@phamtuyet05: nói chung các thông tin chị có từ các bác CCB khớp với các tài liệu đã có, cụ thể như sau:
Ở Tây Nguyên tháng 9 năm 1965, Hậu cần Mặt trận tổ chức Binh trạm Nam, bệnh viện số 2 (103) và xây dựng hệ thống kho tàng trạm, trại ở phía tây tỉnh Gia Lai, tổ chức hệ thống kho tàng tiếp nhận, bảo quản hàng hóa của Đoàn 559 chuyển giao ở bờ nam sông Sê Su, mở cửa khẩu VQ5 để nhận hàng mua từ Campuchia về.
Ở chiến trường Phân khu Nam, từ khi đoàn tàu không số theo đường mòn Hồ Chí Minh trên biển vào Vũng Rô thuộc tỉnh Phú Yên bị lộ; lương thực, vũ khí, Thuốc men chi viện từ miền Bắc vào và từ Khu 5 xuống hầu như bị cắt đứt nên lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn. Được sự đồng ý của Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Phân khu Nam đã tổ chức một bộ phận vận tải phục vụ cho chiến trường phân khu.
Tháng 2 năm 1967, Trung đoàn 316 ra đời: lực lượng của 316 gồm các chiến sĩ thu dung của Đoàn 562, một số cán bộ khung điều từ Tổng đoàn vận tải vào làm nòng cốt, tiếp đó Đoàn 581 từ Bắc vào bổ sung cho Nông trường 5 - S9 được giữ lại bổ sung cho Trung đoàn 316. Địa điểm đóng quân của Đoàn nằm giữa Trạm 15 và Trạm 16 huyện 5, tỉnh Gia Lai.
Nhiệm vụ của Trung đoàn 316: Tiếp nhận hàng do B3 chi viện tại Binh trạm Nam vận chuyển giao cho hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Có lần B3 cấp hàng cho đơn vị tại Binh trạm Bắc (Kon Tum), Binh trạm Trung ở Trạm 9, đơn vị cũng phải ra nhận đưa về Trạm 15 và Trạm 16 rồi lại chuyển tiếp xuống chiến trường Nam Trung Bộ. Mỗi chuyến hàng đi mất từ 20 đến 25 ngày, có chuyến dài hơn vì phải cắt đường xuyên rừng tránh địch để vận chuyển hàng đến địa điểm.
Cũng vào thời điểm này, Phân khu Nam quyết định thành lập A100 đóng quân tại Trạm 15, Trạm 16 Khu 5 Gia Lai (gần Trung đoàn 316), làm nhiệm vụ đại diện cho Phân khu tiếp nhận bộ đội từ miền Bắc vào, thu dung bộ đội ốm đau từ chiến trường lên và các đơn vị khác đi S9 ốm đau trở lại; chỉ đạo Trung đoàn 316 lập cụm kho để tiếp nhận hàng do B3 chi viện.
Đến tháng 5 năm 1967, Đoàn 108, 109 thuộc Đoàn Trung Dũng (Trung đoàn 42) của Hải Phòng đi Nông trường 5; S9. Mỗi Đoàn có trên 600 cán bộ, chiến sĩ được lệnh dừng chân tại địa điểm tập kết (A100) để bổ sung cho các đơn vị của Phân khu Nam; do yêu cầu của nhiệm vụ, Đoàn đòi hỏi nên một bộ phận quan trọng của hai đoàn này được giữ lại A100 bổ sung cho Trung đoàn 316 vào tháng 7 năm 1967 và bổ sung vào đội hình của hai Tiểu đoàn Sông Lô và Sông Hồng của Trung đoàn 316 (Tiểu đoàn Sông Lô sau là Tiểu đoàn 252; Tiểu đoàn Sông Hồng sau là Tiểu đoàn 253). Tiếp đó đến tháng 9 năm 1968, một số cán bộ, chiến sĩ của Đoàn 319, Đoàn 590 đi B3 cũng được giữ lại bổ sung cho Trung đoàn.
Nguồn:
đâyChị có thể đọc thêm
cuối hồi ký của bác sỹ Lê Cao Đài - Viện 211 thời kỳ đó để biết thêm.
Theo tôi được biết thì sau 1975, Viện 211 nói riêng và các đơn vị quân y thuộc B3 nói chung có tổ chức các tổ công tác đi xác minh và đưa LS tại các nghĩa trang của viện về Việt Nam. Nếu chị có và xác định thông tin LS hy sinh ở Viện 2 thì có thể gọi thẳng cho Viện 211 nhờ giúp đỡ tra cứu hồ sơ: Bệnh Viện 211 - Địa chỉ: P.Thống Nhất, TP.Pleiku, T.Gia Lai - ĐT: 0593865249.
Tôi cho chị số điện thoại của một người (tin nhắn), chú này biết và đã làm việc với các bác sỹ - y tá viện 211 rồi đấy. Thông tin ấy
đâyP/s: vẫn phải đợi công văn trả lời của quân đoàn 3 nhé. Đi vào trong đó mà không có nó thì công cốc đấy.