Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:25:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975)  (Đọc 129626 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2012, 02:24:31 pm »

Ở hướng Trung Lập, Trung Hòa, hai đại đội 5 và 15 thuộc chi đội 6 do Nguyễn Văn Công chỉ huy đã kịp thời triển khai đội hình phục kích địch dọc bìa Xóm Ràng, 5 giờ 30 phút, toán đi đầu của địch vừa vượt qua khu ruộng trốn đã chạm súng với bộ phận trinh sát chặn địch từ xa của ta. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ngay từ đầu. Quân địch với lực lượng áp đảo (4 tiểu đoàn) trang bị hỏa lực mạnh bắn như vãi đạn vào đội hình ta, vòng vây ngày càng khép chặt. Lực lượng ta chỉ có hai đại đội, chiến đấu sau hai tiếng đồng hồ, đạn cạn dần. Trong tình thế nguy ngập đó, đại đội B thuộc chi đội 11 (Tây Ninh) do Trần Minh Ngọc chỉ huy đóng tại An Tịnh, nghe tiếng súng nổ, liền cấp tốc vận động từ Tịnh Phong qua bàu Cá Chạch thọc vào sở cao su Trung Hưng (qua quãng đường dài 8km) vừa lúc mũi thọc sườn của địch gồm 1 tiểu đoàn trên 14 xe cơ giới đổ xuống. Đại đội B nhanh chóng triển khai đội hình, bất ngờ đánh vào bên sườn phía sau bên quân địch. Đại đội trưởng Ngọc dùng khẩu đại liên bắn hạ chính xác từng tốp lính Lê dương ngoài đồng trống. Bị tập kích bất ngờ, quân địch bỏ chạy tán loạn. Mũi đánh bọc sườn của chúng bị bẻ gãy.

Tại hướng chính diện, quân địch bị hở sườn, núng thế lùi dần và lần lượt rút chạy. Quân ta thừa cơ truy kích, đốt cháy 14 xe vận tải tại Trung Hưng. Bọn địch mất xe bỏ chạy thục mạng từ đó ra đường số 7 chờ xe Hóc Môn lên đón.

Kết thúc trận đánh, ta diệt gần 300 tên địch, đốt cháy 14 xe, thu 2 đại liên 12,7 li, 6 trung liên, gần 300 súng trường và tiểu liên các loại. Hai tiểu đoàn Lê dương bị thiệt hại nặng.

Lần đầu tiên tại vùng ven Sài Gòn, bộ đội ta tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực của địch, làm cho bán lữ đoàn Lê dương 13 - một đơn vị nhà nghề nổi tiếng thiện chiến - và tên quý tộc De Chargnier mất tinh thần không còn dám hống hách nghênh ngang càn phá như trước. Thắng lợi của trận Trung Hưng - Ràng phần nào phản ánh tinh thần chiến đấu kiên cường và khả năng hiệp đồng chiến đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu mới xây dựng ở mặt trận phía Bắc thành phố.

Cùng với những hoạt động nội thành, trận chống càn Trung Hưng - Ràng (Bắc Hóc Môn) kết thúc năm 1946, năm đầu “đi trước”, để từ đây, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định bước vào giai đoạn lịch sử mới cùng cả nước kháng chiến!

Tại Bắc Bộ, thực dân Pháp đã ngang nhiên đánh chiếm Hải Phòng - Lạng Sơn, trấn giữ hai cửa ngõ đường biển và đường bộ quan trọng của nước ta. Trưa ngày 12 tháng 12 đến sáng ngày 19 tháng 12 năm 1946, thực dân Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư láo xược đến chính phủ ta. Tình thế vô cùng nghiêm trọng. Trưa ngày 19 tháng 12, Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các chiến khu và tỉnh ủy, “Tất cả hãy sẵn sàng”. Và 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, đài tiếng nói Việt Nam truyền đi mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Quốc phòng:

“Tổ quốc lâm nguy!

Giờ chiến đấu đã đến!

Theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy, tôi hạ lệnh cho toàn thể bộ đội Vệ quốc quân và dân quân tự vệ Trung - Nam - Bắc phải nhất tề đứng dậy, phải xông tới mặt trận, giết giặc cứu nước”
(1).

Cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu!

Ngày 23 tháng 9 năm 1945 đến ngày 19 tháng 12 năm 1946 là chặng đường lịch sử đặc biệt đầy khó khăn thử thách. Ở đó, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định cùng quân và dân Nam Bộ đã “đi trước” và hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ mà lịch sử giao phó.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và kịp thời của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, của Xứ ủy và các cấp ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định với quyết tâm sắt đá báo vệ nền độc lập dân tộc vừa giành được, đã đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến trong điều kiện không ngang sức với kẻ thù xâm lược, đi từ không đến có, vừa đánh địch vừa gây dựng lực lượng mọi mặt, nhanh chóng khắc phục những mặt sai, yếu, ấu trĩ, từng bước hình thành một phương lối kháng chiến đúng đắn có hiệu quả.

Thắng lợi của 15 tháng đầu kháng chiến ở Sài Gòn và miền Nam miền Nam đã giáng hiệp đầu vào dã tâm thống trị nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, làm xáo trộn kế hoạch chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng, buộc chúng phải sử dụng cả lực lượng mà theo dự kiến ban đầu để đánh chiếm toàn Đông Dương vào cuộc chiến tranh bó hẹp ở chỗ Sài Gòn và Nam Bộ. Nó cổ vũ mạnh mẽ lòng yếu nước và tạo ra một khoảng thời gian hết sức quý báu để nhân dân cả nước có điều kiện xây dựng lực lượng mọi mặt, chuẩn bị toàn diện cho cuộc kháng chiến toàn quốc.

Cuộc kháng chiến của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và Nam Bộ đã cống hiến những kinh nghiệm nóng hổi đầu tiên cho nhân dân cả nước về tổ chức và chỉ đạo kháng chiến, về xây dựng và lãnh đạo lực lượng vũ trang, về tiến hành chiến tranh du kích và xây dựng cơ sở chính trị ở vùng tạm bị chiếm đô thị.

15 tháng đầu chiến đấu, củng cố và xây dựng lực lượng mọi mặt đã tạo ra những tiền đề hết sức quan trọng về tinh thần và lực lượng vật chất để quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vững bước vào giai đoạn kháng chiến tiếp theo!


(1) Những tài liệu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy - Bộ Tông tham mưu xuất bản, 1963, T1, tr. 37.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2012, 06:41:54 pm »

Chương hai

CÙNG CẢ NƯỚC ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN DIỆN,
CHỐNG CHÍNH SÁCH BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH,
CAO TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
VÀ CAN THIỆP CỦA MĨ NỘI ĐÔ
(Từ tháng 1 năm 1947 đến tháng 8 năm 1950)

I. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG MỌI MẶT CHO CUỘC KHÁNG CHIẾN

Với trên 90.000 quân viễn chinh được trang bị vũ khí hiện đại, có kinh nghiệm chiến tranh và quen thuộc chiến trường Đông Dương, đang đứng chân tại một số vị trí chiến lược trên đất nước ta, được đế quốc Anh, Mĩ giúp sức, thực dân Pháp đã bất chấp dư luận quốc tế, kể cả dư luận tiến bộ Pháp, quyết mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra toàn cõi Việt Nam.

Tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1946, dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến.

Sáng ngày 20 tháng 10 năm 1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn trong đêm 19 tháng 12.

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!

Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước…”
(1)

Trước ngày toàn quốc kháng chiến, Xứ ủy lâm thời Nam Bộ đã nhận được thư và điện của Trung ương Đảng. Trong thư “Gửi các đồng chí Nam Bộ”, Trung ương Đảng chỉ rõ:

“Nam Bộ là căn cứ của Pháp thực dân để lấy nhân, vật, tài lực chiến tranh với cả toàn quốc của ta và Đông Dương… Những ý định lấy Sài Gòn làm trung tâm chính trị đã biểu lộ, tất nhiên chúng ta phải có chính sách không những làm cho chúng không thể lấy Nam Bộ dùng đánh Trung, Bắc mà lại là Nam Bộ cản trở thêm khó khăn nguy hại cho chúng. Cho nên công tác phá hoại, bất hợp tác về mọi phương diện là công tác chính và chính sách này muốn thực hành đầy đủ phải làm cho toàn dân có ý thức giác ngộ, hiểu rõ mọi người đều có thể làm và phải làm để cứu nước… Không quên có những đội cảm tử xung phong, phải hợp tác công tác xung phong cảm tử với quảng đại quần chúng bằng phương pháp lãn công, đình công, đòi quyền lợi kinh tế trong các công xưởng, các sở với những hình thức đấu tranh chính trị chung, tẩy chay chính phủ bù nhìn, đòi các quyền lợi tự do dân chủ, chống khủng bố, trong lúc này cũng cần rất quan trọng nghĩa là phải kết hợp những cuộc đấu tranh không bạo lực với những cuộc chiến đấu bằng lực lượng, võ khí.

Những cuộc tác chiến đánh úp trong những du kích có thể dùng võ lực bảo vệ tài sản, sinh mạng dân chúng đi đôi với các cuộc giết bọn Việt gian, tay sai lợi hại của chúng

Một điều đáng chú ý là luôn luôn bảo vệ và xây đắp chính quyền chúng ta ở khắp thôn quê, thành thị, phải có những cơ quan hành chính bí mật hay công khai, bao giờ cũng tiêu biểu chính quyền của ta vẫn có ở Nam Bộ.

Muốn thực hành những nhiệm vụ này, Đảng ta cần phải mạnh và thống nhất. Không có một Đảng thống nhất và mạnh mẽ không thể đương đầu với tình thế hiện tại được. Thống nhất, củng cố Đảng, phát triển Đảng thành một Đảng quần chúng đủ oai quyền đầy đủ năng lực lãnh đạo là điều kiện cốt yếu để kháng chiến kiến quốc…”(2)

Gần sát ngày toàn quốc kháng chiến, bức điện ngày 16 tháng 12 năm 1946 của Trung ương Đảng gửi Xứ ủy lâm thời Nam Bộ nhấn mạnh: “Nhiệm vụ Nam Bộ là không để cho Pháp đem hết tải sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung, Bắc. Việc hành binh phải tìm cách có ý thức uy hiếp Sài Gòn. Nhất là phá quân nhu, đạn dược ở Sài Gòn…”

Ngày 22 tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Toàn quốc kháng chiến”, trình bày ngắn gọn những nội dung cốt lõi về đường lối kháng chiến của Đảng.

Trong bối cảnh quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định bước vào giai đoạn cùng cả nước kháng chiến, lời kêu gọi của Bác Hồ và các chỉ thị của Trung ương Đảng có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí quyết chiến chống xâm lược, vạch ra đường hướng cơ bản về cuộc kháng chiến, khẳng định và phát triển những khởi nghĩa tiến hành kháng chiến ở Sài Gòn và Nam Bộ trong thời gian hơn một năm trước đó.

Mở rộng cuộc chiến tranh ra toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, “tách Nam Kì ra khỏi cuộc chiến tranh”, biến Bắc Bộ thành chiến trường chính, Bộ tham mưu của tướng Valluy đã vạch kế hoạch bình định Nam Bộ với tham vọng hoàn thành vào mùa thu 1947. Bình định Nam Bộ trở thành một khâu then chốt trong chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.

Về chính trị, chúng dùng mọi thủ đoạn lôi kéo tập hợp các phe phái tôn giáo, đảng phái phản động, lập mặt trận quốc gia giả hiệu, các khu quốc gia, khu an ninh nhằm tạo thêm cơ sở xã hội, chia rẽ hàng ngũ kháng chiến, vô hiệu hóa các căn cứ kháng chiến.

Về kinh tế, chúng duy trì, phát triển các cơ sở kinh tế ở Sài Gòn, củng cố và đẩy mạnh hoạt động khai thác cao su ở miền Đông và lúa gạo ở miền Tây.

Về quân sự, Nyo bố trí lại chiến trường, bỏ bớt những đồn bót nhỏ lẻ, tập trung lực lượng chủ yếu ở xung quanh Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ(3), phát triển ngụy quân, phát triển chiến tranh gián điệp, mở các cuộc hành quân lớn và sâu vào vùng căn cứ kháng chiến để tìm diệt lực lượng vũ trang, triệt phá cơ sở địa phương, và thường xuyên đánh phá vùng du kích nhằm diệt lực lượng du kích và chính quyền cách mạng, từng bước mở rộng vùng kiểm soát, dồn lực lượng của ta vào một khu vực, từ đó dùng lực lượng lớn bao vây tìm diệt. Nam Bộ được chia làm 3 tiểu khu và Đặc khu Sài Gòn - Gia Định(4). Cơ quan chỉ huy đặt tại Sài Gòn và Thủ Đức. Riêng Sài Gòn - Gia Định trực thuộc Tổng hành dinh tướng Nyo. Sau đó Nyo lại chia tiểu khu thành 6 tiểu khu không theo ranh giới hành chính mà dựa trên yêu cầu phòng thủ quân sự(5). Theo đó, Chợ Lớn thuộc tiểu khu Vàm Cỏ, Gia Định thuộc tiểu khu Gia Định, Sài Gòn trực thuộc Bộ Tư lệnh quân viễn chinh tại miền Nam.

Ngay đầu năm 1947, đồng thời với việc mở các cuộc hành quân càn quét vào căn cứ và vùng du kích của ta ở xung quanh thành phố, trong nội thành, địch tăng cường canh gác các ngả đường, cửa ô, bố ráp liên tục các xóm lao động nghèo, đặc biệt theo dọc vùng kênh rạch. Chúng còn phát giấy thông hành mới, buộc nhân dân lập tờ khai gia đình, già mật vụ vào theo dõi chỉ điểm ở cổng nhà máy, trường học, đầu đường, góc chợ… gây không khí khủng bố, căng thẳng khắp nơi.

Trước tình hình đó, đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch và thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, chỉ thị: “Đẩy mạnh đánh địch ở khắp các mặt trận” của Lâm thời Xứ ủy Nam Bộ, tháng 1 năm 1947, Tư lệnh bộ Khu 7 triệu tập Hội nghị quân sự toàn Khu. Hội nghị đề ra nhiệm vụ năm 1947 với các nội dung chủ yếu: tiếp tục xây dựng phát triển lực lượng vũ trang, chống chính sách địch mua chuộc giáo phái, đánh mạnh vào hậu phương của địch, các cơ sở kinh tế của chúng ở nội thành Sài Gòn, vùng cao su và dọc đường giao thông.


(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1984, t. 4, tr. 203.
(2) Văn kiện quân sự của Đảng, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, t. 2, tr. 69, 70, 71, 72.
(3) Lực lượng của tướng Nyo tại Nam Bộ có 38.000 quân viễn chinh, ngoài ra có 6.000 lính bảo an và khoảng 10.000 dân vệ.
(4) Tiểu khu 1: Chợ Lớn, Tân An, Mĩ Tho, Gò Công. Tiểu khu 2: Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên. Tiểu khu 3: Biên Hòa, Xuân Lộc, Bà Rịa, Thủ Đức.
(5) Tiểu khu Biên Hòa: Biên Hòa, Bà Rịa. Tiểu khu Thủ Dầu Một: Thủ Dầu Một. Tiểu khu Gia Định: Gia Định, Tây Ninh. Tiểu khu Vàm Cỏ: Chợ Lớn, Tân An, Mĩ Tho. Tiểu khu Vĩnh Long: Tiền Giang, Bến Tre. Tiểu khu Nam: Hậu Giang.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2012, 06:43:50 pm »

*
*   *

Hòa cùng tiếng súng cả nước, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định tiếp tục đẩy mạnh công tác kháng chiến(1).

Trong nội thành, sau khi 6 ban công tác được thống nhất lại, có tổ chức chỉ huy chung và phân chia khu vực hoạt động, công tác xây dựng cơ sở, vũ trang tuyên truyền, điều tra nắm địch, diệt tề, trừ ác diễn ra có trọng điểm hơn và có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các tổ, liên tổ, ban công tác và các đơn vị tự vệ, công an xung phong. Ngay trong tháng 1 năm 1947, Ban công tác 6 đột nhập vào nhà hàng La Rosette trên đường Mac Mahon, đặt mìn đánh sập 1/3 ngôi nhà, diệt 7 phi công Pháp.

Cũng trong tháng 7 năm 1947, các chiến sĩ Liên tác chiến đấu quân 2 - 3 - 6 đột nhập trụ sở “Mặt trận bình dân” tại Ngã Sáu, bắn chết tên Cò Ngọc, chủ tịch Mặt trận bình dân Nam Kì và băn gãy chân tên cò Sáu Bé. Ta thu 1 súng và giải tán tổ chức phản động này.

Ngày 16 tháng 2, ta đốt cháy 2 kho hàng ở cảng Nhà Rồng, làm thiệt hại trên 5 triệu đồng tiền Đông Dương ngân hàng.

Ngày 26 tháng 3 năm 1947, anh Võ Hồng Tâm, đội viên tự vệ đội Tây Hồ dùng dao cạo giết chết tên đại tá Hans Impelt, ủy viên cộng hòa Pháp ở Lào mới đến Sài Gòn, tại khách sạn Hotel des Nations đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Sự kiện tên Impelt bị giết chết, gây chấn động mạnh, làm kinh hoàng bọn sĩ quan Pháp tại Sài Gòn và dư luận nước Pháp.

Cũng trong tháng 3 năm 1947, một tổ trừ gian của lực lượng Ban công tác Thành bắn chết tên Lê Văn Hậu và 10 tên tay sai đồng bọn tại hộ 16 Chợ Lớn.

Trong tháng 4 năm 1947, bọn ngụy tổ chức hội chợ ở vườn Beaux Jeux (Tao Đàn). Khu bộ Khu 7 chỉ thị giải tán hội chợ này. Do địch kiểm soát chặt chẽ nên các chiến sĩ của ta không đưa vũ khí vào được. Ban vũ khí tự vệ thành nghiên cứu sản xuất ra hàng loạt lựu đạn ngụy trang giống hộp bật lửa và bút máy. Dựa vào bản đồ đường ống cống do cơ sở nội tuyến cung cấp, các chiến sĩ của ta luân phiên đội nhập hội chợ đánh phá. Lựu đạn tự tạo tuy tiếng nổ nhỏ và sát thương không lớn, nhưng làm cho quân địch rất hoảng sợ. Hội chợ định kéo dài sang tháng 5 đã phải giải tán sau khi khai mạc được ít ngày. Kế đó, trên 100 công nhân hãng Sôđa Khánh Hội biểu tình đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Cuộc đấu tranh giành được thắng lợi. Tại Chợ Lớn, lực lượng tự vệ và công tác Thành thực hiện “chiến dịch” phá các nhà máy xay xát, cảnh cáo các chủ nhà máy chế biến cung cấp gạo cho thực dân Pháp. Hàng loạt nhà máy xay bị đốt như Đồng Hưng, Trung Hưng, Thành Hưng Thái, Cảnh Hưng, Kiến Quang bị đốt. Kho gạo của nhà máy Kiến Quang được chuyển ra căn cứ. Sau “chiến dịch” này, các ban công tác Thành nói chung được Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam Bộ tuyên dương công trạng toàn Nam Bộ và được Bộ Tổng tư lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba - huân chương đầu tiên của lực lượng 10 ban công tác Thành.

Ở ngoại thành, các đơn vị vũ trang củng cố thêm một bước về tổ chức và đẩy mạnh hoạt động tác chiến tiêu diệt địch. Nhằm xây dựng và bảo vệ căn cứ ở ngoại thành, tạo bàn đạp và bảo vệ đường giao liên vào thành phố. Ban chỉ huy Thành bộ tự vệ quyết định thành lập một tiểu đoàn vũ trang tập trung. Thành phần xây dựng tiểu đoàn gồm 1 trung đội mạnh của chi đội 10, các đội viên chiến đấu ở các khu, đội tự vệ nội thành, cả 1 tiểu đội lính ngụy bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất đi theo kháng chiến. Ngoài sổ riêng chi viện của chi đội 10, Ban chỉ huy tự vệ Thành tổ chức cho các khu, đội chuyển ra căn cứ số vũ khí lấy được của địch (trong đó có cả súng lớn như FM đầu bạc, trọng liên 12,7 li, cối 81 li, và chỉ thị cho ban võ khí tự vệ Thành sản xuất thêm một số súng phóng lựu (tromblon Việt Bắc). Tháng 3 năm 1947, tiểu đoàn vũ trang tập trung của tự vệ Thành lấy phiên hiệu Hoàng Văn Thụ chính thức thành lập. Ban chỉ huy tiểu đoàn Hoàng Văn Thụ gồm Trần Bá Hào (tiểu đoàn trưởng), Lê Lăng (tức Châu Văn Hổ, tiểu đoàn phó) và Phạm Thái Chu (chính trị viên). Ngay sau khi thành lập tiểu đoàn đã ra quân hoạt động đánh địch trên dọc tỉnh lộ 10 Bà Hom đi Đức Hòa, đường xe lửa Sài Gòn - Mĩ Tho, và đánh các đồn bót ở bìa căn cứ như Bà Hom, Bình Trị, ngã năm Vĩnh Lộc, cầu Xáng… Bộ đội các chi đội 6, 12, 13, 2, 3, 7 liên tiếp chặn đánh các cuộc hành quân càn quét của địch, bảo vệ căn cứ đứng chân, chống địch gom dân về các khu vực xung quanh đồn bót làm “hàng rào” của chúng.

Tháng 3 năm 1947, một trung đội của chi đội 6 do Đặng Tri Nhơn chỉ huy đánh tiêu diệt bót Sở Cô Tám ở ấp Tân Thông (Củ Chi). Thủ đoạn đánh được gọi bằng cái tên ngộ nghĩnh: “đánh cu mồi!” Ta sử dụng lính Lê dương (hơn 10 người) và lính Nhật (3 người) ra hàng và đi theo kháng chiến cùng một số chiến sĩ biết tiếng Pháp cải trang thành sĩ quan Pháp. Lính Lê dương và lính Partisan đi theo đường số 1 vào bót, ra lệnh cho xếp bót tập hợp số lính lại để kiểm tra. Bọn lính vừa tập hợp xong, tên xếp bót đứng ra báo cáo thì hàng loạt tiểu liên, trung liên của ta nổ tới tấp, tiêu diệt gọn 31 tên. Ta thu 1 đại liên, 3 tiểu liên, 20 súng trường và nhiều đạn dược. Sau trận này, chi đội 6 thành lập thêm bộ đội Tân Thông (gồm cả số lính Lê dương, lính Nhật đã theo ta) do Tư Thiện chỉ huy. Trong các chi đội Vệ quốc đoàn khác xung quanh thành phố, đều có nhiều binh linh và sĩ quan Pháp, Đức, Nhật, theo ta kháng chiến. Nhiều người có trình độ quân sự giỏi, chiến đấu dũng cảm, lập được thành tích xuất sắc.

Sang tháng 4 năm 1947, ta đánh một trận chớp nhoáng diệt đồn Suối Cụt (xã Phước Hiệp, Củ Chi) trên đường số 1 cách trung tâm Sài Gòn 43km. các chiến sĩ của ta cải trang làm lính ngụy đi càn về chặn lấy xe khách, lên xe chạy đến cửa bót đi vào bót tự nhiên. Trong lúc tên xếp bót và bọn linh còn ngơ ngác thì lực lượng cả ta nhanh chóng tỏa ra, dựa vào các công sự, vật cản, dùng trung liên, tiểu liên và lựu đạn diệt toàn bộ bọn lính đóng giữ bót gồm 30 tên, thu 3 trung liên, 27 súng trường.

Ngày 22 tháng 4 năm 1947, bộ đội liên quân B phục kích tại Phú Mĩ hưng. Phú Mĩ Hưng là một xã thuộc căn cứ khu 5(1) Hóc Môn, nằm về ven sông phía Bắc Sài Gòn, có bến đò nối Bến Súc và đường 15 xuống An Nhơn Tây, nối liền Bùng Binh, là xã ranh giới ngã ba huyện Hóc Môn (Gia Định), án ngữ vị trí tiền tiêu của căn cứ khu 5 - cửa ngõ phía Bắc Sài Gòn. Đêm 21 rạng ngày 22, địch huy động 200 lính Âu Phi và một đại đội lính Cao Đài phản động chia làm hai cánh tấn công vào khu vực cao su Bót Sắc, Cầu Trắng, Hố Bò nhằm tiêu diệt bộ đội ta. Ở đây ta có một đại đội của chi đội 12, một đại đội của chi đội 6 và một đại đội của chi đội 11 (thuộc liên quân B) đóng rải từ xóm Cầu Trắng vào đến Hố Bò. Được tin trinh sát phát hiện và các trạm gác của dân quân ở Làng Cát, Bờ Cảng đánh mõ báo động, ta đã chuẩn bị sẵn sàng phương án chống càn. Các đơn vị bộ đội nhanh chóng triển khai đội hình phục kích. Trận địa kéo dài từ bìa rừng đến sát lộ 15. 5 giờ sáng, toán quân đi đầu đụng lực lượng du kích ở Bờ Cảng, Làng Cát. Quân địch với lực lượng áp đảo vượt qua điểm chốt chặn từ xa của ta, đến 8 giờ sáng, toàn bộ đội hình lọt vào trận địa phục kích. Quân ta đồng loạt nổ súng, ném lựu đạn, đẩy địch lùi xuống mương và sở cao su, sau đó dùng súng bắn tỉa. Một xạ thủ đại liên của chi đội 6 dùng đại liên quét dọc mương diệt rất nhiều tên địch. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 10 giờ. Địch buộc phải rút lui. Ta thu 1 đại liên.


(1) Thời kì này, Khu 7 trực tiếp chỉ huy các lực lượng công tác Thành và tự vệ Thành. Lực lượng Công an xung phong trực thuộc Thành.
(2) Nay là Bắc Củ Chi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2012, 06:46:00 pm »

Trong khi phong trào đánh giặc đang diễn ra sôi nổi, trên khắp cá chiến trường thì ở phía Bắc Hóc Môn, một số lực lượng Cao Đài phản động ngày càng công khai trở mặt, chống phá kháng chiến.

Từ cuối năm 1946, khu ủy Khu 7 và tỉnh ủy Tây Ninh đi chủ trương mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc, nhiều lần tiếp xúc, mời các chức sắc Cao Đài tham gia mặt trận Việt Minh tỉnh, vận động đồng bào tín đồ tham gia kháng chiến, vạch rõ âm mưu chia rẽ tôn giáo, thành lập mặt trận giáo phái phản động của thực dân Pháp và một số chức sắc cao cấp phản động. Nhiều tín đồ Cao Đài hiểu rõ chính sác của Chính phủ Hồ Chí Minh và âm mưu của giặc đã nhiệt tình ủng hộ tham gia kháng chiến. Tuy vậy, một số chức sắc Cao Đài vẫn rắp tâm theo giặc chống lại cách mạng, biến lực lượng thanh niên vũ trang và đồng bào tín đồ thành công cụ đắc lực của thực dân Pháp trong chính sách bình định ở Nam Bộ.

Sau khi được thực dân Pháp trang bị vũ khí, từ tháng 2 năm 1947, quân Cao Đài phản động càn quét, đánh phá và đóng bót khắp nơi. Ở Đức Hòa, Trảng Bàng, Hóc Môn, binh lính Cao Đài tổ chức thành đại đội đi càn quét các vùng căn cứ địa của ta. Đi đến đâu chúng thẳng tay bắn giết nhân dân, đốt nhà cướp của đến đó. Cùng đi với lực lượng quân đội là tín đô Cao Đài bị kích động ồ ạt đi theo sau làm “con hôi” hò hét phụ trợ và chuyên chở những thứ cướp bóc được.

Hành động chống phá của lực lượng Cao Đài phản động gây cho ta rất nhiều khó khăn. Chính quyền cách mạng địa phương, các cán bộ đảng viên và bộ đội gặp nhiều lúng túng trong việc thực hiện chính sách Cao Đài vận, xây dựng mặt trận đoàn kết kháng chiến và chiến đấu, bảo vệ lực lượng, bảo vệ nhân dân.

Trước tình hình đó, tháng 2 năm 1947, Tư lệnh bộ Khu 7 quyết định thanh lập một số liên quân đặc nhiệm làm nhiệm vụ ngăn chặn hành động đánh phá của quân Cao Đài phản động, đồng thời đẩy mạnh tác chiến đánh địch ngay trên các chiến trường. Theo quyết định này, liên quân B được thành lập trên cơ sở hợp nhất một số bộ phận thuộc các chi đội 1, 6, 11, 12, 13, 15 lúc đầu do Huỳnh Kim Trương rồi từ tháng 5 năm 1947 là Tô Kí làm chỉ huy trưởng, hoạt động ở khu vực phía Bắc Hóc Môn, Trảng Bàng, Đức Hòa. Liên quân 17 gồm một bộ phận thuộc các chi đội 1, 6, 10 do Đào Sơn Tây làm chỉ huy trưởng, hoạt động ở khu vực Thủ Đức, Dĩ An, Lái Thiêu, Châu Thành, Tân Uyên. Liên quân 18 gồm một bộ phận thuộc các chi đội 6, 12, do Nguyễn Thược (Lâm Quốc Đăng) làm chỉ huy trưởng, hoạt động ở khu vực Hóc Môn, Bến Cát, Gò Vấp(1).

Các liên quân tỏa ra chủ động đánh địch càn quét, ngăn chặn các đơn vị quân Cao Đài phản động đánh nống vào khu vực xung quanh thành phố.

Cùng thời gian này, Lâm thời Xứ ủy Nam Bộ chỉ thị cho Khu 7 và các tỉnh: hết sức bình tĩnh tranh thủ sự ủng hộ tham gia kháng chiến của đồng bào tín đồ đạo Cao Đài, mặt khác kiên quyết trừng trị những tên manh tâm làm tay sai cho giặc Pháp, đối địch với kháng chiến. Do quán triệt không đầy đủ chỉ thị trên, ở Khu 7, một vài đơn vị bộ đội đã thực hiện một số vụ “Tảo thanh Cao Đài” một cách quá tả, gây cho một số tín đồ Cao Đài mất niềm tin hoặc mang mối hận thù với cách mạng. Có gia đình bỏ chạy về khu Tòa thánh hoặc về xung quanh khu vực đồn bót. Một số ít khác đi theo địch, vào quân đội Cao Đài hoạt động chống phá kháng chiến quyết liệt hơn.

Một số sự kiện “tảo thanh” diễn ra ở Hóc Môn, Trảng Bàng, Thủ Đức cũng như ở một số huyện khác như Đức Hòa, Đông Thành (Chợ Lớn), Mộc Hóa (Tân An)… phản ánh trình độ ấu trĩ tả khuynh của một vài cán bộ và đơn vị bộ đội trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến… Ngay sau đó, Khu ủy Khu 7 và tỉnh ủy các tỉnh đã kịp thời chỉ đạo sửa sai, đưa cán bộ về bám địa bàn, giải thích, vận động đồng bào tín đồ, lấy lại lòng dân. Đại đa số đồng bào đã hiểu và thông cảm với tình hình trên, một lòng theo Đảng và Bác Hồ, nhiệt tình tham gia kháng chiến chống Pháp.

Tháng 4 năm 1947, đồng chí Lê Duẩn từ Việt Bắc về đến Nam Bộ. Tại chiến khu Đồng Tháp Mười, Hội nghị Xứ ủy mở rộng được triệu tập. Hội nghị đã kiểm điểm 3 tháng thực hiện “tổng tiến công, khuấy rối, phong tỏa, phá hoại” trên các chiến trường, quán triệt đường lối chỉ đạo chung của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện trường kì và tự lực cánh sinh, đề ra các biện pháp nhằm xây dựng lực lượng kháng chiến về mọi mặt, vừa kháng chiến, vừa xây dựng lực lượng chiến đấu, xây dựng lực lượng quân sự mạnh trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị rộng khắp. Hội nghị nhấn mạnh cần phải củng cố lại hệ thống tổ chức Đảng từ Xứ tới cơ sở, phát triển thêm nhiều đảng viên mới, đặc biệt trong lực lượng vũ trang, tăng cường chất lượng chính trị trong các tổ chức Đảng. Hội nghị thành lập Xứ ủy chính thức, bổ sung thêm một số ủy viên Xứ ủy mới và bầu đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư.

Kế sau Hội nghị Xứ ủy, hội nghị cán bộ Đảng Sài Gòn - Chợ Lớn được triệu tập tại Bà Vụ (Vườn Thơm). Đồng chí Lê Duẩn thay mặt Xứ ủy đã tới dự. Hội nghị tập trung bàn về việc xây dựng lực lượng mọi mặt và phương hướng hoạt động trong thành phố. Hội nghị chỉ rõ, Đảng cần đi sâu vào phong trào quần chúng, tiến hành kết hợp đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế với đấu tranh quân sự, diệt ác, trừ gian, kết hợp hình thức đấu tranh bí mật, công khai với nửa công khai, bất hợp pháp, hợp pháp với nửa hợp pháp. Về xây dựng Đảng, Hội nghị chủ trương tiếp tục phát triển thành một Đảng của quần chúng, nhưng tránh lối phát triển ồ ạt và phải bảo toàn cơ sở, đồng thời cần nghiêm khắc sửa chữa những biểu hiện sai trái trong Đảng như chủ quan, hẹp hòi, địa phương chủ nghĩa. Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: cần phải phát triển cơ sở Việt Minh, tập hợp trí thức vì kháng chiến của ta rất cần, trí thức là tinh hoa của dân tộc. Về hoạt động nội thành, đồng chí nói: “báo chí là người cán bộ tuyên truyền, giải thích những chủ trương của Đảng, đồng thời là người cán bộ hướng dẫn công tác”. Thành phố phải tăng cường và duy trì hoạt động của báo chí. Hội nghị cử Ban chấp hành Thành ủy(2) do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm bí thư(3).

Cũng trong thời gian này, Tỉnh ủy Gia Định tổ chức hội nghị tại chiến khu An Phú Đông. Hội nghị đã kiểm điểm rút kinh nghiệm một năm xây dựng củng cố lực lượng trên địa bàn tỉnh. Riêng về công tác xây dựng chính quyền, hội nghị chỉ rõ: trong tình hình chiến tranh ác liệt, nếu biết dựa vào dân, dựa vào lực lượng vũ trang thì mới xây dựng được cơ sở. Thực tế ở hai huyện Thủ Đức, Nhà Bè cho thấy phải biết kết hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng thì mới giữ vững được chính quyền. Phải tăng cường hoạt động của lực lượng công an để trừng trị bọn Việt gian phản động, phân hóa cô lập các đảng phái chính trị chống đối thì chính quyền hoạt động mới có hiệu quả và phát huy được tác dụng. Hội nghị chủ trương tăng cường chất lượng lãnh đạo ở các huyện, xã trên cơ sở cán bộ lãnh đạo phải do cấp ủy Đảng, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể bầu ra một cách dân chủ. Xây dựng nền kinh tế kháng chiến độc lập, tự chủ trên địa bàn tỉnh, đáp ứng nhu cầu ở các khu căn cứ. Tăng cường hoạt động vũ trang, diệt tề trừ gian hỗ trợ cho chính quyền các cấp, chỉ đạo nhân dân thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng. Về vấn đề Cao Đài, Hội nghị chủ trương chỉ bắt bọn cầm đầu phản động, cử một số cán bộ chiến sĩ làm công tác Cao Đài vận, giải thích cho đồng bào tín đồ hiểu chủ trương của ta, đồng thời vạch trần âm mưu nham hiểm của thực dân Pháp và bọn phản động gây chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Hội nghị đã đề cử, bổ sung thêm một số tỉnh ủy viên. Tỉnh ủy vẫn do đồng chí Phạm Văn Chiêu làm bí thư.

Hội nghị Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và Tỉnh ủy Gia Định lần này đã đặt ra những vấn đề cơ bản về đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng ở một thành phố lớn và vùng ven tạm bị chiếm. Nó cụ thể hóa đường lối kháng chiến của Đảng ta qua các văn kiện chỉ thị toàn dân kháng chiến, Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 2 và hàng loạt bài giải thích đường lối kháng chiến của đồng chí Trường Chinh(4) vào hoàn cảnh cụ thể ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, xuất phát từ nhu cầu thực tế ở địa phương. Từ đây, công cuộc kháng chiến ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định diễn ra ngày càng có nền nếp, quy củ và hòa nhịp với phong trào kháng chiến toàn quốc.


(1) Tất cả có 5 liên quân: A, B, C, 17, 18. Liên quân A lấy từ chi đội 6, 11 bộ đội Hải ngoại do Nguyễn Văn Dung làm chỉ huy trưởng, hoạt động ở chiến trường biên giới phía Bắc Tây Ninh đến biên giới Việt Nam - Campuchia (tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông). Liên quân C lấy từ chi đội 5, 12, 13 bộ đội Bình Xuyên, hoạt động ở quân khu Đông Thành đến giáp biên giới Việt Nam - Campuchia (bên hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông).
(2) Gồm 15 đồng chí: (13 chính thức, 2 dự bị): Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Thọ Chân, Ngô Sĩ Hùng, Ngô Thị Huệ, Chương Dương, Huỳnh Văn Vàng, Cao Đăng Chiếm, Quế Lâm, Liễu Châu, Lê Tuấn, Lê Bá Hoa, Phùng Lượng, Phạm Văn Chúc, Đào Năng An.
(3) Đến tháng 5 năm 1947, đồng chí Nguyễn Văn Linh về Xứ ủy nhậm nhiệm vụ mới, đồng chí Lê Văn Sĩ được trên bổ sung về thay làm bí thư. Ngày 21 tháng 10 năm 1948, đồng chí Lê Văn Sĩ hi sinh.
(4) Loạt bài này đăng trên báo Sự Thật, đến tháng 9 năm 1947 tập hợp in thành sách xuất bản lần đầu với tiêu đề Kháng chiến nhất định thắng lợi phát hành bí mật ở Sài Gòn - Gia Định.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2012, 06:47:14 pm »

*
*   *

Tháng 5 năm 1947, giặc Pháp giảm bớt hoạt động càn quét ở miền Tây Nam Bộ, tập trung quân về đánh phá vùng xung quanh Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Để có thêm quân thay thế cho các đơn vị chính quy đã rút ra miền Bắc làm nhiệm vụ bình định lãnh thổ, thực dân Pháp tiến hành tuyển mộ lính ngụy. Đến giữa năm 1947, chúng đã tuyển mộ được 9.000 vệ binh cộng hòa và trên 10.000 quân phụ lực. Trong thành phố, nhằm phỉnh mị dân chúng, lôi kéo tập hợp lực lượng chống đối kháng chiến. Cao ủy Pháp Bollaert ban hành mệnh lệnh bãi bỏ kiểm duyệt báo chí, nới rộng hơn quyền dân sinh dân chủ cho công nhân viên chức ở các nhà máy, công sở.

Dù vậy, phong trào kháng chiến của đồng bào thành phố vẫn đang trên đà phát triển. Để giám sát phong trào, ta chia Sài Gòn - Chợ Lớn thành bốn khu vực chỉ đạo. Khu 1: từ hộ 1 đến hộ 6 do Hồ Bắc làm bí thư. Khu 2: từ hộ 7 đến hộ 12 do Thiếu Hà làm bí thư. Khu 3: từ hộ 13 đến hộ 18 do Việt Hùng làm bí thư. Khu 4: từ hộ 19 đến hộ 21 (ba xã Bình Hòa, Phú Nhuận, Thạnh Mĩ Tây) do Phạm Văn Chức làm bí thư (khu 4 về hành chính thuộc tỉnh Gia Định, nhưng về Đảng thuộc thành phố Sài Gòn quản lí).

Công tác xây dựng và phát triển Đảng được triển khai đều khắp. Các nhân tố nòng cốt trong công nhân viên chức, trong các đơn vị vũ trang, ban công tác, Liên tác chiến đấu quân, công an, tự vệ được chú trọng bồi dưỡng giáo dục và kết nạp Đảng. Lần lượt các chi bộ Đảng ra đời hoặc được củng cố lại. Nhiều chi bộ vừa thành lập đã phát huy tác dụng tốt như các chi bộ hộ 7, hộ 8, hộ 9 ở khu Chợ Lớn nội thành, chi bộ hộ 10, vùng trường đua Phú Thọ, Chợ Thiếc, chi bộ hộ 3 khu vực Khánh Hội, chi bộ hộ 4, hộ 6 vùng Bàn Cờ, bến Tắm Ngựa, Chí Hòa, Hòa Hưng, chi bộ hộ 20 vùng Bình Hòa, Bà Chiểu, chi bộ hộ 21 vùng Phú Nhuận… Đến giữa năm 1947, các chi bộ Đảng đã được thành lập khắp 22 hộ trong nội thành và trong nhiều nhà máy, công sở. Chi bộ tự vệ Thành Sài Gòn ban đầu chỉ có 4 đảng viên đã nhanh chóng phát triển rộng khắp các khu, đội tự vệ.

Trong các đơn vị vũ trang ngoại thành, công tác Đảng cũng được chú trọng đẩy mạnh, đặc biệt trong các chi đội bộ đội Bình Xuyên. Bị bon tay sai phản động và nhân viên Phòng Nhì Pháp nằm trong “Tổng hành dinh”, khu bộ phó và ban tham mưu liên khu Bình Xuyên lũng đoạn, xúi giục, Bảy Viễn thực hiện các biện pháp chống đối, loại trừ các đảng viên cộng sản và chế độ chính trị viên trong nội bộ bộ đội Bình Xuyên. Dù vậy, dưới sự chỉ đạo của Khu ủy Khu 7, nhiều chi bộ Đảng, cán bộ công đoàn ở thành phố đã về các chi đội mở cuộc vận động tuyên truyền về mục tiêu lí tưởng, chủ trương đường lối của Đảng và Chính phủ trong các đơn vị, những chiến sĩ nòng cốt, qua đó lựa chọn những người có đủ điều kiện để bồi dưỡng và kết nạp vào Đảng. Nhiều cuộc kết nạp được tiến hành một cách bí mật, ngăn cắt, nhưng vẫn đầy đủ nghi thức trong các nền rạch Rừng Sác. Trên thực tế, trong hầu hết các đơn vị vũ trang, tổ chức Đảng các cấp đã được hình thành một cách có hệ thống từ trên xuống dưới. Đảng thực sự nắm quyền lãnh đạo hầu hết lực lượng vũ trang(1).

Đi đôi với việc phát triển hệ thống tổ chức Đảng và các đảng viên, ta ra sức củng cố hệ thống chính quyền, Mặt trận, đoàn thể cứu quốc, dân quân tự vệ, công an các cấp. Đặc biệt trong công nhân, tổ chức công đoàn phát triển một bước mới. Các liên hiệp nghiệp đoàn được củng cố từ hộ, quận lên đến thành phố. Trong công đoàn thành phố có các bộ phận chuyên trách công tác trí thức, viên chức, thanh niên, phụ nữ… Một số công đoàn ngành cấp thành phố được thành lập như liên đoàn thợ nón, liên đoàn thợ mộc, liên đoàn nhân viên ngân hàng, liên đoàn tài xế, liên đoàn công nhân nước đá, liên đoàn công nhân thuốc lá… số lượng đoàn viên công đoàn năm 1947 lên đến 15.000 người. Ở Thị Nghè, tổ chức của những người công giáo yêu nước mang tên “Liên đoàn công giáo kháng chiến” ra đời làm nhiệm vụ vận động bà con giáo dân quyên góp tiền bạc, thuốc men ủng hộ kháng chiến.

Tại Gia Định, tổ chức Mặt trận Việt Minh được hoàn chỉnh từ trên xuống dưới. Bộ máy quyền lực được củng cố. Ủy ban kháng chiến hanh chánh có uy tín trong nhân dân. Số đảng viên toàn tỉnh phát triển lên gần 2.000 (năm 1946 mới có hơn 500 đảng viên).

Hệ thống thành công Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, mặt trận, đoàn thể vừa được xây dựng và củng cố đã tạo điều kiện quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào kháng chiến trong thành phố. Các cuộc đấu tranh chính trị diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú. Ngày 19 tháng 5 năm 1947, cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở cổng xe lửa số 10 Phú Nhuận và trên dây cáp điện hãng diệt bao bố ở Vĩnh Hội. Từ đây về sau, cờ đỏ sao vàng, truyền đơn khẩu hiệu xuất hiện ngày càng nhiều, đặc biệt trong các ngày lễ lớn. Những khẩu hiệu :”Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Kháng chiến nhất định thắng lợi!” “Đả đảo thực dân Pháp và chính phủ bù nhìn tay sai”… được viết lên tường hay cột báo bay thả lên không, cắm trên bè chuối thả trôi dọc sông. Trong các ngày lễ cách mạng như ngày 19 tháng 5, ngày 25 tháng 8, ngày 2 tháng 9, ngày 23 tháng 3… anh chị em công nhân viên chức ăn mặc trang trọng.


(1) Đảng trong các đơn vị lực lượng vũ trang vẫn trực thuộc hệ thống khu ủy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2012, 06:48:52 pm »

Cùng với truyền đơn khẩu hiệu vẽ, in tại chỗ và các tài liệu kháng chiến, báo chí của ta từ các căn cứ chuyển về được chuyền tay xem khá rộng rãi. Ngoài những tờ báo lớn của Nam Bộ, của Khu ủy Khu 7, Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh Gia Định, còn có những tờ báo “nhỏ” in bột xù xoa của các chi đội Vệ quốc đoàn, công an, các tổ chức đoàn thể cũng được đồng bào trân trọng chuyền tay nhau đọc. Mua, ủng hộ báo và đọc báo trở thành phong trào, đáp ứng nhu cầu và tình cảm của đặc biệt thành phố vừa để gửi tiền đóng góp kháng chiến, vừa để tìm hiểu diễn biến mọi mặt của công cuộc kháng chiến và nhiệm vụ đấu tranh. Bên cạnh các mục tin vắn, các bài tường thuật, bình luận, xã luận, nhiều bài thơ, truyện ngắn, phóng sự, ghi chép, tùy bút, gây xúc động mạnh mẽ trong lòng người đọc. Đồng bào thành phố bắt đầu quen biết với những tên Xuân Miễn, Khương Minh Ngọc, Phạm Công Binh, Chi Linh (tức Mai Văn Tạo), Phạm Tường Hạnh, Trần Hữu Nghiệp, Đoàn Giỏi, Nguyễn Ngọc Tấn (tức Nguyễn Thi), Trần Vân Anh, Hoàng Văn Bổn, Lí Văn Sâm, Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Bính, Nguyễn Trọng Tuyển, Hoàng Tố Nguyên, Bảo Định Giang, Nguyễn Hải Trừng, Rum Bảo Việt…

Báo chí công khai ở Sài Gòn, bên cạnh những tờ rất phản động như Tiếng Loa, Phục Hưng, Tiếng gọi… bênh vực cho hành động xâm lược của thực dân Pháp và bọn tay sai bán nước, có nhiều tờ biểu hiện khuynh hướng ủng hộ Chính phủ Cụ Hồ, chống phân li, chia cắt đất nước như Tín Điện, Nam Kì, Tân Việt, Kiến Thiết, Tin Mới, Dư Luận, Việt Thanh, Sài Thành, Công Chúng, Echo du Việt Nam, PusFice. Tờ Lendemain của nhóm Văn Hóa Mác xít thiên hẳn khuynh hướng chống chiến tranh xâm lược và chia cắt Việt Nam. Trong số ra ngày 19 tháng 5 năm 1947, tờ Nay Mai dám đăng hinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và bai thơ của tác giả Hoàn Châu ca ngợi Đài Tiếng nói Việt Nam(1).

Ngày 22 tháng 5 năm 1947, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ ra Chỉ thị số 4 - NV “Cách đối phó với công chức và nhân viên đương hiệp tác với Pháp trong guồng máy cai trị và các sở tư của Pháp”. Chỉ thị chỉ rõ: “Công cuộc kháng chiến tranh thủ nền độc lập cho nước nhà đã đến giai đoạn quyết liệt. Mỗi công dân nước Việt Nam, không phân biệt đảng phái tôn giáo, đều có nhiệm vụ trực tiếp tham gia đấu tranh hoặc ở tiền tuyến, hoặc ở hậu phương và tuyệt đối không được hiệp tác với giặc hoặc với chính phủ bu nhìn phản quốc Lê Văn Hoạch. Xin các cấp hành chánh, quân sự công an hãy kêu gọi họ trở về với Tổ quốc và truyền rao cho họ hoặc bản thân của họ biết: 1/ Công chức, giáo chức, tư chức hiện còn hiệp tác với thực dân Pháp và chính phủ bù nhìn Lê Văn Hoạch, dẫu trong sở công hay sở tư phải lập tức thoát li, thi hành huấn lệnh của Chánh phủ bất hợp tác với Pháp và “chánh phủ” bù nhìn Lê Văn Hoạch. 2/ Kì hạn một tháng sau khi công bố chỉ thị này, các công chức và tư chức kể trên phải thu xếp trở về với Chánh phủ…”(2)

Kế đó, ngày 21 tháng 6 năm 1947, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ ra chỉ thị số 404/TV “giải rõ chỉ thị 4-NV”, coi chỉ thị 4 -NV là:

1/”Chánh trị:

a/ Gây phong trào mãnh liệt bất hợp tác với giặc của tất cả công dân Việt Nam yêu nước, để biểu dương sự đoàn kết của dân tộc, của các tầng lớp dân chúng từ thôn quê tới thành thị quyết tâm theo đuổi cuộc kháng chiến giành độc lập.

b/ Biểu thị uy tín của Chánh phủ đối với các tầng lớp dân chúng một khi đã ra lệnh cho công nhân mặc dầu đang làm việc dưới bóng cờ của giặc, cũng đáp lại tiếng gọi của Chánh phủ, của Tổ quốc, để hi sanh ra lãnh nhiệm vụ công dân trong lúc nước nhà cần đến.

c/ Có dịp cho anh em công chức chân chính yêu nước ra hi sanh tham gia kháng chiến.

d/ Làm thất bại sự xuyên tạc xảo quyệt của thực dân Pháp cho rằng công chức thành thực hợp tác với chúng và bè lũ bù nhìn chống lại Chính phủ Việt Nam.

2/ Kinh tế:

Làm tê liệt cơ sở kinh tế của giặc ngay trong vùng chúng kiểm soát, phá tan hay làm gián đoạn các đầu mối giao thông của địch để các sự tiếp tế của địch phải bị trở ngại.

3/ Cai trị:

Làm tê liệt guồng máy cai trị của giặc trong khi các công chức bỏ sở…”(3)

Thực hiện chỉ thị 4-NV của Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, trên 6.000 viên chức và 1.000 thợ chuyên môn rời thành phố ra chiến khu. Trong số này có nhiều trí thức, nhân sĩ danh tiếng như bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, đô trưởng Sài Gòn Phan Văn Chương… Căn cứ Vườn Thơm trở thành “trạm” đón tiếp trung chuyển số viên chức công nhân này về chiến khu Đồng Tháp Mười và tỏa đi các chiến trường Nam Bộ, một phần sung vào các đơn vị chiến đấu, một phần trở thành lực lượng nòng cốt, xây dựng các ngành quân giới, kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục kháng chiến. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng ngàn người đồng loạt rời bỏ cuộc sống yên nổ ở Sài Gòn để ra bưng biền biểu thị tấm lòng tha thiết đi theo kháng chiến của nhân dân thành phố. Tuy nhiên, việc ra đi ồ ạt này đã làm xáo trộn không ít đến các tổ chức kháng chiến nội thành; mặt khác, kẻ thù lợi dụng cài một số gián điệp do thám trà trộn trong đoàn người ra bưng biền. Bọn này tìm cách len lỏi vào các cơ quan kháng chiến để phá hoại ta về sau.

Trên mặt trận kinh tế, phong trào đấu tranh của nhân dân thành phố diễn ra không kém phần mạnh mẽ. Công nhân các nhà máy Bastos, Hội Đồng, Denis, Sôđa Khánh Hội, Mic, Côphat, bia Chợ Lớn… đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện chế độ làm việc. Giới tiểu thương, thợ thủ công đấu tranh mạnh mẽ chống tăng thuế, ngăn cản thông thương. Nhân dân vùng quanh sân bay Tân Sơn Nhất và vùng cảng Sài Gòn, Khánh Hội, Nhà Bè, nằm trong quy hoạch mở rộng xây dựng sân bay, quân cảng, kho tàng của địch, trì hoãn việc dời chuyển nhà, đòi bồi thường cao hơn mức uy định. Đáng kể nhất là phong trào phá hoại kinh tế địch. Ngoài việc đình công, công nhân tìm cách tháo gỡ máy móc, lấy nguyên liệu, hóa chất, thuốc men, dụng cụ y tế, dụng cụ văn phòng… gửi ra chiến khu. Những thứ không lấy được thì tìm cách đốt phá, làm hư hỏng. Ở Vĩnh Hội, ta đốt cháy 5 kho chứa đầy mủ cao su và đồ hộp, đốt kho Lucia, phá 100 cỗ máy trong hãng Faci bằng cách lấy mạt cưa, cát, nấu thành keo hòa vào dầu đổ vào máy.

Hoạt động phá hoại kinh tế địch trong năm 1947 chưa rầm rộ và đạt kết quả cao, nhưng đã góp phần làm giảm công suất hoạt động các nhà máy, hạn chế nguồn lợi kinh tế của tư bản thực dân Pháp, đồng thời cung ứng một phần quan trọng nhu cầu của ta ở các căn cứ.


(1) Bài thơ có đoạn:
Tiếng nói của cả bốn ngàn năm lịch sử.
Tiếng Đồng Nai, Nhị Thủy, Hương Giang
Tiếng nòi giống, tiếng giang san
Tiếng Tổ quốc, tiếng Việt Nam cộng hòa
Tiếng nguyện vọng, tiếng thiết tha chính đáng
Tiếng tâm hồn tươi sáng thanh cao
Tiếng khí khái, tiếng anh hòa
Tiếng reo độc lập, tiếng gào tự do.

(2) Cập năm 1947, Phòng tư liệu, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
(3) Cập năm 1947, Phòng tư liệu, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2012, 06:49:43 pm »

Trên mặt trận quân sự, lực lượng vũ trang cũng lập được nhiều thành tích. Các đơn vị vũ trang tập trung ngày một lớn mạnh. Từng ban công tác Thành, tự vệ Thành, công an xung phong đều có lực lượng trang bị mạnh (từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội) đứng chân ở ngoại thành vừa để hỗ trợ cho tác chiến trong nội đô vừa để xây dựng và bảo vệ căn cứ cho từng đơn vị. Nhu cầu thống nhất các đơn vị có trang bị mạnh bên ngoài thành một lực lượng tập trung để đẩy mạnh hoạt động phối hợp nhịp nhàng với lực lượng trong nội đô trở nên bức xúc. Trước tình hình ấy, Ủy ban kháng chiến hành chánh thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn đề nghị Tư lệnh bộ Khu 7 cho thành lập một trung đoàn bộ đội tập trung chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Thành ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh Sài Gòn - Chợ Lớn. Nhiệm vụ của trung đoàn là bảo vệ cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo của thành phố, bảo vệ khu vực căn cứ Bàu Có, Láng Le, Vườn Thơm, Bà Vụ, đánh các đồn bót ven đô hỗ trợ cho phong trào nội thành. Ngày 19 tháng 5 năm 1947, trung đoàn bộ đội tập trung của Sài Gòn - Chợ Lớn chính thức ra mắt, lấy phiên hiệu Phạm Hồng Thái. Trung đoàn Phạm Hồng Thái có 3 tiểu đoàn: Hoàng Văn Thụ, Kí Con và Ngô Gia Tự. Tiểu đoàn Hoàng Văn Thụ của tự vệ Thành do Trần Bá Hào làm tiểu đoàn trưởng. Tiểu đoàn Kí Còn gồm lực lượng Liên tác chiến đấu quân của các ban công tác và một đại đội của Ủy ban kháng chiến miền Nam tăng cường, do Phạm Quang Thuần làm tiểu đoàn trưởng. Tiểu đoàn Ngô Gia Tự gồm lực lượng vũ trang tập trung của Ban công tác số 4 và của Liên hiệp công đoàn Thành đứng chân ở An Phú Đông, Bình Trị Đông, Phú Thọ, do Nguyễn Minh Đức làm tiểu đoàn trưởng. Ban chỉ huy trung đoàn gồm Huỳnh Văn Vàng (trung đoàn trưởng), Nguyễn Văn Hâm (trung đoàn phó), và Hà Ngọc Tiếu (chính trị viên).

Cũng từ giữa năm 1947 trở đi, lực lượng vũ trang Thành được củng cố lại, thay đổi tổ chức, hầu đẩy mạnh hơn nữa hoạt động quân sự ở nội thành. Tháng 7 năm 1947, Tư Lệnh bộ Khu 7 thành lập thêm Ban công tác số 7 lấy từ số anh em trinh sát của bộ đội Phú Thọ, những chiến sĩ công đoàn xung phong đứt liên lạc và số anh em phát hành báo Vệ Quốc. Do đã có trung đoàn tập trung Phạm Hồng Thái, các ban công tác và tự vệ Thành cần phải tổ chức lại thành địa phương quân, tháng 11 năm 1947, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ ra chỉ thị đổi các ban công tác Thành và tự vệ Thành thành các đại đội du kích trực thuộc Ủy ban kháng chiến hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn. Theo chỉ thị này:

Ban công tác số 1 thành đại đội du kích 1
Ban công tác số 2 thành đại đội du kích 2
Ban công tác số 3 thành đại đội du kích 3
Ban công tác số 4 thành đại đội du kích 4
Ban công tác số 5 thành đại đội du kích 5
Ban công tác số 6 thành đại đội du kích 6
Ban công tác số 7 thành đại đội du kích 7

Riêng lực lượng tự vệ Thành, 15 trung đội của 15 khu và đội tự vệ sáp nhập lại thành Liên đại đội du kích 8 - 9 - 10 (sau này sẽ tách thành từng đại đội du kích 8, 9, 10). Ban chỉ huy liên đại đội là ban chỉ huy tự vệ Thành cũ, gồm Nguyễn Tứ Phương (chỉ huy trưởng), Hoàng Trọng Khải (chỉ huy phó), Nguyễn Hoài Nam (chính trị viên). Trong thời gian biên chế lại tự vệ Thành, hai đồng chí Hoàng Trọng Khải và Nguyễn Hoài Nam hi sinh trong chiến đấu. Đồng chí Đỗ Tân được chỉ định làm chính trị viên.

Đến đây, Sài Gòn - Chợ Lớn có 10 đại đội du kích mang phiên hiệu từ 1 đến 10. Việc đổi tên gọi và tổ chức các đại đội du kích đã thống nhất các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hoạt động nội thành, đặt lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cáp ủy và chính quyền địa phương thành phố.

Các lực lượng vũ trang nội thành vẫn tiếp tục vũ trang tuyên truyền, tác chiến đánh địch trong thành phố. Ngày 23 tháng 6 năm 1947, ta phục kích đánh một xe nhà binh ở Chợ Lớn, diệt 2 lính Pháp. Ngày 7 tháng 8 năm 1947, một chiến sĩ dùng lựu đạn tấn công làm bị thương nhiều lính Pháp tại cửa tiệm “Tô Châu” ở đường Lí Thành Nguyên. Đầu tháng 9 năm 1947, các đội viên đại đội du kích 2 bắn ngã gục tên Hiền phản động tại nhà thờ Huyện Sĩ. Hiền là một gián điệp đội lốt công giáo, chuyên lợi dụng các buổi rao giảng ở nhà thờ để nói xấu, xuyên tạc kháng chiến, chia rẽ giáo dân với đồng bào không theo đạo. Ngày 29 tháng 9 năm 1947, anh Trần Công Thành đội viên đại đội du kích 6 đột nhập tòa soạn báo Quốc Hồn, tờ báo phản động của Pháp, chuyên tuyên truyền chống kháng chiến đặt tại số nhà 50 đường Frères Louis. Bọn bồi bút phản động được gọi ra nghe bản án và bị xử tử ngay tại trụ sở. Cũng trong tháng 9 năm 1947, lực lượng ta đột nhập vào nhà tên đại úy Pháp ở đường Charner ngay cạnh dinh Xã Tây, lấy khẩu súng. Ngày 9 tháng 10 năm 1947, tên “Bareau bị bắn chết tại nhà ở Chợ Lớn lối 20 giờ, lúc đang ăn tối, trong miệng còn đang ngậm miếng thịt gà”(1).

Ngày 10 tháng 10, tên Nguyễn Văn Sâm, chủ nhiệm tờ báo Quần Chúng - một tờ báo phản động - bị 5 phát súng vào đầu khi đang ngồi trên ô tô tại góc đường Cây Mai - Tổng Đốc Phương. Ngày 22 tháng 10, một tổ thuộc đại đội du kích 8 cải trang lính ngụy ngồi trên xe nhà binh đột nhập vào trại lính Bà Chiểu, phối hợp với nội tuyến lấy 7 súng và nhiều đạn rồi rút lui an toàn. Cuối tháng 10, ta tổ chức một trận đánh ở đường Catinat, có nhiều nhà hàng, bọn sĩ quan Pháp tập trung đông và được canh gác cẩn mật. Lực lượng của ta cải trang thành dân thường, bí mật tiếp cận từ nhiều hướng, hợp điểm đúng giờ, đồng loạt tấn công bằng lựu đạn, làm chết và bị thương 40 tên Pháp trong các hàng ăn và tiệm nhảy…

Từ giữa năm đến mùa thu năm 1947 là quãng thời gian Sài Gòn - Chợ Lớn củng cố, xây dựng hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể kháng chiến và lực lượng vũ trang, đưa mọi mặt hoạt động vào guồng máy kháng chiến một cách toàn diện, đều đặn và thống nhất, có nề nếp. Nó đã tạo ra những tiền đề hết sức quan trọng cho giai đoạn phát triển tiếp theo của cuộc kháng chiến.


(1) Báo Phục Hưng, số ra ngày 10 tháng 10 năm 1947. Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2012, 06:51:31 pm »

*
*   *

Phối hợp với phong trào nội thành, trên khắp các địa bàn xung quanh thành phố, đi đôi với công tác xây dựng căn cứ địa, xây dựng lực lượng mọi mặt, các đơn vị vũ trang đẩy mạnh hoạt động tác chiến, tổ chức nhiều trận chống càn, phục kích giao thông địch, thu được nhiều thắng lợi quan trọng.

Tại khu Chợ Lớn ven đô, ngoại ô (khu 3 gồm các hộ 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18), Đảng bộ khu và các tổ chức chính quyền liên hộ và hộ, công an, mặt trận, đoàn thể được xây dựng và củng cố. Khu 3 xây dựng 2 khu vực liên hoàn ở Hố Bần thuộc hộ 16 và hộ 17 làm căn cứ đứng chân cho các cơ quan khu, liên hộ. Hai trung đội vũ trang của khu thường xuyên cơ động bảo vệ căn cứ Hố Bần, làm nhiệm vụ chống càn, phục kích tập kích diệt địch trong vùng, lập được nhiều thành tích trong các trận Rạch Năng, bót Bình Đông, Cây Dương, Nhà thương Phú Lâm…

Phía Đông Bắc cách Sài Gòn 9km, ở Thủ Đức có căn cứ Long Phước Thôn(1) và ở Dĩ An có căn cứ Tân Đông Hiệp, Bình An, nơi đứng chân của nhiều đơn vị thuộc lực lượng vũ trang Thành. Căn cứ Long Phước thôn nằm phía hữu ngạn sông Đồng Nai, phía Tây có sông Tắc chạy vòng qua ấp Phước Khánh đến Long Đại, kéo dài từ Tam Đa, Phú Hữu, Long Trường, Tân Lập đến Tăng Nhơn Phú vòng lên phía Bắc nối liền với Tân Đông Hiệp, Đông Hòa, Dĩ An. Long Phước Thôn còn là nơi đứng chân của một số cơ quan cấp Thành(2), vừa là hậu cứ quan trọng của lực lượng vũ trang biệt động tấn công vào nội thành từ cửa ngõ phía Đông thành phố.

Căn cứ khu 5 Hóc Môn gồm một vùng đất thuộc 5 xã giải phóng(3), chạy cập theo sông Sài Gòn bên hữu ngạn, kéo dài từ Bùng Binh Bến Súc xuống đến Bến Cỏ. Phía Tây Bắc giáp với xã Lộc Hưng, Đôn Thuận, nối liền với căn cứ Trảng Cò, Bời Lời (Trảng Bàng, Tây Ninh) kéo dài lên phía Bắc nối với chiến khu Dương Minh Châu. Phía Đông tiếp giáp căn cứ liên xã An Thành, Phú An, An Điền, Thanh Tuyền, Long Nguyên, Kiến An (Bến Cát, Thủ Dầu Một). Phía Tây là các xã An Tịnh, Phước Hiệp. Phía Tây Nam kéo dài đến quốc lộ 1 đoạn từ Củ Chi đi Trảng Bàng. Địa hình khu 5 Hóc Môn khá phức tạp. Vùng ven dọc sông Sài Gòn là bãi sình lầy lội. Dần sang phía Tây đất cao hơn, là sở cao su xen kẽ rừng chồi như rừng Dòng, rừng Chà Dơ (An Nhơn Tây), rừng Trích (Nhuận Đức), rừng Bàu Đưng, rừng Cây Sộp (Phú Mĩ Hưng)… xóm làng chỉ tập trung theo bìa lộ. Phía Trung Lập đất thấp, ruộng lúa trống trải xen kẽ xóm nhà và vườn tre trúc.

Giữ một vị trí cơ động nối liền với các căn cứ địa quan trọng khác trên chiến trường miền Đông, nằm ở cửa ngõ phía Tây Bắc Sài Gòn, căn cứ khu 5 Hóc Môn với địa danh Hố Bò nổi tiếng trở thành một địa bàn luôn uy hiếp địch. Giặc Pháp đưa quân đóng bót, bao vây xung quanh, ở Bến Cỏ, Bến Mương, Củ Chi, Sở Ba Lăng, Bùng Binh Cầu Ván, Trảng Bàng, Phước Hiệp, Suối Sâu; bên kia sông Sài Gòn là các bót Rạch Bắp, Rạch Kiến, Bến Súc… Từ đây chúng liên tục xuất phát càn quét vào căn cứ của ta.

Lúc đầu mới là căn cứ của chi đội 12, từ nửa cuối năm 1947 trở đi, khi chiến khu An Phú Đông bị địch phong tỏa tấn công ráo riết, khu 5 Hóc Môn trở thanh căn cứ các cơ quan của lãnh đạo tỉnh Gia Định Ninh. Các cơ quan tỉnh ủy, ủy ban kháng chiến, mặt trận, công an, bộ đội lần lượt rút về đây đứng chân hoạt động. Để tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị bộ đội bám trụ, cán bộ chiến sĩ và nhân dân ở đây đã tích cực xây dựng các loại ấp xã chiến đấu, đặc biệt sớm kết hợp ổ chiến đấu với địa đạo và giao thông hào.

Đoạn địa đạo có quy mô đầu tiên ở Củ Chi được đào ở liên xã Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An vào đầu năm 1947, đây là khu vực có nhiều hầm bí mật của anh em du kích. Hầm bí mật có nhiều kiểu, lúc đầu được bố trí thuận tiện và ngụy trang tinh vi để ẩn tránh. Sau đó, xuất phát từ nhu cầu phải bám trụ tại chỗ để bảo tồn lực lượng và tạo điều kiện đánh được địch, anh em du kích đã móc dính các hầm bí mật với nhau trong một khu vực nhỏ. Dần dần, cá chi nhánh địa đạo nối dài ra nhiều khu vực, cả những hướng bố trí chặn đánh địch. Từ đây, các chi nhánh được thiết bị thêm các ụ và hào chiến đấu từ xa kéo đến miệng hầm, xung quanh bố trí cạm bẫy, hầm chông, lựu đạn gài. Khi phải rút xuống hầm, bộ đội du kích có kế hoạch chặn đánh địch chui theo bằng cách rút cầu, bên dưới là hầm chông, cạm bẫy, xung quanh có tên nỏ từ các ống tre bay ra, gươm, lựu đạn rút chốt, cây từ trên đập xuống. Các khe ngách gần miệng hầm được móc “hàm ếch” ẩn được từng người, tránh đạn bắn thẳng của địch, đồng thời phục kích bất ngờ, dùng dao, súng diệt địch khi chúng bước vào. Trong một đoạn địa đạo dài vài trăm mét, một tiểu đội du kích có thể thoái mái chiến đấu liên tục nhiều ngày chống lực lượng địch đông hơn gấp bội.

Giặc Pháp tìm mọi cách để hủy diệt. Chúng dùng mọi cách dồn đuổi nhân dân ta ra các ấp xã chiến đấu, nhưng căn cứ khu 5 Hóc Môn vẫn đứng vững, trở thành “bất khả xâm phạm” trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Kinh nghiệm xây dựng ấp chiến đấu kết hợp hầm bí mật và địa đạo được phổ biến ra nhiều nơi trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Hệ thống địa đạo ở khu 5 Hóc Môn đã đặt bước khởi đầu quan trọng làm nên “đất thép Củ Chi” nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

Ở sát phía Tây ven thành phố, cũng sớm có một số đoạn địa đạo ở xã Phú Thọ Hòa. Giữa năm 1947, chi bộ Phú Thọ Hòa chỉ đạo chọn ấp Lộc Hòa, nơi có khu đất cao, cây cối rậm rạp và nhân dân có truyền thống đấu tranh cách mạng cao, làm địa điểm xây dựng địa đạo. 16 người được chọn làm nòng cốt đào địa đạo, trong đó có các cán bộ Lê Thanh, Nguyễn Văn Thược, Trần Văn Bốn, Nguyễn Văn Lự… tự nguyện đứng tên trong dòng họ mới - họ Cù. Họ Củ mang ý nghĩa như con Cù Long đào hang dưới đất, để bảo toàn lực lượng và đánh địch. Phương pháp làm la bàn địa đạo từng khúc giống như đào hầm từng toa xe lửa đứt đoạn. Từ hai điểm, hai tổ (mỗi tổ 2 người) đào dần, gặp nhau ở điểm giữa. Đất đào lên được mang đổ xuống ruộng, thấp, vun thành vồng khoai, vồng sắn hoặc đổ lên bờ hào giao thông đào công khai hoặc rải đều trên mặt đất. Một đường địa đạo ở Phú Thọ Hòa có chiều dai gàn 600 mét, từ Lộc Hòa nối đến ấp Phú Thạnh và Bình Đông, trở thành nơi ém quân hoặc đứng chân của nhiều cán bộ quân dân chính Đảng hoạt động nội thành.

Nằm giữa hành lang ven sông Sài Gòn, từ căn cứ An Phú Đông lên căn cứ khu 5 Hố Bò, còn có các lõm căn cứ chuyển tiếp thuộc các liên xã: Tân Mĩ - Bình Lí, Mĩ Bình - An Sơn - Hòa Phú - An Phú xã (khu 3 Hóc Môn) và lõm dọc đường số 1, liên xã Tân Phú Trung - Phước Vĩnh An - Tân Thông. Vùng này đã có thời gian là căn cứ chỉ đạo của chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn Phạm Ngọc Thạch cho đến năm 1950.

Trong nội thành, lực lượng công an xung phong, các đại đội du kích cùng tổ chức đào hàm bí mật để ém giấu quân. Trong điều kiện hết sức ngặt nghèo, các đơn vị vũ trang nội thành đã đào được nhiều hầm bí mật trong các nhà của gia đình cơ sở, nhiều hầm hàm ếch dựa vào các bụi tre ở ven đô. Đến mùa thu năm 1947, các căn cứ địa xung quanh thành phố được củng cố, xây dựng thành một hệ thống đan nối, liên hoàn hỗ trợ nhau, trở thành nơi đứng chân luân lưu khá ổn định của các cơ quan đầu não, các tổ chức kháng chiến và lực lượng vũ trang. Từ nơi đây, lực lượng vũ trang nội, ngoại thành không ngừng được củng cố, xây dựng trụ bám và xuất phát đánh địch liên tục trên khắp chiến trường ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.


(1) Mật danh khu B.
(2) Thành ủy đã đóng ở đây năm 1948-1949.
(3) Phú Mĩ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Trung Lập, Phú Hòa Đông, trong kháng chiến chống Mĩ là vùng phía Bắc Củ Chi, căn cứ của Quân khu Sài Gòn - Gia Định.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2012, 06:52:37 pm »

Ngày 8 tháng 6 năm 1947, quân ta đánh một trận chống càn lớn của địch ở Gia Bẹ - Xóm Mới (xã Trung Lập, khu 5 Hóc Môn). Từ đêm 7 tháng 6 năm 1947, quân Pháp huy động lực lượng từ Sài Gòn lên, Trảng Bàng xuống, gồm 500 tên tập kết xung quanh Suốt Cụt, Củ Chi và dọc đường số 1. Suốt đêm, xe nhà binh chạy rầm rập. Lực lượng của ta gồm liên quân B lưu động (đóng tại Gia Bẹ - Xóm Mới) và hai phân đội thuộc chi đội 6 và chi đội 12 (đống tại Bàu Chứa) nhận được tin báo của trinh sát và các vọng gác của dân quân lập tức tổ chức đội hình chiến đấu. Lực lượng liên quân B chia làm 4 cánh A, B, C, D để bố trí thành 4 trận địa chặn đánh địch. 4 giờ sáng, các bộ phận từ các nơi đóng quân triển khai ra vị trí chiến đấu. 7 giờ sáng, súng cối, pháo của Pháp liên tục từ Bến Cỏ bắn vào Xóm Mới, dọn đường cho các cánh quân từ Củ Chi, Suối Cụt, Trung Lập chia ra làm hai mũi tiến vào Gia Bẹ. Mũi thứ nhất hơn 100 lính Pháp theo ngã Bàu Điều vào tới bìa xóm, từ đây chúng cập theo đường đất số 2 dẫn tới trận địa A của ta bố trí ở hướng chính diện chặn quân địch từ Trung Lập, Củ Chi vào. Loạt súng đầu tiên của quân ta hạ 10 lính Pháp, đẩy chúng lùi lại bìa xóm. Sau nhiều lần tổ chức tấn công bị bẻ gãy, quân Pháp để lại một bộ phận nổ súng cầm chừng, còn lại luồn vòng qua phía bên phải hợp với mũi thứ hai. Mũi thứ hai cũng khoảng 100 tên, có sự tăng cường của nhóm thứ nhất vòng qua xóm Gia Bẹ bọc hông lực lượng của ta đang chiến đấu ở trận địa A. Mũi bọc sườn vừa men theo ngọn suối Ba Xa đổ xuống, bất ngờ gặp phải trận địa sẵn sàng của quân ta. Hai khẩu đại liên cùng nhiều loại súng trường, tiểu liên nã đạn xối xả vào quân địch, diệt hàng loạt tên Pháp. Dù vậy, với lực lượng lớn và hỏa lực mạnh, quân Pháp tản ra thành hàng ngang dùng súng quét mạnh vào bên hông lực lượng ta ở trận địa B. Trước áp lực của địch, ta để lại một bộ phận lực lượng ở trận địa A, còn lại chuyển sang trận địa B. Ở trận địa C (cùng với trận địa D bố trí chặn đánh địch ở mặt hậu), một bộ phận lực lượng theo bờ suối vận động lên hợp với lực lượng ở trận địa B hình thành một phòng tuyến hình thước thợ. Bị phản kích bất ngờ, đội hình quân Pháp rối loạn. Quân ta vượt suối xung phong ào ạt. Quân Pháp bỏ chạy về phía đồn Suối Cụt, bỏ lại cả vô tuyến điện, nhiều súng trường và đạn dược. Ở trận địa A, B, quân địch đã tạm lui, nhưng ở phía sau, lực lượng phòng thủ ở trận địa D đã đụng địch và hai bên chiến đấu quyết liệt. Để tránh bị địch phản kích tấn công cả 4 mặt. chỉ huy trưởng trận đánh ra lệnh điều chỉnh trận địa, dồn toàn bộ lực lượng về hướng Đông tạo thành một chiến tuyến kéo dài. Lực lượng ở trận địa A và C tạm ở vị trí cũ yểm trợ cho lực lượng trận địa B di chuyển trước. Khi lực lượng vận động được nửa đường liền gặp đội hình phục kích của địch đã chờ sẵn dọc bờ mương xóm Ông Văn, Ông Mĩ, nhằm chặn đường rút lui của ta về hướng Đông. Lực lượng B lợi dụng bờ ruộng nằm chịu cho quân Pháp bắn xối đạn qua đầu. Trong lúc đó lực lượng A vận động lén bọc qua mé trái đội hình quân Pháp và lực lượng C vòng qua phía tay mặt bắn xuuyên hông chúng Đội hình phục kích của địch bị bao vây cả ba phía, hoảng sợ, chúng tìm cách tháo lui. Bất ngờ, một cánh quân khác của ta gồm lực lượng chi đội 6 và chi đội 12 từ Bàu Chứa tiến lên đánh vào sau lưng bọn chúng. Bị tấn công cả 4 mặt, đội hình quân Pháp nhanh chóng tan rã, quân lính dẫm lên nhau bỏ chạy tán loạn. Trên cánh đồng phía Đông Xóm Mới - Gia Bẹ đã diễn ra trận truy đuổi như một cuộc săn bắn ngoạn mục. Hai giờ chiều, trận đánh kết thúc. Quân Pháp bỏ lại chiến trường 30 xác chết (không kể số mang đi), 1 súng máy, 10 súng trường, 1 vô tuyến điện, 6 thùng đạn và nhiều băng đạn súng máy. Bên ta, một chiến sĩ liên lạc hi sinh.

Lợi dụng cơ hội lúc này, 3 giờ chiều cùng ngày 8 tháng 6 năm 1947, khi lực lượng ta mới vừa từ Bàu Tòn về đến Gò Nổi, một lực lượng Cao Đài phản động khoảng 500 tên từ cuối xóm Ba Sòng kéo lên chặn đánh. Lực lượng của ta tuy mệt, chưa kịp nghỉ ngơi, nhưng đã bình tĩnh bố trí đội hình đánh địch. Quân lính Cao Đài vấp phải sự chống trả quyết liệt của ta. Cánh quân của ta sau một lúc giao chiến, lần lượt rút lui về đóng tại bìa xóm và rừng cao su chặn ngang lối đi An Nhơn Tây. Trời chiều, quân Cao Đài không dám lên theo. Cuộc giao chiến kết thúc.

Ngày 19 tháng 8, kỉ niệm ngày giành chính quyền ở Hà Nội, hai trung đội thuộc chi đội 6 (60 người), 2 trung liên FM, 10 tiểu liên, 40 súng trường) hóa trang đột nhập, tập kích tiêu diệt đồn Thới Hòa huyện Bến Cát (Thủ Dầu Một), sau đó rút nhanh về An Tây Thôn trú quân. Ngay trong đêm 19, quân địch (115 tên gồm 20 lính Pháp, 50 Miên gian, 45 lính ngụy, với 7 trung liên FM, 24 tiểu liên, 60 súng trường, 2 súng cối 50 li) do một viên quan hai Pháp chỉ huy, đuổi theo quân ta. Đến 4 giờ sáng gặp lực lượng canh phòng của ta chặn đánh, chúng rút xuống xóm nhà ấp An Tây dọc mé Đông sông Sài Gòn tạm nghỉ và cướp gà lợn của nhân dân để ăn uống. do ta chia làm 2 cánh triển khai đội hình phục kích chặn đường rút về của chúng. Sau khi lùng sục không tìm thấy đối phương, 10 giờ trưa, bọn Pháp trở về và lọt vào trận địa phục kích của ta. Loạt đạn súng máy đầu tiên của a diệt gọn toán quân đi đầu, trong đó có tên sĩ quan chỉ huy. Quân địch chưa kịp dàn quân đối phó thì từ 2 cánh, bộ đội ta vừa đánh vừa vận động khép chặt vòng vây. Toàn bộ lực lượng của địch bị dồn xuống ruộng lầy ngập tới bắp vế, làm “mục tiêu chết” cho bộ đội ta tiêu diệt và bắt sống. Sau một tiếng đồng hồ chiến đấu, ta diệt 90 tên địch, bắt sống 20 tên (chỉ có 5 tên chạy thoát), thu toàn bộ vũ khí và đồ dùng quân sự.

Tại Thủ Đức, phía Đông thành phố, ngày 22 tháng 9, một trung đội thuộc bộ đội chi đội 6 chặn đánh địch càn vào căn cứ Long Phước Thôn. Quân địch gồm trên 2.000 tên cả lính Pháp, ngụy và quân đội Cao Đài phản động (có 4 máy bay, 14 ca nô tuần tiễn và xà lan đồ bổ, 13 pháo lớn) tập trung bao vây càn quét một khu vực nhỏ ở Cù lao Long Phước Thôn nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta ở đây. Từ 5 giờ sáng đến 12 giờ trưa, chúng liên tục cho máy bay oanh tạc và pháo kích dữ dội vào căn cứ của ta. 12 giờ rưỡi, dưới sự yểm trợ của máy bay, bộ binh chia làm 3 mặt đổ bộ lên Cù lao. Tiến đến đâu chúng điên cuồng xả súng bắn phá, đốt cháy nhà cửa đến đó. Bộ đội ta chia làm 2 bộ phận, dựa vào địa hình cải tạo sẵn bố trí chặn đánh địch ở hai trận địa Nam và Bắc Cù lao. Tại trận địa hướng Bắc, quân địch khoảng gần 1.000 tên, đội hình hàng ngang, vượt đồng ruộng tiến vào, vừa bị ta chặn đánh chính diện, vừa bị một lực lượng bọc sườn đánh tạt ngang chia cắt đội hình, buộc phải chạy dạt về phía sau, ra ngoài đồng trống, nằm im không dám tiến quân đến 16 giờ 30 phút chiều. Tại trận địa phía Nam, quân địch khoảng 500 tên nhiều lần tổ chức tấn công đều bị bộ đội ta dựa vào công sự đánh trả không tiến lên được… Xác địch nằm ngổn ngang dọc ngoài bìa xóm. Trời sập tối, địch buộc phải rút quân. Đến 12 giờ đêm, chúng mới chuyển hết số bị thương và hàng chục xác chết ra khỏi trận địa. Ta thu 2 trung liên và nhiều quân dụng. Một thời gian khá dài sau trận càn ngày 22 tháng 9 năm 1947, giặc Pháp không dám bén mảng đến Long Phước Thôn. Ta phát huy chiến quả, lấy thêm bót Tân Lập. Du kích bao vây cô lập các đồn bót, phá hoại cầu đường khu vực xung quanh căn cứ. Không có tiếp tế, bọn địch hoảng sợ rút bỏ luôn một loạt bót Phú Hữu, Tam Đa, Ích Thạnh, Trường Lưu. Căn cứ Long Phước Thông mở rộng ra sáu xã(1). Danh từ Bưng Sáu xã ra đời.

Liên tục từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1947, chi đội 6, chi đội 12, phối hợp với các đơn vị bạn thường xuyên đánh địch càn quét ở các địa bàn xung quanh thành phố, đặc biệt ở căn cứ Hố Bò, Phú Mĩ Hưng, An Nhơn Tây, khu 5 Hóc Môn và căn cứ Long Phước Thôn, phía Đông Thủ Đức. Trong vòng tháng, các lực lượng vũ trang ngoại thành diệt hàng trăm tên địch trong đó có nhiều sĩ quan Pháp, thu nhiều súng trung liên, tiểu liên trang bị cho bộ đội tập trung và du kích địa phương. Thắng lợi của các trận chống càn kể trên phản ánh sự trưởng thành của bộ đội tập trung của ta về trình độ kĩ thuật của chiến sĩ, năng lực chỉ huy của cán bộ, về khả năng đánh vận động phục kích, tập kích và hợp đồng tác chiến các thứ quân trong từng khu vực.


(1) Gồm các xã: Long Trường, Long Phước Thôn, Phú Hữu, Tam Đa, Ích Thạnh, Trường Lưu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2012, 06:45:18 pm »

*
*   *

Kỉ niệm hai năm ngày Nam Bộ kháng chiến, ngày 23 tháng 9 năm 1947, Hồ Chủ tịch gửi thư cho đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ, miền Nam Trung Bộ. Người viết:

“Hôm nay, cuộc kháng chiến oanh liệt ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ vừa đúng hai năm.

Tôi trân trọng thay mặt Chính phủ và nhân dân cả nước nghiêng mình trước những linh hồn các chiến sĩ và các đồng bào đã hi sinh vì Tổ quốc.

Tôi gửi lời an ủi những chiến sĩ và đồng bào hoặc bị thương, hoặc bị địch giam cầm, hoặc đang bị khổ sở nơi địch chiếm đóng.

Tôi gửi lời thân ái khen ngợi toàn thể đồng bào và chiến sĩ đang hăng hái chiến đấu.

Đã hai năm này, chiến sĩ và đồng bào ta hi sinh nhiều tính mệnh tài sản, chịu nhiều cực khổ gian nan. Song lòng yêu nước ngày càng nồng nàn, chí dũng cảm ngày càng bền chặt, sức chiến đấu ngày càng gia tăng, chí quyết thắng ngày càng vững chắc. Các bạn là đội xung phong của dân tộc, con yêu của nước nhà.

Hỡi đồng bào và chiến sĩ yêu quý!

Lòng Hồ Chí Minh và Chính phủ cùng toàn thể quân đội và nhân dân các nơi luôn ở bên cạnh các bạn, theo dõi các bạn, yêu mến các bạn. Chúng ta hãy cầm tay mạnh dạn tiến lên!”(1)

Cuộc kháng chiến của quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã tròn hai năm! Thư của Bác Hồ đến với Sài Gòn (khi cuộc kháng chiến ở đây đang đà phát triển mạnh mẽ) đã khơi trong lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ, đồng bào niềm tự hào về một chặng đường chiến đấu và trách nhiệm lớn lao phía trước.

Mùa thu năm 1947, sau một thời gian ráo riết chuẩn bị, thực dân Pháp mở cuộc tiến công vào chiến khu Việt Bắc nhằm “bịt kín biên giới, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc… loại trừ mọi sự chi viện từ bên ngoài vào, truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ”(2) đánh một đòn quyết định kết thúc cuộc chiến tranh.

Ngày 1 tháng 10 năm 1947, trả lời bức điện của chi bộ Đảng xã hội Pháp ở Sài Gòn (yêu cầu cho biết về lập trường của Chính phủ Việt Nam), Hồ Chủ tịch viết: “… Bộ chỉ huy Pháp vừa mở cuộc đấu tấn công mùa đông rộng lớn và người ta tìm cách giấu không cho nhân dân Pháp biết rõ sự thật ấy. Chính phủ và nhân dân Việt Nam lúc nào cũng sẵn sàng chấm dứt cuộc xung đột và đặt lại nền hòa bình một khi mà nước Pháp trịnh trọng tuyến bố nhìn nhận nền độc lập và thống nhất của chúng tôi”.

Cuối tháng 10 năm 1947, Tư lệnh bộ Khu 7 phổ biến chỉ thị “phải phá cuộc tiến công mua đông của giặc Pháp”, của Thường vụ Trung ương Đảng xuống các đơn vị và nhấn mạnh các đơn vị, địa phương phải “đánh địch để phối hợp với Việt Bắc”. Riêng Sài Gòn phải “mở một đợt đấu tranh chính trị và quân sự rộng khắp, không cho địch yên tâm để chi viện cho chiến trường chính”(3).

Cùng thời gian này, trên chiến trường Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có thêm sự phát triển về tổ chức lực lượng vũ trang. Tại Nhà Bè và chiến khu Rừng Sác ở hướng Tây Nam và Đông Nam thành phố, theo chỉ thị của Tư lệnh bộ khu 7, chi đôi 13 cùng với một số phân đội bộ đội Hải ngoại mới về nước và tiểu đoàn Nam tiến Dương Văn Dương(4) hợp nhất xây dựng thành trung đoàn phiên hiệu 300 mang tên liệt sĩ Dương Văn Dương. Ban chỉ huy trung đoàn gồm Đặng Văn Thìn (tức Mười Thìn, trung đoàn trưởng, Nguyễn Chí Sinh (tức Mười Ngọt, trung đoàn phó), Nguyễn Việt Hồng (chính trị viên). Trung đoàn có hai tiểu đoàn mang phiên hiệu Lê Hồng Phong và Lí Chính Thắng.

Chấp hành chỉ thị của Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ và hướng dẫn của Phòng dân quân, tỉnh Gia Định lập Tỉnh đội bộ dân quân. Các quận, xã đều lần lượt lập quân đội bộ, xã đội bộ dân quân, hệ thống dân quân tự vệ Thành lập từ cấp thành xuống hộ và khu phố. Cán bộ phần lớn do cấp phó của bộ đội chuyển sang phụ trách. Tại tỉnh Gia Định, tỉnh Chợ Lớn, các quận đội bộ đều có du kích tập trung quân, lực lượng từ một tiểu đội đến hai trung đội, ở xã trung bình có trên một trung đội dân quân tự vệ. Sự kiện thành lập trung đoàn bộ đội tập trung và thống nhất các ban công tác Thành (thành 10 đại đội du kích) dưới sự lãnh đạo của Thành phố và hệ thống dân quân du kích được xây dựng đánh dấu bước phát triển quan trọng của các lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Nó không chỉ đơn thuần là sự biển đối về mặt tổ chức lực lượng mà phản ánh sự thay đổi về chất của các lực lượng vũ trang, phản ánh sự đòi hỏi trách nhiệm ngày càng cao của cuộc kháng chiến mà các lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định sau hai năm chiến đấu trưởng thành đã có điều kiện để đáp ứng, gánh vác. Từ đây, cũng như toàn chiến trường miền Đông Nam Bộ, ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã xuất hiện 3 “loại” tổ chức vũ trang, tiền đề cơ bản cho sự hình thành tổ chức ba thứ quân: bộ đội tập trung (chi đôi, trung đoàn), đội du kích tập trung quận huyện và dân quân tự vệ không thoát li sản xuất xã ấp.

Phối hợp với chiến dịch thu đông Việt Bắc, trong hơn hai tháng cuối năm 1947, khắp nội và ngoại thành Sài Gòn đã diễn ra một phong trào đấu tranh mạnh mẽ nhịp nhàng giữa các mặt trận quân sự, chính trị và kinh tế.

Ngày 26 tháng 10 năm 1947, một đại đội thuộc chi đội 6 đóng quân tại xóm Gò Nổi xã An Nhơn Tây được tin địch từ bót Trung Hòa có 17 tên Pháp, 22 Miên gian, 30 Việt gian kéo sang. Bộ đội ta liền triển khai địa hình phục kích tại bìa xóm. Chờ địch vượt qua quãng đồng trống tiến gần sát, ta đồng loạt nổ súng diệt tốp đi đầu. Một bộ phận khác lập tức rời khỏi công sự vận động bọc sườn đánh xuyên hông quân địch. Địch bỏ chạy. Ta diệt thêm tốp chạy sau, bắt sống một số tù binh trong đó có 1 sĩ quan Pháp, thu 1 trung liên và 12 súng các loại.

Ngày 28 tháng 10 năm 1947, lúc 4 giờ chiều, trinh sát của ta phát hiện một đại đội địch (gần 100 tên gồm cả lính Pháp, lính Miên, lính ngụy) từ đồn Tân Lập hành quân trên đường 33 (Thủ Đức) quan sát vùng cầu đường bị phá hoại khu vực xung quanh căn cứ Long Phước Thôn và đi khủng bố tàn sát đồng bào ở vùng phía Đông Thủ Đức. Đã có sẵn phương án chống càn, đại đội 15 chi đội 6 do Nguyễn Thế Truyện chỉ huy lập tức triển khai chiếm lĩnh trận địa phục kích. Phân đội 1 bố trí tại Gò Cát thành đội hình chữ L chặn đánh phía chính diện. Phân đội 2 chia làm hai cánh bố trí tại cầu thành đội hình vòng cung chặn đường tiếp vận ở bót Trường Lưu ra. Phân đội 3 sẵn sàng vận động đánh bọc hậu nhằm tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch, không cho chúng rút lui về Tân Lập. Ta vừa chiếm lĩnh xong trận địa thì quân địch đi tới. Phân đôi 1 đồng loạt nổ súng, làm bị thương nhiều tên. Đội hình địch dồn lên. Chúng lợi dụng các mô đất và hố đào phá trên đường để trụ lại chống tra. Hai mươi phút sau, một bộ phận của phân đội 1 vòng ra phía sau lưng địch bắn tới, quân địch bỏ chạy. Bộ phận phục kích hai bên đường bắn xối xả vào hai bên sườn. Phía chính diện, ta đuổi theo truy kích. Kết thúc trận đánh, ta diệt gần 20 tên địch, bắt sống một số tù binh, trong đó có tên quan ba Pháp, thu 1 trung liên, 2 tiểu liên và 14 súng trường.


(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1984, t.4, tr. 423, 424, 425.
(2) Hồi kí của Salan, trích theo Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (tháng 9 năm 1945 - tháng 7 năm 1954), NXB Sự Thật, Hà Nội, 1986, tr. 85.
(3) Hồ sơ LS - 103, Phòng Khoa học lịch sử quân sự Quân khu 7.
(4) Cuối năm 1945, Trung ương thành lập một tiểu đoàn Nam tiến, thành phần nòng cốt là số cán bộ chiến sĩ Bình Xuyên do Dương Văn Dương cử đi học tại trường Quân chinh Trung ương tại Quảng Ngãi. Kết thúc khóa học, tiểu đoàn được bổ sung vũ khí, biên chế lại mang tên liệt sĩ Dương Văn Dương do Nguyễn Chí Sinh và Nguyễn Việt Hồng chỉ huy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM