Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:19:58 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Một thời trận mạc - Hồi ký của CCB Dương Thanh Biểu  (Đọc 41891 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #30 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:42:08 pm »


Một hôm đang khấp khiểng lê bước lên khoa chấn thương thì thật bất ngờ tôi được gặp Dung, Ngọ và Đức- những người bạn đồng hương, cùng học trường cấp III Nam Đàn và cùng nhập ngũ một ngày, cùng tiểu đoàn. Thì ra, trận B52 đêm ấy đã cày vào đúng đội hình của Tiểu đoàn 1 của chúng tôi, nhiều đồng chí đã ngã xuống bên bờ sông Sa Thầy khi chưa kịp nổ súng hiệp đồng chiến dịch. Dung và Đức cũng bị thương trong trận bom ác liệt ấy.
 
Sau những lời thăm hỏi rối rít “khoe” với nhau những vết thương trên mình. Đứa nào cũng cho rằng mình gặp may chứ không thì đã bị cắt quân số rồi. Đức còn trêu tôi “Bọn tao ngoẻo còn được chứ mày chết thì em Thoa chắc cạn nước mắt”. Tôi kể cho hai đứa nghe về những lá thư của Thoa bị B52 đánh bay. Hai đứa lặng im chia sẻ. Vào đây, đứa nào cũng thèm khát tin tức ở quê nhà, lo lắng cho gia đình và người thân. Dung cũng buồn nhiều như tôi vì lá thư nào của Thoa gửi lên tôi cũng cho Dung đọc. Dung công tác trên tiểu đoàn bộ, tôi lính đại đội, thỉnh thoảng có dịp gặp nhau, Dung đều hỏi chuyện Thoa, tôi chẳng giấu Dung điều gì.
 
Vết thương của tôi hồi phục khá nhanh. Qua anh em, tôi biết đơn vị mình đang vây lấn cứ điểm Plây Cần. Các bác sĩ khuyên tôi ở lại điều trị thêm thời gian nữa để vết thương khỏi hẳn, nhưng tôi nóng ruột lắm, đứng ngồi cũng không yên, tôi thấy mình có đủ sức lực nên cố gắng xin ra viện sớm. May thay, nguyện vọng của tôi được đồng chí trưởng khoa chấp nhận. Cái khó khăn của tôi lúc đó là đang tay trắng. Ba lô bị mất tăm. Khi vào viện tôi là một anh lính “trên răng dưới cát-tút” đúng nghĩa đen của nó. Tôi chỉ còn duy nhất một bộ trang phục bạc màu đang mặc trên người. Ngọ thấy thế đã không chần chừ lôi từ ba lô con cóc của mình ra đưa cho tôi một bộ quân phục Tô Châu xanh. Ngọ đưa áo quần cho tôi và tếu táo cười nói:
- Tao cho mượn chứ không phải cho hẳn đâu nhé. Nhớ ghi vào sổ để mai này giải phóng thì mang  trả cho tao. Lúc đó, nhớ trả công và mời tao đi dự cưới đấy.

Tôi mỉm cười nhận bộ quần áo từ tay anh và xem đó như là một lời mong, lời chúc phúc của anh dành cho tôi, một người lính lại sắp xung trận. Ngọ cầu mong  tôi được bình an cho đến ngày chiến tranh kết thúc và được hạnh phúc bên Thoa. Ngọ là lính cùng đại đội 4 với tôi. Ngọ bị thương nặng ở lưng và bụng, khi vào viện được anh em cứu thương, tha được ba lô theo cùng nên còn có áo quần cho tôi. Thấy tôi không có ba lô, Đức giở quân tư trang của mình gói vào chiếc túi nilon vẫn sử dụng làm phao bơi khi vượt sông suối và trao ba lô cho tôi. Tôi không chịu nhận thì chiến hữu của tôi đã nói như quát:
- Cứ lấy đi. Lúc này mày cần hơn tao. Vết thương của tao còn phải nằm lâu. Sau này ra viện tao sẽ có cách, anh em ở đây còn nhiều lắm. Ngoài chiến trường thương yêu và chia sẻ cho nhau như thế nào thì nơi đây cũng thế cả. Mày đừng ngại, của tao cũng là của mày mà. Thế mới gọi là lính chiến chứ. Chiến tranh có chia phần và lĩnh phần thắng lợi đâu, nhiệm vụ chung và mục đích chung cơ mà… Đức là người Nam Cát, cùng học và cùng nhập ngũ. Nghe Đức nói cứ ý như chính ủy. Tôi nhìn Đức ái ngại:
- Mình về đơn vị sẽ có bổ sung mà. Ai lại lấy của thương binh nhiều thế này…Đức hua tay và an ủi tôi:
- Mày đừng băn khoăn nữa, chuyện vặt ấy mà. Tất cả phải ưu tiên cho tiền tuyến. Đức vừa nói vừa đưa chiếc ba lô cho tôi.
 
Từ tay không, bỗng dưng tôi có nhiều thứ. Anh em thương binh trong lán, người cho tôi cái tăng, người cho cái võng, chiếc bát sắt, quần đùi và cả lương khô nữa. Nhìn chiếc ba lô căng tròn, tôi đứng ngây người ra như bị trời trồng, xúc động nghẹn ngào không nói lên được lời nào. Tôi cảm động quá. Mọi người gửi gắm niềm tin ở tôi rất nhiều. Tất cả mọi câu nói lúc này dường như không cần thiết nữa, nếu nói ra nó sẽ trở nên khách sáo xa lạ biết bao nhiêu. Tôi im lặng nhìn mọi người. Những khuôn mặt hốc hác, xanh xao, vàng vọt, những đôi môi thâm rịt vì mất máu và bị sốt rét. Họ phải uống nhiều thuốc mà. Những vòng băng cuốn trên người, trên mặt, trên bụng, chân tay… những chiếc nạng, chiếc gậy đặt kề bên. Hình ảnh những chiến binh trận mạc không lẫn vào đâu được. Chiến tranh không phải là trò đùa. Những người lính chúng tôi nói câu nói ấy bằng máu của mình. Ai cũng chia sẻ và gửi lời thăm hỏi đến những người bạn chiến đấu cùng với tôi. Tôi mang niềm tin và hy vọng của mọi người quay trở lại đơn vị. Tôi hồ hởi, phấn khởi gom những kỉ niệm nơi đây về kể cho đồng đội nghe. Ở tiểu đội tôi làm gì có cô y tá hay bác sĩ nào đâu nên mọi người muốn nghe chuyện lắm. Mọi người sẽ xúm lại mà hỏi tôi đủ mọi thứ. Tôi thấy trong lòng vui vui, cứ ngỡ là con chim én mang mùa xuân đến cho tiểu đội..

Tây Nguyên- đến lúc này thì tôi đã thấm thía một Tây Nguyên gian nan, hiểm nguy mà sâu nặng, ấm áp tình đồng đội, tình đồng bào. Tây Nguyên thiếu thốn nhiều thứ lắm. Các nguồn tiếp viện dường như bị tắc nghẽn, cạn kiệt dần nhưng ý chí của con người vẫn ngùn ngụt, đói ăn đói, nghèo mặc nghèo. Trên cao nguyên mênh mông này, thời ấy một hạt muối, một cọng rau, một viên thuốc kí-ninh cũng muôn phần quí giá lắm, nó quí giá như chính mạng sống của con người. Vì muốn có nó, chúng ta phải đổi bằng máu của các chiến sỹ, đồng bào. Trời Tây Nguyên một ngày bốn tiết, ngày nắng như nung, đêm đến thì rét cắt da, cắt thịt… chiếc chăn mỏng tang, anh em đôi khi còn ôm nhau ngủ cho ấm. Chỉ riêng việc chịu đựng khí hậu khắc nghiệt của Tây Nguyên đã vất vả lắm rồi. Có lẽ sức chịu đựng gian khổ và sự cố gắng khắc phục khó khăn đã thành quen trong ý thức mỗi người chiến sĩ. Đồng đội tôi tiếng là các đơn vị chủ lực nhưng phải dùng gùi thay ba lô, quần dài rách thì cắt dần ống để làm mảnh vá, áo dài tay bị biến thành áo cộc tay, vá đụp vá chằng nom rất cơ cực. Mũ thiếu, phải dùng khăn tay che nắng mùa khô, đi được vài cây đã thấy khăn trên đầu khô đanh lại và cũng chính nó, lính dùng để lau đầu, lau mặt mùa mưa. Rừng thiêng nước độc. Muỗi nhiều như trấu, vắt như muôn lớp lá đại ngàn, nếu không có võng nằm, không có màn che, không mảnh vải dù làm bọc thì đêm sẽ dài thăm thẳm và những cơn sốt rét sẽ ập đến bất cứ lúc nào. Vậy mà đồng đội đã nhường cho tôi những thứ quí giá của mình, từ tay không tôi lại có tất cả. Nói bao nhiêu, nói thế nào cho hết nỗi xúc động đang dâng trào trong tôi. Tôi cảm ơn đồng đội của mình và mong cho mọi người mau bình phục, chúng tôi có một lời hẹn ước với nhau sau ngày độc lập sẽ gặp nhau, nhất định là như vậy, còn bây giờ cuộc chiến gian nguy đang ở phía trước.
Viện 211 ngày ấy nhiều con gái quê ở Hà Tĩnh lắm. Những cô gái quê ở ven dòng sông Lam thơ mộng, cách làng tôi không xa mấy đã tình nguyện đi thanh niên xung phong từ thời tôi còn học cấp II. Chiến trường ngày càng mở rộng, họ đi dần vào mặt trận Tây Nguyên làm y tá, cứu thương, hộ lý, nuôi quân rồi gắn bó với cái quân y viện trong rừng xanh núi đỏ này. Chính những cô gái đó đã làm mềm đi cuộc chiến tranh khốc liệt này, họ là niềm tin, yêu thương, nguồn động viên của rất nhiều cán bộ chiến sỹ B3. Trong cơn đau do vết thương hoặc căn bệnh hành hạ, chúng tôi đã được các cô chăm sóc, nâng dìu, an ủi, động viên. Lời động viên của các cô như xua tan đi mọi đau đớn. Những lúc yếu lòng, bi quan chán nản, hoang mang, được nhìn các cô gái quân y, chúng tôi giật mình tỉnh ngộ và ý chí được vực dậy cùng với tình yêu cuộc sống  cũng ấm nóng lên. Khi vào Tây Nguyên tôi thường được các cựu binh nhắc đến nhiều các cô gái Nghệ Tĩnh duyên dáng chăm chỉ ở viện 211 này. Họ hay kể cho cánh tân binh chúng tôi nghe về các cô tên Hợi, cô Hiếu… da trắng tóc dài, những cô San, cô Xinh… hiền lành đằm thắm, nhẹ nhàng. Kể đi kể lại hấp dẫn đến nỗi có người lính “ao ước” bị thương hay bị ốm một lần để đi viện 211. Những gì tôi kể ra đây là thật, là hoàn toàn thật. Nơi đơn vị chiến đấu, toàn cánh đực rựa cồng kềnh với nhau, lại là lính tráng xốp xáp, tuyềnh toàng, bói đâu ra được bóng hồng xinh đẹp để ngắm nhìn, trò chuyện. Suốt năm, suốt tháng chỉ nghe rặt một giọng đàn ông ồm oàm, thử hỏi ai không muốn gặp các chị, các cô? Gặp chỉ để được nghe cái giọng chất thanh thanh của người khác giới thế là vui lắm rồi. Những cô gái cũng như linh hồn của trận đấu, rất dũng cảm, làm việc gì đảm việc đó nên lính chúng tôi có ai mà dễ dàng quên được.

Sáng mồng 3 tháng 5, tôi được ra viện. Tạm biệt quân y 211 để về đơn vị, tiễn tôi ra đến con suối phía trước bệnh viện là mấy đồng chí thương bệnh binh, các cô y tá, hộ lý quê ở Hà Tĩnh với giọng nói dễ thương. Nhưng nói gì thì nói, với lính trận chúng tôi thì ở được đơn vị vẫn vui hơn. Trên đường trở về đơn vị, tôi khấp khởi như chim sổ lồng. Đường rừng Tây Nguyên quanh co, uốn lượn. sương giăng sườn núi, những đám mây bay lững lờ…Cái háo hức được chiến đấu với đồng đội làm cho tôi thấy khỏe khoắn hơn. Tôi vừa đi vừa chạy như đứa trẻ con xa nhà nay mới được về với mẹ. Khi bước lên dốc, ngực vẫn thấy đau, chân vẫn nhức. Lá cây bên đường xào xạc theo bước đi. Tôi thấy mình rắn rỏi hơn và lâu rồi mới được đi một đoạn đường xa như thế. Cũng lâu lắm rồi, tôi  mới được đi giữa núi rừng với không khí trong veo, thênh thang như thế này, khác với trong bệnh viện chỉ rặt có một mùi của bệnh tật, thuốc men. Đi giữa con đường với những bóng cây, không khí dễ chịu hẳn. Tôi ngẩng đầu nhìn trời cao và muốn kêu to lên với đồng đội “Mình đã về đây với các đồng chí rồi”, và thầm nói với người yêu đang ở hậu phương xa tít tắp rằng: “Vết thương anh đã đỡ rồi, anh khỏe hơn rồi, em có nghe thấy anh nói không?. Em gắng đợi anh thêm một khoảng thời gian nữa nhé, chỉ một thời gian ngắn nữa thôi là anh sẽ được về với em. Bây giờ chắc em cũng đang mong anh và đếm từng ngày một, đúng không?. Anh sẽ về với em khi đất nước thống nhất, sẽ đưa em đi trên con đường lộng gió của miền quê mình mà không còn sợ bom đạn của kẻ thù, anh rất nhớ em, hãy đợi anh về em yêu nhé”. Đường về đơn vị phải vượt qua biết bao đèo cao, suối sâu. Đi một đoạn lại phải hỏi đường. Cũng may, dạo này đang là chiến dịch nên dọc đường đi có nhiều bộ đội. Việc hỏi thăm đường cũng không vất vả lắm.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #31 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:43:50 pm »


Đến gần tối, tôi mới về đến đơn vị. Được anh em cho biết tiểu đội đại liên đang tham gia chiến đấu tại cứ điểm Plây Cần. Đây là cứ điểm được Mỹ ngụy tập trung lực lượng, bố phòng chặt chẽ để ngăn cản đường tiến quân của quân giải phóng ở phía Bắc tỉnh Kon Tum. Anh em nghe tôi gọi, chạy túa ra, người ôm, người sờ nắn chân tay, hỏi han tíu tít. Hỏi sức khỏe của tôi, hỏi đến cả những đồng đội của tôi đang còn điều trị. Có người còn hỏi chuyện các cô ở viện 211 xinh đẹp. Tôi mừng rỡ được gặp lại mọi người, họ vây quanh tôi, tôi vừa thở vừa trả lời, lòng ấm áp như đứa em đi xa, nay được về với gia đình, gặp lại các anh em, có hai tháng xa nhau mà ngỡ như mấy năm trời. Suốt cả đêm ấy, tôi không sao ngủ được, những câu chuyện tôi kể cho mọi người nghe, bây giờ xa cả rồi, tôi thấy nhớ quá. Đêm nay, ở bệnh viện sẽ có bao nhiêu đồng chí nữa phải nhập viện, những người ở lại, bệnh tình có khỏe hơn không? Khẩu đội đại liên chính là gia đình thân yêu thứ hai nuôi dưỡng cuộc đời tôi. Chao ôi, cái gia đình nồng ấm và ngoan cường của tôi trải qua bao nhiêu trận đánh ác liệt giờ đây không còn nguyên vẹn nữa. Thêm một trận đánh là thêm thương vong trong lòng. Sau mỗi trận đọ sức với kẻ thù người còn, người mất, điều ấy không thể tránh khỏi. Chúng tôi những người còn đây không thể nói trước được tính mạng của mình nhưng không có ai nhụt chí và lùi bước. Tiểu đội tôi vẫn còn đây mà anh Vương Tử Hoàng không còn nữa. Nhìn đi nhìn lại chỉ có tôi là cựu binh. Những người cũ không còn ai. Bùi ngùi trước mất mát đau thương này. Con tim tôi lai nhói đau và đôi mắt lại rưng rưng khi nghĩ đến đồng đội mình đã hy sinh. Trước mắt tôi lại hiện lên rõ mồn một hình ảnh của anh Hoàng, cậu Lê, Ngọ, Thanh...Trong đó Thanh mất khi tuổi đời chưa đến hai mươi. Còn Lệ và anh Quyền thì bị thương, người mất tay, người mất chân, chắc chắn không thể tiếp tục chiến đấu được nữa. Ngọ bị thương cũng chưa thấy về. Các anh bị thương nặng trở về quê hương cũng không còn làm được gì.Tôi bùi ngùi nhớ những đồng đội yêu dấu của mình.
 
Cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn. Đây là điều mà mỗi chiến sĩ tiểu đội đại liên luôn xác phải định là nhiệm vụ thường xuyên và ưu tiên đặc biệt. Tiểu đội tôi được bổ sung thêm một số chiến sĩ mới  như tiếp thêm sức mạnh. Tôi được đơn vị cho biết: hiện nay địch đã đổ bộ tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 xuống phía nam Plây Cần, trận địa đại liên chỉ cách địch khoảng ba trăm mét. Điều đó chứng tỏ rằng ta và địch đang ở trong thế trận cài răng lược, rất gần nhau. Bởi vậy, tất cả mọi trận đánh sắp tới đều nguy hiểm và cần phải cẩn trọng hơn. Tôi được Trung đội Trưởng Viên Đình Thực giao quản lý khẩu đại liên Cô- li- nốp. Khẩu đại liên rất mới và ngắm nghía lau chùi hồi lâu, cảm giác thật hạnh phúc. Khẩu đại liên đã gắn bó với chúng tôi qua nhiều chiến trường và tỏ ra là loại hỏa lực rất lợi hại của bộ binh nhất là đánh địch đổ bộ, đánh địch phản công, là người bạn chiến đấu sát cánh sống chết cùng người lính chúng tôi. Tôi đưa súng lên tập ngắm chuẩn vào đầu ruồi của nó. Thấy vậy đồng chí Viên Đình Thực mỉn cười vỗ vai tôi:
- Chắc nhớ nó lắm à. Tôi nhìn Trung đội trưởng gật đầu:
- Báo cáo Trung đội trưởng. Đúng. Nhớ nó lắm ạ. Tôi ngắm nghía khẩu đại liên mới, hỏi Trung đội trưởng:
- Đây là khẩu súng mới hả Thủ trưởng? Đồng chí Viên Đình Thực gật đầu và nét mặt chững lai, đượm buồn, mắt hơi rơm rớm kể cho tôi nghe đơn vị dính B52 vừa rồi. Anh nói, từ ngoài B5 vào đây, đơn vị cũng đã hứng chịu nhiều đợt B52 nhưng đây là lần đầu tiên tiểu đoàn bị bom B52 rải trùm lên đơn vị. B52 rải bom xuống đội hình lúc 21h30 đêm 7.3.1969. Cũng rất may đêm đó anh em đã làm công sự nên cũng đỡ thương vong. Tuy nhiên, không chỉ các chiến sĩ thương vong nhiều mà vũ khí, khí tài cũng bị phá hủy nhiếu lắm. Khẩu đại liên cũng nằm trong số phận đó. Tôi cũng rất buồn khi nghe anh kể lại nhưng cũng phải hỏi thêm:
- Đến bây giờ em cũng chưa hiểu tối hôm đó ai lôi đi xuống hố bom và sau đó ai đưa đi bệnh viện? Anh Thực nhìn vào tôi, nét mặt tươi vui, anh vỗ vai tôi mỉn cười:
- Tớ lôi cậu đi chứ còn ai. Cả khẩu đại liên bị thương vong hết vì hai quả bom. Mình nằm với cậu và Lệ. Loạt bom đầu Lệ hy sinh, cậu bị thương. Mình tỉnh dậy thấy cậu còn sống mà gọi không thưa. Lúc đó cậu cứ “ngơ ngơ như bò đội nón”.- Anh Thực cười làm tôi cũng cười theo và nói tiếp:- Sau đó tớ thấy cạnh đó có hố bom, tớ đã lôi cậu xuống đó cùng mấy người. Cũng thật may, trong loạt bom thứ hai, có một quả nổ đúng vị trí chúng mình nằm. Xác Lệ tan tành. Khẩu đại liên cạnh đó chỉ còn đống sắt vụn. Nghe đến đây, tôi ôm choàng lấy anh Thực.
- Ôi. May quá anh ha. Không có anh thì em đã chết toi rồi. Thế còn chiếc ba lô của em? Anh Thực nhìn tôi vẻ vui sướng, lấy tay dí vào đầu tôi:
- Cái gáo của cậu cũng khá cứng. Chết sống có số đấy cậu ạ. Nói đến đây nét mặt anh biến sắc, buồn buồn:
- Còn chiếc ba lô mình đã cho kiểm tra kỹ nhưng không thể tìm được trong đống ngổn ngang ấy. Mình biết, cậu rất tiếc những lá thư của Thoa mà mấy lần mình đã được nghe đọc. Nhưng các cụ nói: của đi thay người mà. Nghe đến đây mọi chuyện mới vỡ ra. Đúng là chiến tranh thật nghiệt ngã. Nhưng chỉ có trong chiến tranh, những người đồng đội mới sống hết mình với nhau như anh Thực. Và cũng chỉ có đồng đội mới chia sẽ cho nhau cả sự sống của mình. Cho nên có người còn nói, tình cảm của các anh bộ đội là thứ tình cảm đồng đội, nó vừa lâu bền vừa chân thành và rất nhân bản.

Sáng ngày mồng 15 tháng 5 năm 1969, thêm một niềm vui đối với tôi. Tôi được chi bộ kết nạp vào Đảng. Đây là một cái mốc quan trọng, một kỉ niệm thiêng liêng của cuộc đời. Tôi đã trải qua một khoảng thời gian vất vả, thứ thách nhiều trong chiến đấu, lập được những thành tích, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên được chi bộ Đảng ủy ghi nhận. Được kết nạp Đảng, phải xét nhiều mặt lắm, từ đạo đức cho đến tư tưởng và những cống hiến…

Lễ kết nạp Đảng được tổ chức tại công sự chiến đấu, không hề có hoa tươi, cờ Tổ quốc, cờ Đảng. Trên đầu tôi là trời xanh bao la, trước mắt tôi là đồi núi chạy dài, nhấp nhô mà ở đó quân địch đang chuẩn bị hành quân lên chiếm trận địa. Xung quanh tôi là những gương mặt đồng đội thân yêu. Chỉ  như vậy thôi mà sao tôi thấy trang trọng, đầm ấm và thiêng liêng đến vậy. Vẫn hiện lên trong đầu tôi hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm, cờ đỏ sao vàng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Tôi đứng nghiêm, trong lòng hồi hộp lắng nghe đồng chí Viên Đình Thực, chi ủy viên, Trung đội trưởng đọc quyết định của Đảng ủy cấp trên chuẩn y kết nạp tôi vào Đảng. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ lời anh Thực nói “Sau gần một năm thử thách, đồng chí Biểu đã tham gia nhiều trận đánh và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chi bộ và đơn vị đánh giá cao tinh thần chiến đấu dũng cảm của đồng chí Biểu. Đồng chí Biểu xứng đáng là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Trong thời gian tới còn gặp những khó khăn và gian nguy hơn, nhất là trước mắt chúng ta quân địch đang chuẩn bị tấn công lên trận địa, đồng chí Biểu hãy cố gắng phấn đấu, không sợ hy sinh, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người Đảng viên của Đảng”. Đọc đến đây, Trung đội trưởng nhìn tôi với đôi mắt rạng rỡ:
- Một niềm vui đến với đồng chí Biểu và cũng là niềm vui của cả khẩu đội đại liên, tôi xin thông báo: Bộ Tư Lệnh mặt trân Tây Nguyên có Quyết định số 123/QDKT ngày 10.5.1969 về việc tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng Hạng 3 cho đồng chí Dương Thanh Biểu, vì đã lập thành tích xuất sắc trong trận đánh Chư Đô.

Sau lời công bố quyết định của cấp trên, đến lượt tôi phát biểu. Ôi! hồi hộp quá. Đã chuẩn bị rồi mà tôi vẫn hồi hộp. Tôi đứng dậy nhìn Trung đội trưởng Viên Đình Thực và mọi người. Con tim tôi đập rộn ràng, vừa vui sướng, vừa lo lắng không hiểu phát biểu của mình sắp tới có đúng hay không. Sau tiếng pháo nổ dưới chân đồi, tôi nói như đã chuẩn bị trước:
- Kính thưa đồng chí Thủ trưởng Viên Đình Thực, thưa tất cả các đồng chí. Hôm nay tôi thật xúc động được trở thành người đảng viện, được phấn đấu dưới ngọn cờ quang vinh của đảng. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ, dìu dắt của các đồng chí đi trước, xin cảm ơn các đồng chí đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt nhiệm vu.

Nói đến đây tự nhiên cổ họng tôi bị khản. Cũng thật may lúc đó có một loạt pháo bắn gần trận địa nên không ai chú ý tới dọng khàn khàn như vịt đực của tôi. Tôi e hèm, hắng dọng rồi phát biểu tiếp:
- Đứng trước chi bộ, tôi xin thề: Nguyện suốt đời chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Tuyệt đối tin tưởng và trung thành với lý tưởng của đảng, không ngại gian khổ hy sinh, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Xin cảm ơn chi bộ và các đồng chí.
 
Tôi thấy Thủ trưởng Thực gật đầu. Sau đó cả tiểu đội vỗ tay đôm đốp. Mọi người đang vỗ tay thì Trung đội trưởng khoát tay:
- Chia vui với đồng chí Biểu thế này là tốt rồi. Phải giữ bí mật. Bọn địch bắn pháo thế này là đang chuẩn bị dọn đường cho bộ binh đánh chiếm trận địa đại liên đấy. Bây giờ các đồng chí về vị trí chuẩn bị chiến đấu.
 
Tôi thấy cay cay sống mũi nhưng con tim đập rộn ràng, thổn thức. Thế hệ thanh niên chúng tôi ngày ấy mơ ước lớn nhất và cũng là niềm vinh dự cao nhất là được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tôi nhớ, suốt mấy năm làm bí thư chi đoàn các lớp ở cấp 3 Nam Đàn, tôi đã cố gắng hết sức và rất hy vọng được đứng vào hàng ngũ Đảng. Ngày nhập ngũ, thầy giáo chủ nhiệm có nói, chi bộ nhà trường cũng đã xem xét việc bồi dưỡng để kết nạp tôi vào Đảng trong thời gian tới. Nhưng thời gian nhập ngũ quá nhanh nên chưa thực hiện được. Do đó, tôi vẫn coi giây phút đẹp nhất trong cuộc đời là khi được giơ cánh tay phải lên ngang đầu tuyên thệ “ nguyện suốt đời phấn đấu, hi sinh vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản”. Lý tưởng sống của chúng tôi rõ ràng và trong sáng lắm. Tôi cũng biết, vào Đảng là phải tiền phong, gương mẫu, là phải chịu đựng nhiều gian khổ nhưng ai cũng thiết tha phấn đấu. Vì Đảng, chúng tôi sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của mình. Tôi đã từng chứng kiến sự anh dũng hy sinh, xả thân trong chiến đấu của nhiều đồng chí Đảng viên mà tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng là một ví dụ rất sinh động. Tôi cũng không ngờ, lời thề trước khi vào đảng đã cùng tôi đi hết cuộc đời.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #32 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:45:39 pm »


Trưa ngày hôm đó, khẩu đội của chúng tôi bước vào một trận lửa thử mới. Máy bay trực thăng của địch đổ bộ xuống quả đồi bên cạnh và bộ binh của chúng tràn lên hòng chiếm trận địa của chúng tôi. Bọn địch dùng lực lượng này để giải tỏa cho Plây Cần đang bị vây lấn. Chúng tôi đã dùng đại liên, súng AK và lựu đạn chiến đấu, đánh trả quyết liệt. Nhiều đợt tiến quân của địch hòng chiếm giũ trận địa đại liên đều bị đánh bật. Lần này được cử làm xạ thủ số 1 của khẩu đại liên nên tôi bắn cũng hơi nhiều. Có lần, Trung đội trưởng Viên Đình Thực nhắc nhở là phải tiết kiệm đạn. Đến chiều, máy bay địch lại ném bom bắn phá trận địa, sau đó pháo từ Tân Cảnh, Đăc Tô bắn cấp tập vào quả đồi của trận địa. Công sự trống trãi, cửa hầm xê dịch…Chúng tôi vừa củng cố công sự vừa ngụy trang và chuẩn bị tiếp tục chiến đấu. Sau đợt bom, pháo, bọn lính ngụy từng đàn lăm lăm súng AR15 tiến lên trận địa. Trung đội trưởng Thực vừa dứt lời hạ lệnh, khẩu đại liên rung lên, tiếng nổ xé toạc không khí, làm cho địch ngã xuống hàng loạt. Cuối cùng, chúng bỏ lại nhiều xác chết nhưng không thể chiếm trận địa đại liên được.
 
Qua một ngày quần nhau chí tử, trận địa đại liên của chúng tôi vẫn được giữ vững. Anh em ai nấy đều mệt nhoài người, mặt mày nhem nhuốc khói đạn. Đêm dần buông, địch đã rút quân sang quẩ đồi bên cạnh, anh em tranh thủ ăn uống và sửa sang lại trận địa, súng ống. Gần khuya, tôi được phân công cảnh giới. Sương núi rơi xuống lành lạnh, tiếng chim đi ăn đêm kêu khao khao, lẻ loi ngang trời, nghe mà chơi vơi, buồn tẻ quá. Một mình bồng súng AK đứng gác dưới sao trời, các giác quan căng ra để nhận biết những động tĩnh xung quanh. Sau khi được anh Hoàng Ngọc Loan thay gác, tôi trở về hầm, thao thức, bâng khuâng, có lẽ vì xúc động với niềm vui được đứng vào hàng ngũ đảng viên nên cứ trằn trọc không sao chợp mắt được. Trong đêm khuya, mặc cho những tiếng pháo của địch bắn cầm canh, tôi nôn nao nhớ đến người thân nơi hậu phương xa xôi. Ở đó, tôi thì thầm như khẽ nói với cha: “Cha ơi, thế là con đã làm theo đúng như lời cha dặn, con đã được kết nạp Đảng. Mơ ước này con đã từng thổ lộ với Cha từ những ngày con còn học cấp III, nay đã trở thành hiện thực rồi Cha ạ. Con thấy tự hào và vinh dự lắm. Và con cũng thấy trách nhiệm trước mắt còn nặng nề, lớn lao hơn, nhất là phía trước quả đồi kia, quân địch đang chuẩn bị đánh chiếm trận địa đại liên. Chỉ buồn là Cha không được sống trên cõi đời nữa để chia sẻ niềm vui lớn lao này của con, ngày con vào Đảng thì Cha đã không còn nữa, nhưng con sẽ cố gắng phấn đấu, không sợ gian khổ, hy sinh như lời thề của con trước chi bộ.

Tôi cũng thầm báo cho các chị, các em và với em Thoa nữa về sự kiện tôi đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tôi thì thào với Thoa “…Em ơi,  khi biết tin anh vào Đảng, chắc em cũng vui và vinh dự lắm phải không? Chắc em  nhớ ngày còn học  cấp III, có lần hai anh em mình ngồi cùng nhau ôn bài, anh đã nói với em rằng vào Đảng là nguyện vọng thiết tha nhất của đời anh. Bây giờ nguyện vọng đó đã trở thành hiện thực rồi, đó là nguyện vọng của anh và cũng là nguyện vọng của em nữa, đúng không? Giờ này chắc em đang ngủ ngon và biết đâu đang thao thức lo lắng cho anh thì phải, còn anh thì nhớ em vô cùng.  Biết tin anh được vào Đảng thế nào em cũng lại kể cho mẹ nghe và rồi mẹ em vui nhưng lại thêm lo lắng cho anh. Anh chỉ mong sao chiến tranh nhanh kết thúc để anh được trở về quê hương mình, xum họp với gia đình và được gần bên em. Em ơi. Bây giờ. Bây giờ anh chỉ ao ước một điều,  được về bên em, bên dòng sông Lam xanh biếc và nặng tình, nặng nghĩa với bao đời”. Bây giờ anh chỉ ao ước một điều,  được về bên em, bên dòng sông Lam xanh biếc và nặng tình, nặng nghĩa với bao đời”
 
Lòng tôi rạo rực, phấn chấn lạ thường. Thấy vui và chỉ muốn đem niềm vui ấy chia sẻ với những người thân ở quê nhà nhưng đường xá xa xôi, cách trở. Muốn báo tin vui ấy cho gia đình và cho em nhưng lúc này thì không thể, tôi phải tập trung vào trận chiến đấu. Bà con quê hương biết tin này, chắc cũng vui lắm. Tối đó, tôi thức trắng như đêm tôi chuẩn bị nhập ngũ. Cả đêm thức mà hôm sau tôi vẫn thấy khỏe khoắn, tỉnh táo vô cùng. Đảng đã tiếp thêm cho tôi sinh khí và sức lực để tiếp tục đối chọi với quân thù.
Từ đó cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1969 khẩu đội đại liên của chúng tôi chiến đấu liên tục nhiều ngày và đã bẻ gẫy nhiều cuộc phản kích của địch nống ra từ Plây Cần. Trận địa được giữ vững, địch liên tiếp bị bộ đội ta vây đánh. Đây cũng là những trận đánh mở màn của những tháng đầu mùa mưa Tây Nguyên. Mưa cao nguyên tầm tã, dầm dề. Trận địa lầy lội nhớp nháp, trơn tuột làm cho những trận đánh vận động hay đánh vây lấn thật vất vả. Những bộ quần áo lính chúng tôi mùa khô thì đẫm mồ hôi, mùa mưa thì đầy bùn đất, lại ướt nhe ướt nhét, mong một ngày nắng mà chẳng hết mưa.

Đến cuối tháng 6, trung đoàn 28 chúng tôi đã hình thành thế trận bao vây chia cắt Tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 của địch. Sau bốn mươi lăm ngày đêm chiến đấu ngoan cường, khẩu đội của chúng tôi đã góp phần xứng đáng vào chiến công chung của Trung đoàn 28. Lịch sử trung đoàn sau này ghi lại rằng: “Trung đoàn 28 đã đánh 95 trận (31 trận vận động và đánh giải tỏa, 10 trận tập kích, 1 trận đặc công, một trận đánh địch phản kích, 3 trận phục kích, 14 trận đánh máy bay, 33 trận pháo kích, diệt 1915 tên, bắt 13 tên tù binh, phá hủy 97 xe các loại, phá hủy và bắn rơi 52 máy bay… trung đoàn đã đánh quỵ, đánh thất bại 6 tiểu đoàn bộ binh và cơ giới địch”. Những thành tích ấy là niềm vui của anh em chúng tôi trong mỗi trận đấu. Chúng tôi có dịp nhìn lại thành quả và phấn đấu cao hơn trong những thế trận tiếp theo.
 
Vào thời gian này, Tây Nguyên xuất hiện những khó khăn mới, thiếu lương thực trầm trọng. Đói. Những chiến sĩ ở tuyến trước như chúng tôi tiêu chuẩn chỉ có bốn lạng gạo trong một ngày, còn ai ở tuyến sau thì chỉ có một lạng rưỡi. Sức trai trẻ, đang tuổi ăn tuổi ngủ, đang ngày đêm hành quân, đào hầm, đánh trả quân địch rồi khênh thương binh, tử sĩ mà chỉ có bốn lạng gạo thì chẳng thấm vào đâu. Điều này không nói thêm nhiều chắc ai cũng biết là chúng tôi phải chịu đói thế nào. Chiến đấu ngày càng gian nan, cuộc sống khổ cực vô cùng, cơn đói cứ luôn rình rập, đeo đuổi bộ đội. Chẳng có con đường nào khác, chúng tôi vừa động viên nhau chịu đựng, vừa tìm cách khắc phục, san sẻ cho nhau từng miếng cơm manh áo, sợ nhất là đồng đội của mình bị ốm, hạt cơm chấm muối nuốt không trôi. Chúng tôi cắt cử nhau đi lấy măng rừng, rau tàu bay, rau môn thục, mộc nhĩ để ăn thêm cho đỡ đói. Lính chúng tôi hồi đó chủ yếu ăn rau, suốt tuần suốt tháng chỉ co rau và rau. Trong khó khăn đó, lính chúng tôi cũng có nhiều cải tiến trong bữa ăn. Chúng tôi chế biến sắn ra đủ loại lương thực, củ sắn được nạo thành từng sợi như bún để hấp và độn lẫn cơm ăn, ngọn sắn đem xào hoặc nấu canh, đôi khi chúng tôi còn mài sắn ra thành bột để làm bánh.

Không chỉ có trong chiến đấu mà trong lúc xây dựng, cũng cố đơn vị, bộ đội Tây Nguyên cũng phải khắc phục thiếu cơm, thiếu gạo. Đặc điểm chiến trường Tây Nguyên là thế. Trong hoàn cảnh ấy, đòi hỏi mỗi đảng viên như chúng tôi phải có tính sự tiền phong, gương mẫu để ăn rau  rừng, nhường gạo cho các đồng chí bị thương, bị ốm, tuyệt đối không được kêu ca phàn nàn trước quần chúng.
Thời gian này tôi được bổ nhiệm chức vụ Tiểu đội phó. Đây là chức vụ thấp nhất trong bộ đội. Lính chúng tôi gọi là chức “cùng đinh”, vẫn phải gác, phải làm bất cứ nhiệm vụ gì của người lính.. Tôi vừa trực chiến đấu, vừa đi hái thêm rau rừng để độn vào bữa ăn cho đỡ lưng lẻo bụng. May thay, gần nơi chúng tôi trực chiến đấu có rau tàu bay, môn thục và cả măng rừng nữa. Rau tàu bay có mùi hăng hắc, môn thục nấu không khéo ăn vào còn bị ngứa họng, măng rừng xơ xáp ăn mãi cũng chán nhưng có nó vẫn dễ chịu hơn là để bụng đói cồn cào. Ngày đầu tiên đặt chân đến Tây Nguyên, chúng tôi cũng đã được ăn những ngọn măng rừng, bộ đội vẫn trêu nhau “ăn măng để quen với rừng”. Khổ nhất và thương nhất vẫn là bạn lính bị ốm, bị sốt rét. Đã suy dinh dưỡng lại bị cơn sốt hành hạ, thiếu cái ăn, thiếu thuốc men nên cơ thể bị sút nhanh lắm. Da vàng lại càng vàng. Mặt hốc hác, tái xanh như lá cây. Nhiều đồng chí sốt đến độ to gan và lách sa, mắt mờ, tai ù, anh em dành gạo nấu cháo cho những đồng chí ốm. Đói nên lúc nào cũng thèm cơm. Cứ nghĩ đến bát cơm gạo mới nóng hổi thơm phức ăn với tép đồng quê hay bát canh cua nấu canh mùng tơi mềm ruột, dằm thêm đôi quả cà pháo muối xổi giòn tan. Nghĩ đến đây chúng tôi chỉ biết nuốt nước bọt. Tôi cứ tưởng tượng đến ngày trở về quê, chắc ai cũng kêu mình xanh xao, và rồi được ăn những thứ ngon miệng và ngủ những giấc ngon lành. Không chỉ có trong chiến đấu mà trong lúc xây dựng, cũng cố đơn vị, nhất là khắc phục thiếu cơm, thiếu gạo thế này cũng đòi hỏi sự tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Người đảng viên như chúng tôi phải chịu đói trước để nhường gạo cho đồng chí ốm. Mình khỏe thì ăn sắn, rau rừng, không được kêu ca phàn nàn trước quần chúng.

Kết thúc chiến dịch Plây Cần, đơn vị chúng tôi được lệnh rút về hậu cứ Đăkson. Nhiệm vụ bây giờ là vừa củng cố đơn vị, vừa tăng gia, huấn luyện và sản xuất. Những người lính chiến đấu chúng tôi lăn lốc nơi trận mạc nay cần cù cầm rựa, cầm cuốc phát nương, làm rẫy trồng sắn, trồng ngô, rau… để đảm bảo đời sống của mình trong lúc nguồn lương thực đang dần dần vơi cạn, chiến tranh thì cứ triền miên kéo dài. Hầu như, ngày đó, nơi nào có bộ đội thì ở đó đều dấy lên khí thế tăng gia sản xuất. Bộ đội đi đến đâu thì các nương rẫy mọc lên đến đó. Mục tiêu quan trọng trong trận đánh này là hạn chế cái đói, cải thiện đời sống cho bộ đội, nhằm chuẩn bị sức lực cho  sự bám trụ lâu dài với Tây Nguyên. Dưới bàn tay chai sạn của người lính, chỉ sau một thời gian  nhiều nương ngô, nương sắn, vườn rau  mọc lên xanh tốt bạt ngàn. Đất đỏ bazan thấm mồ hôi chiến sĩ làm nên những mùa màng xanh tốt. Làm ra lương thực, chúng tôi giải quyết được một phần cái ăn trước mắt, lính tráng cũng đỡ đói ăn. Nhưng điều đáng nói hơn chính là bản lĩnh, quyết tâm, tính sáng tạo của người chiến sĩ Tây Nguyên. Những nơi nào có bàn tay các anh là nơi đó có sức sống mãnh liệt. Nếu như những người lính không có tinh thần chịu đựng gian khổ, chiến đấu dũng cảm và sáng tạo thì làm sao có thể thắng được giặc Mỹ xâm lược. Lịch sử sư đoàn 10 của chúng tôi có đoạn ghi lại những ngày này:
 “Những nương sắn, bãi ngô mọc lên xanh ngát dưới bom đạn khốc liệt của quân giặc ở miền núi rừng Tây Nguyên nói lên đức tính cần cù, trí thông minh, sáng tạo và nghị lực phi thường của bộ đội ta quyết đạp bằng mọi khó khăn trở ngại để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”.
 
Đang vừa sản xuất, vừa huấn luyện thì chúng tôi được lệnh vào Đắc Lắc, Phước Long  để vận chuyển gạo từ Campuchia ra cho Tây Nguyên. Bộ đội phải mở gần 200km đường để vận chuyển. Ngày ngày, chúng tôi mải miết gùi gạo ra phía bắc Tây Nguyên. Đường đi khúc khuỷu gập ghềnh, có đoạn lên dốc xuống dốc, có đoạn đường trơn, chỗ lồi chỗ lõm. Đi bộ đã khó, vận chuyển gạo trong mùa mưa lại càng khó khăn hơn. Do xác định được nhiệm vụ vận tải lương thực để chuẩn bị phục vụ chiến dịch vào mùa khô sắp tới nên đồng chí nào cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. 

Quân Mỹ nắm được sự có mặt của khối chủ lực Tây Nguyên ở vùng núi Phước Long. Chúng đã sử dụng máy bay chiến lược B52 mở chiến dịch ném bom rải thảm trên suốt cung đường vận chuyển của bộ đội ta, một số cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh, một số người bị thương. Hạt gạo cũng như thấm máu của các chiến sĩ. Tuy vậy bộ đội ta vẫn không hề nao núng, vừa chuyển gạo, vừa tập đánh địch trong công sự vững chắc.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #33 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:47:07 pm »


Đúng thời điểm ấy, ngày 3 – 9 – 1969 mọi người nhận được tin đau đớn nhất: Bác Hồ ra đi ở tuổi 79. Trong đầu tôi còn vang lên lời kêu gọi của Bác ngày 20 tháng 7 năm 1969, mới cách đây chưa đầy hai tháng: “Ý chí phải thật kiên quyết, kế hoạch phải thật tỉ mỉ; kiểm tra phải thật kĩ càng; phối hợp phải thật ăn khớp; chấp hành phải thật chu đáo; cán bộ phải thật gương mẫu; bí mật phải giữ triệt để” Trong lời kêu gọi của Bác còn có đoạn: “Quân và dân cả nước ta, triệu người như một nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hi sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến quyết chiến quyết thắng, đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho Ngụy quân và Ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà
 
Một cái tang lớn mà đất nước phải gánh chịu. Chúng tôi lặng lẽ khóc thương Bác giữa bạt ngàn Tây Nguyên. Có người lính ôm cây rừng mà nức nở. Suốt cả ngày hôm đó, không khí của cả đơn vị như lắng lại. Bữa cơm pha lẫn nước mắt nghẹn ngào, cổ họng tôi nghẹn đắng lại không sao nuốt nổi. Cứ nghĩ đến Bác là nước mắt lại trào ra. Tôi nhớ lại lần được Cha dẫn về làng Sen thăm nhà Bác. Tôi nhớ lại mái nhà tranh nơi Bác sinh ra. Vồng khoai lang. Hàng cau. Cổng râm bụt. Chiếc võng đay. Khung cửi. Tất cả đều đẫm nước mắt hiện lên trước mặt tôi. Chúng tôi đau buốt khi nghe Tố Hữu nghẹn ngào đọc bài thơ “Bác ơi” trên Đài tiếng nói Việt Nam:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa

Bác là tấm gương cho bộ đội chúng tôi noi theo. Nói sao cho hết tình cảm của những người chiến sĩ, của nhân dân đối với Bác. Lính chúng tôi cảm thấy mình có lỗi với Bác vì chưa đánh thắng giặc để miền Nam sớm được giải phóng, đất nước sớm thống nhất, đón Bác vào thăm.
 
Chiều hôm đó, ở Tây Nguyên, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức trọng thể lễ truy điệu Bác. Bộ đội chúng tôi cùng kiên quyết thực hiện tốt lời dạy của Bác: “Đoàn kết, chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi”, sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao cho.  Giữa rừng già Tây Nguyên, chúng tôi nhẩm đọc bài điếu bằng thơ, khóc Bác của Tố Hữu. Tôi còn ghi bài thơ “Bác ơi” vào trong sổ tay và nhiều đêm mang ra đọc một mình. Tôi càng tự hào về quê hương Nam Đàn đã sinh ra một con người vĩ đại và vô cùng giản dị như Hồ Chí Minh. Và, thật đúng như tên một bài hát thời ấy “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”. Hình ảnh Bác vẫn như tỏa sáng và vẫy gọi chiến sĩ, đồng bào tiến lên giành những chiến công mới vang dội hơn. Lòng kính yêu, tự hào về Bác đã đồng hành cùng tôi suốt những tháng năm cực kỳ gian khổ ấy- nơi vùng đất Tây Nguyên bao la ngút ngàn gió núi…
                                               
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại Bu-Prăng, Đức Lập, Trung đoàn 28 chúng tôi nhận lệnh tiếp tục hành quân ra Kon Tum. Hình ảnh bộ đội B3 đánh giặc giỏi, gùi gạo khỏe, vừa sản xuất vừa chiến đấu tốt đã để lại những ấn tượng cao đẹp cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Đây là giai đoạn chúng tôi vừa huấn luyện quân sự nâng cao trình độ chiến đấu vừa tích cực phát nương phát rẫy, trồng sắn, trồng ngô bởi các kho gạo dự trữ lúc này đã hết. Theo chỉ đạo của tiểu đoàn, bộ phận đại liên ngoài việc học khoa mục đánh máy bay, bộ binh vận động còn học thêm kĩ thuật bao vây, đánh lấn. Cánh lính chúng tôi gọi tắt kĩ chiến thuật mới này là đánh vây lấn. Bộ phận đại liên có nhiệm vụ bắn máy bay, bắn vào lô cốt đầu cầu, đánh bộ binh giặc để nống ra bảo vệ cửa mở, bảo vệ quân ta tấn công địch. Bộ đội ta nêu cao tinh thần tiến công địch “đánh đêm không xong thì trụ lại đánh ngày, đánh một ngày chưa xong thì đánh tiếp trong nhiều ngày”, cho tới khi dứt điểm.
 
Trung đội đại liên được tăng cường một số chiến sĩ trẻ và được bổ sung súng đạn. Tôi không còn là anh lính tò te nữa mà đã được coi là lính cựu dạn dày trận mạc. Trong đơn vị, số người nhập ngũ cùng ngày như tôi ít dần, thay vào đó là lính trẻ. Hàng ngày chúng tôi được huấn luyện chiến thuật đánh vây lấn, đánh cơ động, kỹ thuật làm công sự, cách ngụy trang trận địa giữa đất trống đồi trọc. Ngoài ra, chúng tôi học cách tiềm nhập trận địa địch, học cả cách đeo bi đông súng đạn, chuẩn bị sẵn các cây gỗ vừa làm gậy hành quân vừa làm các xà đỡ công sự. Xem cung cách huấn luyện bài bản và nhiều nội dung như thế, cánh lính làm tham mưu còn đoán rằng chiến dịch sắp tới sẽ ác liệt đây.
 
Cuối tháng 2 năm 1970, trung đội đại liên chúng tôi nhận mệnh lệnh chuẩn bị chiến dịch vây lấn Đắc Siêng nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực cơ động của địch. Tuy lúc này đơn vị đã được tăng cường quân nhưng so với yêu cầu thì còn thiếu. Các chiến sĩ mới chưa được huấn luyện cách đánh vây lấn. Lương thực, thực phẩm còn khan hiếm nên sức khỏe bộ đội giảm sút nghiêm trọng. Mỗi người theo tiêu chuẩn được một lạng gạo một ngày. Anh em ở lâu trong rừng, bị bệnh sốt rét khá nhiều. Số gạo dự trữ và khẩu phần chủ yếu dành để nấu cháo, bồi dưỡng cho người ốm. Những đồng chí khỏe thì ăn sắn và rau rừng, môn thục là chính. Vì ăn sắn trường kì thiếu chất dinh dưỡng nên ai cũng đuối sức, lúc hành quân leo dốc, người nào cũng mệt mỏi bơ phờ.
 
Vào thời gian này, tôi được bổ nhiệm trung đội phó, phụ trách một khẩu đại liên tham gia chiến dịch. Mỗi ngày thêm một nhiệm vụ, trọng trách được giao ngày một lớn lao hơn. Không chỉ có trách nhiệm với cuộc chiến đấu mà ngay cả đời sống anh em tôi cũng phải bao quát, theo dõi sát sao. Nhìn anh em ốm yếu, tôi thương và lo lắng lắm. Sức vóc thế này, không biết vào trận có trụ vững được không? Khẩu phần ăn thì chỉ có vậy mà thôi. Tôi bàn với anh nuôi tìm cách xoay sở, chịu khó chế biến các món ăn, dù chỉ là những bữa canh rau và một số loại củ kiếm được. Thời gian rảnh thì chế biến lương thực thực phẩm. Sắn được mài ra bột để làm bánh hay thái lát mỏng để xào mỡ, dễ ăn hơn.

Một hôm trời vừa mưa xong, tôi và anh nuôi xuống suối mò cua. Lá cây bên đường đậm đà một màu xanh xẫm. Cây non thì xanh mướt, có cả những mùi thơm thoang thoảng của những loài hoa gì đó mà tôi không thể nhận biết được. Ở trong rừng rậm này, thi thoảng nhìn thấy những cánh hoa dại đáng yêu, cứ lung lay trong gió, đến tên gọi cũng không biết. Tôi nhìn thấy tổ ong mật và gọi anh nuôi, anh nuôi dặn “tránh xa nó ra, nó mà đốt thì phải lên vài cân”. Vẫn biết là không được sờ vào tổ của nó nhưng tôi có dịp được ngắm nghía những con ong mật đi kiếm nhụy hoa về làm mật. Hai bên sườn, dưới đôi cánh đang đập rì rì của chúng là những nhụy hoa kiếm được. Trong cánh rừng này, có biết bao nhiêu là loài cây, phần lớn cây nào cũng có hoa. Bởi vậy, nhìn những chú ong nặc nè cắp nhụy hoa trông đáng yêu lắm, có nhụy màu vàng nhạt, có cái vàng đậm, có cái chuyển sang màu thậm… Chúng làm mật một cách cần mẫn và vô cùng chăm chỉ. Ban nãy trời mưa, có lẽ chúng cũng trú mưa, giờ mới bay về tổ. Tôi muốn ngắm nhìn chúng lâu hơn nhưng chợt nhớ đến anh em ở nhà, trông đợi bữa cơm chiều nên lại khẩn trương cùng anh nuôi lội suối. Anh nuôi nhắc tôi đi cẩn thận vì những chỗ cỏ mọc, phải để ý kẻo bên dưới là hủm sâu. Từ dưới suối nhìn lên cao, chỉ thấy mây, thấy trời, gần hơn là rừng với những tán cây xanh cao lớn rất ấn tượng. Đứng đây nhìn xuống chân núi, tôi không tưởng tượng được rằng mình đang tọa lạc trên một vị trí cao đến thế. Tất cả cao ngút ngàn. Những chiếc lá vàng bay vèo xuống  nước rồi lại lững lờ trôi yểu điệu và duyên dáng làm sao. Thiên nhiên thật hấp dẫn. Tôi nhìn sâu vào phía hang, màu rêu xanh xám và tối hơn. Tôi vui sướng vì sẽ kiếm được những con vật tuy nhỏ bé nhưng khiến cho bữa ăn thêm đậm đà. Suối nhiều đá, chúng tôi vừa lội bì bỏm, vừa hướng về các kẽ hang để lật từng hòn đá, tóm những chú cua tám cẳng hai càng nấp trong đó. Tôi phát hiện một chú cua đang bò ra từ hốc đá, vội vàng chụp lấy thì cha mẹ ơi, nó cắn tôi đau thấu trời. Tôi kêu ré lên rồi nghiến răng chịu, anh Nuôi hốt hoảng lại gần tôi. Té ra không phải là cua mà là bọ cạp. Bọ cạp cắn, tuy không chết nhưng đau thấy ông bà, ông vải. Tôi vác tay chạy vội về doanh trại. Từ bé đã phải nai lưng mò cua bắt ốc, chẳng bao giờ bị con vật nào cắn đến độ đau buốt như thế. Thần hồn thần tính để đâu mà nhìn bò cạp hóa cua, chán mớ đời. Chuyện đi bắt cua bị bọ cạp cắn của tôi trở thành chuyện vui của cả trung đội.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #34 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:48:58 pm »

Đắc Siêng là cứ điểm biệt kích của địch cách thị trấn Tân Cảnh , Kon tum ba mươi cây số. Cứ điểm này có ba đại đội lính biệt kích được các cố vấn Mỹ chỉ huy,  bố trí hỏa lực dày đặc và được máy bay, pháo lớn thường xuyên chi viện bảo vệ.

Tối ngày 31 tháng 3 năm 1970 chúng tôi lặng lẽ hành quân về hướng Đắc Siêng. Đó là một buổi tối sao trời mọc chi chít, gió Nam hiu hiu thổi.  Nếu như không có chiến tranh thì đêm nay là một đêm đẹp trời, thoáng đãng và thơ mộng. Dưới ánh sao đêm, đôi lứa cầm tay nhau đi trong đêm cao nguyên đầy gió. Gió Tây Nguyên mang trong mình hơi thở của những cánh rừng già bí ẩn, những đồng đất bazan bao la, những con thác chảy từ trời xuống và không thể không nói tới âm hưởng trầm hùng của những bài khan, những bản trường ca kể mãi không cạn. Bộ đội chúng tôi đi dưới ánh trăng thành hàng dài lúc lên cao, xuống thấp, lúc uốn lượn. Balô đồng chí nào cũng nặng trĩu lương thực, vũ khí. Anh trăng trải dài trên rừng, lá cây ánh lên thứ ánh sáng mướt mát, lung linh huyền ảo. Những lá cây ven đường như đang vẫy chào đoàn quân. Đi trong đêm trăng, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe được âm thanh của những con vật trong rừng tìm bầy khắc khoải. Tiếng gà rừng gáy “kéc ke”, ngắn ngủn không như gà nhà.

Chẳng hiểu vì sao đang trên đường hành quân chiếm lĩnh trận địa, tôi lại chợt nhớ đến Thoa… Giờ này em còn thức không, có còn ngồi bên bếp lửa bập bùng ánh lên đôi mắt sáng trong nhớ anh, đôi mắt của sự xa nhớ đợi chờ... Tôi còn tưởng tượng ra em đang ngồi học dưới ánh đèn khuya ở lớp học, mặt lem luốc muội khói đen của đèn dầu nhưng rất dễ thương. Em ngồi dưới ánh đèn dầu, còn anh đang hành quân dưới ánh trăng sáng ngời. Những đêm hành quân như thế này, chỉ có nghĩ về miền quê, nghĩ về em, về người thân mới vợi đi những mệt nhọc. Tôi nhớ tới cái đêm lớp tôi và em đi đào hầm phòng không hai bên đường quốc lộ gần cầu Mượu. Có đêm trăng sáng vằng vặc, nhìn thật rõ mặt nhau, đứa nào mồ hôi mồ kê cũng nhễ nhãi nhưng vừa làm vừa cười nói râm ran. Anh vừa đào hầm vừa để ý đến em. Anh không thể nào quên được câu em hò rất hay trong cái đêm trăng sáng ấy:

… ơ…hò…thuyền than lại đậu bến…ơ…ơ…than. Thấy anh vất vả cơ hàn em thương…ơ…ơ…hò. Anh cũng còn nhớ trong đám con trai, hình như là Song Toàn- phó Bí thư chi đoàn hò đáp lại cũng hay lắm:
…ơ…hò…chim khôn ăn trái nhãn lồng… Gái khôn gánh việc cho chồng tòng quân…ơ…ơ…hò…


Bây giờ cũng là một đêm trăng thanh gió mát em ạ. Nhưng đêm trăng này lại không phải ở quê mình, anh đang ở rất xa em, xa lắm. Anh đang cùng bộ đội hành quân chiếm lĩnh trận địa, do đó bí mật là yêu cầu cao nhất đối với người lính. Em đã từng nghe ai nói chưa, giữ được bí mật bất ngờ là đã giành hai phần ba chiến thắng. Anh thèm được cất lên câu hò mà em đã từng hát rất hay trong đêm ấy nhưng lúc này thì hoàn toàn không được. Các anh đang lặng lẽ bước đi trong ánh trăng tràn ngập mát rượi, không được nói chuyện, không được phát ra tiếng động, không được hút thuốc. Nếu bọn địch phát hiện ra đốm lửa, hoặc mùi thuốc lá hay tiếng người chắc chắn chúng sẽ trút bão đạn  ngay lập tức. Những ngày vừa qua và đêm nay bọn anh sống theo kiểu đi không dấu, nấu không khói, nói không to, ho không tiếng…
  
Hàng rào cứ điểm của giặc đã hiện ra trước mắt. Tôi không được phép mơ mộng và hồi tưởng về em nữa. Tiếng thuyết minh phim từ trong đồn giặc cứ vọng ra nghe rõ mồn một. Cả đoàn quân lầm lũi đi về phía cứ điểm. Ai cũng cẩn trọng, mọi cái phải thật nhẹ nhàng thì mới không bị phát hiện. Không còn cách nào khác, bộ đội ta phải vượt qua được cả những rào cản như vậy mới tấn công vào sâu trận địa hơn, vừa quây vừa lấn quân địch, thu nhỏ vòng vây chiến đấu.
  
Vào thời gian này tôi được bổ nhiệm làm trung đội phó và trực tiếp chỉ huy khẩu đại liên do anh Hoàng Ngọc Loan làm tiểu đội trưởng. Nhiệm vụ của khẩu đại liên là phối thuộc trong đội hình đại đội thuộc tiểu đoàn 1 đột kích từ hướng tây nam vào cứ điểm. Cụ thể là bắn diệt lô cốt đầu cầu, bắn máy bay, bắn bộ binh để bảo vệ cho đại đội 1 vây lấn, cắt rào, mở cửa xông vào đánh chiếm cứ điểm địch. Tất cả dường như phải phối hợp ăn ý và chuẩn khớp với nhau, giống như đầu tàu không thể thiếu người lái. Tôi liên tưởng đến cảnh  tiếng súng của quân ta dội vang lên là tất cả đã sẵn sàng hừng hực trong tư thế chiến đấu. Thế tiến công từ bên này vang lên sau những tiếng súng thì phía bên kia cũng vậy, tất cả đều như vậy. Hình ảnh của tất cả mọi người tạo nên lòng dũng cảm và trái tim yêu nước mãnh liệt ở mỗi người chiến sĩ khiến cho ai cũng vững tay súng, bước chân tiến công rắn rỏi hơn.
 
0 giờ ngày 31.3.1970, chúng tôi chiếm lĩnh xong trận địa, khẩu đại liên được bố trí sát hàng rào cứ điểm cạnh cửa mở của đại đội 1. Tôi tranh thủ hội ý với anh Hà Văn Nhật, đại đội trưởng đại đội 1. Anh Nhật là người Mường, quê ở Thanh Hóa.  Anh là một cán bộ gan góc, dũng cảm, rất gần gũi với anh em, đặc biệt là có trí nhớ tốt. Tôi được nghe anh kể về bản làng quê hương anh, về những người nói tiếng Kinh chưa sõi nhưng khi thấy đất nước có chiến tranh thì đồng lòng đồng sức động viên bà con dân bản đứng dậy cùng với dân tộc đánh giặc. Anh Nhật còn dạy cho tôi biết một số tiếng Mường, anh kể những phong tục tập quán và lễ hội với những nét văn hóa rất ấn tượng của dân tộc mình mà không phải nơi nào cũng có được. Lúc anh Nhật làm trung đội trưởng trung đội đại liên thuộc đại đội 4, tiểu đoàn 1 thì tôi là tiểu đội trưởng. Khi anh Nhật được điều sang làm đại đội phó, rồi đại đội trưởng đại đội 1 thì tôi được giữ chức vụ trung đội phó trung đội đại liên. Vì vậy trong trận chiến đấu này, tuy khẩu đại liên của chúng tôi tiếng là đơn vị hỏa lực phối thuộc nhưng anh Nhật rất hiểu nhau, mặc dù thời gian rất ngắn ngủi. Anh Nhật nhìn tôi và nhắc lại nội dung hợp đồng tác chiến:
- Khi đại đội 1 mở cửa xong sẽ đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Khẩu đại liên sẽ bắn kiềm chế các ổ hỏa lực của địch để chi viện cho đại đội 1. Nếu bộ binh địch từ hướng quốc lộ đánh vào cửa mở của C1 thì đại liên sẽ nhả đạn tiêu diệt chúng. Trong màn đêm bàng bạc, tôi nắm tay anh thật chặt:
- Nhất trí. Về phương án này thì khẩu đại liên đã hoàn chỉnh rồi anh a. Chúng tôi vừa giá súng vừa lấy đường ngắm vào lô cốt đầu cầu rất tốt, không có vật cản nào cả. Nghe tôi nói anh gật đầu và lắc mạnh tay tôi như hạ quyết tâm cùng phối hợp chiến đấu.

 Thực ra phương án tác chiến này, chúng tôi đã thảo luận bàn bạc kĩ trên sa bàn ở sở chỉ huy của trung đoàn. Anh Nhật nhắc tôi cũng là để xác định thêm quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu. Mặc dù biết trong chiến đấu, việc hoàn thành tốt nhiệm vụ luôn được tôi chú ý. Nhưng có thêm lời động viên của anh Nhật, tôi thấy mình tự tin và cần cố gắng nhiều hơn nữa.
 Trao đổi xong, anh Nhật trở về đại đội chuẩn bị chỉ huy anh em cắt hàng rào. Tôi đi theo anh để lên thăm đơn vị C1. Chiến sĩ trong đại đội 1 đang trong tư thế sẵn sàng vào trận. Tôi gặp Đức, người đồng hương, đồng khóa, đồng ngũ với tôi đang chuẩn bị thủ pháo và lựu đạn đầy người. Cái anh chàng đẹp trai, hay hát này ôm chầm lấy tôi như lâu ngày lắm mới gặp nhau. Đức ôm chặt lấy tôi như anh em lâu ngày không gặp. Chiếc bi đông nước mà Đức đeo ở thắt lưng thúc vào bụng làm tôi cộm lên cả người.

Thực ta tôi và Đức ở cùng tiểu đoàn, chỉ khác đại đội. Tôi còn nhớ cái hôm gặp nhau ở tiểu đoàn chuẩn bị cho chiến dịch này, Đức nắm chặt tay tôi, nói:
- Đánh Đắc Siêng lần này chắc ác liệt lắm đây, Biểu ạ. Không biết bọn mình có vượt qua được không?. Từ  “vượt qua”, Đức nói ở đây không chỉ mang ý nghĩa hoàn thành tốt nhiệm vụ mà còn có ý ám chỉ có thể là sự hy sinh, mất mát. Với người lính trận như chúng tôi, sự sống chết làm sao mà nói trước được. Ngã xuống bởi bom đạn của giặc là chuyện thường tình. Nghe Đức nói, tôi cũng nao lòng. Không dấu nổi bùi ngùi, tôi nhìn Đức nói:
- Chúng mình sẽ cùng nhau cố gắng… mong rằng mình sẽ được gặp nhau trong nụ cười như thế này…nhưng nếu đứa nào gặp điều gì không may thì đứa còn lại nhớ tìm về nhà báo cho gia đình biết. Hai đứa tôi chẳng ai nói thêm câu nào nữa nhưng có những giây phút lặng lẽ nhìn vào mắt nhau trong hoàn cảnh này chính là sự động viên nhau và gửi gắm lớn lao. Rồi biết đâu, cả hai chúng tôi cùng trở về, ôm nhau trong niềm vui…và cũng biết đâu, cả hai chúng tôi, chẳng có ai trở về, cả hai đứa cùng nằm lại nơi chiến trường ác liệt và tàn khốc này… Tôi nghĩ đến điều đó nhưng không hề nao núng, không hề sợ hãi. Bây giờ trước cửa mở, khi chỉ còn mấy giờ nữa thôi trận đánh sẽ bắt đầu, những người trải qua không ít trận chiến ác liệt như tôi và Đức ai cùng thấm thía rằng sự sống với người lính là mong manh vô cùng, may rủi đều có, đạn bom tránh mình chứ mình làm sao mà tránh được đạn bom. Tôi nắm chặt tay Đức:
- Cẩn thận nhé, mình về đây. Tôi, và có lẽ cả Đức muốn nói nhiều lắm nhưng mọi điều nói ra lúc đó chỉ làm cho chúng tôi yếu lòng, chỉ căn dặn nhau cẩn thận mà thôi. Ai chả mong mình lành lặn và được trở về sau trận chiến. Tôi nhận thấy cái bắt tay rắn rỏi của Đức, truyền cho nhau hơi ấm tình đồng đội, đồng chí, tình thân hữu, san sẻ với nhau trước giờ phút ác liệt này. Chúng tôi giơ bàn tay lên vẫy nhau, chia tay nhau bằng nụ cười nhưng đầy những nỗi niềm canh cánh và lo lắng về trận đấu đang tới gần kề. Tôi mong cho Đức được bình an trở về. Bước chân vội vã, mỗi đứa một hướng, chỉ có chiến trường mãi mãi là cái tên chung dành cho những người lính chúng tôi không bao giờ mất. Bóng của Đức xa khuất, lẫn trong tiếng gió reo của trời đêm Đắc Siêng lộng gió, đầy ánh sao đêm.
  
Tôi trở về với công việc khẩn trương của mình. Chúng tôi lao vào đào công sự. Đến 4 giờ sáng thì mọi việc coi như tạm ổn, hầm cho khẩu đại liên, hầm chỉ huy và hai chiếc hầm cá nhân đã làm xong. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi ngắm nghía công sự của anh em và thấy khá yên tâm. Công sự cho đại liên thuận lợi cho việc bắn máy bay và bắn bộ binh. Tôi kiểm tra thấy súng đại liên vừa bắn thẳng được vào các lô cốt đầu cầu, vừa bắn được bộ binh địch từ dưới sườn đồi lên. Mọi cái đều trong tư thế sẵn sàng, anh em trong đơn vị đào hầm, mồ hôi nhễ nhại, đang ngồi uống nước và thở phào.
  
Thực ra, việc làm công sự không có gì phức tạp, là việc mà chúng tôi đã quá quen. Đào hầm xong, chúng tôi lấy gậy hành quân làm xà. Mọi công việc diễn ra trong chớp loáng, mỗi người một tay một sức. Đây cũng là hầm bảo vệ tính mạng cho mọi người, là chỗ phòng thân nên ai cũng nghiên cứu làm cho tốt. May mà đất ở nơi đây còn dễ đào, những xẻng đất được hất lên cùng với những giọt mồ hôi nhạt nhòa trên gương mặt mỗi người. Mồ hôi nhỏ xuống, bộ đội chỉ quệt ngang rồi lại tiếp tục công việc. Anh em chúng tôi có sáng kiến, lấy dây túm miệng bao lại thành bao đất. Sau đó cứ việc đặt lên các đòn gỗ mà anh em đã chuẩn bị trước là thành nắp hầm. Hầm làm kiểu này chỉ tránh được đạn bắn thẳng, mảnh pháo, còn bom thì khó có thể trụ nổi.
  
Khó khăn lớn nhất lúc này là ngụy trang. Đây là tình huống mà khi tác chiến trên sa bàn ở Trung đoàn không ai tính đến. Từ hàng rào địch cho đến trận địa của chúng tôi là đồi trọc, đất trống do địch đốt cháy sạch cỏ cây từ trước. Tất cả trận địa  lem nhem, nham nhở. Nhớ lại kinh nghiệm ở trận đồi Cháy- Chư Đô, tôi cho anh em lấy đất mùn tro, rắc lên chỗ đất mới đào. Còn miệng hầm thì cắm bằng các cành cây bị cháy sém. Nhìn bên ngoài, khó ai có thể phát hiện được đây là căn hầm trú đạn.
  
Đúng 5 giờ 30 phút ngày 1 tháng 4, núi rừng Đăk Siêng rùng rùng rung chuyển bởi hàng loạt pháo lớn của mặt trận cối 120 bắn tấp cập vào cứ điểm giặc. Tiếp nối dàn đại pháo là lưới hỏa lực nhiều tầng của ĐKZ, cối 82, súng 12,7 ly của trung đoàn, tiểu đoàn bắn dồn dập vào cứ điểm…oàng oàng… đua nhau trút bão lửa xuống đồn Đăk Siêng. Bộc phá mở cửa hàng rào cứ điểm của đại đội 1 vang lên. C1 bắt đầu mở cửa. Tất cả ầm rung mặt đất.
Cứ điểm Đăk Siêng chìm trong khói lửa, bụi đất bay loạn xạ. Bị đánh bất ngờ, địch hốt hoảng gọi pháo lớn chi viện. Ngay từ những phút đầu, đạn cối của ta bắn vào khu trung tâm của căn cứ địch và đã bắn trúng những mục tiêu quan trọng của địch, chúng không kịp trở tay. Bộ đội ta vừa đánh vừa phá rào vây lấn, xiết chặt vòng vây. Bị quân ta vây lấn, địch rơi vào tình thế nguy kịch và bị bất ngờ nên lúng túng.
Sau đó khoảng 15 phút, pháo giặc từ cứ điểm Plây Cần, Đăk Mót tới tấp bắn thẳng vào xung quanh hàng rào. Nhiều, rất nhiều quả đạn pháo của địch rơi vào gần trận địa chúng tôi.
 
Trời sáng dần. Cửa mở của đại đội 1 và trận địa đại liên cũng lộ dần. Phát hiện ra cửa mở, bọn địch trong cứ điểm dùng  ĐKZ, cối, súng phóng lựu, súng máy bắn xối xả vào đó. Bầu trời giật những tia chớp sáng lóe xé rách nền khói đen hung hãn. Những quả đồi cũng mờ mịt sau làn khói đen nhưng cách xác định phương hướng là chúng tôi không thể chệch được. Tôi lấy thước ngắm đại liên, bắn vào các lỗ châu mai của địch. Bắn được hai loạt thì giao cho anh Hoàng Ngọc Loan tiếp tục bắn uy hiếp. Trong khói đạn, thấp thoáng bóng Hà Văn Nhật chạy đến hầm tôi. Trên nét mặt anh lộ rõ nét lo lắng. Anh nhảy xuống công sự đại liên, nhìn tôi, nói:
- Đại đội một đã phá được sáu hàng rào như đã thể hiện trên sa bàn. Khi xung phong, vượt qua cửa mở đánh chiếm lô cốt đầu cầu thì phát hiện một số hàng rào chưa phá hết. Vẫn còn một hào chông, ba hàng rào vướng chân, do đó mũi tấn công đi đầu của đại đội còn cách lô cốt địch khoảng 20 mét nữa, phải nằm xuống tránh đạn. Đề nghị khẩu đại liên bắn kiềm chế lô cốt. Tôi đưa tay về phía lô cốt đầu cầu bị phá hỏng một nửa, nói:
- Lô cốt đầu cầu trước cửa mở C1 đã bị khống chế. Địch bắn vào C1 là trong trung tâm và máy bay. Khẩu đại liên tiếp tục bắn khống chế cho C1.
Trong khi đó địch đang bắn phá dữ dội vào cửa mở, khói bụi mịt mù, anh em đại đội 1 cũng bị thương vong nhiều. Đại đội 1 tiến thoái lưỡng nan, vì thế anh đề nghị đại liên bắn thật mạnh vào những lỗ châu mai để khống chế hỏa lực giặc. Tôi bàn với anh Nhật:
- Trước mắt, cho bộ đội đào hầm trú ẩn tại chỗ, sau đó tiếp tục vây lấn. Nếu không có công sự còn thương vong nữa. Anh đồng tình với cách xử lý tình huống của tôi và lại băng khói lửa về với đại đội mình. Những lúc khó khăn như vậy, chúng tôi không có một đường dây nào liên lạc nhanh chóng khẩn cấp, anh em phải băng qua đạn, qua bom để triển khai mọi kế hoạch chiến đấu kịp thời. Cũng không còn cách nào khác, dù nguy hiểm nhưng vẫn phải băng qua làn đạn để về chỉ huy đơn vị. Trời càng sáng, cửa mở đại đội 1 càng lộ rõ. Súng ĐKZ và súng máy của địch trong đồn bắn ra của mở dữ dội. Lúc này, pháo của cấp trên bắn kiềm chế vào quân địch rất yếu ớt. Anh em bộ binh đại đội 1 mắc kẹt tại cửa mở.Tình thế lúc này rất gay go.  
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #35 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:49:45 pm »

Tôi ra lệnh cho xạ thủ Loan bắn mạnh vào lô cốt đầu cầu, nơi mà khẩu đại liên của địch đang bắn xối xả vào cửa mở. Đại liên của ta và đại liên của địch đối lửa ác liệt. Có thể nói hai bên đã nhè vào nhau và bắn không tiếc đạn. Lúc ta bắn thì nó im, khi ta dừng thì nó lên tiếng. Lúc như bắn nhử, lúc lại như thăm dò. Chúng tôi bắn chừng được hai mươi phút, gần hết một hòm đạn thì nòng súng rực đỏ lên, phải đổ nước vào để làm mát, sau đó phải thay nòng súng phụ tiếp tục chiến đấu. Bàn tay của anh em chúng tôi cầm súng, cầm đại liên, đạn lắp vào rồi lại bắn liên tiếp.

Vài tiếng đồng hồ sau đó thì máy bay trinh sát V010, C130 và từng đàn trực thăng vũ trang phành phạch bay đến từ hướng Kon Tum trông như đàn quạ đen. Từ khi vào chiến trường đến nay, tôi chưa bao giờ thấy trực thăng nhiều đến thế. Những cánh quạt quay phành phạch trên bầu trời, không dấu đi nổi tiếng kêu. Cả vùng trời đen đặc trực thăng, chúng túa ra như ruồi bay. Chúng bay lượn một vòng quan sát rồi thi nhau bắn róc két, đạn cối vào trận địa. Khẩu đại liên của chúng tôi thi nhau chĩa lên trời nhằm vào lũ trực thăng nhả đạn.

Tiếp nối đợt bắn phá của lũ trực thăng là màn oanh tạc của phản lực. Bom sát thương, bom napan tới tấp rơi xuống. Khói lửa cuồn cuộn ngút trời. Một quả đạn rốc-két nổ cạnh công sự đại liên của chúng tôi làm đồng chí Nguyễn Văn Thu hy sinh và đồng chí Trần Xuân Hồng bị thương. Máu chảy ra ướt cả vai áo. Chúng tôi băng bó cho đồng chí Hồng rồi lại tiếp tục bắn máy bay và lô cốt địch. Không ai tỏ ra hoảng sợ, nao núng khi cái chết gần kề trong gang tấc. Từ sáng đến tối, dưới mưa bom bão đạn, khẩu đại liên gan góc bám trụ trận địa đánh trả lại kẻ thù. Cái mệt thấm vào từng người nhưng không ai nản lòng, địch vẫn còn đánh phá thì khẩu đại liên tiếp tục chiến đấu. Đã quá bữa, phải vội vàng ăn để tiếp tục chiến đấu. Ai cũng kiên cường vừa dùng súng vừa đánh bộ binh kết hợp, đánh ngăn chặn sự chi viện, bắn rơi những chiếc trực thăng hùng hổ.

Đêm dần buông. Liên lạc tiểu đoàn chạy xuống thông báo cho chúng tôi biết: Trong ngày đầu tiên của chiến dịch vây lấn, chúng ta đã diệt được 25 tên địch, 5 lô cốt, phá nát trận địa pháo và 7 nhà lính. Quân ta thu được chiến công lớn nhưng phải rất khó khăn, đặc biệt là sự hy sinh của các chiến sĩ thì không thể kể hết được, đại đội 1 bị thương vong khá nhiều. Tối đó chúng tôi khẩn trương vận chuyển thương binh, liệt sĩ ra tuyến sau và tiếp tục củng cố trận địa cho những cuộc đọ sức sắp tới.

Tôi nhìn anh em mình. Khẩu đại liên chỉ còn lại có năm người, mặt mũi ai cũng hốc hác xạm đen lại, dường như phải thức suốt cả ngày lẫn đêm, không có lúc nào được nghỉ ngơi, có nằm xuống cũng thấy chẳng an lòng, lại nhấp nhổm bò dậy. Tôi bảo mọi người thay nhau ngủ để lấy sức, dù chỉ là ngắn ngủi. Bữa ăn đã thiếu thốn nhưng sức khỏe vô cùng quan trọng. Xong đâu đấy, tôi nhanh chân chạy qua đại đội 1 gặp anh Nhật để bàn chuyện hợp đồng chiến đấu ngày mai. Thời gian rất cần kíp, mọi cái đều diễn biến với nhiều tình thế không thể định trước được. Số anh em của đại đội 1 đang hì hục sửa chữa hầm hố công sự bị sạt lở và chờ lệnh của tiểu đoàn. Tôi vừa đến bên anh Nhật thì một loạt đạn cuả máy bay C130 bắn suýt đúng người. Anh Nhật vẫn nói khó khăn của C1 là chưa vượt được hào chông. Trong lúc đó anh em thương vong quá nhiều. Tôi bàn với anh Nhật:
- Chờ chủ trương cấp trên. Nhưng bây giờ phải cho anh em tranh thủ đào công sự để vây lấn. Đánh theo phương án 1 là không ổn rồi. Cả đại đội chỉ còn 12 tay súng thì rất khó khăn. Anh nên báo cáo tiểu đoàn chi viện thêm. Bàn bạc với anh Nhật xong thì tôi lại về ngay hầm đại liên để củng cố công sự.
Đứng gác trong đêm khét mùi bom đạn, tôi nghĩ lại cuộc chiến đấu vừa xảy ra hôm nay. Có điều gì đó chưa ổn. Công tác chuẩn bị cho chiến dịch còn nhiều lỗ hổng. Những gì xảy ra trong trận đánh, khác xa với những gì tác chiến trên sa bàn. Bên sa bàn hôm đó, tôi từng đưa ra thắc mắc: giữa đất trống đồi trọc như thế này thì chúng ta ngụy trang công sự bằng gì?. Đồng chí tác chiến trả lời: “trong chiến dịch này, mặt trận và trung đoàn sẽ điều động một lực lượng lớn pháo cao xạ để bắn máy bay địch không cho chúng tự do oanh tạc vào trận địa chúng ta, các đồng chí đừng lo lắng, cứ vây lấn đánh bộ binh cho tốt”. Nhưng qua một ngày chịu bom đạn tơi bời, chúng tôi chẳng hề thấy pháo cao xạ đâu cả. Mặt khác, lúc đánh sa bàn thì cấp trên nói hướng đại đội 1 tấn công chỉ có sáu hàng rào thôi nhưng thực tế thì còn có hào chông và mấy hàng rào vướng chân nữa. Sự thiếu chính xác này đã làm cho trận đánh trục trặc, bộ đội ta không thể ngồi im, tiến công thì bị thương vong nhiều, bộ đội ta bị hy sinh không đáng có. Trong chiến trận, người chỉ huy nắm được địch càng chính xác bao nhiêu, càng đề ra được nhiều phương án tác chiến hay, tiết kiệm xương máu cho chiến sĩ càng nhiều. Anh em biết ơn những người chỉ huy như thế. Tôi nghĩ vậy nhưng chẳng ai dám nói điều ấy ra, vì sợ tác động không tốt tới tinh thần chiến đấu của anh em.
 
Ngày hôm sau, địch bắn phá dữ dội, ác liệt hơn. B52 rải thảm xung quanh trận địa. Từng vệt hố bom xám xịt vây lấn nơi đứng chân của chúng tôi. Phụ họa với pháo đài bay của Mỹ là lũ thần sấm, con ma, trực thăng tới tấp ném bom, bắn rốc két vào trận địa chúng tôi. Bom đạn dày đặc như thế nhưng chẳng hiểu sao chúng tôi vẫn bám trụ được. Có lúc tôi tưởng rằng, qua mỗi trận chiến sẽ chẳng còn ai sống sót, ấy vậy mà hoàn toàn khác. Quân giặc bị thiệt mạng rất nhiều. Trong trận chiến chẳng ai nghĩ đến sức mạnh kì diệu ấy nhưng ai cũng chiến đấu hết mình. Trách nhiệm và danh dự của người chiến sĩ đã làm cho chúng tôi trở nên gan góc, bất chấp hiểm nguy. Có thể nói, chúng tôi đã ra trận với niềm tin vào lý tưởng chủ nghĩa xã hội cao đẹp và ý thức rõ rệt về sự chính nghĩa của cuộc chiến đấu giải phóng Tổ quốc của nhân dân ta. Chúng tôi chiến đấu cho ngày mai của dân tộc, một ngày mai không còn bóng quân xâm lược trên đất nước ta và Tổ quốc Việt Nam được xây dựng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong ước của Bác Hồ và hàng triệu, hàng triệu người dân yêu nước. Trong những năm tháng ác liệt, những điều ấy thấm vào máu xương chúng tôi, nó trở thành nếp nghĩ, việc làm hàng ngày của người lính cách mạng. Chính vì thế mà không ít chiến sĩ đã tự nguyện xả thân vì nghĩa lớn, cái chết nhẹ nhàng mà cao cả, không thể lấy gì bù đắp được. Chỉ có một mục đích là bảo vệ Tổ quốc và giành độc lập. Ai cũng có thể nghĩ đến cái chết nhưng không ai vì thế mà nản lòng. Thậm chí họ còn thấy hy sinh là hạnh phúc lớn lao.
Sân bay Đăk Siêng đã bị ta phong tỏa. Khoảng 11 giờ trưa, trên bầu trời Đăk Siêng xuất hiện mấy chiếc C130 thả hàng tiếp viện cho cứ điểm. Khi thấy những chiếc C130 xuất hiện súng phòng không của mặt trận nổ giòn giã làm cho nó không dám bay thấp, buộc phải bay tít trên cao thả dù xuống. Nhiều kiện hàng rơi ra ngoài cứ điểm địch. Có kiện rơi vào gần trận địa ta. Trong cái rủi đã có cái may. Mấy ngày vây lấn Đăk Siêng, ban ngày đường liên lạc của ta bị cắt đứt, cơm nước không đưa lên trận địa được. May có thằng C130 tặng cho mấy kiện đồ ăn, lại là đồ hộp hảo hạng nên anh em tiểu đội cũng đủ chia nhau dùng, thậm chí là tươm tất nữa, có bia lon, giò hộp, xúc xích… 

Chiến dịch vây lấn đã bước sang ngày thứ ba, thứ tư. Khẩu đại liên của chúng tôi vẫn bám trụ lấy trận địa. Địch đã phát hiện ra và thấy rõ sự lợi hại của khẩu súng này nên quyết tâm dùng bộ binh đánh thốc vào công sự chúng tôi. Ý định của giặc là dập tắt hỏa lực mạnh của ta đồng thời cắt đứt liên lạc giữa tiểu đoàn và đại đội 1. Trận đánh ngày càng ác liệt, tôi và anh Loan đã bị thương cùng với vài đồng chí khác nữa nhưng quân số còn lại ít nên không chịu rút về tuyến sau. Anh em bảo nhau cố sức chịu đựng. Có những lúc thấy lực lượng của ta thương vong nhiều mà chẳng thể bổ sung thêm được người lúc này.

Tối mùng 3, anh em vận tải khiêng thương binh của đại đội 1 về tuyến sau đi qua trận địa đại liên. Tôi hỏi thăm thì biết được Đức cũng nằm trong số thương binh ấy. Người bạn đồng hương của tôi bị thương khá nặng, máu ra nhiều ở chân, tôi hỏi Đức trả lời yếu ớt lắm, bị mất máu nhiều nên người Đức cứ đuội dần đi. Đức dũng cảm lắm, có lẽ nằm đây nhưng Đức vẫn nhớ những gì hai đứa nói với nhau hôm trước. Tôi vẫn còn may mắn hơn nhiều người, vết thương không quá nặng, vẫn còn đủ sức chiến đấu.

Sáng mồng 4, những loạt pháo bầy từ Plây Cần đã nã tới tấp xuống trận địa của chúng tôi. Pháo bắn chưa dứt thì máy bay đã lao đến ném bom napan. Sau những tiếng bục nhỏ là từng quầng lửa bùng lên cuồn cuộn. Cái nóng hừng hực phả ra từ quả cầu lửa của bom Napan táp vào người bỏng rát. Chúng tôi chống chọi với bom napan, nói sao cho hết được sự vất vả cực nhọc của  anh em lúc ấy. Tôi lo nhất là bom Napan trùm lên trận địa ở Chư- Đô. Nên đã cho anh em chuẩn bị phòng cháy cẩn thận. Đợt ném bom Napan này trong khẩu đội có hai đồng chí của ta đã bị thương. Khoảng 8 giờ, trong khói lửa mịt mùng, tôi phát hiện ra nhiều lính địch (ước khoảng 1 tiểu đoàn) đang từ hướng sân bay tràn lên. Toàn lính Ngụy. Bọn chúng tưởng Việt Cộng đã bị thiêu rụi gần hết rồi hay sao mà thấy chúng hung hăng thế. Có đứa dùng loa điện gọi “hàng thì sống, chống thì chết”. Chúng đi một cách nghênh ngang, nhìn  mà nóng mắt. Tôi bảo anh em, chúng ta cứ im lặng, chuẩn bị pháo và lựu đạn sẵn sàng sống chết với tụi chúng, không thể để chúng ngang nhiên và hung hăng như thế kia được, phải cho chúng một quả bất ngờ, cho chết cả loạt. Thú thực, khi nhìn thấy đội quân Ngụy lúc đó, tôi sôi máu hừng hực, vừa mừng vì phát hiện ra bọn chúng nhưng phải thật bình tĩnh, không được nôn nóng cùng đồng đội chuẩn bị kỹ càng, tập trung vào mục tiêu. Dù sao đây cũng là thời cơ để ta đánh địch được nhiều và ta đang ở thế chủ động tiến công.

Anh em vừa chuẩn bị, vừa hồi hộp lo lắng. Chúng tôi bàn bạc gấp gáp, khẩn cấp, cùng ngắm địa hình để tìm cách đánh chúng hiệu quả nhất. Trận địa đại liên ở trên sườn dốc, địch từ dưới thung lũng đi lên nên lợi thế về địa hình thuộc về chúng tôi. Chúng không biết rằng chúng đang bị chúng tôi theo dõi, dò theo từng bước tiến của chúng. Lần đầu tiên, chúng tôi được đánh địch trong một tư thế chủ động và sẵn sàng đến thế. Khi địch cách trận địa chừng 30 mét, tôi hô anh em ném lựu đạn vào đội hình chúng. Mấy thằng bị dính đạn bất ngờ nên ngã xuống, kêu la oai oái. Sau phút lộn xộn bởi sự tấn công bất ngờ của chúng tôi, địch xốc lại đội hình, tập trung hỏa lực bắn xối xả vào trận địa đại liên. Bọn lính vừa lò dò tiến lên, vừa bắn không tiếc đạn, vừa to miệng hò hét chúng tôi đầu hàng. Tôi nói với anh Loan: cứ bình tĩnh, chờ chúng lên thật gần mới nổ súng, lúc đó vừa tiêu diệt được nhiều, lại vừa làm cho địch chủ quan. Tôi vừa nói vừa theo dõi bước chân địch, chúng cách chúng tôi 20 mét rồi 15 mét, khoảng cách ngắn dần. Khi thấy rõ mặt mũi của bọn chúng tôi mới hạ lệnh bắn. Khẩu đại liên Cô-ni-cốp rung lên xả đạn ràn rạt vào giữa đội hình địch, nhiều thằng giặc ngã ngục ngay từ loạt đầu. Số còn lại không dám hung hãn nữa, hoặc nằm mẹp xuống đất hoặc núp sau những kiện hàng máy bay C130 thả lạc sang trận địa ta. Tôi bảo anh em ném lựu đạn vào những kiện hàng đó. Trong tiếng nổ chát chúa của lựu đạn là tiếng kêu thét của bọn lính Ngụy dính đòn đánh trả quyết liệt của chúng tôi. 
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #36 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:51:11 pm »


Gần trưa, xem chừng tấn công bằng bộ binh không ăn nhằm gì, địch quay lại trò cũ. Chúng kêu gọi sự tiếp sức của những cánh quân bằng đường không. Máy bay trực thăng, máy bay phản lực thay nhau bắn phá trận địa chúng tôi. Khẩu đại liên thêm hai đồng chí hy sinh do rốc két bắn trúng hầm. Chỉ còn lại ba người là tôi, anh Loan, anh Hồng nhưng ai cũng bị thương. Tôi bảo hai anh kiểm tra súng đạn, thủ pháo, lựu đạn, thấy còn đủ để chiến đấu đến chiều nên cũng yên tâm. Số lượng người chỉ còn lại mấy anh em nên ai cũng bảo nhau tập trung sức lực để chiến đấu tới cùng. Anh Hồng và anh Loan rắn rỏi, mưu trí và dũng cảm lắm. Lúc này, chúng tôi đều biết tựa vào nhau mà chiến đấu, vết thương ai nấy đều không màng nghĩ tới, chỉ cần băng bó tạm là chiến đấu được.

Suốt từ trưa cho đến chiều máy bay giặc quần đảo liên hồi, chẳng để chúng tôi yên chút nào. Mặt trời chênh chếch bóng, tôi cảm thấy người rã rời. Từ tờ mờ sáng đến giờ, bận quần nhau với địch chưa kịp ăn uống gì. Tôi lấy cơm nắm ra, vừa cắn một miếng, chưa kịp nuốt thì bỗng nghe tiếng chân địch di chuyển. Lần này có vẻ như đông hơn và chúng bước rất nhanh. Hóa ra, chúng cho máy bay lượn nhằm lừa thăm dò chúng tôi trước để cho bộ binh chúng di chuyển. Mà cũng có thể, địch đoán chúng tôi đã chết hết nên vội vàng lên chiếm lĩnh trận địa chăng? Tôi nói với anh Loan: cứ bình tĩnh, chờ hắn vào gần hơn lúc nãy mới bắn. Lần này thì chúng tôi lâm vào tình thế nguy hiểm hơn. Chúng tôi chỉ có ba anh em. Bởi vậy, phải chờ cho chúng đến thật gần mới bắn. Anh Loan im lặng gật đầu. Hai tên lính đi đầu chỉ cách công sự khoảng 8 mét, tôi mới xiết cò súng AK. Một thằng gục xuống ngay tại chỗ, thằng khác theo cái đà đang chạy lao tới gần cửa hầm của chúng tôi mới ngã xuống. Cùng lúc đó, khẩu đại liên do xạ thủ Loan điều khiển quét băm bổ vào giữa đội hình địch. Nhiều tên gục xuống. Xác chồng lên nhau. Địch bật về phía sau nhưng chúng cũng không còn tỏ ra nao núng, lại tiếp tục tổ chức thêm nhiều đợt tấn công mới. Nhìn những xác địch nằm xuống ngổn ngang.
 
Bắn được khoảng 20 phút thì nòng đại liên rực đỏ lên. Tôi dùng súng AK để bắn kiềm chế địch để cho anh Loan tranh thủ đổ nước vào nòng súng. Phải làm cho nòng súng nguội đi, đạn mới lao đến mục tiêu được. Tôi đang hăng máu xiết cò thì một ánh chớp bùng lóa, kèm theo tiếng nổ chát chúa vang lên ngay miệng hầm. Đất đá bay rào rào, khói bụi mù mịt. Tay tôi đang đặt vào cò súng mà lạ thay súng không bắn được. Nhìn sang anh Loan cũng bị thương vào đầu, máu chảy tràn xuống mặt. Tôi lao đến băng bó cho anh Loan thì chính anh lại phát hiện ra tôi bị thương ở tay. Chúng tôi quên đi cả cái đau, vội vàng băng bó cho nhau rồi trở về vị trí chiến đấu. Quả đạn cối của địch nổ ngay ở miệng hầm đã làm cho hai chúng tôi bị thương, càng súng đại liên bị hỏng. Súng AK của tôi cũng bị mảnh cối làm hỏng cò. Anh Hồng bị thương vào mắt không thể chiến đấu được nữa. Tôi và anh Loan để anh Hồng chui vào hầm. Tôi nói với Loan:
- Mấy hôm nay khi tấn công, địch đều kêu gọi bộ đội ta đầu hàng, rất có khả năng chúng muốn bắt sống chúng ta. Bây giờ địch còn đông mà lực lượng khẩu đội không còn nhiều, súng thì đã hỏng, đạn còn ích. Vì thế ta phải chuẩn bị phương án cuối cùng là để dành một quả lựu đạn, thà chết chứ không để địch bắt sống. Loan nhìn tôi gật đầu:
-  Vẫn đang còn 5 quả mà! Tôi gật đầu đồng tình.

Đứng ở tình thế nguy kịch như thế này, chúng tôi lo lắng lắm. Mục tiêu là làm sao diệt được nhiều địch và bảo vệ được công sự, không cho chúng đánh chiếm. Đã từng chiến đấu nhiều trận với anh Hoàng Ngọc Loan, tôi tin lời anh nói. Với anh Loan, phẩm chất hàng đầu của người lính cách mạng là lòng dũng cảm. Thà chết chứ nhất định không đầu hàng, không thoái thác nhiệm vụ, không được rời trận địa khi chưa có lệnh của chỉ huy. Những lúc lâm nguy như thế này, có những người lính gan góc như anh Hoàng Ngọc Loan bên cạnh, tôi cũng vững lòng hơn. Dù tôi là chỉ huy nhưng sự bình tĩnh của anh Loan đã củng cố lòng tin của tôi rất nhiều. Tôi tin và hành động của chúng tôi là đúng, sự đổ máu của chúng tôi không hề hoang phí một chút nào.

Với người lính chiến trường, vật gắn bó sâu sắc nhất là khẩu AK. Nó là vật “bất ly thân” như cách nói thông thường của bộ đội. Tôi nhìn khẩu AK đang dựng ở góc hầm. Nó cũng như chúng tôi, không còn lành lặn nữa. Khẩu AK này đã theo tôi đi từ chiến dịch này đến chiến dịch khác, đã cùng tôi đẩy lùi nhiều cuộc tấn công của địch; khi vui, khi buồn, lúc no, lúc đói, khẩu AK này vẫn thực sự là người bạn tri kỷ, sống chết với tôi.

Trước mặt tôi bây giờ là kẻ thù. Chúng vẫn đang hò hét thúc nhau tiến vào trận địa. Khẩu đại liên bây giờ đã hỏng càng, chỉ có ba người lính nhưng đã bị thương và mấy khẩu súng bộ binh cũng đã hỏng, cùng với cơ số đạn tối thiểu. Chúng đang nuôi hy vọng là sẽ bắt sống được mấy chiến binh Việt cộng. Nhưng chúng đã nhầm. Chúng tôi vẫn vững lòng chờ bọn chúng vào thật gần mới nổ súng. Tôi bàn với Anh Loan là khẩu đại liên hỏng càng thì tìm cách giá súng lên bờ công sự để bắn. Tôi và Loan hỳ hục lợi dụng bờ công sự để giá khẩu đại liên. Tôi ngắm thử, gật đầu bảo Loan:
- Tốt. Đường ngắm không có vật cản. Kìa, bọn chúng đang lên đông lắm. Bây giờ anh nâng hòm đạn để tôi bắn nhé. Qua đường ngắm, tôi nhìn rõ bọn địch đội mũ sắt, hai tay lăm lăm khẩu AR15 chúng đang đi lom khom. Tôi bảo anh Loan, một tay nâng hòm đạn, tay kia giữ thăng bằng mặt súng. Tôi lấy đường ngắm chính xác. Tên địch đi đầu quá gần. Loan giục tôi bắn. Tôi từ từ chỉnh đầu ruồi súng đúng tên đí đầu, ấn cò! Khẩu đại liên rung lên khùng khục nhả đạn. Vỏ đạn văng khắp hầm. Có vỏ văng cả lên đầu, mặt Loan. Mặc. Tôi vẫn bóp cò. Bọn địch vừa chạy vừa bị đạn đại liên bắn đúng đội hình ngã chồng lên nhau như cây chuối đổ rạp trong cơn bão. Những đứa sống sót bật lui, co cụm lại sau những kiện hàng tiếp vận. Tôi trao khẩu đại liên cho Loan và ném lựu đạn. Tôi dùng sức mạnh còn lại ném lựu đạn vào những chỗ địch có cụm. Lựu đạn nổ, bọn Ngụy rú lên, hốt hoảng tản ra thì lại dính đòn đại liên của anh Loan quét tới. Cuộc chiến đấu giữa hai chúng tôi và kẻ địch giằng co nhau mãi đến 5 giờ chiều mới tạm ngừng. Địch rút quân về hướng sân bay để lại nhiều xác chết nằm la liệt trên vùng đồi lở lói vết đạn bom. Tôi và anh Loan quá thấm mệt.

Tôi ngồi dựa vào thành công sự, tay rỉ máu đỏ cả băng. Bây giờ mới thấy đau. Mấy hôm nay chẳng chợp mắt được tí nào, giờ đây tuy đau nhưng cơn buồn ngủ lại ập đến, hai mi mắt nặng trĩu chỉ muốn sập xuống. Mặt trời đã dẫn khuất sau dãy núi trước mặt. Đất trời lặng yên như không gian sau bão. Tôi muốn chợp mắt mà không dám vì sợ địch lợi dụng đêm tối lén đột kích vào trận địa. Tôi cảm thấy mệt quá, có cảm giác chỉ cần tựa lưng vào vách hầm là có thể thiếp đi được. Sao bây giờ buồn ngủ vậy. Tôi và Loan nhắc nhau chớ có ngủ lúc này. Phải đề phòng chúng tập kích đêm. Loan thấy vết thương của tôi chảy máu nhiều nên băng lại cho tôi. Đúng lúc nầy, anh Trần Mộng Dung, trợ lý chính sách tiểu đoàn cùng với liên lạc và đội vận tải có mặt ở trận địa. Nhìn các anh chúng tôi vui mừng khôn tả. Anh Dung là người cùng học, cùng đi bộ đội với tôi. Anh truyền đạt mệnh lệnh của tiểu đoàn là khẩu đội đại liên khẩn trương rút về phía sau, súng đạn bàn giao lại cho các đồng chí vận tải. Dung xem vết thương của tôi, vỗ vai tôi nói:
- Mấy hôm nay không bắt được liên lạc với khẩu đội đại liên nên tiểu đoàn lo lắng lắm. Anh chuyển lời thăm hỏi, biểu dương của thủ trưởng Tiểu đoàn đến với chúng tôi. Nhìn Dung, tôi mừng lắm, tay tôi nắm chặt tay Dung:
- Cảm ơn tiểu đoàn. Cảm ơn Dung. Thế là gặp nhau rồi. Tôi nhìn sang Loan: Bọn mình tưởng bị bắt rồi cơ. Thế là hạnh phúc rôi. Dung cười và vỗ vai Loan:
- Ba ông chưa mất gáo, thế là tốt lắm rồi. Nói đến đây, Dung chớp chớp mắt:
- Anh Nhật hy sinh rồi. Thương anh ấy quá. Nghe đến đây tim tôi đau nhói. Thế là lại mất đi người anh, người đồng chí chiến đấu anh dũng.

Tôi nhìn về phía đơn vị anh Nhât, bùi ngùi:
Anh Nhật ơi, cách đây vài hôm tôi và anh còn đang bàn bạc với nhau về việc phối hợp chiến đấu trước quân thù ở hàng rào cứ điểm Đăk Siêng. Khi C1 của anh gặp nhiều khó khăn trong tấn công, hai anh em ta còn tìm đến nhau bàn cách tháo gỡ. Giữa một vùng bom đạn  ngút trời, tình cảm đồng chí mới sâu sắc và cụ thể làm sao. Chúng ta đã chia lửa cho nhau, không mảy may tính toán. Thế mà giờ đây anh đã nằm sâu ba tấc đất nơi núi rừng Tây Nguyên. Một nấm mồ đắp tạm giữa ngàn xanh. Đất bazan đỏ au như máu, bốn bề gió thổi hoang vu. Thương lắm các anh, những đồng đội thân thiết của chúng tôi. Nhưng chiến tranh biết làm sao được. May mắn cho chúng tôi còn được sống đến ngày hôm nay nhưng cũng thương tích đầy mình và ngày mai sẽ ra sao thì chúng tôi không ai đoán được.

Tôi, Loan và Hồng theo Dung hành quân về tiểu đoàn. Xa xa, tiếng pháo cầm canh từ Tân Cảnh bắn lên xung quanh Đăk Siêng nổ đì đòm. Trận đánh vây lấn Đăk Siêng là trận đánh vô cùng ác liệt.Quân địch đã tập trung lực lượng lớn để phản kích hòng chiếm lại trận địa của ta nhưng với tinh thần chiến đấu ngoan cường, các chiến sĩ tiểu đoàn 1 và các đơn vị khác đã đánh bại các mũi tiến công của địch. Lịch sử Trung đoàn 28 có đoạn ghi: “Sáu ngày đêm tiến công, vây lấn cứ điểm Đăk Siêng, Trung đoàn 28 và lực lượng tăng cường đã tiêu diệt và làm bị thương 240 tên địch (có 20 tên cố vấn Mỹ), phá hủy hơn 50 phần trăm công sự, nhà cửa, làm cháy nổ nhiều kho tàng đạn dược, phá hỏng hai khẩu pháo 105 mm, hai khẩu cối 106,7 mm, một khẩu ĐKZ, bắn rơi 10 máy bay…buộc địch phải đưa lực lượng lên ứng cứu giải tỏa đúng như dự kiến. Về phía Trung đoàn có 33 đồng chí hy sinh, 55 đồng chí bị thương, mất mát, hư hỏng 24 khẩu súng…”.
 
Đặc biệt, khi đề cập đến tinh thần chiến đấu của khẩu đại liên, lịch sử Trung đoàn 28 có ghi:
“Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ vây lấn ngày càng trở nên khốc liệt. Dưới mưa bom bão đạn của địch, bộ đội vẫn kiên cường giữ vững trận địa, hăng hái chiến đấu đánh địch trong cứ điểm nống ra phản kích và lực lượng cứu viện ở phía sau lưng. Các xạ thủ đại liên tiểu đoàn 1 mang khí phách Vương Tử Hoàng, kiên cường chiến đấu, có khẩu đội chỉ còn một, hai đồng chí, sau trận bom thì vẫn tiếp tục giá súng trên mặt đất trống trải, kịp thời bắn quét gục từng toán bộ binh địch…”.
Ngay sau chiến dịch Đắk Siêng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương gửi điện khen ngợi cán bộ chiến sĩ Mặt trận Tây Nguyên: “Đặc biệt, mặt trậnbĐắk Siêng đã tiêu điệt một sinh lực quan trong của địch…phối hợp và hỗ trợ tốt cho phong trào quần chúng nổi dậy phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ nhiều nơi”.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #37 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:52:04 pm »


Trận cuối cùng và ngày trở về

Sau khi bị thương tại Đắk Siêng, tôi phải vào Viện 211 điều trị. Hơn hai tháng dầm dề ăn ở, điều trị tại bệnh viện tôi mới được ra viện. Còn nhớ hôm vào đây, toàn thân đau nhức, tưởng chừng không chịu nổi. Có lúc tôi lịm đi, khi tỉnh dậy mới biết xung quanh mình còn rất nhiều đồng đội. Ở đây tôi đã được các bác sĩ, nữ y tá chữa lành vết thương. Vào bệnh viện, tôi mới yên tâm về vết thương của mình. Vết thương mỗi ngày một lành, sức khỏe phục hồi dần. Nơi chiến trường toàn mùi khét lẹt của thuốc súng, bầu trời như bị giật tung bởi những tia chớp của bom đạn, đêm đêm thì mùi ẩm ướt của lá rừng, mùi của sự chết chóc. Còn nơi đây thì mùi thuốc cũng nồng nặc không kém. Biết bao nhiêu người bị thương trong mỗi đơn vị. Mỗi người bị thương một kiểu, người bị thương nặng, người bị nhẹ hơn, người phải băng cả một khoảng đầu, nằm im một chỗ không di dời được, có người thì bị mất cả một cánh tay, người thì đi tập tễnh. Không có ngày nào là không có thương binh vào đây.

Tôi nghĩ đến lần nằm viện trước, khi tôi ra viện và trở về, có biết bao đồng đội mong đợi và chờ tôi. Vậy mà giờ đây, số ấy hầu như không còn nữa. Tôi là người may mắn trong số đó còn sống sót. Tôi  thương các anh và thấy cay cay sống mũi, tôi cũng thấy mình cô đơn trong lần trở lại đơn vị này, mặc dù còn có rất nhiều đồng đội, những  lính mới chuyển đến. Bước chân tôi rắn rỏi hơn. Tôi nghĩ rằng: “Mình còn sống và mình sẽ trả thù cho anh em, nhất định như vậy”.

Ngày 18 tháng 6 năm 1970, tôi về đến đơn vị và được phân công làm trợ lý tác chiến tiểu đoàn 1. Tổ trợ lý tiểu đoàn gồm tôi và anh Ngọ làm trợ lý tác chiến, sau còn bổ sung thêm anh Phan vốn là đại đội trưởng đại đội 2; anh Dung và anh Xuân là trợ lý chính trị, anh Khoảng là trợ lý quân lực. Tôi thấy rất yên tâm vì tổ trợ lý gồm các đồng chí cùng nhập ngũ một đợt, hợp nhau và yêu thương đùm bọc nhau như anh em.

Đầu tháng 7 năm 1970, tôi được phân công tham gia đoàn cán bộ tác chiến của trung đoàn đi nghiên cứu, chuẩn bị chiến trường tại cao nguyên Bô lô ven, thuộc tỉnh A tô pơ, Nam Lào. Sau mười ngày hành quân khá vất vả, chúng tôi băng qua núi, qua đèo, đôi chân mỏi nhừ, cuối cùng thì cũng đặt được chân lên thị xã Mường Mày vừa được giải phóng. Đây sẽ là nơi dừng chân tập kết của Trung đoàn để chuẩn bị phối hợp với bộ đội Pa Thét Lào tiến công địch tại Bô lô ven.

Tình cảm của nhân dân Lào dành cho bộ đội Việt Nam thật thân thiết nồng đượm như anh em một nhà. Bà con gặp chúng tôi đều vui vẻ nói Việt Nam- Lào xa ma khi (Việt Nam- Lào đoàn kết). Tình cảm này rộng dài và sâu nặng tựa nước sông Hồng Hà- Cửu Long như thơ của Bác Hồ từng viết. Tôi còn nhớ lần ấy, bộ đội Lào tổ chức một bữa cơm thân mật mời đoàn công tác Việt nam. Sau bữa cơm giản dị có hát hò vui vẻ. Các cô gái Lào duyên dáng trong bộ váy áo truyền thống, gương mặt rạng ngời như trăng rằm hát cho chúng tôi nghe những bài dân ca của đất nước Triệu Voi và cả những bài hát Việt Nam rất thịnh hành thời chống Mỹ như: Gặp nhau trên đỉnh Trường sơn, Trường Sơn đông Trường Sơn tây… Tôi hứng lên cũng hát rất say sưa một lúc hai bài Tiếng chày trên sóc Bom Bo và Tiếng đàn Ta lư. Âm điệu của tiếng chày khuya “cắc cùm cum cắc cum cụp cum” trong đêm lửa bập bùng như vang ra thành nhạc điệu nồng ấm, vui say. Bài hát ca ngợi người chiến sĩ “ngày đêm không nghỉ, tìm diệt giặc Mỹ giải phóng cho dân mình”, người hậu phương thì “tiếp lương gửi đạn”. Và niềm tin sắt con của đồng bào với bộ đội, tin vào tương lai tươi sáng. Tất cả mọi người nắm tay nhau, vui say trong câu hát, điệu múa Lăm tơi. Như mọi cuộc vui khác, các bạn Lào không thể không có múa Lăm tơi, múa Lăm vông. Múa Lăm tơi là một điệu múa tập thể truyền thống mang tính giao lưu duyên dáng của nhân dân Lào. Những sắc màu hoa văn trên những bộ trang phục thật đẹp, nụ cười ấm áp, Những đôi tay lượn thật khéo léo, các cô uốn mình cũng thật dẻo, những cái bắt tay thật chặt. Các cô gái đến trước mặt chúng tôi, nở nụ cười Chăm pa, nghiêng người chắp tay trước ngực mời múa. Tôi cười đáp “tôi chỉ biết hát, múa thì chịu thôi”. Các đồng chí bộ đội Lào giải thích và hướng dẫn cho chúng tôi nhảy khớp với điệu nhạc. Khi múa Lăm tơi, người nam có động tác đưa tay từ sau ra trước nhưng không được phép quá thắt lưng là để biểu lộ tình cảm thương mến muốn kéo người phụ nữ về với mình. Người nữ đưa hai tay múa trước ngực có ý rất muốn đi với anh nhưng là buổi ban đầu nên chúng em không thể không cảnh giác và bảo vệ vùng cấm. Cách giải thích của mấy anh bộ đội Lào chẳng biết có chính xác hay không nhưng nghe cũng có lý và hay hay. Trước những đôi mắt như biết nói của các cô gái Lào, chúng tôi mạnh dạn bước vào vòng Lăm tơi tự nhiên vui vẻ. Cánh bộ đội còn ngượng ngùng trong những bước chân đi, tay vẫn còn khô cứng nhưng chẳng ai trách cứ điều đó, bàn tay chúng tôi để cầm súng chiến đấu, bàn chân để hành quân đêm ngày qua những chặng đường xa đã dẻo dai lắm rồi. Chúng tôi cố gắng tạo không khí ấm áp hòa đồng, hòa nhịp với mọi người. Ở bộ đội hàng mấy năm trời, có lúc nào chúng tôi được giao lưu ý nghĩa như thế này đâu. Cánh lính chúng tôi chỉ đàn và hát, vỗ tay theo nhịp điệu là tuyệt vời lắm rồi, chiến trường còn gian khổ lắm, làm gì có thời gian để chuẩn bị những tiết mục văn nghệ công phu như thế này. Có buổi liên hoan vui như vậy, chúng tôi mới hiểu thêm được một phần về văn hóa của nước bạn. Một đất nước nổi tiếng với điệu múa mà không có dân tộc nào có được nét đặc sắc đó. Cánh lính ai cũng vui, những khó khăn mệt mỏi sau trận chiến dường như tan biến. Buổi gặp gỡ đơn sơ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi vậy nhưng thật thân thương. Sự ấm áp ấy đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng đẹp về các bạn Lào.
Nam Lào bước sang mùa mưa. Những cơn mưa ào ạt, trắng xóa cả một khoảng trời làm không ít những người chiến sĩ nhớ nhà, nhớ người yêu. Những cơn mưa dễ gợi nhớ đến quê hương, đến cầu ao, bến sông bến nước. Cơn mưa kéo dài làm cho các con sông con suối đầy ắp nước, như gột rửa đi phần nào khói lửa của chiến tranh cho bầu trời trong xanh, thanh mát. Nước mênh mông ắp đầy sự sống. Điều làm chúng tôi thích thú là sông suối ở đây rất nhiều cá, khiến cho thiên nhiên thơ mộng hiền hòa hơn. Dưới làn nước trong veo, chúng tôi nhìn thấy từng con cá bơi đi bơi lại, lái cái đuôi một cách điệu đà. Chiều chiều, khi hoàng hôn lãng đãng buông xuống những cánh rừng già ẩm ướt, cánh lính chúng tôi lại rủ nhau ra suối câu cá. Chịu khó ngồi một hồi cũng câu được một sâu cá khá dài đủ để cải thiện bữa ăn cho bộ đội. Mường Mày là một thị xã thanh bình. Chúng tôi ngày đi nghiên cứu địa hình, chiều tối rủ nhau ra suối câu cá, chưa phải ùng oàng đánh đấm gì cả. Anh em cũng có thời gian chăm sóc sức khỏe cho bản thân. Mặc dù không phải gian nan như trong chiến trường, không phải dùng đến vũ khí nhưng phải chuẩn bị tinh thần đánh giặc tại Nam Lào. Tôi đang cùng đoàn công tác đi nghiên cứu thực địa chuẩn bị đón đại quân sang thì nhận được lệnh về mặt trận Tây Nguyên tập huấn.

Tạm biệt Mường Mày yên tĩnh, tôi cùng ba đồng chí cán bộ tác chiến khác nữa trèo đèo lội suối vượt Trường Sơn về nước. Con đường đi dài đằng đẵng, anh em chúng tôi  mang theo lương thực thực phẩm, trên đường tiện đâu ăn đó. Ăn rồi uống nước,  lại tiếp tục hành quân. Chỉ có ba người thôi. Đoạn đường xa rồi cũng trở nên gần, cái mệt khi có những đồng đội mình cùng đi, cùng trải qua những khó khăn, không ai còn cảm thấy ngại ngùng nữa. Bàn chân chúng tôi hành quân theo con đường rừng cũng trở nên quen thuộc, tôi không thể đếm nổi mình đã đi qua bao nhiêu con dốc, vượt qua bao nhiêu ngọn núi và băng qua biết bao con suối. Mọi người quyết tâm về nước một cách nhanh chóng, ai cũng cảm thấy sốt ruột vì mọi người cũng đang chờ đợi chúng tôi. Đi hết mười ngày mới đến nơi. Chỉ sau một ngày ổn định nơi ăn chốn ở, chúng tôi tập trung nghiên cứu về kĩ chiến thuật đánh hầm ngầm, đánh hợp đồng binh chủng và phương pháp khắc phục vật cản trong đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Trong đợt tập huấn này không phải chỉ có cán bộ tác chiến trung đoàn 28 chúng tôi mà còn có cán bộ các đơn vị bạn như trung đoàn 40, 66, 95… Chúng tôi học lý thuyết và sau đó ra thao trường thực hành ngay. Học đến đâu, làm đến đó, không  trậm trễ. Chúng tôi là cán bộ tác chiến, có nhiệm vụ lĩnh hội để về huấn luyện cho đơn vị.
Dưới tán cây cổ thụ rậm rạp là thao trường thực hành. Không có những bài thực hành như thế thì khi vào thực tế trận đấu, chúng tôi làm sao có thể biết được những đường đi nước bước, cách phòng đánh trong từng nội dung và chiến thuật cụ thể. Trước mắt chúng tôi là những công sự được đào đắp, xây cất vững chắc. Tôi tưởng như được trở lại cái thời tân binh sôi nổi hào hứng. Cùng lăn lê bò toài, cũng chia quân xanh quân đỏ chiến đấu với nhau theo từng tình huống giả định. Mỗi một lần tập huấn, chúng tôi thấy mình cần phải học hỏi thêm nhiều hơn, những kĩ thuật tưởng chừng đơn giản nhưng lại rất khó khăn. Gần ba tháng tập huấn ở mặt trận, chúng tôi được bồi đắp thêm nhiều điều bổ ích về kĩ thuật và chiến thuật. Từ kinh nghiệm trận mạc mà mình đã trải qua đối chiếu với bài giảng của giáo viên, tôi thấy vỡ ra nhiều điều cần thiết. Trong chiến đấu, rõ ràng ngoài tinh thần ý chí, vũ khí trang bị ra, người lính cần phải thuần thục về kĩ, chiến thuật. Nó là khoa học và nghệ thuật quân sự dẫn đến hiệu quả trận đánh đạt kết quả cao và tiết kiệm được xương máu cho người lính. Từ các cuộc thảo luận giải quyết các tình huống, nhiều ý kiến của anh em đã được góp phần bổ sung thêm cho bài giảng được sát với thực tiễn chiến đấu hơn.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #38 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:52:49 pm »


Ấn tương sâu sắc còn lại trong tôi tới giờ là câu chuyện của Tư lệnh Hoàng Minh Thảo hôm ông tới thăm lớp tập huấn. Nhìn vị tư lệnh phong thái rất giản dị nhưng rất trang uy. Nghe tiếng đã lâu, bây giờ tôi mới được gặp vị Tư lệnh nổi tiếng của mặt trận Tây Nguyên này. Lính chúng tôi ai cũng hồi hộp và chăm chú nghe ông nói chuyện. Ông có vầng trán rộng, mắt sáng quắc và thông minh, đôi lông mày dài và rậm nhưng nụ cười thì thật là hiền từ. Tôi chú ý hình dáng của ông, một con người bình thường nhưng thật sắc sảo. Khi nói chuyện về các chiến sự, nhắc đến những chiến thắng của quân dân miền Nam và Tây Nguyên nét mặt ông tươi rói như truyền niềm tin cho anh em chúng tôi. Bằng cách nói mạch lạc, khúc triết của một vị tướng tài ba, cũng là nhà quân sự, ông phân tích về cục diện và thời cơ cách mạng đầy thuyết phục. Vị tư lệnh chỉ rõ những thuận lợi và những khó khăn của cách mạng miền Nam Việt Nam và chiến trường Tây Nguyên trong việc đánh bại chiến lược Việt Nam hóa hiến tranh. Bằng những cơ sở lý luận chính trị sắc sảo, quân sự vững chắc và thực tiễn phong phú, đồng chí Hoàng Minh Thảo đã giải thích có tính thuyết phục về sự tất thắng của cách mạng Việt Nam. Không có lối nói chung chung, hô hào, động viên suông hoặc lạc quan tếu. Nghe tư lệnh nói, anh em chúng tôi ai cũng thầm kính phục người chỉ huy của mình giàu kiến thức, hiểu biết rộng và nắm bắt rất sát hoàn cảnh tâm tư tình cảm của ngươi lính Tây Nguyên. Mọi người đều thán phục và hướng những ánh mắt chăm chú nghe, chăm chú theo dõi như uống từng lời nói. Biết bao ánh mắt đổ dồn về phía vị tư lệnh. Tôi ghi vào quyển sổ cẩn thận và chu đáo. Chúng tôi học được nhiều bài học cho bản thân và rút kinh nghiệm cho những lần chiến đấu tới. Quả thực, cầm súng chiến đấu có vẻ rất đơn giản nhưng còn phải có nhiều mưu trí hơn nữa thì mới giành thắng lợi được. Địch càng có nhiều  vũ khí hiện đại bao nhiêu thì ta càng phải sử dụng mưu trí bấy nhiêu, đó cũng là một thế mạnh trong cách quan sát và cách đánh của ta. Không có sức mạnh tập thể, không có những vị tướng chỉ huy, lãnh đạo đội quân tài tình thì trước sau cũng thất bại. Bài nói chuyện của vị Tư lệnh có nhiều điều bổ ích. Nhưng tôi rất ấn tượng khi nghe vị tư lệnh nói về các mưu lược dùng binh. Vị Tư lệnh đưa ra thuyết dùng binh thời Tôn Tử (Trung Quốc) rồi liên hệ với cách mạng  Việt Nam. Ông kể rằng: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có ý kiến đưa ra là ta nên sử dụng cách đánh: Đánh nhanh, thắng nhanh. Trong lúc đó cũng có ý kiến là nếu đánh theo cách này thì với tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, lực lượng của ta có chịu nổi không? Sau khi cân nhắc thận trọng, căn cứ vào tình hình thực tiễn địch- ta, cuối cùng ta lựa chọn cách đánh: đánh chắc, thắng chắc. Với cách đánh này ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Đây là cách dùng binh rất khoa học của ta. Sau đó phân tích: Người dùng binh phải có ba tố chất cơ bản: Một là mưu kế, hai là quyết đoán và ba là chọn đúng đối tượng. Và ông so sánh: về mưu kế, tướng lĩnh Sài Gòn thua ta ở mưu kế. Nghe đến đây, cánh lính chúng tôi cứ há hốc mồm như nuốt từng lời.

Giờ giải lao, Tư lệnh Hoàng Minh Thảo đi xuống hội trường bắt tay thăm hỏi anh em. Chỉ riêng cử chỉ này đã nói lên phương pháp tạo tâm lý cởi mở của vị Tư lệnh đối với cấp dưới thật tuyệt vời. Tôi không dấu được xúc động khi ông đi đến bắt tay tôi. Hai tay tôi nắm chặt bàn tay Tư lệnh và nhìn không chớp mắt. Trong cái nhìn của tôi có sự tôn trọng và ngưỡng mộ. Tư lệnh nhìn tôi và vỗ nhẹ vào vai thân mật hỏi:
- Đồng chí mình tên gì? Thuộc đơn vị nào? Tôi hơi bất ngờ. Tôi cứ tưởng vị Tư lệnh chỉ bắt tay thôi, ai dè ông còn hỏi tên tôi nữa.

Tôi đứng nghiêm trả lời:
- Báo cáo đồng chí Tư lệnh, tôi tên là Dương Thanh Biểu, trợ lý tác chiến của tiểu đoàn 1, trung đoàn 28.
Nghe tôi báo cáo, Tư lệnh Hoàng Minh Thảo thoáng nét đăm chiêu nói:
- Tiểu đoàn 1 của đồng chí vừa rồi đánh vây lấn ở Đắk Siêng? Đây là phương pháp đánh vây lấn đầu tiên ta vận dụng ở chiến trường Tây Nguyên đấy.

Thì ra vị Tư lệnh còn nắm rõ và nhớ từng cách đánh của mỗi đơn vị, chiến trường thì rộng mênh mông, vậy mà vị Tư lệnh không quên, thậm chí còn nhớ rất kĩ càng và sâu sắc.
- Này anh bạn trẻ, thế qua đợt tập huấn này, bạn thấy thế nào?
Tư lệnh đổi cách xưng hô làm cho tôi thấy gần gũi và mạnh dạn hơn, tôi không do dự, ánh mắt nhìn thẳng vào vị Tư lệnh đang đứng trước mặt, trả lời:
- Báo cáo đồng chí Tư lệnh! Tôi thấy rất bổ ích ạ. Về lý luận và thực tiễn cuộc chiến đấu là rất khả thi. Tuy nhiên trong thực tiễn, có thể còn nhiều tình huống đặt ra. Điều này đòi hỏi sự gan dạ, trí thông minh và bản lĩnh của người lính khi xử lý các tình huống. Trong đó công tác chuẩn bị chiến trường cũng phải được coi trọng!.

Thấy tôi trả lời còn lúng túng và hình như có chỗ dùng từ còn chưa chuẩn xác hoặc chưa sát với câu hỏi, đồng chí Tư lệnh tươi cười hỏi tiếp:
- Anh bạn trẻ có thể nói cụ thể hơn được không? Ta cứ trao đổi dân chủ mà. Có gì cứ nói thẳng ra để bổ sung cho bài giảng?

Tôi cảm nhận rõ hơn sự giản dị, hòa đồng của Tư lệnh, vì thế tôi cũng tin cậy hơn vị chỉ huy cao cấp, nên nói ra hết những băn khoăn về trận đánh ở Đắk Siêng. Hơn nữa, cơ hội được gặp gỡ và nói lên những băn khoăn của mình đối với vị Tư lệnh thật hiếm nên tôi thành thật nói về những khúc mắc của mình, để rút kinh nghiệm lãnh đạo anh em đánh chiếm ở những trận tiếp theo:
- Báo cáo đồng chí Tư lệnh. Khi chuẩn bị đánh vây lấn ở Đăk Siêng, trong buổi thảo luận trên sa bàn, chúng tôi có đưa ra ý kiến: xung quanh đồn địch là đồi trọc, bị đốt cháy không còn ngọn cỏ, vậy thì quân ta ngụy trang làm công sự như thế nào? Đồng chí cấp trên có giải thích: Đúng là địa hình Đắk Siêng rất trống trải nhưng khi máy bay địch đến bắn phá thì sẽ bị pháo phòng không của mặt trận và của trung đoàn khống chế. Thực ra, khi nổ súng thì máy bay địch đã làm chủ bầu trời và dễ dàng phát hiện ra trận địa của ta. Thứ hai là khi đánh sa bàn, cấp trên phổ biến Đăk Siêng chỉ có 6 hàng rào kẽm gai nhưng khi bộ đội phá hết 6 hàng rào ấy thì vẫn còn một hào chông và mấy hàng rào vướng chân nữa. Chính vì thế mà bộ đội bị thương vong nhiều mà không thể chiếm được lô cốt đầu cầu. Tôi nêu ra ví dụ này để nói rằng công tác chuẩn bị chiến trường là hết sức quan trọng.

Nghe tôi nêu tâm tư về trận đánh Đák Siêng, Tư lệnh thoáng chút trầm tư, ông gật đầu, nói:
- Trận đánh Đắk Siêng cho ta nhiều bài học bổ ích về chiến thuật đánh vây lấn, kĩ thuật khắc phục vật cản, đánh chiếm đầu cầu và nhất là công tác chuẩn bị chiến trường. Những kinh nghiệm này cần phải tổng kết thành các bài học cho bộ đội rút kinh nghiệm.

Sau buổi gặp gỡ, anh em nhà lính chúng tôi thỉnh thoảng vẫn còn bàn và tranh luận với nhau sôi nổi, mỗi người một ý, ai cũng đưa ra ý kiến mà mình cho là hợp nhất, tất cả đều làm cho mọi lý luận và thực tiễn được thông tỏ và cụ thể hơn.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #39 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:55:04 pm »

Chúng tôi dự lớp tập huấn được gần ba tháng thì về đơn vị tiếp tục huấn luyện cho tiểu đoàn. Lúc này tiểu đoàn 1 từ Lào về đóng quân tại Ngã ba Biên giới làm nhiệm vụ chỉnh huấn để chuẩn bị cho chiến dịch Xuân- Hè 1971. Đơn vị vừa học chính trị, vừa huấn luyện quân sự và được bổ sung quân số. Khí thế bộ đội ta đang lên. Tháng 2 năm 1971, tiểu đoàn 1, trung đoàn 28 nhận lệnh đi chiến dịch.

Cả tiểu đoàn tập trung vận chuyển gạo, thực phẩm, đạn dược, vũ khí chuẩn bị cho chiến dịch đánh cao điểm 1338 Ngọc Bờ Biêng. Mục đích của chiến dịch Ngọc Bờ Biêng là âm mưu của địch muốn đẩy lùi quân giải phóng khỏi ngã ba biên giới Việt- Miên- Lào. Ngày 19 tháng 5 năm 1971, tiểu đoàn 1 được lệnh chiếm lĩnh trận địa cao điểm 1338 Ngọc Bờ Biêng. Là trợ lý tác chiến tiểu đoàn, tôi được cử đi cùng đồng chí Vũ Khắc Đua, D1 trực tiếp chỉ huy đại đội 1. Cũng xin được nói thêm, lực lượng đánh chiếm cứ điểm 1338 gồm tiểu đoàn 1 và đại đội 19 đặc công trung đoàn. Do địa hình phức tạp, nơi tiếp cận trận địa quá dốc, hỏa lực địch rất mạnh nên khi tổ chức đánh chiếm ta gặp không ít những khó khăn, bộ đội bị thương vong nhiều. Từ ngày 19 tháng 5 đến ngày 1 tháng 6 năm 1971, tiểu đoàn 1 tổ chức đánh chiếm 2 lần nhưng do địch tập trung hỏa lực bắn ác liệt vào cửa mở, pháo lớn từ Tân Cảnh bắn trúng đội hình tiểu đoàn nên không dứt điểm được và bộ đội bị thương  vong không ít.

Lúc này, địch đổ bộ hai tiểu đoàn dù để ứng cứu cho cao điểm 1338. Tiểu đoàn 1, nhận được lệnh lui quân để tiêu diệt quân dù. Một tình huống bất ngờ xảy ra: trong lúc tiểu đoàn đang tổ chức tiến công tiểu đoàn dù địch thì đại đội 2 bị mất liên lạc. Thủ trưởng tiểu đoàn cử tôi và anh Hoàng Ngọc Loan đi tìm đại đội 2. Cả trung đội trinh sát của tiểu đoàn cũng bị thương vong nặng. Tôi và anh Loan căn theo bản đồ hướng đại đội 2 cắt góc phương vị luồn rừng hành quân. Khi chúng tôi leo lên đến đỉnh dốc thì gặp tiểu đoàn dù địch bắt đầu rút lui về đồi Tròn. Chờ cho địch rút lui, tôi và anh Loan khẩn trương vượt đỉnh đồi tụt xuống dốc một đoạn. Khi thấy bên kia suối có tiếng động, không hiểu quân dù hay đại đội 2. Sau khi tôi ra ký hiệu và mật khẩu: huýt sáo hai tiếng, vỗ vào báng súng hai cái. Bên kia ra ký hiệu như vậy, đúng là đại đội hai đây rồi. Tôi truyền đạt mệnh lệnh của tiểu đoàn cho đại đội hai mau chóng hành quân chiếm lĩnh trận địa tại đồi Tròn để đánh quân dù. Tuy nhiên các ngày tiếp theo các đợt tấn công của tiểu đoàn gặp rất nhiều khó khăn.

Lịch sử trung đoàn 28 ghi: “17 giờ ngày 5 tháng 6 năm 1971, tiểu đoàn 1 tấn công trên ba hướng tây bắc, đông bắc và đông nam vào cụm địch ở đồi Tròn. Nhưng ta sử dụng chiến thuật không phù hợp, lực lượng phân tán, hiệp đồng không chặt, đánh từ xa… nên trận đánh không đạt kết quả, lại bị địch đánh chặn làm nhiều chiến sỹ thương vong… Sau một số trận vừa và nhỏ, tối ngày 14 tháng 6 năm 1971 lực lượng của ta bị tiêu hao nặng… tiểu đoàn 1 và 2, trung đoàn 28 có 268 đồng chí thương vong”.

Đúng lúc mất mát, gian khó này, tôi được bổ nhiệm làm đại đội trưởng đại đội 1. Bấy giờ cả đại đội chỉ còn mười hai tay súng. Sau chiến dịch Xuân Hè 1971, đơn vị chúng tôi lại được lệnh hành quân về Đắk Son- Ngã ba Biên giới để củng cố, huấn luyện. Đại đội 1 được bổ sung thêm quân số, cả đơn vị có 95 đồng chí. Trong thời gian huấn luyện này, đại đội 1 chúng tôi vinh dự được đồng chí Vũ Đình Thước, trung đoàn phó trực tiếp chỉ đạo. Tôi nói với các đồng chí trong chi ủy và ban chỉ huy đại đội (Tôi là Đại đội Trưởng, anh Dinh là chính trị viên, anh Bê là Đại đội Phó, anh Chương là Chính trị phó) coi đây là thời cơ để củng cố đơn vị. Chúng tôi phân công từng người đi sát các trung đội, tiểu đội để động viên tổ chức bộ đội huấn luyện tốt.

Có lần, sau bữa cơm chiều đạm bạc (nói là cơm nhưng chủ yếu là sắn và măng rừng), trung đoàn phó Vũ Đình Thước hỏi tôi:
- Đồng chí đánh giá kết quả huấn luyện đợt này như thế nào?
Tôi nghĩ đây là câu hỏi không chỉ nhằm đánh giá trình độ kỹ chiến thuật của bộ đội mà đồng chí chỉ huy còn muốn hiểu rõ vai trò của cán bộ đại đội chúng tôi thế nào. Vừa rót nước cho trung đoàn phó, tôi vừa trả lời:
- Báo cáo thủ trưởng. Đây là đợt huấn luyện tương đối dài và bài bản hơn trước, nhất là chiến thuật chiến đấu trong đội hình hợp đồng binh chủng. Đặc biệt lần này có sự chỉ đạo, uấn nắn sát sao của thủ trưởng nên ý thức trách nhiệm, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ được nâng cao hơn, hăng hái hơn.

Trung đoàn phó Thược chiêu ngụm nước lá rừng, thong thả nói:
- Tôi thấy anh em đại đội 1 có nhiều cố gắng, từ việc chuẩn bị học cụ, thao trường đến chấp hành giờ giấc. Tuy nhiên, tôi cũng thẳng thắn nói với các đồng chí rằng so với yêu cầu của chiến dịch sắp tới thì chưa đạt. Đại đội 1 phải luôn xác định mình là đại đội chủ công của tiểu đoàn và sẽ làm nhiệm vụ khó khăn nhất của chiến dịch. Do đó các đồng chí cần phải học tập rèn luyện tốt hơn nữa.

Qua cuộc trò chuyện với Trung đoàn phó Vũ Đình Thước, tôi nhận thấy Đảng ủy và thủ trưởng Trung đoàn rất quan tâm và đặt niềm tin lớn vào đại đội 1. Nhiệm vụ của đại đội tôi trong chiến dịch sắp tới rất quan trọng và đầy thử thách, đòi hỏi cán bộ chiến sĩ trong đơn vị cố gắng nỗ lực nhiều hơn nữa mới hoàn thành được.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM