng Le vang dội vào nội thành, củng cố thêm niềm tin kháng chiến của đồng bào trong thành phố, đồng thời cổ vũ tinh thần hăng hái chiến đấu của du kích địa phương vùng Trung Quận, Đức Hòa. Thắng lợi của trận đánh còn chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng của bộ đội ta trong những ngày đầu xây dựng trung đoàn. Tờ Truyền Tin, cơ quan thông tin của Tỉnh Chợ Lớn số ra ngày 23 tháng 4 năm 1948 viết đó là trận đánh “để trả lời cho thực dân Pháp biết Vệ quốc đoàn lúc nào cũng đủ điều kiện nếu cần phải đánh chánh quy khi thình lình đối đầu với quân cướp Pháp”(2). Bộ tư lệnh Khu 7 đã gửi thư khen ngợi các lực lượng tham gia trận đánh. Nhân dân địa phương đặt vè: “Trận Láng Le Tây khóc ngất, trận Tầm Vu Tây mất ca nông”.


(1) Nắm được tin tức về cuộc thanh trừng, bị bọn Phòng Nhì Tài, Sang xúi giục, lôi kéo Bảy Viễn cùng 60 tùy tùng chạy về Sài Gòn đầu hàng Pháp. Trên đường đi, ta đã cử nhiều cán bộ tiếp xúc và thuyết phục Viễn, nhưng y vẫn quyết theo giặc. Biết được ý định đầu hàng của Viễn, 2 tiểu đội trong trung đội tùy tùng do Bảy Cao chỉ huy đã rách ra quay trở lại với kháng chiến.
(2) Tài liệu cặp E 1948, phòng tư liệu Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #46 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:56:34 pm »

Ngay sau “sự kiện Láng Le”, liên tục trong ba ngày 20, 24 và 25 tháng 4 năm 1948, giặc Pháp mở cuộc hành quân càn quét tiếp vào căn cứ Vườn Thơm. Rút kinh nghiệm thất bại lần trước, quân địch không dám ồ ạt xông lên mà thận trọng tiến từng bước một. Đặc biệt, chúng dùng pháo binh bắn phá mãnh liệt vào trận địa của ta. Lực lượng của a có tiểu đoàn 918 (trung đoàn Phạm Hồng Thái biên chế lại), dựa vào công sự nằm im chờ địch tiến đến sát mới nổ súng. 8 giờ sáng, cuộc đụng độ bắt đầu. Sau loạt đạn bắn phủ đầu, một trung đội dự bị của ta vòng ra đánh xuyên hông tiểu đoàn Lê dương Pháp, Marốc. Bị tổn thất nặng, bọn lính Marốc bỏ chạy tán loạn. Các mũi tiến công khác của địch cũng chùn lại và bỏ chạy ra xa, kêu pháo binh bắn vào trận địa ta đến hết đạn mới rút lui. Cuộc càn của địch bị bẻ gãy ngay từ loạt đạn đầu tiên của ta. Nhưng bộ đội tiểu đoàn 917 hi sinh gần 30 người vì bị pháo kích của chúng.

Tháng 5 năm 1947, địch lại tấn công căn cứ Tân Mĩ, Bình Lí, Bình Mĩ nhằm tiêu diệt tiểu đoàn 916 của trung đoàn 306 Phạm Hồng Thái đang đứng chân ở đây. Chúng dùng xe thiết giáp đổ quân ở khu vực cầu Bà Bếp, trên đường số 5 và rải dọc đường số 8 từ ngã tư Tân Quy đến Bình Mĩ. Phía Đông Nam, trên sông Sài Gòn và sông Rạch Tra, tàu chiến địch đi lại như mắc cửi. Từ trong làng nhìn ra, trên các hướng, quân địch đi vàng cả cánh đồng. Tiểu đoàn 916 bố trí chặn đánh địch trên cả 3 hướng chính. Quân giặc bị đánh tan tác. Bên ta 30 chiến sĩ hi sinh. Trời tối, bộ đội ta phá vây, luồn rút về An Phú xã để củng cố lực lượng.

Ngày 3 tháng 6 năm 1948, quân địch càn vào khu vực Long Phước Thôn (phía Đông Thủ Đức) nhằm bao vây tiêu diệt tiểu đoàn 917 (trung đoàn 306). Bộ đội ta thông thạo địa hình chia ra từng phân đội đánh nhỏ lẻ, bất ngờ tập kích hoặc dụ địch từ tốp nhỏ vào sâu trong khu vực địa hình bất lợi để tiêu diệt. Đến trưa, khắp Long Phước Thôn, chỗ nào cũng có quân ta và quân địch xen kẽ, không phân biệt được chiến tuyến. Hết đạn, quân ta đánh giáp lá cà bằng báng súng, lựu đạn, dao găm, dao rựa. Địch bị thiệt hại nặng. Bên ta gần 30 chiến sĩ hi sinh.

Trong vòng không đầy 2 tháng, từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 3 tháng 6 năm 1948, tiến hành càn quét với quy mô lớn không dưới 4 lần xung quanh Sài Gòn, địch bị tiêu hao, tiêu diệt và thương vong gần 1.000 tên các loại. Âm mưu tập trung lực lượng nhằm bao vây càn quét tiêu diệt lực lượng kháng chiến không thực hiện được. Bộ đội ta, đặc biệt trung đoàn 306 Phạm Hồng Thái rút được nhiều bài học kinh nghiệm về tác chiến vận động chống càn quét. Tuy vậy, số cán bộ chiến sĩ hi sinh trong toàn đợt lên tới con số của 1 đại đội.

Thắng lợi của các trận chống càn kể trên có tác dụng quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các phong trào kháng chiến của nhân dân vùng ngoại thành. Phong trào du kích chiến tranh ở cơ sở ngày càng phát triển, đã phối hợp có kết quả với bộ đội chống càn, diệt tề trừ gian và phá hoại kinh tế địch. Nhiều nơi, du kích huyện đã độc lập tác chiến, diệt được bót nhỏ và các toán địch đi lẻ tuần tiễu như Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè. Riêng ở Nhà Bè, du kích sáng tạo nhiều cách đánh độc đáo như phục kích dùng dây cáp chăng ngang sông buộc tàu dừng lại gỡ, rồi dùng lựu đạn và các loại hỏa lực diệt địch khi chúng đang loay hoay giữa sông, hoặc như đêm đêm dùng súng cối, pháo kích vào đội hình địch làm cho chúng lục đục di chuyển suốt đêm, gây ra tâm lí hoang mang sợ bị tập kích bất ngờ…

Có thể nói rằng, trong hơn nửa năm đầu 1948 là quãng thời gian các lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định chấn chỉnh, tổ chức lại lực lượng, làm trong sạch nội bộ, thống nhất và phát triển một bước các tổ chức vũ trang nội thành (các ban công tác) và ngoại thành (các trung đoàn). Đây cũng là thời gian các trung đoàn tập trung tổ chức đánh những trận chống càn với quy mô lớn và thu được thắng lợi vang dội về mặt quân sự. Nhiều đơn vị đã được Hồ Chủ tịch khen ngợi trong lời kêu gọi các tướng lĩnh ngày 19 tháng 6 năm 1948:

“Nhân dịp kỉ niệm 1.000 ngày kháng chiến, tôi được Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy báo cáo thành tích trong cuộc huấn luyện lập công vừa rồi. Tôi rất vui lòng rằng các bộ đội đều cố gắng tiến bộ.

Những bộ đội đã làm cho giặc Pháp thiệt hại nhiều, đã có thành tích vẻ vang nhất là các bộ đội sau đây:

- Các đơn vị Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định



- Trung đoàn 10, 15, 1 ở Khu 7 Nam Bộ(1)

- Các đơn vị Dương Văn Dương, Mĩ Tho



- Các đơn vị Kí Con



Tôi cũng phải nhắc đến những bộ đội du kích phụ lão và phụ nữ cùng các chú liên lạc đã tỏ ra rất oanh liệt đã làm cho thế giới biết rằng: người già, đàn bà và trẻ con Việt Nam đều là những chiến sĩ yêu nước và dũng cảm tranh đấu hi sinh cho Tổ quốc…”(2)


(1) Tức các trung đoàn 310, 308, 301 (TG).
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Sự thật, Hà Nội, 1985, t. 5, tr. 106-107.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #47 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:57:16 pm »

*
*   *

Cuối tháng 7 năm 1948, giữa chiến khu Đồng Tháp Mười, bên bờ kinh Năm Ngàn, Đại hội đại biểu Xứ Đảng bộ Nam Bộ được triệu tập. Đông đảo đại biểu Đảng từ cấp tỉnh, cấp trung đoàn trở lên đã về dự. Nhiều cán bộ quân sự, nhân sĩ, tri thức đại diện ủy ban kháng chiến hành chính, Mặt trận Liên Việt cũng tham dự đại hội. Đồng chí Lê Duẩn, bí thư Xứ ủy, thay mặt Thường vụ Trung ương Đảng chủ trì đại hội.

Đại hội nhận định, từ mùa thu năm 1948 trở đi, thực dân Pháp càng đẩy mạnh chính sách bình định, ráo riết thực hiện chiến thuật bao vây mọi mặt. Nỗ lực của chúng trong giai đoạn tiếp theo nhằm tiến tới tiêu diệt chính quyền và bộ máy kháng chiến của ta, áp đặt bộ máy chính quyền bù nhìn từ Trung ương đến làng xã, phá hoại kinh tế, ngăn cản giao thông tiếp tế của ta, bảo đảm giao thông tiếp tế của chúng, củng cố mở rộng vùng chiếm đóng, đẩy lực lượng kháng chiến ra xa các đô thị, nhất là Sài Gòn, hòng tạo ra một cục diện mới, dứt điểm công cuộc bình định Nam Bộ để tập trung lực lượng trở lại chiến trường miền Bắc. Như vậy “Nam Bộ trở nên trung tâm hoạt động chính trị và cũng là vị trí quân sự quan trọng” và chiến lược của địch nhằm “đánh đòn chính vào dự trữ chiến lược của ta”. Đại hội chủ trương: “Chiến lược của ta nhằm vào chống lại chiến lược giặc, vào sự bảo vệ dự trữ của ta”.

Đại hội cũng đã kiểm điểm công tác xây dựng Đảng trong hơn một năm qua (tính từ hội nghị tháng 4 năm 1947), phê phán những biểu hiện sai trái trong việc đóng cửa hoặc phát triển ồ ạt thiếu chọn lọc đảng viên ở một số địa phương đơn vị, biểu hiện tư tưởng cục bộ địa phương, định kiến hẹp hòi và quân phiệt “anh chị” ở một số ít cán bộ, đồng thời đề ra những biện pháp nhằm củng cố hệ thống tổ chức Đảng từ trên xuống dưới. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ Nam Bộ và trực tiếp bầu đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư Xứ ủy, các đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Đức Thuận làm Phó Bí thư.

Đại hội đại biểu Xứ Đảng bộ Nam Bộ đã vạch ra những nội dung cơ bản về đường lối tiến hành kháng chiến ở Nam Bộ trong giai đoạn chống chiến lược bình định của địch. Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và Tỉnh ủy Gia Định quán triệt sâu sắc nhiệm vụ do Đại hội đề ra: “nhằm vào chống chiến lược giặc” ngay tại trung tâm đầu não, cũng là trung tâm dự trữ chiến lược của chúng ở Nam Bộ.

Từ sau Đại hội Xứ ủy cuối tháng 7 năm 1948, các mặt hoạt động của công cuộc kháng chiến ở Nam Bộ đi vào nền nếp và chủ động hơn. Tổ chức các cơ quan lãnh đạo các cấp được chấn chỉnh thêm một bước, hoạt động nhịp nhàng và có hiệu quả thiết thực. Ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, phong trào đấu tranh nội thành tiếp tục phát triển. Trong những tháng cuối năm 1948, các Ban công tác Thành liên tục đánh phá các cơ sở kho tàng dự trữ của địch. Ngày 13 tháng 9 năm 1948, các chiến sĩ của ta đốt cháy kho xăng ở Tân Sơn Nhất, gây cho địch thiệt hại hơn 18.000 lít xăng, 400 công nhân hãng thuốc lá Bastos, 1000 công nhân hãng Faci, phối hợp với công nhân các hãng Effel, Asam, Míc, Caric, Ô tô Sài Gòn đình công đấu tranh đòi tăng lương. Ngày 15 tháng 11 năm 1948, đoàn viên công đoàn hộ 3 đốt cháy tàu Bretel trọng tải 8000 tấn. Ngay 17 tháng 12, lực lượng tự vệ Thành dùng mìn đánh chìm một xà lan chứa xăng dầu làm cháy lan ra một số tàu khác. Cuối năm 1948, lực lượng công tác Thành được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba về thành tích phá hoại dự trữ của địch.

Cùng với việc phá hoại kinh tế địch, các lực lượng vũ trang nội thành tích cực đánh địch, gây cho chúng thiệt hại về người và phương tiện chiến tranh. Tại Hòa Hưng, công nhân đường sắt gài lựu đạn diệt 3 tên Pháp và công an ngụy. Công an xung phong quận 6 xử tử hình tên hội đồng Thiện, một ác ôn khét tiếng. Ngày 15 tháng 8 năm 1948, các chiến sĩ ban công tác Thành đột nhập câu lạc bộ Boule Gauloise dành cho bọn sĩ quan Pháp, ném 2 quả lựu đạn, làm bị thương nhiều tên. Tại Phú Nhuận, nhiều tên tay sai ác ôn gây nhiều nợ máu, như Đội Năng, đội Paul, ách Vân, ách Mĩ, Sáu Ghẻ… bị ta trừng trị. Đáng kể nhất là vụ xử tên đội Trực ở bót Tầm Vông. Hắn thường tổ chức lùng bắt những người bị chúng tình nghi đem xếp hàng ở ngoài đường đầu cầu Kiệu cho bọn chỉ điểm trùm bao bố nhận dạng. Sau một lần bị ta bắt đem xử, bị thương nặng giả chết và lết được về nhà chữa trị, hắn càng điên cuồng trả thù kháng chiến, trở thành “một con quý sống Phú Nhuận”. Tên đội trực bị đền mạng làm cho đồng bào Phú Nhuận rất hả dạ.

Ngày 20 tháng 10 năm 1948, trung tướng Nguyễn Bình triệu tập khởi nghĩa quân sự tuyên bố giải nhiệm Ban thường vụ 200/CT, lập Ban chỉ huy 10 ban công tác Thành, do Nguyễn Văn Công (trung đoàn trưởng trung đoàn 306) kiêm chỉ huy trưởng, Nguyễn Tứ Phương chính trị viên và Nguyễn Xuân Thanh (sau đó hai tháng) làm chỉ huy phó. Ban chỉ huy giữ nguyên các bộ phận trực thuộc có từ trước, như văn phòng, bam tham mưu, ban chính trị, binh công xưởng, trường quân chính, quân y xã, ban sinh sản…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #48 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:59:22 pm »

Để tạo sự phối hợp nhịp nhàng trong hoạt động tác chiến giữa nội và ngoại vi thành phố, thực hiện “trong đánh, ngoài đánh”, một mặt trận chung được thành lập, lấy tên là Mặt trận quân sự Thành Sài Gòn - Chợ Lớn. “Mặt trận gồm 10 ban công tác Thành trong nội đô và 5 tiểu đoàn bao vây xung quanh thành phố (1 của trung đoàn 306 ở Gò Vấp, 1 của trung đoàn 312 ở Hốc Môn, 1 của trung đoàn 300 ở Cần Giuộc, 1 của trung đoàn 308 ở Trung Huyện và 1 của trung đoàn 306 ở Thủ Đức). Ban chỉ huy Mặt trận quân sự Thành Sài Gòn - Chợ Lớn gồm Nguyễn Văn Công (chỉ huy trưởng, Nguyễn Tứ Phương (chính trị viên) và Nguyễn Chi Sinh (chỉ huy phó). Căn cứ của Ban chỉ huy đặt bên cạnh căn cứ của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Thành Sài Gòn - Chợ Lớn gần Thủ Thừa, bên cạnh sông Vàm Cỏ Tây phía tả ngạn. Nhiệm vụ của Ban chỉ huy là xây dựng kế hoạch tác chiến phối hợp trong và ngoài thành phố, rồi từng người trở về đơn vị mình phổ biến nhiệm vụ và tổ chức thực hiện (Nguyễn Văn Công về trung đoàn 306 - 312, Nguyễn Tứ Phương về 10 ban công tác thành và Nguyễn Chí Sinh về trung đoàn 300).

Ở ngoại thành, các trung đoàn vừa tuyển thêm tân binh, huấn luyện, chấn chỉnh lại lực lượng, vừa tích cực chủ động đánh địch càn quét, bảo vệ vùng căn cứ. Ngày 21 tháng 9 năm 1948, hai đại đội 2752 và 2753 của Trung đoàn 306 Phạm Hồng Thái đánh địch càn quét vào khu căn cứ Vườn Thơm. Quân địch gồm 200 tên cả Pháp và ngụy, chia làm 5 cánh từ Tân Kiên, Tân Bửu, An Thạnh, Lương Hòa, cầu Xáng tiến vào trung tâm căn cứ. Ý định của địch là thực hành bao vây, dồn ép lực lượng của ta vào một khu vực nhỏ và bất lợi về địa hình để tập trung tiêu diệt. Chúng tiến quân một cách dè dặt, thận trọng từ 7 giờ sáng đến 9 giờ 35 phút mới đụng trận địa phòng thủ của đại đội 2752 ở phía Lương Hòa. Bộ đội ta phối hợp với du kích địa phương áp dụng chiến thuật vừa chặn đánh địch vừa tổ chức lực lượng đột phá vây đánh vào bên sườn và sau lưng quân địch, tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng rồi di chuyển trận địa. Trận đánh kéo dài đến 18 giờ 30 phút. Ta diệt nhiều tên địch. Trong trận chống càn này, đồng chí Lê Văn Sĩ, Bí thư Thành ủy cùng 4 chiến sĩ khác hi sinh.

Hoạt động của lực lượng chính trị, quân sự ở nội thành và lực lượng vũ trang ở ngoại thành trong năm 1948 đã gây cho địch thiệt hại nặng về người, phương tiện chiến tranh và kinh tế, làm cho chúng gặp nhiều lúng túng ngay tại sào huyệt. Phong trào kháng chiến của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng trong nhiệm vụ chống lại chiến lược bình định của địch. Tình hình ấy đặt ra nhu cầu cần tổ chức lại chiến trường nhằm bảo đảm sự thống nhất và tiện lợi sâu sát trong việc theo dõi và chỉ đạo địa bàn, bảo đảm sự hoạt động một cách chủ động và kịp thời với đặc điểm chiến trường nội ngoại thành Sài Gòn. Tháng 12 năm 1948, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được thành lập gồm Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, một phần tỉnh Tây Ninh tách từ Khu 7 cũ, trực thuộc Bộ Tư lệnh Nam Bộ(1). Bộ tư lệnh Khu Sài Gòn lúc đầu gồm: Tô Kí (quyền tư lệnh), Phan Trọng Tuệ (chính ủy), Huỳnh Văn Một (phó tư lệnh), Lê Đức Anh (tham mưu trưởng, Vũ Huy Xứng (chủ nhiệm chính trị). Sau đó đồng chí Trần Văn Trà về giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy khu.

Lực lượng vũ trang nội thành cũng được chấn chỉnh tổ chức. Mười Ban công tác Thành gom lại thành 5 ban lấy phiên hiệu từ 16 đến 20, trực thuộc Bộ tư lệnh Khu Sài Gòn do đồng chí tham mưu trưởng khu trực tiếp chỉ huy.

Ban 7 và Ban 9 thành ban 16

Ban 1 và Ban 6 thành Ban 17

Ban 8 và Ban 10 thành Ban 18

Ban 2, 3 và Ban 5 thành Ban 19

Ban 4 và Ban 145(2) thành Ban 20

Mỗi ban gồm chủ yếu các bộ phận chiến đấu tại chỗ trong nội thành, đồng thời có những bộ phận đảm bảo và phục vụ chiến đấu ở ngoại thành, vùng ven. Các ban được phân công phụ trách từng phạm vi khu vực xác định, không chồng chéo lên nhau hoặc không để sót kẽ hở giữa các địa bàn.

Hệ thống dân quân Thành (nội đô) tiếp tục phát triển. Công an xung phong được củng cố. Mỗi ngành đều có tổ chức công xưởng để tự chế vũ khí cho thích hợp.

Đầu năm 1949, từ ngay 14 đến 18 tháng 1, Hội nghị cán bộ Trung ương họp đề ra “phương châm chiến lược của giai đoạn mới: a/ Đánh mạnh hơn nữa vào hậu phương địch, đánh vào các vị trí chiến lược, cắt đường giao thông quan trọng, b/ Hướng hoạt động chính là những vùng chiến lược và kinh tế quan trọng mà địch đang ra sức củng cố, c/ Vận động và đánh tan ngụy binh, gây cơ sở du kích ở những vùng Pháp dùng nhân lực làm ngụy binh… d/ Phương châm chính vẫn là du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ. Nhưng cần mạnh dạn đẩy mạnh đẩy vận động đi tới và khi đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng để tiến sang giai đoạn phản công(3). Trước đó ngày 3 tháng 1 năm 1949, hội nghị quân sự mở rộng Nam Bộ cũng đã nhận định: Sang năm 1949, địch sẽ đánh mạnh vào vùng kinh tế của ta, dùng nhân tài, vật lực tại chỗ để bổ sung lực lượng của chúng. Về chính trị, chúng dùng con bài Bảo Đại, đẩy mạnh chiến tranh gián điệp, mở rộng bộ máy tề xã trong vùng chúng kiểm soát. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cho năm 1949. Riêng về quân sự, “Ra sức phát triển phong trào dân quân, ra sức phát triển du kích chiến tranh ở vùng đô thị và tạm chiếm, nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn, tiến tới đánh phá chính sách ngụy quân, ngụy quyền, đánh phục kích giao thông, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch… Chấn chỉnh rèn luyện quân đội, cấp bách xây dựng chủ lực để đáp ứng với yêu cầu tác chiến mới”(4).


(1) Cùng thời gian này, Tư lệnh Khu 7 đổi thành Bộ tư lệnh khu. Khu 7 còn lại các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một.
(2) Là Ban hành động của Phòng Quân báo Khu 7 được tăng cường về Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, do Vũ Hải Sơn làm chỉ huy trưởng, Võ Thái làm chính trị viên.
(3) Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1986, t. 1, tr. 279-280.
(4) Báo cáo của Hội nghị quân sự Xứ ủy Nam Bộ tháng 4 năm 1950 - Hồ sơ Bc-Xu 04, Phòng khoa học lịch sử quân sự Quân khu 7.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #49 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 07:03:09 pm »

Hội nghị quân sự Nam Bộ đã nhận định đúng âm mưu hành động của địch. Trước cuộc kháng chiến ngày càng phát triển của nhân dân ta, quân Pháp vấp phải những khó khăn nghiêm trọng, nội bộ mâu thuẫn gay gắt. Chúng lúng túng trước mâu thuẫn tập trung và phân tán, giữa tung quân lấn chiếm và co cụm bảo vệ hậu phương lớn Sài Gòn, giữa chiến lược tập trung bình định Nam Bộ và đưa quân ra chiến trường miền Bắc. Trong cuộc hội nghị phòng vệ Đông Dương ngày 4 tháng 2 năm 1949, tại Sài Gòn, chủ trương của cao ủy Pignon thắng thế với nội dung: tập trung mọi nỗ lực bình định Nam Bộ, chờ đợi kết quả sử dụng con bài Bảo Đại. Từ chủ trương này, kế hoạch bình định nam Bộ được hoàn thiện thêm một bước trên cơ sở phát triển kế hoạch của năm 1948, trong đó bổ sung nhấn mạnh việc thực hiện chiến thuật De Latour, theo đó, lực lượng địch được tăng cường hơn ở Nam Bộ. Riêng ở khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định - Tây Ninh, tổng số quân địch lên tới 46.000 quân(1) trong đó quân viễn chinh chiếm 58% (toàn Nam Bộ là 114.000 quân). Số đồn bót tháp canh của chúng ở khu Sài Gòn - Chợ Lớn (Chợ Lớn - Gia Định - Tây Ninh) lên tới 707 chiếc(2) (toàn Nam Bộ có 3932 chiếc).

Quán triệt hội nghị cán bộ Trung ương Đảng và hội nghị quân sự Nam Bộ, tháng 2 năm 1949, trong hai ngày 27 và 28, Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn họp hội nghị tại Thiên Hộ, Đồng Tháp Mười. Đồng chí Lê Duẩn và Hoàng Dư Khương thay mặt Xứ ủy đến dự. Hội nghị đánh giá phong trào công nhân Sài Gòn trong hai năm 1947-1948, chỉ ra những khó khăn trong đời sống công nhân, những thiếu hổng về cơ sở, tổ chức do việc rút lực lượng công nhân ra chiến khu theo chỉ thị 4/NV mà ta đã chưa xây dựng lại kịp. Hội nghị cũng kiểm điểm việc các tổ chức công đoàn còn nặng về đấu tranh chính trị, chưa chú trọng đúng mức quyền lợi kinh tế của công nhân, cán bộ công đoàn không sát với cơ sở, chỉ huy từ xa nên hiệu quả thấp. Trên cơ sở nhiệm vụ chung của Khu Sài Gòn năm 1949, hội nghị chủ trương: tăng cường hoạt động vũ trang trông nội thành, “Làm cho vùng địch u tối, vùng ta tươi sáng”, tiếp tục bao vây phá hoại kinh tế địch, phát triển dân quân, phá rối trật tự trong lòng địch, mở rộng, phát triển phong trào công nhân. Hội nghị đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ Thành Sài Gòn - Chợ Lớn gồm 15(3) đồng chí do Nguyễn Hộ làm bí thư.

Cũng vào thời gian này, phái đoàn cán bộ Trung ương do đồng chí Lê Đức Thọ dẫn đầu được Trung ương Đảng và Chính phủ cử vào Nam đã đến Nam Bộ. Phái đoàn mang theo nhiều thư từ của Hồ Chủ tịch gửi cho đồng bào chiến sĩ miền Nam như “Thư vào Nam”, “Thư gửi các ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, các tỉnh, quận và xã ở Nam Nam Bộ”, “Cùng các chiến sĩ Vệ quốc quân và dân quân du kích Nam Bộ”. Tất cả đều được Người viết trong một ngày 15 tháng 9 năm 1948. Trong thư, Hồ Chủ tịch khen ngợi: “Đã hơn 3 năm đơn vị và chiến sĩ Nam Bộ đang anh dũng kháng chiến để giữ vững nền độc lập, thống nhất và dân chủ mà Cách mạng Tháng Tám đã đưa lại cho nước nhà”(4), Sau hội nghị Thành ủy, công tác tổ chức xây dựng củng cố khu, thành, tỉnh và lực lượng vũ trang nội thành được tiếp tục thực hiện. Đến tháng 4 năm 1949, việc sắp xếp tổ chức các cơ quan khu Sài Gòn đã hoàn tất. Lực lượng vũ trang trong thành phố từ 5 ban công tác tiếp tục được gom lại thành 3 ban, lấy phiên hiệu 18, 19, 20. Ở ngoại thành, khu cũng điều chỉnh lực lượng và phân nhiệm cho 5 tiểu đoàn của các trung đoàn 300, 306, 312, 308 làm nhiệm vụ gắn bó với địa phương, chiến đấu và bảo vệ các địa bàn xung quanh Sài Gòn, đứng chân ở các quận Thủ Đức, Hóc Môn, Trung Huyện, Nhà Bè, Cần Giuộc.

Về lực lượng chính trị, các tổ chức nghiệp đoàn được củng cố lại, quán triệt nhiệm vụ đấu tranh kinh tế, đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, nâng cao đời sống cho công nhân. Công nhân các hãng Cofat, sở bưu điện Sài Gòn, xe buýt, hãng Deniss, Frères, Bastos, Faci, Mic, BGI Chợ Lớn, Sôđa Khánh Hội… chuyển hướng đấu tranh đòi chủ hãng, sở nhượng bộ nhiều yêu cầu về tăng lương, bảo đảm ngày nghỉ, bãi bỏ chế độ thầu khoán trung gian.

Từ tháng 3 năm 1949 trở đi, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị việc đưa Bảo Đại về lập chính phủ bù nhìn. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, hiệp ước Elysée được kí kết giữa Tổng thống Pháp và Bảo Đại. Khắp thành phố dấy lên phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi chống âm mưu này của địch.

Ngày 19 tháng 4, Pháp và ngụy quyền tay sai khai mạc hội nghị Nam Kì bàn về quy chế Nam Kì. Nhân dân toàn thành cũng ngừng mọi hoạt động 1/2 giờ để biểu thị thái độ tẩy chay việc bỏ phiếu bầu hội đồng lãnh thổ Nam Kì. Chỉ có 593 trong số 4980 đơn vị cử tri đi bỏ phiếu. Ngày 19 tháng 5 năm 1949, kỉ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1000 trí thức, công chức Sài Gòn kí bản kiến nghị ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, đả đảo Bảo Đại. Ngày 13 tháng 6 năm 1949, Bảo Đại về tới Sài Gòn.

Ngày 1 tháng 7 năm 1949, chính phủ bù nhìn mới Nam phần Việt Nam được chính thức thành lập do Bảo Đại làm quốc trưởng và Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Nhân sĩ, trí thức Sài Gòn một lần nữa, ra tuyên bố tẩy chay chính phủ Nam phần Việt Nam, đòi Pháp phải đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh.


(1) Tài liệu đã dẫn.
(2) Tài liệu đã dẫn.
(3) Gồm: Nguyễn Hộ, Lê Bá Hoạn, Huỳnh Văn Vàng, Nguyễn Kiệm, Lê Duẩn, Nguyễn Việt Hùng, Chương Dương, Phùng Lương, Lê Minh, Tạ Nhựt Từ, Trần Văn Các, Đoàn Văn Bơ, Ngô Sĩ Hùng, Phạm Văn Chức, Hồng Quyên.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1985, tập 5, tr. 133, 134, 135.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM