nguyentrongluan: thôi được, để thứ 7 này cháu mang cái "mẹt" ra Ngọc Hà vậy
, dạo này bận quá,
.
thuycb: sáng thứ 2 đã có người gọi tui bằng "anh" đâm lại thích,
. Có một hồi ức của một bác CCB tiểu đoàn 5 trung đoàn 12 (gốc là trung đoàn 18A) sư đoàn 3 Sao Vàng đây; các chi tiết rất hợp lý và khá rõ ràng, khao "anh" cái chi mô đây?
.
Tôi nhớ, hồi đó là tháng 10 năm 1966. Tôi đang học lớp 10 phổ thông (hệ 10/10), trường cấp 3 huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Năm cuối cấp, tràn ngập trong lòng mỗi học sinh những ước mơ, những dự định bay bổng nơi giảng đường đại học. Trong lớp có tôi (con liệt sĩ), Vũ Tuấn Đức (con bí thư Tỉnh ủy) và Sầm Văn Thanh là những học sinh giỏi của trường (riêng tôi đạt giải ba học sinh giỏi của tỉnh năm lớp 9). Hiệu trưởng nhà trường - thầy Hoàng Đoàn mấy lần trực tiếp động viên và ngầm báo trước cho chúng tôi học hết lớp 10 sẽ lựa chọn các học sinh giỏi đi học nước ngoài, tạo nguồn sau này về xây dựng Tổ quốc.
Giữa lúc đó, cả nước có lệnh tổng động viên tòng quân. Biết mình là "nguồn" của tỉnh, nên tôi, Đức và Thanh bàn nhau muốn nhập ngũ chỉ có cách lén nhà trường đi khám sức khoẻ tại hội đồng quân sự. Nếu đăng ký tuyển quân tại trường sẽ bị gạt. Ba chúng tôi đều đạt tiêu chuẩn sức khoẻ A1 và một tháng sau có giấy báo về địa phương trúng tuyển. Nhà trường vẫn chưa biết nên khi chúng tôi gặp thầy hiệu trưởng xin nghỉ học, thầy Đoàn gạn hỏi:
- Các em nghỉ để làm gì?
- Thưa thầy chúng em đã có giấy gọi nhập ngũ.
Thầy đập bàn quát rằng chúng tôi tự do, vô kỷ luật không cho nghỉ. Thầy đi xe đạp qua huyện đội can thiệp xin miễn tòng quân cho chúng tôi. Nhưng huyện đội không đồng ý vì chỉ tiêu tuyển quân đã đủ số lượng, sợ ảnh hưởng tới phong trào tòng quân của thanh niên trong huyện.
Đợt nhập ngũ đó, tỉnh Cao Bằng có 700 thanh niên là con em đồng bào các dân tộc ít người. Ngày lên đường thực sự là một ngày hội lớn. Băng rôn, cờ, khẩu hiệu rợp đường. Người đi tiễn đông gấp ba, bốn lần. Mấy chục chiếc ôtô chở khách của tỉnh, huyện được huy động đưa chúng tôi về ga Đồng Đăng (tỉnh Lạng Sơn), đi tàu về ga Kép rồi hành quân bộ lên vùng Yên Thế (tỉnh Bắc Giang).
Là quân số bổ sung cho chiến trường miền Nam nên chúng tôi vừa huấn luyện kỹ chiến thuật của tân binh vừa rèn luyện mang vác, hành quân vượt núi Trường Sơn. Không đủ gạch để tập mang vác, chúng tôi được lệnh nhào nặn những khối đất to bằng ba lô, nặng 30 đến 35 ki-lô-gam để đeo. Vùng quê Yên Thế có đồng lầy, núi cao, rừng già, suối sâu. Tiểu đoàn chúng tôi (tiểu đoàn 5 trung đoàn 2 Sư đoàn 250, Quân khu Việt Bắc) với 700 quân đã hành quân hàng tháng trời trong địa hình đó với đủ súng đạn, trang bị cho người lính đi Nam. Bài hát "Hành quân xa" có lẽ hát mòn cả nốt nhạc mà vẫn luôn hào hứng, sáng trong...
Tháng 2 năm 1967, tháng cuối cùng của đợt rèn luyện. Trời rét đậm. Tuyết rơi. Sương muối. Có lẽ trời đất đang muốn "sát hạch" tất cả chúng tôi. Từ những học sinh, thanh niên mới lớn, phải tiếp xúc với những thử thááh khắc nghiệt như vậy nhưng cả tiểu đoàn không một ai kêu ca, không một ai nản chí, bỏ ngũ.
Đầu tháng 3 năm 1967, tiểu đoàn làm lễ xuất quân. Đồng chí Tư lệnh Quân khu Việt Bắc và đồng chí Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đến dự. Tôi được tiểu đoàn cử đọc lời tuyên thệ. Thật xúc động, lần đầu tiên đứng trước gần một nghìn con người. Súng cối, súng 12,7mm xếp hàng thẳng tắp, bộ đội quân phục chỉnh tề, lại có các vị tướng lĩnh danh tiếng, tôi thấy vinh dự vô cùng. Được chuẩn bị bằng văn bản nên tôi đọc khá lưu loát. Đại thể: là những thanh niên của quê hương Việt Bắc, chúng tôi nguyện sống, chiến đấu xứng đáng với truyền thống cha anh, xứng đáng là những đứa con của vùng đất đã được Bác Hồ đặt tên là Thủ đô cách mạng.
Sau buổi lễ xuất quân, Tư lệnh Quân khu đến gặp cán bộ đại đội và tiểu đoàn gợi ý có thể cho đồng chí Vũ Tuấn Đức ở lại miền Bắc với lý do Đức là con một và là con của ông Vũ Ngọc Linh, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng. Đức được gọi lên để đả thông tư tưởng. Đức khẳng khái nói: đi bộ đội là để đánh giặc. Đánh giặc là phải tới chiến trường. Tôi không ở lại miền Bắc. Bố tôi là cán bộ tỉnh, ông cụ đã không có ý kiến gì, xin bác Tư lệnh cứ cho cháu đi. Đức còn nêu cả tên tôi là con liệt sĩ nhưng bà mẹ vẫn đồng ý cho đi chiến trường...
Cho tôi được mở ngoặc tại đây để suy ngẫm về những tư duy, những hành vi chạy vạy tìm "ô, dù” của một số thanh niên hôm nay để mong học xong ở lại Thủ đô, mong tìm việc an nhàn, lắm lợi lộc... thật đáng buồn thay!
Đúng 2 tháng ròng vượt Trường Sơn nắng khét, tiểu đoàn tôi đến Gia Lai, vượt sông Côn xuống tỉnh Bình Định, bổ sung trọn vẹn cho Sư đoàn 3 Sao Vàng (lúc đó gọi là Nông trường 3). Tôi, Đức và Thanh, mỗi người về một đơn vị. Tôi và Đức được bổ sung cho công trường 12 (tức trung đoàn 12 hiện nay). Tháng 10, năm 1967, trung đoàn 12 di chuyển lực lượng về phía đông nam tỉnh Bình Định chuẩn bị chiến dịch Xuân 1968. Bọn lính chư hầu đóng chốt dày đặc để ngăn chặn. Đại đội trinh sát, trong đó có Đức đã rà phá mìn mở một con đường xuyên qua tuyến bố phòng của địch ở xã Cát Hanh, huyện Phù Cát. Nhờ đó mà trung đoàn mới hành quân xuống vùng Đông kịp thời gian.
Tháng 12 năm 1967, đơn vị cuối cùng của trung đoàn (tiểu đoàn 4) vượt qua bãi mìn, bị lộ. Cả tiểu đoàn tập kết vào một trạm giao liên ở phía tây núi Bà (mọi người thường gọi là Trạm Mật vì ông trạm trưởng có tên là Mật). Địch phát hiện, dùng một trung đoàn bộ binh vây đánh suốt 10 ngày đêm. Đức là một trong những trinh sát dẫn đường cho tiểu đoàn 4 nên đã ở lại chiến đấu cùng bộ binh. Bọn lính đánh thuê dùng máy bay ném bom phá, bom khoan và thả từng thùng phi chất độc xuống trận địa. Bộ đội ta chỉ dựa vào các gộp đá, các hang đá để chống chọi.
Trạm Mật trơ trọi một suối đá lớn nằm giữa hai sườn núi đã bị địch chiếm nên sau 10 ngày đêm đánh địch, các chiến sĩ ta lần lượt bị thương, hy sinh, trong đó có Vũ Tuấn Đức, bạn thân, người đồng hương quý mến của tôi. Lúc đó tôi là chiến sĩ thông tin vận động (truyền đạt) của trung đoàn. Được lệnh đại đội quay lại Trạm Mật khi trận địa đã im tiếng súng để tìm xem còn ai sống sót thì dẫn về. Nhưng trận địa đã biến dạng, trắng xoá như một công trường khai thác đá Mùi thuốc bom, đạn quyện lẫn mùi xác người cháy, từng đợt bốc lên theo làn gió.
Sau trận này, tôi bị bệnh quáng gà. Hễ trời bắt đầu tối là mắt không nhìn thấy gì. Anh Phan Mạnh Huân, đại đội trưởng định cho tôi về phía sau, nhưng lúc này, chiến dịch Mậu Thân đã có những trận đánh bản lề, nghi binh ở Phù Cát, An Nhơn. Tôi tha thiết đề nghị được theo đơn vị ra trận. Ban đêm không phục vụ được thì phục vụ ban ngày. Tôi đang là đối tượng kết nạp Đảng nên đồng chí Võ, chính trị viên đại đội đồng ý cho tôi đi chiến dịch. Và tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968. Bệnh quáng gà của tôi tự nhiên cũng biến mất. Tháng 4 năm 1968 tôi được kết nạp vào Đảng. Khi đó tôi tròn 21 tuổi.
Tháng 6 năm 1968, trung đoàn bộ trung đoàn 12 đang chuẩn bị rời khỏi núi Bà để lên vùng núi phía tây tỉnh Bình Định thì bị địch phát hiện. Chúng đổ quân chốt chặn các điểm cao, các đường mòn và dùng từng mũi đột kích lùng sục mọi lùm cây, suối đá nghi ta trú quân. Mấy ngày liền, cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, các đại đội trực thuộc đã chiến đấu như những chiến sĩ bộ binh. Ai có vũ khí gì đánh địch bằng vũ khí đó. Mục tiêu là phá vòng vây địch, thoát ra ngoài.
Hồi đó, tôi nhớ, đã 3 đêm phá vây không thành, đại đội tôi phải tạt vào một sườn đồi đầy cây gai quýt lúp xúp và những gộp đá. Không thể đào công sự vì địch ở gần. Chỉ giữ bí mật và chiến đấu tới cùng nếu địch đánh vào. Đồng chí Võ, bí thư chi bộ kêu gọi các đảng viên, đoàn viên thanh niên sẵn sàng "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Lúc đó, trong lòng tôi không thấy sợ mà cảm thấy thiêng liêng, tự hào, sẵn sàng nhận nhiệm vụ. âu cũng là tâm trạng chung của lớp trẻ chúng tôi thời ấy. Ai cũng biết, từ đầu chiến dịch Mậu Thân đến nay đã có bao đồng chí hy sinh. Có tiểu đoàn, đại đội hy sinh gần hết. Cán bộ trung đoàn cũng hy sinh. Không một ai lùi bước.
Mờ sáng hôm ấy, đại đội cử một tổ chiến đấu lên chốt giữ ở mỏm cao để bảo vệ phía sau đội hình đơn vị Anh Võ Bình Lâm, trung đội trưởng, tôi và Tuyết được giao nhiệm vụ này. Vừa phân công xong vị trí chiến đấu; chúng tôi phát hiện ở một mỏm đồi khác cao hơn cách chúng tôi một "yên ngựa" toàn cỏ tranh đã bị đốt cháy có một cụm lính đánh thuê. Chúng đang hô hét tập thể dục. Phía chân đồi cũng lố nhố quân lính đang chuẩn bị đi càn. Như vậy cả phía trước và phía sau chúng tôi đều có địch.
Khoảng 5 giờ. Mặt trời chưa lên nhưng ánh sáng đã rực hồng phía biển. Bọn địch ở chân đồi, theo sườn núi đi thẳng lên hướng chúng tôi. Chúng đi như chỗ không người. Ba chúng tôi lấy gộp đá làm điểm tựa sẵn sàng chiến đấu. Lâm căn dặn: "Địch chỉ khoảng một tiểu đội và rất chủ quan. Phải để chúng đến thật gần, có lệnh tôi mới được nổ súng. Diệt thật gọn, giữ xác để tránh bom pháo của chúng”.
Đây là lần đầu tôi nhìn rõ tên địch đến từng sợi tóc, da mặt. Đứa nào cũng nhễ nhại mồ hôi, trạc tuổi hai mươi, hai mốt, có hơn gì mình. Tại sao chúng lại ác độc, man rợ đến thế. Những câu chuyện về cảnh đốt nhà, xé xác trẻ em quẳng vào lửa, chôn sống đồng bào ở các xã quanh hòn núi Bà này thật khác hẳn với những bộ mặt còn non choẹt kia.
Tôi chăm chú theo dõi 5 tên địch trước mặt chờ anh Lâm nổ súng. Gộp đá màu đen xám, tóc chúng tôi cũng đen và ở vị trí quá bất ngờ nên tới cách chúng tôi 5 mét, bọn địch vẫn ào ào đi tới. Bất thần Lâm đứng dậy hô lớn: "Diệt!". Một tiếng thét như đã bị dồn nén quá sức chịu đựng bật mạnh ra.
Tôi biết anh Lâm vào Nam từ năm 1964, đã chứng kiến nhiều cuộc tàn sát dã man của bọn lính đánh thuê đối với đồng bào 2 tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi. Mấy tháng trước, khi tiến vào núi Bà chuẩn bị chiến dịch, đại đội tôi đã mấy lần thu lượm hài cốt trong các hang đá sặc mùi chất độc hoá học. Có hang đá nguyên hình từng bộ xương của cả một gia đình từ lớn đến bé gần chục người. Cán bộ địa phương cho biết, đó là thảm cảnh của những năm 1965, 1966, bọn lính đánh thuê càn quét, dồn dân vào các hang đá rồi dùng hơi độc giết hại...
Tiếp theo tiếng súng của anh Lâm, tôi siết mạnh cò. Ba tên địch đổ nhào, đập mặt vào bên kia gộp đá. Những tên còn lại chưa kịp nhậnra điều gì đã bị chúng tôi xông ra tiêu diệt. Cả tiểu đội lính địch không thoát được tên nào. Với kinh nghiệm của mình, anh Lâm ra lệnh di chuyển vị trí chiến đấu. Anh bảo: "Địch bị diệt sạch, thế nào chúng cũng cho bắn pháo, ném bom vào trận địa để sát thương ta. Ta không thể trụ được khi không có công sự".
Đúng như dự đoán của anh Lâm, chỉ mấy phút sau khi chúng tôi di chuyển, 2 chiếc trực thăng vũ trang HU 1A bay tới quần đảo phóng rốc-két và bắn trọng liên nửa tiếng đồng hồ. Bắn phá xong, tốp trực thăng bay lên cao vòng lượn cảnh giới cho một chiếc trực thăng có hình chữ thập (+) sà xuống lưng chừng, cách mặt đồi khoảng 15 mét thả thang dây cho 4 tên lính cứu thương tụt xuống. Chúng dòng tiếp một dây cáp có móc sắt lần lượt móc vào thắt lưng từng xác chết kéo lên máy bay. Tôi đếm đúng 11 tên. Anh Lâm bảo: "Thế là chúng mình đã diệt gọn một tiểu đội quân địch".
Những tưởng phát hiện trận địa ta, bọn địch sẽ tập trung binh lực đánh vào, nhưng chúng chỉ dùng bom pháo bắn phá và sử dụng hoả tiễn vác vai M72 từ dưới chân đồi phóng lên đốt trụi cây cối. Sau đó, chờ trời tối chúng hình thành các tuyến vây từ chân núi đến bãi cát ven biển để phục đánh ta rút ra vào ban đêm. Nhưng chính đêm đó, với 2 mũi đột kích là những đảng viên và đoàn viên ưu tú, đại đội tôi đã phá vỡ các vòng vây của địch, đưa đơn vị thoát ra ngoài.
Vào chiến trường được một năm nhưng đây là trận đầu tôi được cầm súng đối mặt với địch và đánh địch như một người lính trận. Đánh địch trong tình trạng đã bị đói khát hàng tuần lễ. Đánh địch trong tình thế bị vây hãm, phải dùng một chọi ba, bốn. Bản thân tôi đã bị thương vào đầu, vào mặt vì đạn pháo địch. Nhiều đồng chí khác cũng trong tình trạng đó. Nhưng tất cả đều sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Có nhiệm vụ biết chắc sẽ dẫn đến đổ máu, hy sinh. Đối với chúng tôi lúc ấy, được giao nhiệm vụ là được cống hiến, được tin cậy và bởi thế, chỉ thấy vinh dự, tự hào.
Cần tìm: Trung tá Lê Duy Nghĩa, hiện ở Phường Chiềng Lề (thị xã Sơn La) .