Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:53:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Một thời trận mạc - Hồi ký của CCB Dương Thanh Biểu  (Đọc 41892 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #10 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:14:42 pm »

Nghe tôi trả lời, ông bước ra sân. Tôi thấy bước chân của Cha ngày càng yếu dần. Dạo này đôi mắt Cha sâu quầng như mất ngủ. Cha lặng lẽ bước đi vòng quanh sân nhà. Cũng lúc này, chị cả Liên đi đâu về. Thế là có người ủng hộ cho tôi rôi. Nếu Cha còn lưỡng lự, chị tôi nói thêm vào chắc Cha đồng ý. Tôi kéo tay chị vào nhà như có việc quan trọng. Tôi thưa chuỵên với chị về ý tưởng đi bộ đội. Vừa nghe tôi nói, chị tôi đã quắc mắt:
- Cậu có hâm không đấy? Cậu không thương Cha, thương chị đã mất công nuôi nấng, dạy dỗ cậu ăn học à?

Nhà ta chỉ có cậu là con trai, theo chính sách cậu không phải đi bộ đội đâu. Hiểu chưa? Bao năm vất vả, cả gia đình dồn hết sức lực, tất cả các chị, các em không đi học, tập trung cho cậu học hành nên người thế là đi toi à? Sao cậu học hành như vậy mà ngu thế?
 
Chị Liên làm cho một hồi nghe thật chát chúa. Tôi cũng không ngờ chị cả Liên lại là người phản đối kịch liệt việc tôi đi bộ đội như vậy. Tôi thấy vừa bực mình vừa mất hết hy vọng. Tôi cự lại chị:
- Sao chị lại nói như vậy. Chị không tôn trọng em tẻo nào cả. Em rất quý chị mới hỏi chị, mới xin ý kiến chị. Chị không đồng ý thì nói cho có lý, sao lại chửi em ngu? Thế hiện nay các thanh niên đi bộ đội như em đều là ngu xất? Em đã lớn rồi, chị không được nói với em như vậy. Thấy tôi nói to, chị Liên vào giường nằm. Có lẽ tôi đã làm chị bực bội. Nghĩ vậy, vừa bực vừa thương cho chị quá.

Thấy hai chị em chúng tôi cãi vã nhau, Cha tôi vào nhà. Cha ngồi vào chiếc phản, tay vớ lấy chiếc bát điếu, châm lửa, rít một hơi dài. Khói thuốc lào lan toả khắp căn phòng. Sau khi uống ngụm nước, Cha tôi gọi hai chị em ra ngồi bên cạnh. Cha nhìn chúng tôi rồi nói:
-  Cha cũng tính rồi. Cha rất thông cảm với hai chị em. Bây giờ con cũng đã lớn. Nếu con đã suy nghĩ kỹ và quyết tâm đi bộ đội thì Cha đồng ý. Nhưng đi bộ đội là gian khổ đấy, đã đi là phải hoàn thành nhiệm vụ!.
   
Nghe Cha nói như mở cờ. Tôi mừng quá. Tôi ôm lấy vai Cha, cảm ơn Cha. Cha nhìn tôi và nói tiếp:
- Đi bộ đội cũng là dịp được rèn luyện, thử thách, con à. Bộ đội là trường học, là nơi đào tạo ra những con người có ý thức tổ chức kỷ luật, biết thương yêu nhau, biết vượt qua những khó khăn nhất. Được đóng góp sức mình vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng là niềm tự hào của lớp lớp thanh niên ngày nay!…Nghe Cha nói một hồi dài như chính trị viên vậy. Tôi rất tự hào. Chị cả Liên ngước nhìn Cha, nước mắt lưng tròng.
     
Tối đó, tôi thao thức mãi không ngủ được. Thế là sắp được đi bộ đội rồi. Ôi. Cám ơn Cha, cám ơn chị thật nhiều. Các thầy, cô và bạn bè của tôi đều ngạc nhiên trước những quyết định đi bộ đội của tôi, nhưng không ai ngăn cản. Tất cả đều thấy được cuộc chiến tranh phía trước là gian khổ, hy sinh và rất cần sự cống hiến của tuổi trẻ. Họ biết trong cuộc chiến tranh, sống mái với quân thù, những việc làm như tôi cũng rất đỗi bình thường như bao người thanh niên khác. Đi lính trong dịp này cũng là niềm vinh dự, tự hào. Xóm trên, xóm dưới, các lớp học cũng vậy, thanh niên nhập ngũ nhiều lắm. Đài, báo đưa tin có nhiều thanh niên chưa đủ 18 tuổi còn khai tăng tuổi, không đủ cân còn giấu cả đá vào người để đủ cân trúng tuyển. Nhiều người còn viết đơn tình nguyện bằng máu để xin được vào miền Nam đánh Mỹ. Những dũng sĩ diệt Mỹ vẫn còn ở tuổi thiếu niên, những chú bé liên lạc đưa thư băng qua những cánh đồng, băng qua những xóm làng một cách mưu trí, dũng cảm. Cụ già còn lên trận địa trực chiến bắn cháy tàu bay Mỹ. Những mẩu chuyện mà báo đài đưa tin khiến mỗi thanh niên như chúng tôi được đắm mình trong không khí hào hùng và oanh liệt của thời đại.

Hôm có giấy báo trúng tuyển bộ đội, tôi và Loan thật sung sướng. Cuộc đời lúc này như bước ngoặt và có ý nghĩa vô cùng. Chúng tôi cảm thấy mình lớn lên rất nhiều. Cả ngày, tôi vui mừng, giống như mình đã làm được một việc gì đó có ý nghĩa lắm. Cùng trúng tuyển với tôi trong đợt này có hàng trăm thanh niên trong đó chủ yếu là học sinh cấp ba huyện Nam Đàn. Riêng trong xã Nam Lộc đã có các bạn Loan, Liêm, Nam cùng đi bộ đội. Chúng tôi cùng lứa tuổi, cùng học với nhau và cùng đi bộ đội đợt này. Ngày lên đường càng gần, tôi tranh thủ thời gian để làm từng công việc chuẩn bị. Lúc này, tôi muốn tranh thủ giúp Cha, đỡ chị nhiều việc hơn. Chị và Cha thì dành thời gian và mọi thứ cho tôi. Tôi phải dành cả buổi sáng để gói ghém sách vở, cất kĩ trên gác nhà với ý định đi bộ đội về sẽ học tiếp. Những cuốn sách toán học, sinh vật, văn học, địa Lý, lịch sử, hoá học với biết bao nhiêu kiến thức in đậm trong đầu tôi từng bài giảng của thầy. Tôi có đi bộ đội nhưng những bài học và những công thức toán – lý – hóa chẳng bao giờ tôi quên được. Khi kết thúc chiến tranh, tôi sẽ tha hồ mà nghiền ngẫm sách vở, không còn sợ bom rơi trên đầu, không phải đi học đêm và chạy toán loạn vì sợ ma nữa.

Ngày ấy, chúng tôi nhìn chiến tranh có cái gì đó hơi lãng mạn và thi vị. Âm hưởng của cuộc chiến tranh phả lại trong từng lời thơ, bài hát rất đỗi hào hùng, giục giã chúng tôi ra trận. Cái khí thế ấy mạnh mẽ vô cùng. Chết chóc đau thương, mất mát bị chìm khuất sau những giai điệu hùng tráng ấy. Không phải là khi xung phong đi bộ đội chúng tôi không nghĩ đến sự hy sinh, nhưng sự hy sinh lúc đó đối với suy nghĩ của tôi là không đáng nói, là không bàn tới. Tôi chỉ thấy cuộc chiến tranh đang diễn trước mắt là những gì hùng tráng, tự hào và đẹp đẽ nhất. Cũng lúc này, đâu đâu thanh niên cũng thi nhau ngâm bài ca Xuân 68 của nhà thơ Tố Hữu:
“Hoan hô anh Giải phóng quân.
Kính chào Anh con người đẹp nhất.
Lịch sử hôn Anh chàng trai chân đất.
Sống hiên ngang bất khuất trên đời.
Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi.
Một cây ná, một cây chông, cũng tiến công giặc Mỹ.
Không tự ngắm mình. Anh chẳng hay đâu.
Hỡi chàng trai dũng sĩ.
Cả năm châu, chân lý đang nhìn theo.
Bóng Anh đi…và vành mũ tai bèo.
Của Anh đó.
Ôi cái mũ vải  mền dễ thương như một bàn tay nhỏ.
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành…”
[/i]
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #11 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:15:41 pm »

Bởi thế, tôi rất tin mình sẽ chiến thắng trở về. Thực ra sau này, càng vào sâu trong trận tuyến, tôi mới rõ cái tuổi mười bảy, mười tám ấy, chỉ mới nhìn thấy cuộc chiến ở trên bề mặt, chỉ thấy được những hứng khởi trước mắt. Cái sâu xa, cái giá phải trả của chiến thắng lớn lao vô cùng và không gì sánh được.

Trước hôm tôi lên đường, Cha bảo tôi sang ngủ chung với ông. Có lẽ Cha muốn dặn dò tôi đôi điều trước khi xa nhà và cho đỡ nhớ con. Bao nhiêu năm rồi, kể từ ngày lớn lên, có mấy khi tôi nằm gần Cha đâu. Tôi bỗng thấy thương Cha vô cùng. Cha cũng là người lính, là người trải qua bao đau khổ. Tôi lại như đứa trẻ nhỏ lên năm, lên sáu tuổi suốt ngày quây quần bên Cha. Ngửi cái mùi mồ hôi mặn mòi quen thuộc của Cha tôi chợt thấy bùi ngùi quá. Ngày mai tôi không còn được hít hà cái mùi mồ hôi quen thuộc này nữa, không được nhìn thấy bóng dáng Cha gầy gò tất bật công việc từ sáng tới chiều...Tôi sẽ phải xa mái nhà quen thuộc và thân yêu. Căn nhà ấy, có từng cây cột, cánh cửa, bậc thềm, đều in dấu những kỉ niệm gia đình tôi. Cái xà nhà kia còn đầy đủ các công thức toán học, hoá học, lý học mà tôi đã viết lên đó để học thuộc lòng làm sao quên được. Trong nhà có những đồ vật để ở đâu và để ở vị trí nào tôi đều nhớ rõ ràng lắm. Tôi không quên được mùi ổi chín thơm phức, mùi mít chín ngọt ngào. Tôi cũng chẳng quên được mùi khói bếp bốc lên mỗi sớm tinh mơ, những âm vang quen thuộc của quê hương trong mỗi buổi chiều tà trước khi nắng nhạt dần: tiếng lốc bốc, tiếng vịt con chòn chọt, tiếng ếch nhái, chão chuộc kêu trong đêm, đặc biệt là hít cái không khí trong lành và thanh bình của làng Ngũ Phúc thân yêu.

Tôi như một đứa trẻ, quay nghiêng người ôm lấy lưng Cha. Tôi đã là chàng trai khỏe khoắn và cao lớn hơn Cha, tôi không còn nằm lọt thỏm trong vòng tay Cha  như ngày nhỏ nữa. Tôi và Cha nằm vừa đủ tấm phản. Tôi nghe rõ tiếng Cha thở dài, nói:
- Con đi, Cha chỉ mong sao cho chân cứng đá mềm, được trở về đoàn tụ với gia đình.
Tôi nằm im. Tay tôi đặt nhẹ lên ngực ông như muốn Cha trao thêm hơi ấm cho mình. Nghe Cha nói, Cha dặn, tôi thấy thương ông quá. Tôi  xúc động, nuớc mắt tuôn trào nhưng tôi cố úp mặt xuống phản không phát ra tiếng nấc. Cha gỡ nhẹ tay tôi rồi ngồi dậy, ông nhìn tôi như dồn nén cả tình thương cho con mình, ông đi về phía bàn thờ Mẹ tôi. Ông thắp mấy cây hương thơm rồi lẩm nhẩm nói điều gì đó. Cha đang cầu khấn Mẹ phù hộ cho tôi được bình an khi ra mặt trận. Mùi hương thơm ngào ngạt như linh hồn Mẹ về, làm tôi càng nhớ đến Mẹ hơn.
 
Chờ cho Cha thắp hương xong, tôi cũng theo Cha thắp hương cho Mẹ: “Mẹ ơi, xa nhà, con nhớ và yêu thương tất cả mọi người, nhưng cuộc chiến sắp kết thúc rồi, con muốn góp công sức nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại. Con cũng đã lớn khôn rồi, phải không Mẹ? Mẹ phù hộ độ trì cho con nhé. Mẹ cũng phù hộ độ trì cho Cha, cho các chị con cùng gia đình ta gặp nhiếu may mắn!.” – Tôi thầm thì nói những điều đó khi nhìn lên bàn thờ Mẹ. Hình ảnh Mẹ lại chập chờn ẩn hiện trong tôi. Trong cái đêm ngát mùi hương thơm, nhìn Cha, ngắm ảnh Mẹ, nước mắt tôi lại chảy dài trên gò má.
   
Tôi nghe rõ tiếng cựa mình bên giường của các chị em. Đêm nay có lẽ không ai chợp mắt nổi. Ai cũng lo lắng cho tôi. Chị gái tôi thì nước mắt ngắn dài vì nghĩ sẽ phải xa tôi. Bây giờ chị không phải lo cho tôi nữa nhưng nhớ thương thì hơn thế nhiều. Tôi thương chị lắm. Công việc nhà cửa, ruộng vườn bây giờ đổ dồn lên đôi vai chị. Cả cuộc đời con gái chị dồn hết cho tôi.
   
Tôi đi xa nên các chị em trong gia đình, họ hàng chuẩn bị cho nhiều thứ. Nào chiếc khăn lau mặt, kim chỉ, lọ dầu xoa, sổ tay, giấy bút... cả những gói kẹo chanh vừa mua ngoài hợp tác xã. Trong con mắt các chị thì tôi vẫn là cậu ấm bé bỏng. Xa gia đình tôi nhớ lắm, chắc mọi người ở nhà cũng nhớ tôi không kém. Điều mà chẳng ai dám nói ra lúc đó nhưng vô cùng quan trọng và ám ảnh mọi người là trong số rất nhiều những người ra mặt trận thì có được mấy người trở lại đâu. Số báo tử trong xã ngày một nhiều. Tôi lại là cậu con trai duy nhất trong gia đình nữa. Tôi cũng không quên nhờ chị và các em, thắp những nén nhang vào ngày giỗ Mẹ, vì khi ấy ở chiến trường xa xôi, tôi không thể về được. Hy vọng Mẹ sẽ phù hộ độ trì cho tôi gặp nhiều may mắn nơi chiến trường xa tít tắp.
     
Xen lẫn vào giữa hình ảnh của Cha và chị tôi là bóng dáng gương mặt của một người bạn học cùng lớp với tôi mà tôi không thể quên được. Thoa. Cô bạn gái hiền lành, xinh xắn ngồi trước bàn tôi. Tôi và Thoa biết nhau từ khi chúng tôi bước vào trường cấp III Nam Đàn 1. Tôi ấn tượng về Thoa ngay từ buổi đầu tiên đi khai giảng năm lớp 8 (năm đầu tiên của cấp III). Khi xếp hàng, tôi đứng sau một cô gái dáng người mảnh mai, giản dị, có khuôn mặt tròn và nước da trắng hồng. Cô bạn chưa quen quay đầu lại phía sau nhìn tôi cười hồn nhiên, đôi mắt đen láy, làm tôi cứ nhớ mãi giây phút ban đầu ấy! Cái hồn nhiên, trong sáng vô tư của tuổi học trò cứ quấn quýt bên tôi. Từ hôm đó trở đi,  thỉnh thoảng đến lớp chúng tôi vẫn nói chuyện với nhau. Sau này quen nhau nhiều hơn, hỏi ra tôi mới biết Thoa là em của một thầy giáo ở trong trường, quê ở huyện Hưng Nguyên theo anh sơ tán lên Nam Đàn. “Con gái Hưng Nguyên đẹp hè”- Mấy cậu bạn trong lớp cứ bí mật kháo nhau thế, khiến cho Thoa đỏ mặt. Tôi chơi thân với Thoa ngay từ buổi đầu tiên ấy, cứ như là đã quen nhau trước khi vào trường. Chúng tôi là bạn học cùng lớp với nhau, hồn nhiên học tập và vui đùa sôi nổi. Trong lớp, Thoa chăm học, lại hiền lành nên bạn bè rất quí mến, hơn nữa Thoa là người bạn từ huyện khác đến, phải xa nhà nên các bạn luôn dành cho Thoa một tình cảm, một sự ưu ái riêng. Lớp học chúng tôi vui lắm, lúc nào cũng rộn rã tiếng cười. Nhất là những buổi sinh hoạt hay lao động, mỗi người một tay, vừa làm vừa tạo không khí vui vẻ. Cánh nam nhi chúng tôi thì làm những việc lớn, còn các bạn gái chân yếu tay mềm thì làm những việc nhẹ hơn. Thấy việc là cùng làm và cùng giúp đỡ nhau. Những cậu con trai cũng muốn thể hiện sức mạnh của mình nên nhiệt tình làm giúp các bạn gái, chẳng có buổi sinh hoạt nào là chúng tôi không trêu nhau, tiếng cười, nói râm ran làm cho công việc trở nên nhẹ nhàng và khẩn trương hơn.
   
Cũng thật lạ, đến năm học lớp 9 thì giữa tôi và Thoa có một tình cảm đặc biệt, rất khó diễn tả bằng lời. Lúc này tôi được bầu lại làm Bí thư chi đoàn  lớp. Mỗi lần lớp có lịch sinh hoạt đoàn là tôi đứng lên chủ trì. Có hôm đứng diễn thuyết, vô tình tôi thấy Thoa ngồi dưới với đôi mắt đen láy nhìn tôi thật trìu mến, dịu dàng và che chở. Tôi mơ hồ nhận ra trong ánh mắt trong trẻo ấy có một cái gì đó khác hơn với tình bạn thông thường. Lúc đó, tự nhiên tôi thấy hồi hộp lắm, chỉ sợ đỏ tai và nóng bừng mặt trước lớp sẽ bị mọi người trêu. Có phải Thoa quí mến tôi hơn những người bạn trai khác không? Tình yêu ư? Không phải thế. Chúng tôi chưa nói với nhau một điều gì cả. Chưa bao giờ có những giây phút hò hẹn nói với nhau những lời yêu thương. Bãi cỏ xanh mướt và ánh trăng lung linh vẫn là của muôn người. Chúng tôi chỉ là những cô cậu học trò vô tư và tinh nghịch ở lứa tuổi “nhất quỉ nhì ma…” mà thôi. Thoa học giỏi văn, những bài văn của Thoa viết lời văn chau chuốt và nhẹ nhàng lắm, thầy giáo thường khen Thoa viết văn sâu sắc và giọng văn ấm áp. Thoa thường được đọc những bài văn hay trước lớp. Mỗi lần Thoa đọc bài văn, cứ cuốn hút tôi một cách say sưa. Khi đó tôi thường nhìn Thoa một cách cảm phục, tôi cố gắng mà chẳng khi nào vượt được điểm văn của Thoa. Tôi có khiếu học các môn tự nhiên hơn. Chúng tôi thường xuyên trao đổi bài vở với nhau, bởi vậy tình bạn giữa chúng tôi ngày càng thân thiết hơn. Tình bạn ư? Không phải vậy, hình như còn cao hơn thế! Hai người rất khó nói ra tình cảm ấy, mà nói ra rồi lại sợ một điều gì đó. Mỗi lần ngồi học bên Thoa, mùi thơm nhè nhẹ phảng phất hương hoa bưởi, bồ kết toả ra từ mái tóc đen nhánh, mượt dài và hơi ấm lan sang đôi má ửng hồng khiến tôi thấy bâng khuâng xao xuyến. Làn hương từ mái tóc dài toả ra từ cô bạn xinh đẹp, thông minh làm cho những cậu con trai mới lớn như tôi thấy không thể không rung động. Dù đó chỉ là sự rung động của những nhành lá non tơ trước làn gió đầu xuân man mác. Chỉ vậy mà hương vị ngọt ngào của nó còn đọng lại trong kí ức của tôi đến tận bây giờ. Tôi không sao quên được những giây phút xao động lòng mình như thế. Hôm nào không được ngồi học cùng với Thoa, tôi cảm thấy buồn, thấy nhớ, thấy lòng mình trống vắng một cái gì đó. Ngày nào đi học, nhìn thấy Thoa là tôi thấy vui, thấy cuộc đời ắp đầy ý nghĩa. Em khiến cho tôi có trách nhiệm với việc học hành và tu dưỡng đạo đức hơn.

Tôi còn nhớ, hồi đó Thoa trọ gần trường học. Thỉnh thoảng có những buổi học thể dục, lũ con trai chúng tôi đùa nghịch, khát nước nên thường rủ nhau vào nhà Thoa trọ để xin nước uống. Cả bọn kéo nhau đi như một đoàn tàu, đứa nào cũng mồ hôi nhễ nhại, ngần này người khát nước, không biết nhà Thoa có đủ nước cho bạn bè uống không- chúng tôi hỏi Thoa thế và Thoa bao giờ cũng vui vẻ khi thấy bọn bạn trai tới nhà, trong đó có tôi. Thoa chào tất cả mọi người, nhưng ánh mắt thân mến nhất vẫn dành cho tôi. Tôi sung sướng khi nhận ra điều ấy và hạnh phúc vô cùng. Cái nhìn của em hướng về tôi, luôn cho tôi cảm giác bất chợt, gợi niềm thương nhớ. Cũng đã mấy lần tôi thao thức không sao ngủ được khi nhớ lại ánh mắt đằm thắm mà người bạn gái trao cho chiều nay. Có cái gì bồi hồi quá. Tôi nhớ đến Thoa nhưng chỉ trong những suy nghĩ lặng lẽ một mình. Nhiều lúc, tôi cứ ước rằng con đường đến trường của Thoa gần với nhà tôi thì hai đứa tôi sẽ được đi bên nhau để có dịp trò chuyện với nhau thật nhiều, tôi sẽ được làm thằng con trai che chở cho những đoạn đường Thoa đi học đêm về mà không sợ ma. Kỷ niệm về Thoa ngày càng sâu nặng và chiếm lĩnh trái tim tôi nhiều hơn. Tuy vậy, tôi vẫn ngại ngùng không dám thổ lộ điều gì với Thoa. Hai đứa chúng tôi cứ sống vô tư và gắn bó với nhau như thế. Thoa rất quan tâm đến mọi người. Một lần tôi bị đau, chân sưng vù lên; gặp Thoa, tôi vờ như không có chuyện gì nhưng Thoa vẫn thường xuyên hỏi thăm vết đau của tôi và còn mách tôi bài thuốc lá để chữa nữa. Em nói rằng: “Em hỏi mẹ cách chữa vết đau đó”, khiến tôi nhận ra tình yêu thương thầm kín từ nơi em cho tôi.
 
Chúng tôi rụt rè, vấn vương, tơ tưởng mong manh của lứa tuổi học trò na ná như thứ tình cảm của Pa ven- Tô nhi a trong “Thép đã tôi thế đấy”- nghĩa là nó rất lãng mạn và rất tiểu thuyết. Nó nhẹ như làn gió mai khẽ lay bông hồng đầy hương sắc. Hình như trong trái tim run rẩy của mỗi đứa đã có lúc ngân lên những cung bậc mới mẻ để rồi khi xa vắng nhau con tim lại hồi hộp rộn ràng, thổn thức mong sớm được gặp lại. Thực ra, sau này tôi mới rõ, là con gái- Thoa dành cho tôi tình cảm chân thực và sâu sắc hơn nhiều. Trái tim trong trắng của Thoa đã hướng về tôi, cùng chung nhau nhiệm vụ học tập và chia sẻ với nhau những thiếu thốn mất mát của một người bạn sớm mồ côi Mẹ từ nhỏ. Tôi không dễ dàng nhận ra điều đó, chỉ nghĩ tới em với một tình yêu trong sáng mà thôi, tôi cũng chưa có gì tỏ rõ sự quan tâm bằng tình yêu đối với Thoa. Nhưng nỗi nhớ em thì tôi không thể giấu lòng mình được. Hai đứa chúng tôi cứ thế mà gắn bó với nhau, không một lời ngỏ, không một lời thề thốt thương yêu nhưng luôn luôn sống cho nhau. Sự có mặt của Thoa bên cạnh tôi ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu Thoa là buổi học như thiếu đi cái linh hồn trong tôi. Xa là thấy thương thấy nhớ, vắng là thấy buồn, thấy trống vắng trong tim.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #12 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:17:38 pm »

Tôi ngồi dậy nhẹ nhàng bước ra sân. Màn đêm đẫm hơi sương đang loảng dần ra. Không gian sáng sớm của mùa xuân hơi lạnh như chạm nhẹ vào làn da. Giờ này, quê tôi nhà nào cũng có người dậy sớm để nấu cơm ăn, lo việc đi làm đồng. Tiếng gà đua nhau gáy rộ lên trong xóm. Hoa cau thoang thoảng tỏa mùi thơm nhẹ nhàng xuống sân nhà. Tôi thích cái mùi hoa cau này lắm, những ngày mùng 1 hay ngày rằm, dưới nén nhang thắp cho Tổ tiên và thờ Mẹ, chị tôi lúc nào cũng bẻ một cành hoa cau đặt lên bàn thờ. Hoa cau vàng trắng, hoa giống như những hạt lúa trổ bông dày. Tôi khẽ hít mùi thơm man mác ấy.
   
Cũng lúc này chị tôi dậy nấu cơm. Mùi thơm của khói rơm pha lẫn làn sương mỏng bay là là trên bếp làm cho con người thêm sảng khoái. Chắc hôm nay chị cho cả nhà ăn tươi thì phải. Mùi mỡ phi với hành thơm ngào ngạt. Tôi nhớ lại những ngày tôi bắt chước chị thổi cơm, khói rơm bay làm tôi cay sè cả hai con mắt, chẳng nhìn thấy gì, tôi đành la om sòm trong bếp và gọi chị vào. Chị nhìn tôi vừa cười. Chị làm tôi xấu hổ quá. Về sau tôi mới biết là khi đun bếp, mình vớ phải nắm rơm bị ướt. Tôi thấy căn bếp ngày càng cũ kĩ, cửa ra vào đã không có cánh mà còn quá nhỏ và thấp. Chiều cao người tôi ngày càng dài ra, cho nên gần đây, mỗi lần ra vào bếp, tôi bị cộc đầu, nhiều chỗ trên mái bếp có thể nhìn thấy cả trời. Đã mấy lần Cha chuẩn bị sửa gian bếp cho đàng hoàng mà không làm nổi. Có lần tôi đun bếp bị va vào đầu sưng to lắm. Tôi có nói với Cha: “Cha không mau sửa bếp thì có ngày con vỡ đầu đấy”. Nghe tôi nói, Cha mỉn cười gật đầu đồng ý nhưng đến nay cũng chưa có điều kiện để sửa lại cái bếp. Tôi có ý định khi đi bộ đội về, chưa làm được nhà thì cũng lợp lại cho Cha, cho chị căn bếp đàng hoàng để vào ra được thoải mái, không bị mưa ướt củi, ướt rơm đun.
   
Tôi vừa dạo quanh sân vừa nhìn ngôi nhà nho nhỏ của tôi như cố nhớ lại những hình ảnh thân yêu, đầm ấm, quen thuộc nhất. Chỉ còn thời gian ngắn nữa thôi là những hình ảnh về ngôi nhà, về quê hương sẽ chẳng còn hiển hiện nữa. Thay vì là cảnh bom rơi đạn nổ, cảnh khói lửa mịt mù. Thời điểm này, máy bay giặc hoạt động cũng thưa hơn. Không gian như lắng xuống, yên tĩnh. Tôi lại nhớ đến em. Đêm qua Thoa có ngủ được không? Em có buồn không khi tôi phải xa em để ra chiến trận? Em có còn mang trong mình những kỉ niệm đẹp đẽ êm đềm của hai đứa không? Khi tôi vào chiến trường, ra trận mạc thì em sẽ ra sao? không còn nhìn thấy tôi trong lớp học, không còn thấy tôi hoà vào đám bạn trai vào xin nước uống, hai đứa không còn ngồi học ôn bài cùng với nhau...em có buồn không? Những bài toán khó, không giải được em sẽ ngồi ngẫm nghĩ thật lâu, rồi lại nhớ đến anh ư? Máy bay giặc Mỹ sẽ ném bom nhiều hơn. Em về nhà thăm mẹ rồi lại lên trường học, qua bao trọng điểm bắn phá ác liệt của máy bay sẽ như thế nào? Thời buổi chiến tranh em đi đứng cẩn thận, nghe em. Máy bay giặc chẳng từ ai đâu em ạ. Riêng tôi, chắc chắn không bao giờ tôi quên được Thoa nhưng tôi biết nói sao cho em hiểu. Tôi không dám thổ lộ những điều đó, đem cất giữ trong sâu thẳm trái tim mình. Tôi vừa ngại ngùng, vừa muốn thổ lộ nhưng cũng sợ làm ảnh hưởng đến em. Tôi phải xa em thật rồi. Vào chiến trường, có lẽ tôi cô đơn lắm, chưa xa em tôi đã thấy nao nao nhớ đến em rồi. Mấy hôm nay, một ngày không thấy em, tôi đã thấy nhớ, huống hồ phải đợi chờ đến khi nào hết chiến tranh, biết đếm sao cho nhanh hết thời gian. Em có chờ tôi trở về không?...Cái dáng người mảnh mai, đôi mắt đen với nhiều lần nhìn tôi sâu lắng, mái tóc óng mượt với những mùi hương lan toả, giọng nói nhẹ nhàng... làm sao tôi quên được. Nhất là nụ cười của em làm lòng tôi ấm áp một niềm tin và tình thương yêu tuôn chảy. Sau này hết chiến tranh, trở về với quê hương, tôi sẽ tìm đến Thoa để nói lời cầu hôn  em. Nhất định thế, Thoa ạ! Lúc ấy, mong em đừng từ chối tình yêu của tôi dành cho em nhé. Tôi chợt nhớ đến hôm trước, khi biết tôi trúng tuyển bộ đội, Thoa đã không gọi tôi bằng tên nữa mà chuyển sang gọi là anh một cách rất tự nhiên. Tôi không bất ngờ với những gì em gọi tôi và tôi cũng gọi Thoa bằng em như đã gọi từ lâu lắm. Lúc đó cảm xúc buồn vui cứ pha trộn trong người. Tôi vui vì được vào bộ đội, được cống hiến và hoà mình vào cuộc chiến tranh, nhưng buồn vì phải xa gia đình, xa em và biết đâu không còn trở về với em nữa, tôi chỉ nghĩ trong đầu vậy thôi, chứ nói ra những điều không lành, chắc em sẽ bật khóc.
   
Trời đã chuyển sang mùa hè. Không khí oi bức đã bắt đầu. Gío Lào cũng đã thổi lên từng cơn. Bầu trời như trong xanh và cao vời vợi. Không khí càng ngày càng ngột ngạt. Những lúc này chỉ có ra sông Lam tắm mới tránh được cơn nóng rát mà thôi. Mấy hôm nay cường độ máy bay Mỹ ném bom vào Nam Đàn hình như nhiều hơn. Chúng ném nhiều xuống thị trấn, xuống sông Lam, xuống đường 15A. Chúng bắn phá bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, không kể ngày hay đêm. Nghe đài, đọc báo, họp chi đoàn, tổ chức cho lớp giao lưu với các đơn vị bộ đội, nghe dũng sĩ miền Nam kể chuyện đánh Mỹ…thật tự hào và sôi động.
     
Ngày 13 tháng 4 năm 1968 đã trở thành cái mốc quan trọng không bao giờ quên được đối với cuộc đời tôi. Tôi ghi rõ vào quyển sổ nhật kí của mình một cách trang trọng như sự kiêu hãnh lớn nhất cuộc đời mình. Sáng hôm đó tôi dậy sớm. Thế nhưng Cha tôi đã ngồi vào bàn uống nước chè từ lúc nào. Chị cả Liên chuẩn bị bữa cơm tương đối tươm tất. Buổi sáng hôm đó cả nhà được ăn cơm nếp đồ với lạc. Mỗi miếng cơm thơm, bùi vị nếp với vị béo ngậy của lạc thật hấp dẫn. Cha tôi và các chị em chỉ ăn mỗi bát là ai cũng ngán. Tôi thì chén thật no. Chị Liên còn gói cho tôi một gói cơm nếp bằng mo cau để đi đường ... Đang ăn cơm thì chị Liên nhìn tôi hỏi:
- Thế cái Thoa đã gặp em chưa? Tội nghiệp con bé. Nó sang đây mấy lần mà không gặp em. Chị vừa nói vừa gắp thức ăn cho tôi.
- Từ hôm qua đến giờ em chưa gặp. Bận quá chị ạ. Chị Liên vừa dọn mâm cơm vừa nói như trách:
- Bận thì bận, cũng phải sắp xếp tiếp Thoa chứ…Nghe chị trách mà thấy thương Thoa vô cùng.
   
Vừa ăn xong thì bà con cô bác đã đến chia tay. Ai cũng chúc mừng tôi lên đường chân cứng đá mềm, và ai cũng dặn nhớ viết thư về. Tôi như đã là người lớn, thật tự hào.
     
Cơm nước xong thì mọi người trong thôn kéo đến uống nước chè xanh, chúc mừng  và tạm biệt tôi. Ai cũng nhìn tôi với đôi mắt rạng rỡ và trìu mến. Tôi thật cảm phục tình cảm của bà con thôn xóm lúc vui cũng như lúc buồn. Nhìn ai tôi cũng thấy thương nhớ. Chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa thôi sẽ lên đường, tôi quí hoá từng giây phút, cứ muốn lưu giữ mãi bên mình.
     
Tôi nghĩ đến Thoa. Không biết Thoa có đến kịp để tiễn tôi  không nhỉ. Lúc ra đi mà không có ánh mắt của em đưa tiễn chắc lòng tôi xao xác lắm. Tôi đang hình dung nếu khi đó không có em ở bên, cảm giác của tôi khi đó sẽ ra sao. Tôi vào bộ đội như vậy sẽ buồn lắm, em biết không? Nhưng nếu em đến mà rơi nước mắt thì tôi biết làm sao đây. Có người con gái nào đưa người con trai ra trận mà không lệ nhòa? Tôi cầu mong sự có mặt của em nhưng em đừng rơi nước mắt như cô gái trong thơ của Nam Hà mà hôm nào em đọc cho tôi nghe:
Đất nước của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt giành cho ngày gặp mặt..
.
   
Nhưng cảm xúc của con người thì làm sao mà nói trước được. Em là người con gái ven sông Lam, chịu thương, chịu khó nên cũng rất dễ thông cảm với những hoàn cảnh như anh. Anh chỉ sợ rằng, giờ phút xa em đã đến gần mà chưa có dịp để nói chuyện với em, chắc em sẽ trách anh và cũng dễ xúc động như tình cảm lâu nay đã dành cho em. Dù đi đến chiến trường nào, dù có vượt qua bao sông, bao núi, bao thác, bao ghềnh, trong anh vẫn canh cánh một điều, đất nước khải hoàn anh lại về bên dòng sông Lam quen thuộc để được nô đùa, tắm mát như thủa nào, cũng như được về với em như bao năm sống và học tập bên nhau.
 
Chúng tôi sang xã Nam Anh để tập trung. Sau khi cán bộ nhận quân đọc tên, tôi vào nơi nhận quân trang: quần áo, dày, dép, tất, ba lô...Ôi, nhiều thứ quá. Tiếng người nói, cười, hỏi thăm, xen lẫn với tiếng sụt sùi và mùi xăng xe làm cho không khí thêm ngột ngạt. Tôi liền vận ngay quần áo bộ đội. Đây là giờ phút chính thức tôi được khoác lên mình bộ quân phục vải Tô Châu, cùng vòng lá nguỵ trang màu xanh của người lính. Tôi tự ngắm nghía, vuốt ve. Tôi thấy mình như khác hẳn. Ánh mắt mọi người nhìn tôi cũng vậy. Từ hôm nay tôi đã trở thành chiến sĩ, đã là một quân nhân cách mạng. Cái cảm giác mình được lớn bổng lên, rắn rỏi, chững chạc hơn càng rõ dần trong tôi. Tôi thấy cơ thể mình như khoẻ khoắn, cường tráng, vạm vỡ hơn. Những chàng trai lên đường nhập ngũ, ai cũng rạo rực khi đắm mình trong không khí trọng thể của buổi lễ tiễn tân binh do địa phương tổ chức. Mọi người cùng nhìn nhau trong niềm vui đợi chờ. Bên trên, nào: Cờ, khẩu hiệu, băng rôn được trang hoàng dưới những lùm cây cao và những cành lá ngụy trang xanh thắm. Trong làng  có rất nhiều người đi tiễn. Từ các cụ già, cô bác cho đến các em nhỏ, đông đủ cả. Vây quanh tôi có Cha, chị, các em và bạn bè cùng những người thân quen thuộc nơi tôi sinh ra, cả những gương mặt tôi chưa hề biết đến, những em nhỏ lít nhít mặt còn lấm tấm những vết lấm lem cùng giơ những bàn tay nhỏ xíu hướng về phía những người lính mặc áo xanh vẫy vẫy, ai cũng động viên chúng tôi lên đường một cách thân tình. Có nhà còn luộc cả một rổ khoai ngon cho chúng tôi  mang đi ăn đường. Tình cảm của bà con chòm xóm mộc mạc, nhưng rất đằm thắm. Mọi người coi chúng tôi như con một nhà, ai cũng mong muốn chúng tôi đi đánh giặc mạnh giỏi, lập được nhiều chiến công và quay trở về với quê hương. Nhà nào không có con đi cũng ra đưa tiễn.
 
Trong không khí rộn rã tiếng cười, nói râm ran cả sân kho HTX, Cha tôi đứng lặng lẽ nhìn tôi, không nói. Lúc đầu, mọi người còn hỏi thăm nhau vui vẻ nhưng rồi giây phút lên đường ngày một tới gần hơn, mọi người đều tranh thủ dặn dò những lời yêu thương nhất, tay nắm tay bịn rịn, vỗ vai như tiếp thêm sức lực cho chúng tôi. Các chị, em tôi thì nước mắt ngắn nước mắt dài, ai cũng nhớ thương da diết. Chị cả ôm lấy tôi nghẹn ngào, nói: “Em đi nhớ viết thư về cho Cha, cho chị nghe. Giấy bút chị đã chuẩn bị cho em ở trong túi rồi. Nhớ nghe em, cả nhà mong tin em lắm đó, việc nhà em không phải lo gì hết, đã có chị và Cha lo, khó khăn gì thì cũng đã có bà con trong làng rồi... Em đi nhớ đừng để gia đình mong đợi quá”. Bà con làng xóm láng giềng ai cũng rưng rưng nước mắt, có người còn dúi cả tiền vào tay tôi, bảo: “Cầm đi mấy đồng mà uống nước dọc đường”, người thì bảo: “Đi mạnh giỏi nghe con, khi nào hoà bình trở về là cả quê nhà sẽ ra đón các con”, “Các con xa nhà nhớ yêu thương, đùm bọc lấy nhau nhé”!...
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #13 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:18:58 pm »


Biết bao nhiêu lời dặn mà tôi không thể nhớ hết nổi, thú thực lúc ấy lòng tôi thấy nao nao quá, tôi thấy nghẹn ngào trong cổ họng nhưng không thể bật khóc lúc này, người lính không được yếu đuối như thế, phải vững vàng lên chứ. Không khí lắng đọng, những nét buồn và những giọt nước mắt lăn tràn trên gương mặt chị. Cha tôi cũng không thể giấu nổi tình thương yêu, hai tay bưng mặt mà khóc. Lần này thì Cha khóc rưng rức. Nhìn Cha, sống mũi tôi cay xè, cổ họng nghẹn đắng lại, tôi cố kìm những giọt nước mắt đang trực tràn ra. Tôi ôm lấy Cha thật chặt. Ôm Cha mà nước mắt tôi đã chảy ra mất rồi. Tôi cũng đã thấy Cha rưng rức khi ôm tôi vào lòng. Nỗi buồn, sự cô đơn và nước mắt của một người có tuổi như Cha tôi đáng thương lắm. Tôi khẽ quệt nước mắt, ôm chị và các em tôi, tôi dặn dò các em ở nhà thương yêu nhau, các em tôi còn nhỏ quệt nước mắt khóc, mặt mũi nhem nhuốc, gật đầu. Cái cảm giác tôi đã nghĩ đến sẽ diễn ra nhưng chưa bao giờ lại thấy hụt hẫng đến thế này. Chỉ lát nữa thôi, bên cạnh tôi sẽ không còn có ai là người thân, xa mọi người, rồi bao giờ mới được gặp lại. Tôi nói với Cha cùng các chị em:
- Cha mà cứ khóc thế này làm sao con đi được. Cũng may lúc đó tôi nhận ra các bạn trong lớp đang rẽ đám đông đến với tôi. Tôi nhìn Cha nói nhỏ:
- Con đến với các bạn cùng lớp đây. Thôi, Cha đừng khóc nữa!
 
Tôi nhận ra thầy chủ nhiệm. Tôi đưa hai tay lễ phép bắt tay thầy và các bạn. Hơi ấm từ bàn tay của thầy và các bạn như làm cho tôi thêm sức mạnh nhưng lại càng thêm nhớ nhung. Thầy vỗ vai tôi động viên: “Tạm biệt học trò cưng của thầy, các bạn trong lớp nhớ em lắm đấy, vào bộ đội, thầy tin em sẽ như Bí thư mạnh giỏi của lớp nhé”. Rồi thầy vỗ vai, lắc mạnh tay như nhắn nhủ đặt niềm tin ở tôi. Tôi lần lượt bắt tay các bạn. Ôi xao xuyến lạ thường. Tôi hứa với thầy và các bạn sẽ cố gắng vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ và không quên viết thư về thăm thầy và các bạn trong lớp. Thầy gật đầu hi vọng, tôi chợt nhìn lên mái tóc thầy đã có những sợi bạc trắng. Hôm nay, tôi mới nhận thấy điều đó, thầy đã đưa bao nhiêu “chuyến đò qua sông”. Ai mà đếm hết được những lần đi ấy. Chỉ có lớp lớp học trò như chúng tôi cứ trưởng thành và cứ lớn dần lên. Tôi tự hứa với mình ngày trở về sẽ thăm thầy và các bạn. Các bạn tôi vây quanh, ai cũng chen vào tíu tít bắt tay tôi. Anh Lê Song Toán, Phó bí thư chi đoàn lớp thay mặt các bạn tặng tôi món quà kỉ niệm là chiếc khăn mùi xoa có thêu dòng chữ “Hẹn ngày hội ngộ”. Những tiếng vỗ tay cổ vũ động viên vang ròn mãi không ngớt dành cho tôi thật đáng quí. Tôi cầm món quà nhỏ bé nhưng mang nặng tấm lòng hậu phương, bạn bè làm tôi ngập tràn xúc động. Chững chạc trong bộ quân phục màu xanh hơi rộng, tôi nói lời cảm ơn và chúc mọi người ở lại sẽ làm tròn bổn phận và nghĩa vụ của mình, xây dựng lớp tiến bộ. Những lời “hoan hô” lại ròn rã hơn. Trong lòng tôi khấp khởi đưa mắt nhìn mọi người, giây phút cảm động và lưu luyến quá, tôi đưa mắt tìm Thoa. Em đang đứng sau lưng mấy bạn gái, tôi thấy đôi mắt ươn ướt rồi, không như buổi đầu khai giảng quay lại nhìn tôi tươi cười nữa. Đôi mắt tôi hướng về phía em đứng, trái tim tôi rộn ràng một tình yêu cháy bỏng dành cho em. Em có hiểu tình cảm của tôi lúc này không? Em chầm chậm bước tới tôi như muốn nói một điều gì đó trước lúc tôi đi thì cũng là lúc tiếng còi của chỉ huy gọi chúng tôi lên xe. Mọi người lại ào về phía tôi, tôi rối rít bắt tay những người đứng gần phía tôi và vội vàng chuẩn bị bước lên xe. Tôi muốn nói với em điều gì đó, đơn giản nhất là lời dặn dò em nhưng lúc này không sao nói được, sự ngại ngùng và e dè ở cả tôi và em, chỉ có ánh mắt đẫm nước nhìn nhau. Tôi không thể đứng trước mặt em lúc này để nói, có thể tất cả mọi người sẽ ủng hộ chuyện tình cảm giữa tôi và em nhưng tôi không muốn nhìn thấy em ngượng ngịu, đỏ mặt trước mắt mọi người. Sự im lặng của em và tôi trong giây phút khiến tôi thấy bối rối quá. Chẳng nói gì được riêng với em, nói những điều để em hiểu được tình cảm của tôi lúc này, dù sao tôi cũng sắp đi xa, biết bao giờ mới trở về. Tiếng còi chỉ huy lại đồn dập vang lên. Không thể chậm chễ được, tác phong bộ đội là thế, nên chẳng còn cách nào, tôi rẽ đám đông và bước lên xe. Bỗng có ai đó níu ba lô tôi lại và nhét một thứ gì đó vào túi cóc. Tôi quay lại. Thoa! Em của tôi đây. Khuôn mặt tròn, ửng hồng, lấm tấm mồ hôi, mấy sợi tóc mai bết vào má, nhìn em mà tôi nghẹn ngào. Tôi sững sờ nhìn em đăm đắm. Chưa bao giờ tôi dám nhìn em như thế. Em cũng nhìn tôi dịu hiền, đôi mắt vẫn còn ướt át như muốn nói một điều gì đó thầm kín, e ấp. Rồi tôi lại thấy ở đôi mắt ấy những giọt nước mắt đã đong đầy khoé mi.
 
Bỗng dưng có ai đó lôi ba lô tôi. Thì ra chỉ huy kéo tôi lên xe. Cuối cùng, trong giây phút vội vàng, xáo động của kẻ ở người đi, những lưu luyến khoắc khoải, Thoa chỉ nói được một câu ngắn ngủi mà tôi nghe rất rõ: “Anh đi nhớ viết thư về nghe”. Chỉ có vậy thôi mà câu nói theo tôi suốt chặng đường trận mạc, khổ ải gian truân sau này và có lẽ đeo đẳng suốt cuộc đời tôi. Một câu nói trong tình huống ấy đã nhắc nhở tôi tất cả rồi. Trong kí ức của tôi, mỗi lần nhớ đến em, nhớ đến ngày nhập ngũ của tôi, chưa bao giờ tôi quên câu nói cũng như lời nhắc nhở ấy- chưa bao giờ tôi quên…
 
Đoàn xe đầy lá nguỵ trang chuyển bánh, để lại đằng sau mịt mù khói bụi. Đứng trên thành xe, tôi cố nhìn Thoa. Kia rồi! Em đang vẫy vẫy. Tôi cũng vẫy tay tạm biệt. Còn kia, là Cha, chị và các em tôi cũng đang vẫy tay. Bóng người giữa sân HTX ngày càng mờ dần bởi bui hồng cuộn lên khi xe rú ga phóng nhanh.
 
Tạm biệt xóm làng thân thương, mảnh đất nơi tôi sinh ra và lớn lên với bao êm đềm và cũng biết bao kham khổ, khó nhọc. Tạm biệt cả tuổi thơ đi qua mãi mãi để lại những kỉ niệm trong tôi. Mảnh đất Mẹ tôi vẫn nằm đó chờ đợi tôi trở về, tạm biệt những ngôi nhà thân quen nằm trong những hàng cây xanh um tùm cứ xa dần theo những bàn tay vẫy vẫy. Tất cả tạo thành những dòng kí ức tuôn chạy trong tôi. Ngồi trên xe rồi, nước mắt tôi mới trào ra không kìm nổi. Nước mắt thương Cha, thương chị, nhớ dì và các em. Nước mắt của sự chia xa tình mẫu tử. Những cậu bạn ngồi bên tôi lúc này, ai cũng bật khóc. Những căn nhà nhỏ bé mà ấm áp tình thương yêu che chở đùm bọc của bà con làng xóm, con đường làng quê tôi cũng xa tít tắp thành những hình con rắn bò khòng khoeo dưới mặt đất. Tôi cố nhìn hình ảnh quê hương một lần nữa. Quê hương- đây là lần đầu tiên tôi rời xa, tôi mới thấy thấm đẫm lòng thương nhớ quê. Tôi nghĩ đến một ngày nào đó trở về, tôi sẽ ùa ra đồng để cùng Cha và chị đón những bó lúa vàng thơm và hoà cùng câu hò đối đáp âm vang nhộn nhịp khẩn trương của mọi người vang trên cánh đồng làng trong mùa cấy hái. Những em nhỏ chạy lăng xăng, cầm những cái chai nhỏ ra đồng đuổi bắt những con châu chấu, cào cào mang về cho gà ăn. Những chú chuồn chuồn ớt cánh vàng ruộm bay trên không báo mưa báo nắng cho những người dân. Mỗi lần có mặt ở ngoài đồng là những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, trên lưng áo mình nhưng thật vui. Mùi lúa chín, mùi bùn đất, mùi khói rơm rạ trên những thửa ruộng đã gặt và cả những âm thanh vui nhộn trên quê hương cứ tràn về trong kí ức tôi. Bây giờ giấc mơ được đặt đôi bàn chân lên cánh đồng thành xa lạ đối với tôi, tôi thấy mọi thứ thân thương và gần gũi quá.
   
Sẩm tối hôm đó, đoàn tân binh của chúng tôi đã có mặt ở đơn vị huấn luyện. Đó là Đoàn 22 thuộc Quân khu Bốn đóng ở xã Nghĩa Thọ, huyện Nghĩa Đàn. Sau khi nhận chỗ nghỉ, tôi lục trong ba lô, túi cóc thì phát hiện ra một bức thư. Tôi vội vàng cầm trên tay như một kẻ chờ đợi một tình yêu bao ngày xa cách. Tôi hồi hộp và sung sướng lắm. Tôi và em đã bao giờ viết thư cho nhau đâu. Tôi biết đó là thư của Thoa nên nhanh tay giở ra đọc. Nét chữ con gái mềm mại, nghiêng nghiêng quen thuộc. Đây là bức thư lần đầu tiên nên tôi quá xúc động. Vừa mới xa em, tôi đã có thư đọc rồi, em tài thật, mới đó mà đã viết thư rồi.
   
Cầm lá thư áp lên ngực, trái tim tôi đập rộn ràng, hồi hộp bởi đây là lần đầu tiên trong đời tôi được một người con gái gửi thư cho, mà người đó không phải là ai khác chính là Thoa- Thoa sẽ viết những điều gì trong đó nhỉ? Chắc chắn sẽ khác với những dòng lưu niệm viết trong sổ tay mà lớp học trò chúng tôi thường trao tay nhau trong mỗi mùa phượng nở đỏ rực cả một góc trời, mùa bằng lăng nở tím ngắt, mùa những chú ve tấu lên những khúc nhạc rộn rạo, náo nức. Thoa có viết những điều tôi mong đợi mà chưa dám thổ lộ với em không? Em có trách tôi gì không, những ngày tôi gấp gáp chuẩn bị lên đường, tôi chẳng gặp được em, tôi không quan tâm được đến em, em giận tôi nhiều không? Em sẽ nói gì với tôi đây, nhất là dòng thư tôi vừa xa nhà sáng nay. Đám bạn bảo tôi là người hạnh phúc nhất vì chưa đi xa đã có thư người yêu đọc rồi, tôi chỉ biết tủm tỉm mừng vui hớn hở mà thôi. Tôi hồi hộp và linh cảm trong tờ giấy có những nét chữ thân thương mà tôi đang cầm trên tay là những dòng tình cảm chân thành và thắm thiết của em. Giống như ánh mắt của em và tôi trao nhau trong buổi sáng nay sẽ mãi mãi ngự trị trong trái tim tôi.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #14 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:21:39 pm »

Tôi mở thư, hồi hộp đọc từng dòng thương yêu:

“Anh yêu thương!
 Năm học gần kết thúc rồi, sao anh lại bỏ em mà đi lúc này. Em phải học bài một mình không có anh học cùng buồn lắm. Lớp học sẽ trống trải vì  không  có anh. Ánh mắt của anh cũng không còn dành cho em mỗi ngày.  Em sẽ không còn cảm giác được nhìn thấy anh đứng trên bục giảng trong những buổi tổ chức sinh hoạt đoàn của lớp nữa.  Anh biết không, mấy ngày nay em đứng ngồi không yên khi nghe tin anh đi bộ đội. Hôm kia anh đứng nói chuyện để tạm biệt lớp mà mắt em nhạt nhoà. Anh đứng đây như ngày nào mà bỗng thấy anh xa vời tít tắp. Anh xa em biết đến bao giờ mới trở lại. Một ngày đi học không gặp anh, em thấy nhớ khôn xiết, huống hồ anh theo mãi với cuộc chiến đấu này. Em phải chờ đợi anh về có lâu không? Em nghẹn ngào nước mắt để giấu đi cảm xúc khỏi xấu hổ với bạn bè.
Sáng qua, em xin nghỉ học để về thăm anh. Máy bay ném bom thị trấn ghê lắm nhưng em chẳng sợ gì. Em chỉ nghĩ đến anh và tìm cách gặp được anh trước lúc anh lên đường. Em vượt qua thị trấn trong cảnh khói đạn mịt mù. Em xuống bến đò thì ông lái đò không chở với lý do máy bay. Em phải trình bày lý do sang đó tạm biệt anh. Thấy em khóc lại mang một số đồ mà chỉ người lính mới cần, ông lái đò liền cho đi. Khi em đến nhà thì anh lại đi vắng. Em buồn vì không gặp được anh.
 Sáng nay em lại qua thăm anh nhưng chị của anh lại bảo anh vừa lên Nam Anh để tập trung. Em vội vàng đi một mạch về nhà và ngồi viết thư cho anh. Anh à, em đã chuẩn bị cho anh nhiều thứ kim chỉ, dầu con hổ và thuốc đánh răng... để anh dùng khi cần và chiếc khăn mùi xoa do tay em thêu chữ “ngày ấy”. Em hi vọng dù ở trận mạc xông pha, dù đi khắp sơn cùng thuỷ tận anh cũng không quên được những ngày ấy, chúng mình đã học tập, hồn nhiên bên nhau... Để mỗi lần nhìn chiếc khăn, anh lại nhớ đến em. Anh đi nhớ gìn giữ sức khỏe anh nhé. Em tin tưởng vào anh rất nhiều. Em ở nhà sẽ luôn cầu mong cho anh những điều may mắn. Mỗi bước anh đi luôn có em ở bên. Con đường phía trước dù có khó khăn vất vả, anh hãy cố gắng lên nhé. Ở  nhà, mọi người luôn nhớ và thương yêu anh.
Em luôn chờ đợi và mong tin anh
Em của anh: Thoa”

  
Đọc xong lá thư, nhớ em da diết, tôi cảm thấy mình có lỗi với em rất nhiều. Đáng lẽ ra tôi phải là người thổ lộ với em về những tình cảm nồng nàn ấy, tôi cũng có tình cảm với em cơ mà. Vậy mà tôi như người tự dối lòng mình, tôi yêu em, thế mà sao tôi không nói ra điều ấy với Thoa. Thoa là con gái, lại còn rất trẻ, thế mà em dám vượt qua rào cản để tự nguyện nói ra cái điều ấy với tôi trong thời điểm đầy ý nghĩa, thời điểm tôi trở thành người chiến sĩ. Có phải chỉ là để động viên tôi trước những ngày lên đường không? Chắc hẳn không phải thế, vì tất cả những gì em nói ra đây đều là sự thật.
  
Có lẽ trong đám bạn cùng đi, tôi là người hạnh phúc nhất. Vài cậu lính cứ tếu táo trêu tôi suốt cả buổi tối và đòi đọc thư tôi. Bức thư Thoa gửi cho tôi đã trở thành nguồn động viên lớn lao không gì có thể thay thế được trong cuộc đời người lính. Bức thư trở thành kỉ vật đẹp thời trai trẻ của tôi. Lá thư của em, tôi không chỉ mang theo bên người mà còn sống cùng với tôi từ những ngày tôi còn lăn lê bò toài bê bết trên bãi tập luyện, rồi cùng tôi vượt qua nghìn dặm Trường Sơn điệp trùng ùng oàng tiếng bom đạn nổ. Bức thư đã ở bên tôi trong những trận đánh ác liệt nhất tưởng chừng không thể sống để trở về với quê hương và cả trong những giờ phút đau đớn tôi nằm trên bàn mổ ở bệnh viện tiền phương để bác sĩ lấy mảnh đạn ra khỏi cơ thể. Nó cũng đã từng ru tôi ngủ ngon giấc trong những đêm dài đói rét của đời lính chiến trường. Đôi lúc tôi nghĩ, phải chăng lá thư chứa đựng tình cảm trong trắng của em là cái bùa hộ mệnh linh diệu của tôi. Một lá bùa có tên gọi: Tình yêu!
  
 Mỗi khi có thời gian rảnh là tôi lại mang lá thư của em ra đọc, đọc nhiều đến nỗi tôi đã thuộc từng dòng, từng nét chữ của em, đến cả những dấu chấm, dấu phẩy, nét chữ của em đáng yêu như con người của em vậy. Những ngày huấn luyện, dù tập tành rất nặng nhọc và bận rộn nhưng tôi cũng vẫn tranh thủ thời gian nghỉ viết thư cho gia đình, thầy cô, bạn bè và cho Thoa. Tôi biết mọi người ở nhà mong ngóng tin tức của mình lắm. Cha tôi cũng cần những lời động viên lắm chứ, rồi chị tôi và các em sẽ tha hồ mà nhắc tôi mỗi khi thấy trong ngôi nhà trống vắng hình bóng tôi. Tôi viết thư cho Cha, cho chị bao giờ cũng ngắn gọn, còn thư cho Thoa bao giờ cũng dài hơn. Trong thư, tôi đã thổ lộ hết tình cảm đối với em. Tôi tự trách mình là trong thời gian qua vì ở xa trường, sáng đi học, chiều còn tranh thủ làm ruộng đỡ đần công việc đồng áng cho Cha và chị, phần vì ngại ngần nên tôi chưa gần gũi giúp đỡ em được nhiều. Tôi cũng kể cho Thoa nghe về cuộc sống của người lính mới. Nhất là ngày đầu tiên, ai cũng hồi hộp nhưng lo lắng. Nào là việc học tập, ngủ nghỉ, làm việc đều phải theo một thời gian biểu rất nghiêm ngặt, không thể chậm chễ lề mề được. Quần áo, chăn màn, khăn mặt... phải để ngăn nắp và được hướng dẫn gấp đồ theo một qui định rõ ràng. Không làm đúng qui định thì phải làm lại. Kỉ luật quân ngũ cũng khắt khe lắm, ai bị kỉ luật một lần thì nhớ mãi không thể vi phạm lần thứ hai. Những buổi tập bắn súng, được ngắm nghía khẩu súng trên vai mới thấy hết được linh hồn và trách nhiệm nặng nề của mình, phải luyện tập tốt để sau này khi vào thực tế cuộc chiến đấu những viên đạn bắn đâu sẽ trúng đó. Nhất là những lần báo động, mọi người đều phải trong tư thế sẵn sàng. Báo động chiến đấu. Báo động di chuyển. Tập hành quân đêm. Tập hành quân ngày. Ôi thật vất vả nhưng đầy hào hứng, ai cũng tự giác và hăng say luyện tập khí thế lắm, tất cả đều cùng chung một mục đích: “Thao trường đổ mồ hôi, còn hơn chiến trường đổ máu”. Công việc tập luyện quân sự vất vả là thế nhưng các chiến sĩ vẫn rất yêu đời. Những buổi sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, làm báo tường được các chiến sĩ tham gia nhiệt tình, hăng hái. Không có ai ngại ngùng gì cả. Có làm mới biết những cậu lính trẻ măng như tuổi anh, tưởng chừng không sành sỏi, ấy vậy mà việc gì cũng đảm, lắm cậu còn có nhiều tài lẻ nữa. Những đêm vui văn nghệ, khi khúc ca ngân vang trong tiếng đàn hát mới thấy cuộc đời người lính xua đi những mệt nhọc, vất vả của tập luyện quân sự. Người lính yêu đời lắm em ạ. Ai cũng sống lạc quan và tin tưởng vào sức chiến đấu của mình, không ngại ngần gian khó khi đối diện với khó khăn thử thách, dù mới chỉ trong thời gian tập luyện. Trước mắt, ai cũng đồng lòng, đồng sức chuẩn bị hoà nhập vào cuộc chiến đấu: “Em biết không, mỗi chiến sĩ như bọn anh ai cũng phải làm thơ đấy. Thơ viết cho báo tường của đại đội mà. Kiểu này sau khi hết chiến tranh, anh có thể trở thành một nhà thơ đấy em ạ. Hôm qua, anh vừa làm xong một bài thơ cho báo tường đơn vị, anh chép mấy câu cho em nhé:

Chúng tôi những người chiến sĩ trẻ
Hăng say luyện tập  ngày đêm
Để vào miền Nam đánh Mỹ
Giành thống nhất cho hai miền

Bao giờ miền Nam giải phóng
Tôi mới trở về quê hương
Bên dòng sông Lam gió lộng
Hát ví dặm với người thương”
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #15 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:21:47 pm »

Chuyện đơn vị rèn luyện tôi cũng kể cho em nghe. Chỉ có bức thư luôn là cầu nối tình cảm giữa tôi và em. Mỗi lần gửi thư đi rồi, tôi lại mong em vô cùng. Tôi xao xuyến nghĩ đến niềm vui của em khi nhận được thư tôi. Trong thư, ngoài những cảm xúc của người lính còn là những lời thương yêu thăm hỏi, động viên dành cho em nữa. Một câu động viên của tôi lúc này sẽ làm em an lòng. Tôi biết khi hai đứa không  gần bên nhau, em lo lắng cho tôi nhiều lắm, đó là chưa kể những lúc nhớ về những kỉ niệm của nhau. Trong thư, khi thì tôi ép vào đó một bông hoa dại nhỏ xinh, khi thì chiếc lá thơm của miền núi Nghĩa Đàn. Tình yêu của chúng tôi mới chỉ là những kỉ niệm học trò nhẹ nhõm, xao xuyến, là những bức thư đi về sau ngày tôi nhập ngũ, là những nhớ nhung bâng khuâng trong ngày tháng cách xa. Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa được một lần tay để trong tay, còn những nụ hôn ngọt ngào thì hình như mới chỉ có đôi lần nhưng chỉ là trong những giấc mơ mà thôi. Có lần tôi đã mơ về Thoa, được đi cùng em vào vườn vải ở chân núi Đại Huệ. Mùa vải chín, những trái vải lủng lỉu trên cành như những chùm đèn lồng màu đỏ, tiếng chim tu hú gọi bầy vang lên đâu đó. Trong giấc mơ êm ái đó, tôi nghe rõ âm thanh riêng biệt của mùa vải đỏ. Và tuyệt vời hơn, là tôi được đi bên Thoa dưới những chùm vải chín rộ. Ánh nắng vàng chiếu xiên qua kẽ lá, hắt lên mái tóc và đôi môi mọng đỏ của em. Dưới vườn cây, không khí trong lành và thoáng mát. Cây vải chỉ cao hơn đầu chúng tôi một chút, những trái vải chúng tôi đưa tay là chạm tới. Chúng tôi nói với nhau, cười với nhau, trao nhau ánh mắt yêu thương. Cũng thật lạ, trong giấc mơ, tôi không còn thấy bom đạn, máy bay gầm gào xé toang bầu trời. Thay vào đó là khung cảnh thanh bình yên ả, chỉ có vải chín, tu hú kêu và hai đứa bên nhau mà thôi. Những chiếc lá khô dưới chân chúng tôi lép nhép, vỡ tan ra. Lá vải trên cành đung đưa như bàn tay xoè ra chào đón chúng tôi. Rồi chúng tôi rúc rích cười, những chú chim sâu lích rích truyền cành tìm sâu trong kẽ lá. Đến bên một cây vải có tán xoè rộng nhất, Thoa dừng lại. Em kiễng chân lên với tay hái cho tôi một chùm quả chín nhất và đưa cho tôi. Thoa cười và ghé sát vào tai tôi thì thầm:
- Người nào ăn chùm vải này sẽ gặp may mắn nhất trong cuộc đời.
- Chưa ăn vải của em hái nhưng anh đã là người may mắn nhất rồi.
- Răng lại rứa?- Thoa thắc mắc hỏi.
- Tại vì anh đã có em yêu.
 
Thoa không nói gì hơn, em nhìn tôi. Tôi ôm lấy Thoa và đặt lên môi em nụ hôn đầu đời ngượng ngịu, nụ hôn đầu của tình yêu. Cảm giác lâng lâng, bay bổng chợt đến khi có em trong vòng tay, khi được chạm vào người bạn gái thương nhớ. Tôi thấy tim mình đập rộn ràng và nhanh lắm. Thoa thì rụt rè, e ấp, má ửng hồng. Em khẽ vòng tay ôm lấy tôi. Tôi thấy hạnh phúc lắm.
 
Tôi đang nồng nàn trong hương vị dịu lành của chiếc hôn đầu tiên thì có ai đó lay mạnh vào vai. Tôi bừng tỉnh sau tiếng gọi của tiểu đội trưởng
-  Dậy. Sáng rồi. Mơ chi mà chép miệng hoài thế.
 
Tôi khẽ vươn vai nhìn ra ngoài trời, hôm nay tôi ngủ dậy muộn hơn rồi, có lẽ tại giấc mơ nồng nàn quá. Tôi vội vàng rời khỏi giường. Thời gian trong quân ngũ là nghiêm ngặt lắm, nói vui vậy thôi chứ làm gì có chuyện tình yêu ở nơi này. Tất cả chỉ là thao thức nhớ mong về bạn gái thôi. Tôi dậy rồi mà vẫn ngẩn ngơ người, tiếc hoài giấc mơ đẹp. Cứ mong được ôm em trong vòng tay, trong hơi ấm nồng nàn thêm chút nữa...
   
Cũng thật lạ, cứ mỗi khi giấc mơ đang đẹp nhất thì con người lại bị đánh thức dậy. Thỉnh thoảng tôi lại nhớ đến em và giấc mơ, chỉ mong đó sẽ là sự thật khi tôi trở về bên em. “Không biết Thoa có mơ về tôi như thế không nhỉ? Nếu có mơ như vậy chắc là Thoa cũng không dám kể đâu”- tôi thầm hỏi. Trong một bức thư, tôi đã kể lại giấc mơ này cho em, chắc em cảm động và có chung hạnh phúc với tôi. Tôi mong thư em lắm, thỉnh thoảng còn nhẩm tính từng ngày thư đi trong đầu, mong cho đến được với em một cách may mắn. Hôm nhận được thư của gia đình, rồi thư của em, cả tiểu đội bảo tôi là người may mắn và hạnh phúc nhất. Đọc thư của Cha, của chị toàn những lời chỉ bảo thật cẩn thận, chu đáo và yên tâm phần nào việc gia đình. Còn thư của em thật chứa chan tình cảm. Mỗi bức em đều gài vào đó vài nhánh hoa cau, có lúc hoa bưởi, khi mở thư ra vẫn còn hương thơm. Mùi hương thơm như hình bóng của em đã bay đến với tôi. Những lúc như vậy tôi lại nhớ đến mùi huơng  mái tóc của em. Trong thư, em viết:
 “Anh ơi, em đã kể chuyện của chúng mình cho mẹ nghe. Mẹ cũng thương anh lắm. Mẹ bảo sao không đưa anh về quê chơi. Em có nói chúng con đang chuẩn bị thì anh lại đi bộ đội, thời gian vội vàng gấp gáp quá nên chưa kịp về quê thưa chuyện với gia đình. Em cũng kể lại giấc mơ của anh, mẹ bảo rằng sự thật thường hay xảy ra ngược lại với giấc mơ. Anh mơ gặp em nên em lo rằng anh sắp sửa phải đi xa. Rồi mẹ lại lo lắng cho anh hơn đấy, mẹ sợ anh hi sinh ngoài chiến trường, tội cho em. Mẹ bảo: chỉ sợ tụi con xa nhau thôi. Mẹ mong ngày thống nhất để em và anh được đoàn tụ quây quần bên nhau, nên duyên, nên vợ nên chồng. Rồi mẹ nói: khi nào thấy anh trở về quê hương thì mẹ mới yên tâm và bớt lo lắng cho anh. Mẹ thường nghe tin tức và hỏi thăm anh liên tục. Anh biết không, thầy giáo chủ nhiệm nói mấy hôm nay miền Nam đang đánh lớn, tiền tuyến rất cần những chiến sĩ như các anh. Rồi thầy giáo cũng nhắc cả tên anh trước lớp. Ai cũng cảm phục anh lắm. Em chỉ mong rằng, chiến tranh mau chấm dứt để anh sớm trở về với gia đình, với em. Anh nhé!
 
Trong một bức thư khác, Thoa lại viết cho tôi:
“Anh ơi, có lần em nằm bên mẹ và khoe với mẹ về chiếc vòng em đeo ở tay và cái cặp tóc của anh tặng em lúc lên đường. Em có thú nhận với mẹ em là chúng con rất thương nhau nhưng chưa bao giờ cầm tay nhau, như anh đã có lần nói với em những bãi cỏ non tơ, những đêm trăng vàng óng là của muôn người. Nghe em kể, Mẹ em khen anh tốt và cũng rất thương anh. Mẹ bảo: chiến tranh kéo dài thì con có chờ được không? Em có nói với Mẹ: Nếu anh ấy đi bộ đội lâu dài đến mấy thì Mẹ cho phép con được chờ đợi anh. Thậm chí nếu vì trận mạc xông pha mà thân thể anh không được lành lặn thì Mẹ cũng cho phép con là chỗ dựa của đời anh. Nghe đến đây, anh biết không, Mẹ ôm chặt em vào lòng, em khóc rưng rức, nước mắt em nhạt nhoà làm ướt cả vai áo Mẹ. Mẹ phải bảo em, thôi ngủ đi con, mai còn đi học... Suốt cả đêm hôm đó, em nhớ anh mà không sao ngủ được. Em không dám cựa mình vì sợ làm mất giấc ngủ của Mẹ. Giờ này em còn đang được nằm đây, còn anh ở nơi phương xa ấy có lẽ đang báo động hành quân. Anh có mệt lắm không.. Rồi em sợ anh còn bị thương nữa, những mảnh bom, mảnh đạn nguy hiểm vô cùng, khi ấy ai sẽ băng vết thương cho anh?...Anh có bị gầy đi nhiều lắm không? Anh cố gắng ăn uống vào nhé còn lấy sức chiến đấu. À, em nghe nói, nơi chiến trường có nhiều muỗi đốt gây bệnh sốt rét, căn bệnh ấy nguy hiểm lắm, chẳng khác gì sống dưới những làn bom đạn của kẻ thù, bởi vậy anh nhớ chăm sóc bản thân mình đấy nhé? Em luôn nghĩ đến những nguy hiểm, những vất vả và khó khăn sẽ rình rập anh. Em chỉ mong anh vững vàng tay súng và gặp may mắn...em luôn mong ngóng và chờ đợi anh. ”
   
Đợt huấn luyện cấp tốc của chúng tôi cũng đã được gần hai tháng. Để cho một người lính có bản lĩnh về chính trị, có kỹ chiến thuật quân sự, đáp ứng các yêu cầu của cuộc chiến đấu thì thời gian huấn luyện hai tháng là quá ít ỏi. Nhưng lúc này chiến trường đang cần những người lính như chúng tôi. Những môn học cơ bản của anh lính bộ binh, tiến hành bắn đạn thật, được học cách tự băng bó, sơ cứu khi bị thương, rồi chúng tôi còn được học tập nghiên cứu các quan điểm của Đảng và Bác Hồ về chiến tranh nhân dân, về công tác dân vận, về các chính sách của Đảng trong vùng giải phóng...Chúng tôi được bổ sung quân trang, thực phẩm, bông băng, đường sữa, súng đạn…Như vậy, đây là tín hiệu mà mỗi người lính đều phán đoán được là thời gian chuẩn bị vào Nam chiến đấu đã đến gần. Cuộc sống của người lính chúng tôi lúc này càng trở nên bận rộn. Sau khi nghe chỉ huy phát động phong trào xung phong vào chiến trường đánh Mỹ, đồng chí nào cũng tự giác viết quyết tâm thư. Bản quyết tâm thư này không phải bằng bút mực mà chính bằng máu của mình. Chúng tôi lấy kim chích máu từ ngón tay và viết quyết tâm thư. Bản quyết tâm thư này thể hiện ý chí và nghị lực phi thường của người lính trẻ đối với cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Đây cũng là thể hiện tình cảm của người lính đối với chủ trương của Đảng và Bác Hồ trong việc thực hiên quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đây cũng là sự tự giác cao độ của mỗi người dân đối với cuộc chiến tranh ác liệt này. Do vậy, sự quyết tâm sắt đá của người lính là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến  thắng lợi của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #16 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:24:01 pm »

Hành quân đi B

Điều linh cảm của Thoa thật đúng. Chúng tôi sắp sửa phải xa nhau dài hơn, kể cả không gian và thời gian. Sau ba tháng huấn luyện cấp tốc, chúng tôi được lệnh hành quân vào Nam chiến đấu. Để chuẩn bị hành quân đi xa, người lính chúng tôi phải chuẩn bị nhiều thứ. Mấy ngày nay chỉ vật lộn với chiếc ba lô mà không xong. Chiếc ba lô thì căng phồng mà vẫn còn nhiều thứ chưa cho vào được. Ngày ra đi Cha đã dặn, trong chiến đấu thiếu thốn đủ thứ. Cái gì cũng cần cho cuộc sống của người lính. Chưa nói gì đến cái ăn, cái mặc, chỉ một chuyện rất nhỏ thôi, rất đời thường thôi mà thanh niên như tôi chẳng bao giờ lo nghĩ tới, nhưng trong chiến đấu lại vô cùng quan trọng. Ví dụ như cuộn băng bông đề phòng khi bị thương, cái kim sợi chỉ để khâu quần, khâu áo khi bị rách…Nghe các dũng sĩ diệt Mỹ kể chuyện thì trong chiến trường còn thiếu thốn đủ thứ, cố mà mang vào để có cái dùng. Rồi còn những lá thư của Cha, chị và Thoa thì nhất thiết phải mang đi cùng. Mình đã hứa với Thoa là có chết cũng mang thư bên người mà. Sau khi đã chuẩn bị tương đối, tôi mang thử ba lô. Ôi chao. Có đến 60kg chắc? 60 kg trên vai mà vượt Trường Sơn thì gay go đây, tôi thầm  nghĩ vậy. Tôi đang chuẩn bị thì mấy lính trẻ đến. Đó là Trữ, Loan, Dung, Xuân, Ngọ, những người cùng quê, cùng học và cùng nhập ngũ một ngày. Thấy tôi chuẩn bị chưa chu đáo, Xuân hỏi:
-Bát ăn cơm đâu rồi, chưa cho vào à? Xuân vừa nói vừa vỗ vào chiếc ba lô căng phồng.
Tôi bảo:
- Có chứ. Cho hết vào trong ba lô rồi mà lị. Nghe vậy, Xuân nhìn tôi lắc đầu:
- Không được đâu cậu ạ. Thế dọc đường cần bát dùng thì cậu tính làm sao? 

Nghe Xuân nói, tôi nghĩ khi hành quân cũng chẳng cần gì đến bát ăn. Nhưng ý của Xuân khiến tôi phải cân nhắc. Cái bát ăn cơm phải để ở con cóc thì sẽ tiện sử dụng hơn. Đại loại là như vậy. Chúng tôi góp ý, bổ sung cho nhau. Là người lính cùng quê nên rất quý và thương nhau. Dung đưa hai tay nhấc chiếc ba lô, nhìn tôi:
- Ôi. Có đến trên 60 ký nhỉ. Tớ cũng như vậy. Nhưng không hiểu có mang nổi không. Dung có dáng người nhỏ hơn nhưng lại rất nhanh nhẹn. Nhìn chiếc ba lô như thế này Dung cũng lắc đầu. Không phải chỉ có Dung mà ai cũng rất ngại mang vác nặng. Chúng tôi đang bàn về chiếc ba lô thì Trữ cho chúng tôi một tin rất mới:
 - Nghe nói, đợt này chúng mình vào chiến trường B5 đấy. -Tôi nhìn Trữ hỏi lại:
 - B5 là ăn cơm Bắc đánh giặc Nam phải không? Nếu vậy thì được gần nhà hơn đi B dài nhỉ. Dung mỉn cười vỗ vai hỏi tôi:
 - Thế cậu tưởng vào B5 gần hơn thì được về nhà chắc? Thoa có hay gửi thư không? Hôm tiễn đi ở sân kho HTX xem chừng cô nàng bịn rịn lắm. Thế đã gửi gắm được gì chưa? Tôi đấm nhẹ vào vai Dung cười:
 - Có gì mà gửi với gắm. Cầm tay mà chẳng dám nữa là. Xuân  nhìn tôi cười:
 - Thế là cậu kém lắm. Gặp phải Dung chắc là cá cắn câu rồi. Chúng tôi nhìn Dung cười sảng khoái. Còn Dung thì phân bua:
 - Chuyện đó thì không biết chừng. Chẳng ai biết ma ăn cỗ được. Thoa xinh thế mà cậu không làm gì thì thật phí của giời. Tôi hơi đỏ mặt vì câu nói của Dung. Thế mới biết Dung cũng là tay chịu chơi. Tôi trợn mắt:
 - Nghe mấy anh kể rằng, khi ra trận, cậu nào mà đã léng phéng với người yêu rồi là hay bị vỡ gáo lắm. Thế thì quá sợ.
 
Mấy anh em đồng hương gặp nhau tếu táo rồi lại chia tay nhau về chuẩn bị tiếp. Mọi việc cũng đã xong. Chúng tôi ngoắc tay nhau quyết tâm cùng hành quân đến đích. Sau đó mọi người lại tranh thủ viết thư về nhà để báo tin ngày hành quân vào Nam đã đến. Tuy lo lắng chuẩn bị vào chiến trường để quần nhau với giặc nhưng chúng tôi vẫn hăm hở, rộn ràng với một nhiệt tình cháy bỏng của tuổi trẻ thời đại Hồ Chí Minh quyết sống mái với quân thù.
 
Một buổi tối đầu tháng 6 - 1968, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị đến biểu diễn phục vụ đơn vị. Nghe các ca khúc mới sáng tác với phong cách biểu diễn của các nghệ sĩ, chúng tôi, những người lính trẻ như sống trong không khí hào hùng, khát vọng chiến thắng và cháy bỏng niềm tin về sự tất thắng của cuộc kháng chiến. Tôi còn nhớ, sau khi nghe Tường Vi trình bày ca khúc Tiếng đàn Ta Lư, các chiến sĩ trẻ vỗ tay không ngớt. Tường Vi lại hát lần thứ hai. Cả đơn vị lại im phăng phắc để thưởng thức nhạc phẩm:
“Bộ đội giải phóng quân ơi.
Anh thắng trận miền tây Khe Sanh.
Đồn Tà Cơn hôm nào bốc cháy.
Đồn Đồng Tri xác Mỹ chất đầy.
Kia trông. Một, hai, ba , bốn, năm, sáu chục.
Tên lính thuỷ đánh bộ Mỹ kia.
Nó bỏ xác trên rừng.
Bộ đội giải phóng quân.
Các anh đánh hay …”.
 
Về nằm trên giường, ca khúc trên đây cứ vang vọng trong tôi niềm kiêu hãnh của anh bộ đội giải phóng quân. Chỉ một bài hát thôi, cũng có tác dụng động viên bộ đội rất lớn, nhất là trong thời gian chuẩn bị hành quân vào Nam chiến đấu như thế này.

Tôi nhớ Thoa quá, tranh thủ viết thư cho em:
"Em yêu. Mấy hôm nay anh và đơn vị rất bận rộn vì phải chuẩn bị hành quân đi B em a. Ôi biết bao việc phải làm. Có em bên cạnh lúc này chắc anh sẽ đỡ được nhiều việc. Em ơi. Chỉ còn thời gian rất ngắn nữa thôi là anh và đơn vị phải hành quân vào Nam rồi. Thế là khoảng cách giũa anh và em lại càng dài hơn, muốn gần mà chẳng được em ạ. Không hiểu lúc nào chúng mình lai được gần nhau em? Anh tưởng chỉ vào bộ đội vài tháng là thống nhất rồi anh và em sẽ được gần nhau, sẽ được hồn nhiên bên nhau của tuổi học trò. Thế mới biết đời học sinh đẹp biết nhường nào. Vào đây mới biết còn gian lao và ác liệt lắm em ạ. Dù sao anh sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ như đã hứa với em. Anh biết dạo này máy bay ném bom quê mình dữ dội lắm. Anh cầu cho em học tập tốt và bình an. Anh nhớ em, nhớ lớp học vô cùng. Cầu mong cho sự đoàn tụ của chúng mình".

Tôi vội ra bưu điện gửi thư cho em rồi lại vật lộn với chiếc ba lô. Chiều mùa hè nơi miền núi Nghĩa Đàn này cũng khá oi ả. Xã Nghĩa Thọ như chảo lửa làm cho đất đỏ đường làng cuộn lên từng đám bụi hồng bám đầy cây cối hai bên đường. Tiếng chim bìm bịp gọi nhau bay về tổ. Tiếng ve sầu râm ran, vang động cả xóm thôn nơi đóng quân. Xa xa tiếng máy bay gầm rú phá đi sự tĩnh mịch của vùng miền sơn cước Nghĩa Đàn.

16h chiều ngày 3 – 6 – 1968, chúng tôi được lệnh hành quân đi B. Đứng trong hàng quân, bỗng có giọng ai đó nghe hơi lạc quan tếu: Không mau vào chiến trường lúc này thì chỉ có mà nhặt ống bơ rỉ thôi!  Sau tiếng còi báo động, đợn vị trong tư thế hàng ngũ chỉnh tề, ba lô căng phồng, dập dìu dưới cành lá ngụy trang. Đồng chí nào cũng cầm gậy trông rất vững trãi. Mệnh lệnh hành quân đựơc phát ra. Đơn vị tập hợp thành hàng dọc. Đi đầu là đại đội trưởng Nguyễn Trọng Ê. Ông là người chỉ huỷ có tài với nét mặt nghiêm khắc mà mỗi lần tôi gặp đã thấy sờ sợ. Ông cũng đã từng trải qua chiến trường nên có nhiều kinh nghiệm trong hành quân. Hành quân vào Nam mà có người chỉ huy như Đại đội trưởng Nguyễn Trọng Ê thì ai cũng yên tâm.
 
Từng đoàn thanh niên, công nhân nông trường cà phê và bà con nơi đóng quân ra tiễn chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt. Hàng quân đi rung lá nguỵ trang dài tít tắp. Đi trong hàng quân hôm nay mình thấy đã lớn lên rất nhiều. Mảnh đất Nghĩa Thọ gắn bó với đời chiến sĩ chúng tôi chưa đầy ba tháng nhưng đã để lại bao kỷ niệm buồn vui trong thời gian huấn luỵên, ngày càng xa dần. Chúng tôi hành quân gần sáng thì dừng nghỉ. Nơi đơn vị dừng chân chỉ cách nhà có vài km, nhưng vì cuộc hành quân được coi là bí mật nên không được về thăm nhà. Mất ngủ suốt đêm mà không sao chợp mắt được. Cha ơi. Con đã về đến quê hương Nam Đàn rồi. Con đóng quân gần nhà lắm nhưng không được về thăm Cha và gia đình. Em Thoa ơi. Anh đã về đến mảnh đất mà chúng mình đã gắn bó với nhau suốt tuổi học trò. Bao nhiêu kỷ niệm dưới mái trường, bao nhiêu kỷ niệm bên em cứ cuồn cuộn hiện ra. Càng hành quân xuống đồng bằng thì cảm thấy máy bay quần đảo bắn phá nhiều hơn. Không khí chiến tranh càng ngột ngạt, khốc liệt.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #17 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:25:17 pm »


Sáng nay ngủ dậy sớm. Chúng tôi được phổ biến: Vì bí mật của cuộc hành quân và để bảo đảm an toàn, tất cả phải hành quân đêm. Những tiếng bom nổ ầm ầm phía thị trấn, những loạt pháo cáo xạ nổ lốp bốp trên bầu trời cũng không cắt đứt dòng suy nghĩ miên man về quê hương, về tuổi thơ trong trẻo của tuổi học trò. Đêm đó chúng tôi vượt sông Lam để sang Nam Hoành. Đến bên bờ sông nước mênh mông, những kỷ niệm gắn với dòng sông tuổi thơ cũng chập chờn hiện ra. Thế là ta phải xa sông Lam mãi mãi. Không hiểu đến bao giờ mới được về lặn ngụp trong làn nước mát trong của sông Lam yêu dấu. Tất cả sông nước, quê hương và biết bao con người còn tần tảo vật lộn với cuộc sống của chiến tranh cứ xa dần, xa dần trong bóng đêm dày đặc. Đoàn quân rung lá nguỵ trang vẫn lầm lũi miệt mài theo hướng Nam mà đi…
 
Chúng tôi hành quân qua đất Nam Đàn thì đến Hà Tĩnh. Từ đây, bộ đội hành quân theo đường giao liên xuyên qua rừng núi phía tây Hà Tĩnh. Vì vậy, chúng tôi được hành quân ban ngày. Ngày đi, đêm nghỉ. Những ngày đầu hành quân, chân anh nào cũng sưng to. Tối đến phải ngâm bằng nước muối. Có đồng chí còn bị loét chân, có đồng chí bị thối chân do đi dày không quen. Chiều đến, tiểu đội ngồi ăn cơm mà gặp phải đồng chí nào thối chân lười rửa thì mùi thum thủm như cóc chết thật kinh khủng. Tôi mà ngửi thấy mùi chân thối là hay buồn nôn. Nhưng vì đói quá nên cố mà ăn cho xong bữa. Tối đến, sau buổi họp tiểu đội, chúng tôi lại ngồi với nhau bên cánh võng hát nghêu ngao bài chiếc gậy Trường Sơn của Phạm Tuyên:
Thanh niên quê tôi làm chiếc gậy hành quân.
Đặt cho tên gọi là chiếc gậy Trường Sơn.
Luyện cho đôi chân vượt đường xa không mỏi.
Luyện cho tinh thần mà chỉ tiến không lui.
Gậy trong tay mô hôi đã bóng.
Màu gỗ quê hương mang cả mối tình dân.
Như nhắn nhủ những ai lên đường mà lời hứa với bao người thân.
Trường Sơn ơi. Nơi núi mờ xa mà ta chưa qua.
Có suối reo có gió ngàn cây.
Có dốc cao vực sâu mất lối.
Mây trắng quyện dưới chân bước bồi hồi.
Có nắng lửa đốt thiêu vách núi ơ.. ơ…

Chúng tôi hát với nhau thật say sưa. Nằm trên cánh võng dưới tán rừng bạt ngàn của dãy Trường Sơn mới thấy ý nghĩa đẹp đẽ, hùng hồn và tự hào biết bao của bài hát. Chúng tôi vừa hát vừa nghĩ chặng đường đã hành quân qua mà ngủ lúc nào không biết.
Có những ngày đi qua các đỉnh núi, trông xuống đồng bằng loang loáng ánh nắng chói chang với các cơn gió Lào cuốn bụi mù mịt những con đường đất đỏ. Xa xa, có những cột khói đen bốc cao và những tiếng nổ ầm ầm. Chắc là máy bay ném bom cầu phà hay trọng điểm nào đó. Hành quân qua Hà Tĩnh thì đến đất Quảng Bình. Đứng trên các triền núi mới thấy hết sự ác liệt và sự tàn phá đến khủng khiếp của chiến tranh phá hoại đối với tuyến lửa Hà Tĩnh, Quảng Bình. Những lúc hành quân qua tỉnh Quảng Bình mới thấy hết ý nghĩa sâu sắc và đẹp đẽ của bài hát Quảng Bình quê ta ơi của nhạc sĩ Hoàng Vân:

“Nếu ai hỏi vì sao, quê hương chúng ta nhiều ngói mới.
Rằng có đắng cay nên chừ mới có ngọt bùi.
Nếu ai hỏi vì sao, quê hương chúng ta đồng lúa tốt.
Có nhớ những ngày cơ cực tối tăm ngày xưa…”

Bước chân rong ruổi được 15 ngày thì vào đến miền núi Quảng Trị. Quảng Trị - vùng đất xưa nay được mệnh danh là “ô châu ác địa”, nổi tiếng về khí hậu khắc nghiệt, cây kén đất, bàn tay người lam lũ quanh năm vẫn không hết khổ. Cái nghèo cũng tản mạn khắp nơi và đeo bám dai dẳng con người. Nơi đâu cũng có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông rõ rệt. Vậy mà mảnh đất này chỉ có hai mùa: mùa khô và mùa mưa, người ta thường nhắc đến vùng đất của gió Lào cát trắng. Mùa khô, mở mắt ra đã thấy nắng chói chang, nóng hừng hực, cộng thêm những trận gió Lào khô rát, thổi như bão khan rất khó chịu. Nắng chạm vào da, vào thịt làm cho da dẻ con người chẳng còn tươi sáng. Thường thì sau Tết âm lịch, những cơn gió Lào đầu tiên đã xuất hiện mà dân ở đây thường gọi là gió Nam ra. Mùa khô hay còn gọi là mùa nắng thường kéo dài từ tháng hai âm lịch đến hết tháng tám ta, thời gian còn lại trong năm là mùa mưa.
   
Chúng tôi hành quân vào đến nơi thì Quảng Trị cũng bắt đầu mùa mưa. Mưa Quảng Trị cũng khá dữ dội và kéo dài triền miên, mưa như làm cho đất thấm nước đến tận đáy. Những lúc nằm dưới rừng nghe mưa rơi thấy não nề, mưa rào rạt, xối xả, suối ngàn như sôi lên trắng xoá. Mưa tưởng đến mức hết nước mà vẫn dai dẳng, tôi là lính tráng mới vào nên gặp thời tiết khắc nghiệt như thế này cũng thấy nao nao lòng. Bộ đội hành quân vào mùa này thật vất vả vô cùng. Đường hành quân không chỉ phải vượt núi cao, dốc đứng, suối sâu, mà đường thì trơn như đổ mỡ. Những người trước tôi cứ vít bám vào dây rừng mà đi, người sau cũng như vậy. Có lúc cây bị bật rễ thì cả người và ba lô lăn lốc, người đi sau cũng bị ngã theo, máu rỉ loang ra bàn chân, bàn tay. Chiếc gậy Trường Sơn lúc này càng có ý nghĩa. Mưa thì mặc mưa, người lính vẫn lầm lũi đi trong mưa. Những cuộc hành quân xuyên rừng luôn luôn thường trực đối với người lính. Hành quân vào mùa mưa là gian khổ, nhưng dù gian khổ thế nào bộ đội vẫn hành quân. Hành quân để vào kịp với trận tuyến, trong kia mọi người đang chờ đợi chúng tôi vào để bổ sung lực lượng.
 
Hành quân vào đến nơi thì chúng tôi được bổ sung cho tiểu đoàn K 8A của mặt trận B5. Tôi được bổ sung vào Đại đội 4. Đây là Đại đội hỏa lực của tiểu đoàn. Tôi được biên chế vào khẩu đội đại liên Côlinốp do anh Vương Tử Hoàng làm tiểu đội trưởng. Anh Hoàng quê ở Thanh Hóa, nhập ngũ 1964. Anh là người đã kinh qua nhiều trận đánh nên có khá nhiều kinh nghiệm trong xử lý tình huống trong chiến đấu. Buổi đầu vào tiểu đội được anh Hoàng kể rất nhiều chuyện chiến đấu ở mặt trân B5. Sau khi củng cố nơi ăn ở, chúng tôi bắt đầu huấn luyện sử dụng súng đại liên Côlinốp. Lúc này mặt trận B5 đang tập trung vây lấn cứ điểm Khe Sanh. Huấn luyện được hai tuần thì chúng tôi được giao nhiệm vụ chi viện cho lực lượng vây lấn Khe Sanh.
 
Khe Sanh là thị trấn thuộc huyện Hướng Hóa ở miền Tây Quảng Trị, cách biên giới Việt- Lào khoảng 20km. Từ Đông Hà ngược theo đường số 9, chừng 80km sẽ đến Khe Sanh, một vùng đất đỏ bazan lãng đãng mù sương. Khe Sanh với địa hình đồi núi rậm rạp, trập trùng. Khe Sanh lúc này trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ “ngăn cản sự xâm nhập của Cộng quân vào Nam” do Măc-na-ma-ra, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ lúc bấy giờ vạch ra. Đây là căn cứ quân sự của Mỹ có nhiệm vụ chốt chặn bước tiến của ta vào Nam ở Đông Trường Sơn. Hơn nữa chúng muốn tạo thế mạnh ở miền Nam để uy hiếp miền Bắc. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 của ta đã giáng một đòn bất ngờ và quyết định làm thất bại chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam.
 
Bị vây ép, địch tổ chức nhiều cuộc hành quân nống ra hòng chiếm lại những khu vực đã bị mất xung quanh thị trấn đẫm máu này. Đơn vị chúng tôi hành quân chiếm lĩnh trận địa tại đồi Cháy phía Nam sông Bến Hải có nhiệm vụ diệt quân Mỹ nhảy dù đánh vào phía sau hậu cứ. Qủa đồi mà tiểu đội đại liên chúng tôi được giao nhiệm vụ chốt giữ là Động Nóc, anh em thường gọi là đồi Cháy. Vì toàn bộ quả đồi bị bom đạn cày xới, mọi vật có trên mặt đất bị cháy thui. Mấy ngày nay máy bay B52 thi nhau rải thảm, pháo bầy của giặc từ Tà Cơn, Dốc Miếu thi nhau trút bão lửa xuống trận địa. Rừng già tan hoang, đồi trọc bị cày xới bởi hàng trăm hàng nghìn hố bom, hố pháo. Chỉ cần một đợt bom rải thảm là cánh rừng bị tan hoang còn hơn trận bão. Sau những trận bom, pháo cây cối đổ nghiêng ngả, hầm hào sạt lở tùm lum, địa hình địa vật đổi thay lạ hoắc. Đêm và ngày ùng oàng tiếng bom rơi đạn nổ, không gian sặc sụa mùi thuốc bom, đạn nghe gây người. Có những trái pháo, quả bom nổ đúng hầm. Đồng đội tôi có người bị thương, hy sinh. Chúng tôi phân công nhau người trực chiến đấu, người vận chuyển thương binh, người chôn cất tử sĩ. Người lính ngoài mặt trận như cái máy, công việc suốt ngày, suốt đêm. Có khi vài ngày không được ngủ. Mỗi người được tiếp tế ba nắm cơm vắt cho ba bữa sáng, trưa và chiều.
   
Sau một trận chiến đấu, đơn vị nhận được lệnh lại tiếp tục hành quân đêm sang trận địa khác để chốt giữ đánh địch nống ra. Vừa đến trận địa mới lại phải bắt tay đào hầm trú ẩn ngay. Rồi lại tiếp tục canh gác và chiến đấu, ngày cũng như đêm, căng như dây đàn. Những ngày đầu vào chiến đấu, gặp những cảnh căng thẳng và ác liệt thế này tôi lo lắng đủ mọi thứ, nhất là khi nhìn thấy những đồng đội ngã xuống do mảnh bom, đạn có lúc tôi đã giật mình ghê sợ vì cái chết nhìn thấy thật thảm hại. Trong hoàn cảnh như vậy chỉ biết im lặng nén đau thương, căm thù và gạt nước mắt. Những lần mai táng đồng đội của mình, trong túi áo chỉ vẻn vẹn với những dòng địa chỉ tên tuổi ngắn ngủi và chiếc nilong để cuốn xác. Nhìn nấm mồ mà thấy cuộc đời người lính thật mong manh, mỗi người nằm xuống có biết bao nhiêu người đau, đâu phải chỉ có người chôn cất như chúng tôi mà có cả người thân, gia đình mà cả xóm làng đang ở xa tít tắp.
   
Vẫn biết chiến tranh là ác liệt, hy sinh nhưng tôi cũng không ngờ nó lại ác liệt đến mức thế này. Sự nghiệt ngã của chiến tranh hoàn toàn không giống như tôi hằng tưởng tượng, suy nghĩ theo kiểu lãng mạn như hồi còn là  học trò. Nếu như biết trước sự khốc liệt như thế này chắc tôi còn phải đắn đo và suy nghĩ nhiều hơn trước khi nhập ngũ. Thế mới biết lời căn dặn của Cha trước lúc lên đường đúng như thế nào. Cách suy nghĩ giản đơn, pha chút lãng mạn của tuổi học trò hoàn toàn đối nghịch với sự khốc liệt của chiến trường. Khi còn ở nhà, tôi nhìn thấy ở chiến trường chỉ có chiến thắng và vinh quang, chỉ có anh hùng và dũng sĩ, chỉ có tiến lên và quân thù ngã gục. Ôi! Nếu vậy thì quả là lý tưởng. Tuy cũng có lúc vẫn biết chiến tranh là sự hi sinh, gian khổ nhưng tôi không tưởng tượng ra nổi sự khốc liệt và nghiệt ngã đến vậy. Không nghĩ rằng, mình lại thức trắng trong nhiều đêm liền để hành quân, để đào hầm, để cảnh giác quân thù…Tôi cũng không tưởng tượng nổi suốt ngày chỉ có ăn cơm nắm với muối trắng như thế này. Cũng chẳng bao giờ nghĩ là mình phải cùng đồng đội lại đi chôn cất đồng đội nhiều đến như thế. Ngày ở nhà, mỗi khi trong làng Ngũ Phúc có đám ma là tối đó không giám đi đâu, sợ nó bắt mất.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #18 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:26:44 pm »


Câu chuyện sau đây là minh chứng về sự thử thách lớn lao đó đối với người lính ở chiến trường. Hôm đó, chúng tôi được lệnh hành quân chiếm lĩnh đồi cháy (Động Nóc) để làm nhiệm vụ đánh địch đổ bộ hòng cắt đứt đường tiếp viện cho mặt trận Khe Sanh. Tiểu đội đại liên chúng tôi quần nhau suốt ngày với máy bay địch. Từ sáng sớm, máy bay và pháo tầm xa thi nhau bắn vào đồi Cháy. Cả quả đồi trong chốc lát đã bị khói bụi bao phủ mịt mù. Những tiếng rít của quả bom và trái pháo nghe như xé vải và tiếp đó là những tiếng nổ đinh tai nhức óc, thật rợn người. Qủa đồi như rung lên bần bật. Đất đá văng tứ tung, khói bụi mù mịt. Những đám lửa cháy bập bùng để lại những cột khói nghi ngút, đen quạch. Không khí hầm hập, oi bức và ngạt thở. Đầu tóc, mặt mũi, áo quần người lính nào cũng nhoem nhuốc, lấm láp, trông thật nhếch nhác.

Sau đợt ném bom của máy bay và bắn phá của pháo tầm xa là may bay VO10 bay trinh sát. Có lẽ chúng nghĩ trên đồi cháy này không thể có một sinh linh nào sống nổi dưới sức mạnh của hỏa lực Hoa Kỳ, huống hồ bộ đội. Chiếc VO10 hai thân bay vè vè, lượn vài vòng xung quanh quả đồi và sau đó tập trung bắn chỉ điểm vào các lùm cây ven suối dưới chân đồi. Có lẽ chúng nghĩ, chỉ nơi đó mới có bộ đội đóng quân. Sau những quả pháo bắn chỉ điểm của VO10 là mấy chiếc phản lực bổ nhào ném bom xuống ven suối. Đồi Cháy lại rung lên sau những loạt bom.
Tiếp đó là từng đàn máy bay trực thăng từ phía Cồn Tiên, Dốc Miếu túa ra như chuồn chuồn. Tiếng động cơ máy bay trực thăng nghe phành phạch. Chúng bay lượn một vòng xung quanh quả đồi rồi một chiếc tách khỏi đội hình từ từ hạ thấp độ cao để đáp xuống trận địa. Anh Hoàng hô to át cả tiếng trực thăng:
- Toàn khẩu đội chuẩn bị đánh địch đổ bộ.

Phương án đánh địch đổ bộ đã được anh em luyện tập chu đáo. Khẩu đại liên do anh Hoàng trực tiếp chỉ huy. Chúng tôi dùng súng bộ binh bắn máy bay. Dưới cái nóng hầm hập nhưng anh em trong khẩu đối vẫn dán mắt vào chiếc máy bay đi đầu đang hạ cánh. Chiếc máy bay từ từ hạ cánh. Tôi thấy nó đã hạ thấp lắm rồi mà chưa nghe Tiểu đội trưởng ra lệnh bắn. Nó càng hạ thấp độ cao thì sức gió của cánh quạt máy bay càng lớn. Nó có thể thổi cuốn hết các vật gì trên mặt đất, bụi bay mịt mù. Hơi gió cánh quạt thổi cả vào hầm như trận cuồng phong. Cũng rất may là cửa hầm được chúng tôi ngụy trang rất khéo léo và chặt chẽ. Trên miệng hầm chúng tôi cắm rất nhiều cành cây đã cháy sém đen, tất cả mặt đất, cửa hầm chỉ rạch một màu xám đen của than, tro, miệng hầm cũng không bị lộ ra. Tôi thấy chiếc máy bay càng ngày càng xuống thấp. Làn gió của cánh quạt thổi như bão. Trên thân cửa máy bay có mấy thằng Mỹ đội mũ sắt, mặt đỏ au đang ngồi lố nhố. Chúng đang lăm lăm trong tay khẩu tiểu liên Ar15, đôi mắt chúng cũng đang quan sát khắp trận địa, như hình nó đã nhìn thấy chúng tôi thì phải. Tôi thấy nóng ruột quá. Tại sao lúc này Tiểu đội trưởng chưa cho bắn? Nếu được bắn, chắc chắn loạt AK sẽ trúng đầu mấy tên Mỹ đang ngồi trên cửa sổ. Tôi nhìn sang hầm chỉ huy, thấy anh Hoàng và mấy anh em vẫn giương cao nòng súng đại liên vào chiếc máy bay. Chiếc trực thăng HU1A vẫn từ từ hạ cánh. Vừa quan sát chiếc máy bay đang hạ cánh tôi vừa nghĩ đến phương án tối qua của Tiểu đội trưởng là phải bắn đúng chiếc đi đầu. Muốn vậy phải ngụy trang cửa hầm thật kín đáo, chờ cho máy bay hạ thật thấp mới được bắn. Đến lúc này tôi cảm thấy máy bay đã hạ cánh gần mặt đất rồi mà Tiểu đội trưởng chưa hạ lệnh bắn. Vừa nhìn máy bay đang hạ cánh, vừa nhìn sang Tiểu đội trưởng để nhận lệnh mà con tim như lửa đốt. Chiếc máy bay tiếp tục hạ thấp và chuẩn bị tiếp đất. Ngón tay trỏ của tôi cũng từ từ xiết cò. Chỉ cần nghe khẩu lệnh của Tiểu đội trưởng là khẩu súng AK nhả đạn.

Bổng nhiên tôi nghe tiếng đạn đại liên nổ dòn dã. Tôi lập tức xiết cò. Nòng súng AK rung lên bần bật, nhả đạn căm thù vào chiếc máy bay. Chiếc trực thăng dính đạn, chòng chành, bay khỏi trận địa và rơi xuống quả đồi bên cạnh. Khói đen bốc lên từ máy bay. Cả đàn máy bay lại bay về hướng đông. Một chốc sau pháo tầm xa lại bắn cấp tập xuống trận địa.

Sau mỗi đợt bắn phá, máy bay trực thăng lại tiếp tục đổ bộ xuống đồi Cháy. Từ đó đến chiều, khẩu đại liên bắn trả quyết liệt và đánh bật 3 lần đổ bộ bằng trực thăng của địch. Khẩu đại liên đã bắn rơi 3 chiếc máy bay và đã làm thất bại cuộc đổ bộ xuống đồi Cháy. Cả tiểu đội có hai đồng chí bị thương.
Tôi thấy đói bụng quá, bẻ nắm cơm ra ăn. Vỏ ngoài nắm cơm đã khô như vỏ dừa. Tôi đang ăn cơm thì Tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng gọi lên hầm chỉ huy. Anh Hoàng hút một hơi thuốc dài và nhả ra làn khói xanh, thơm bay theo chiều gió, nhìn tôi âu yếm nói:
- Bây giờ cậu chuẩn bị cùng tớ đi làm nhiệm vụ đặc biệt của Tiểu đoàn. Nhớ chuẩn bị mang theo dao găm, cuốc xẻng nhé.

Tôi thấy Tiểu đội trưởng của mình có đôi mắt sâu hoắm, mặt mày lem luốc nhưng với những bước đi rất nhanh nhẹn. Đã mấy hôm nay chốt trên đồi Cháy hầm hập khói lửa, ngột ngạt mùi đạn bom, sống trong tình trạng căng như dây đàn thì không mệt mỏi làm sao được. Anh Hoàng là người chỉ huy rất dũng cảm, nhanh nhẹn nhưng rất sâu sát và thương anh em. Tôi vẫn nhớ như in, hình ảnh người chỉ huy, đêm đêm trước giờ ngủ, dù trong hoàn cảnh nào anh cũng đi kiểm tra xem anh em ngủ có mắc màn không, có ngủ đúng giờ không, kiểm tra việc canh gác như thế nào. Sau đó anh mới về đặt lưng năm ngủ, cứ như người chị hiền của tiểu đội. Có lần anh Hoàng đã nói với tôi: Cái quý nhất của con người, nhất là đối với bộ đội là sức khỏe. Một đồng chí ốm là mất một tay súng. Mất một tay súng là kẻ địch có lợi hơn mình. Do vậy, phải chăm lo sức khỏe của bộ đội là nhiệm vụ hàng đầu của người chỉ huy. Tôi nhìn Tiểu đội trưởng thấy phấn khởi khi được cùng anh làm nhiệm vụ đặc biệt này và đứng nghiêm nhận nhiệm vụ:
-  Xin chấp hành. Anh Hoàng vỗ vai tôi thân mật:
-  Tốt. Về chuẩn bị đi ngay nhé.

Tôi lao nhanh về hầm và chuẩn bị các dụng cụ cần thiết. Lúc này tôi cũng chưa hiểu đi làm nhiệm vụ đặc biệt là nhiệm vụ gì. Khi đến Ban chỉ huy Đại đội tôi mới biết nhiệm vụ đặc biệt đó là đi mai táng, chôn cất tử sĩ. Mấy hôm nay âm mưu của địch là dùng sư đoàn Kỵ Binh bay để đổ bộ, chặn đường tiếp tế của ta cho mặt trận Khe Sanh. Đại đội trong đội hình của Tiểu đoàn K8A đã tập trung đánh địch đổ bộ đường không nên rất ác liệt. Với ý chí kiên cường nên Tiểu đoàn đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh bật cuộc đổ bộ đường không của chúng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có nhiều thương vong.

Đi làm nhiệm vụ đặc biệt lần này có nhiều đồng chí. Ngoài anh Hoàng ra còn có các anh Lê Xuân Trữ, Hoàng Ngọc Loan, Nguyễn Văn Lệ, Lê Văn Ngọ…Mới xa nhau mấy ngày mà trông cậu nào cũng hốc hác, đen sạm, mệt mỏi. Chúng tôi tay bắt mặt mừng nhưng nhìn ai cũng đượm vẻ lo âu. Trữ vừa cười vừa nói với giọng khảng khái, coi cái chết chẳng là gì, phá đi không khí căng thẳng, mệt mỏi này:
- Sống chết cũng có số phận của nó các cậu ạ. Bom đạn tránh mình chứ mình làm sao mà tránh nó được.
Chỉ có điều, sau này nhỡ ra, có làm sao thì nhớ báo tin cho gia đình với nhé.

Tôi nhìn Trữ và mọi người rồi liếc nhìn các liệt sĩ đã được gói cẩn thận bằng vải ni lông mà lòng ái ngại, thông cảm cho các bạn. Anh em chúng tôi tập trung trước hầm Chính trị viên đại đội. Trực tiếp giao nhiệm vụ có anh Nguyễn Hữu Thu, Chính trị viên và anh Nguyễn Long Trọng, Đại đội trưởng. Anh Thu quê ở xã Dân Lực, Triệu Sơn, Thanh Hóa. Anh Trọng quê ở xã Quảng Yên, Quảng Xương Thanh Hóa. Chúng tôi được bổ sung vào đơn vị hỏa lực của tiểu đoàn K8A, lại có các thủ trưởng vừa đẹp trai, vừa tâm lý như anh Thu và anh Trọng thì thật vinh hạnh.

Sau khi chúng tôi ổn định chỗ ngồi (dựa vào các gốc cây), anh Nguyễn Hữu Thu phổ biến nội dung của nhiệm vụ đặc biệt. Anh Thu trước đây là giáo viên cấp 2, nhập ngũ 1964. Anh có đôi mắt sáng với giọng nói sang sảng có sức thuyết phục cánh lính trẻ. Anh Thu nhìn chúng tôi nói:
- Hôm nay các đồng chí được cử làm nhiệm vụ đặc biệt. Theo mệnh lệnh của Thủ trưởng Mặt trận, vị trí nơi tác chiến là không an toàn nên phải bằng mọi giá, khẩn trương chuyển các tử sĩ ra bờ bắc sông Bến Hải để mai táng. Chúng ta không thể yên tâm khi để đồng đội của mình an nghỉ nơi không an toàn được. Đây không chỉ là nghĩa tử mà còn là tình cảm đồng đội, đồng chí, sống chết có nhau, là trách nhiệm của chúng ta đối với người đã hy sinh vì Tổ quốc. Ngay trong đêm nay, chúng ta phải đưa thi hài các đồng chí đã hy sinh ra bờ bắc sông Bến Hải. Đường hành quân đêm nay không thuận lợi, có mưa to, gió lớn, rất khó khăn, vất vả. Nhưng vì tình cảm đồng đội, sống chết bên nhau, tôi kêu gọi các đồng chí hãy vượt qua mọi khó khăn, vất vả, bằng mọi cách đưa thi hài các liệt sĩ ra bờ bắc sông Bến Hải an toàn. Các đồng chí được cử đi làm nhiệm vụ đặc biệt lần này là những đồng chí ưu tú, đã được lựa chọn kỹ càng. Do vậy, Đảng ủy Tiểu đoàn và Ban Chi ủy Đại đội rất tin tưởng và gửi trọn niềm tin vào các đồng chí và mong các đồng chí đoàn kết, hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt này. Anh Thu nói rất ngắn gọn và sau đó, anh Trọng, Đại đội trưởng phân công nhiệm vụ:
- Để đảm bảo hành quân an toàn, chúng tôi phân công 4 đồng chí đảm nhiệm một cáng tữ sĩ. Đường đi đêm rất khó khăn. Các đồng chí bám sát với nhau, không được đi lạc, giữ bí mật, đề phòng thám báo, biệt kích mai phục. Trong trường hợp bị địch mai phục thì đánh địch, mở đường mà đi. Kiên quyết bảo đảm an toàn tuyệt đối thi hài tử sĩ. Nghe đến đây tôi thấy ghê người quá. Anh Trọng nói tiếp:
- Tôi đề nghị các đồng chí đi làm nhiệm vụ đặc biệt lần này hãy vì tình thương yêu giai cấp, tình đồng đội, các đồng chí không được khạc, nhổ trước anh linh đồng chí mình. Nghe đến đây tôi thấy rùng rợn, nổi gai ốc.

Sau đó tôi được phân công cùng anh Hoàng, Trự, Lệ khiêng một cáng tử sĩ. Trữ quê ở xã Hưng Hòa, thành phố Vinh; Lệ quê ở Nam Cát. Chúng tôi cùng nhập ngũ một ngày, vào chiến trường B5 lại cùng đơn vị. Anh Hoàng khoác áo mưa, đeo khẩu súng AK đi trước. Tôi và Trự khiêng tử sĩ đi sau. Sau cùng là Lệ. Tử sĩ là anh Nguyễn Hồng Sơn, quê ở Hưng Lợi, Hưng Nguyên, cùng nhập ngũ với chúng tôi. Anh Sơn bị mảnh pháo xuyên ngực cách đây 4 hôm. Tuy được bó bằng vải ni lông nhưng vẫn bốc mùi rất nặng.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #19 vào lúc: 16 Tháng Ba, 2012, 01:27:40 pm »


Mới 5 giờ chiều mà đường đi đã tối sẫm. Trời vẫn mưa ngày càng nặng hạt. Trữ người nhỏ hơn nên đi sau, tôi đi trước, Trữ đi sau. Mội tay tôi giữ cáng, tay kia chống gậy và đi theo anh Hoàng. Anh Hoàng vừa đi vừa dò dẫm. Có đoạn đi được một quãng nhầm đường phải quay lại. Những lúc xuống dốc, đường trơn, cáng tử sĩ khá nặng đè lên vai rất khó đi. Có lúc trượt chân, thế là cáng tử sĩ đè lên người. Những lúc đó phải có anh Hoàng và Lệ kéo lên mới đi được. Nước của xác tử sĩ theo cáng chảy vào người nhơn nhớt. Thật kinh khủng. Khoảng 3 giờ sáng thì chúng tôi đến sông Bến Hải. Lúc này trời mưa như trút nước. Trời tối đen như mực. Nước sông dâng cao. Anh Hoàng cho anh em tạm nghỉ chờ nước rút mới khiêng tử sĩ sang sông được. Anh Hoàng vuốt nước mưa, nói:
- Bây giờ ta tạm nghỉ tại đây. Mưa thế này có thể sáng mai tạnh khi đó mới vượt sông được. Chúng ta thay nhau thức canh tử sĩ. Phải đề phòng thú rừng, tuyệt đối không được để mất tử sĩ.

Tối đó chúng tôi thay nhau đứng giữa trời mưa để canh tử sĩ. Tôi và Trữ được phân công gác trước. Chúng tôi đứng gác mà bụng đói cồn cào. Đứng dưới làn mưa bàng bạc, Trữ hỏi tôi:
- Đói bụng quá. Tớ còn cơm đây. Cậu ăn với mình nhé. Vừa nói Trự vừa móc nắm cơm trong túi ra đã ướt sủng. Trời tiếp tục mưa như trút nước. Tôi nhìn Trữ, nhìn mưa giăng giăng, nước sông chảy ầm ĩ mà lòng ngao ngán quá chừng. Chưa bao giờ tôi lại nghĩ đời bộ đội sao mà lắm gian nguy thế này. Khi còn là cậu học sinh có ai kể cho mình về sự gian nan vất vả của bộ đội như thế này đâu. Bụng thì đói mà hai lỗ mũi lúc nào cũng phảng phất mùi tử sĩ thật buồn nôn. Tôi chép miệng, trả lời Trữ:
- Làm sao mà ăn nổi. Cậu ăn đi. Tôi vừa nhìn vừa chỉ tay ra bờ sông đang ào ào thác đổ:
- Kiểu này có thể nước sông ngập lên đến đây chắc. Trữ vừa cố gắng nuốt trôi miếng cơm nắm, khoát tay nói:
- Mặc nó, ăn đi mà lấy sức. Nước sông có lên đến đây ta lại tiếp tục chuyển tử sĩ lên cao hơn nữa.
Nói chưa xong Trữ đã ngoạm cả miếng cơm còn lại một cách ngon lành. Đúng là anh chàng như tiểu đội thường nói là đẹp trai nhưng rất háu đói. Trong lúc đó, mặc dù bụng đói nhưng tôi không thể ăn được. Một phần vì mệt, nhưng cái quan trọng là hai lỗ mũi cứ phảng phất mùi tử sĩ, cổ họng luôn chực buồn nôn, nghĩ tới cơm là muốn ọe ra rồi. Đứng gác bên thi hài tử sĩ mới thấm thía lời căn dặn của Đại đội trưởng Nguyễn Long Trọng: “Vì tình yêu giai cấp, tình yêu đồng chí, đồng đội, các đồng chí không được khạc nhổ trước anh linh đồng chí mình”. Do vậy, tôi cố chịu đựng cho trọn bổn phận là người đồng đội của Sơn. Trời tiếp tục mưa giăng giăng, sấm chớp xen lẫn tiếng pháo cầm canh nổ đì đoàng. Anh Hoàng thức đậy từ lúc nào đến bên tôi, vỗ vai:
- Bây giờ để tớ gác cho. Các cậu tranh thủ ngồi ngủ một tẻo cho đỡ mệt. Tôi thấy ánh sáng đã le lói phía đông, bèn nói với anh Hoàng:
- Trời gần sáng rồi anh a. Em cũng chẳng buồn ngủ nữa. Anh và Trữ cứ tranh thủ ngủ đi. Tôi chưa nói dứt thì Trữ đã vén áo mưa, ghé mông vào gốc cây mục ngồi thụp xuống, trùm áo mưa và ngủ luôn. Còn anh Hoàng thì bật lửa hút thuốc.

Tôi bồng súng đứng gác bên thi hài Sơn trong làn mưa giăng giăng, bàng bạc. Không hiểu nước mắt hay nước mưa mà cứ lăn dài trên gò má. Nhìn xác tử sĩ được gói tròn trịa bằng áo mưa, nằm ngay ngắn trên chiếc cáng được dựa vào hai thân cây. Mặc cho mưa rơi bắn vào cáng nghe lộp bộp, tôi vẫn đứng nhìn Sơn. Tự nhiên con tim tôi nhói đau. Sơn ơi. Chỉ mới cách đây mấy hôm, chúng mình đang cùng nhau hút chung điếu thuốc lá Sa Lem lấy được của bọn lính Mỹ trên đồi Cháy, mà bây giò Sơn đã ra đi để lại nỗi mất mát, đau thương cho tiểu đội, cho bọn mình. Mình vẫn nhớ câu nói của Sơn dặn mọi người: Nếu trong chiến đấu có làm sao thì người còn lại phải báo ngay cho gia đình. Bây giờ người ra đi trước là Sơn. Thật đau xót cho tình cảm đồng chí, đồng hương chúng mình Sơn ạ. Bọn mình đã vượt bao núi cao, đóc thẳm để đưa Sơn sang bờ bắc sông Bến Hải cho an toàn. Chúng mình sẽ làm mộ chí cẩn thận và sẽ báo cho gia đình Sơn biết.

Hôm trước, bên miệng công sự trực chiến, Sơn có kể cho chúng mình nghe về sự khó khăn, vất vả của gia đình Sơn. Bao nhiêu năm nay, gia đình Sơn vẫn ở ngôi nhà tranh dột nát. Đã bao lần dọi lại mà vẫn bị dột. Bố mẹ Sơn phải chuẩn bị mấy năm mới mua đủ tranh, tre, nứa, lá để sửa lại nhà. Nhưng Sơn đi bộ đội nên việc sửa nhà phải hoãn lại. Gia đình chờ Sơn về mới làm lại nhà và cưới vợ cho Sơn. Sơn cũng ao ước, sau này, khi đất nước hòa bình, thống nhất, Sơn sẽ về làm cho bố mẹ nếp nhà tranh nho nhỏ để hưởng tuổi già. Một ước mơ giản dị của người lính mà không sao thực hiện được. Sơn nằm đấy và đang ngủ ngon lành, trong lúc bố, mẹ ở nhà  vẫn mong mỏi từng ngày. Có lẽ hoàn cảnh người lính chúng mình cũng rất giống nhau Sơn ạ.

Tiễn biệt Sơn không hương, không nến cũng không hoa. Giua mưa ngàn thác đổ, giữa trận địa đầy hiểm nguy này, tiễn biệt Sơn với tấm lòng đồng đội kiên trung, luyến tiếc, sẽ chia. Mặc gió to, lũ lớn, mặc thác ghềnh hiểm nguy, mình và đồng đội vẫn bồng súng đứng gác cho Sơn an giấc để rồi sẽ đưa Sơn đến nơi an toàn, yên giấc ngàn thu.
Sáng hôm sau, mưa cũng ngớt dần. Mưa đầu nguồn có khác. Vừa mưa nước đã dâng cao; ngớt mưa nước cũng rút rất nhanh. Những hòn đá nhấp nhô ngày càng lộ dần lên mặt nước. Chúng tôi khẩn trương khênh cáng liệt sĩ vượt sông Bến Hải. Sông chảy cuồn cuộn. Chúng tôi vừa khênh tử sĩ vừa bám vào dây thừng mà các chiến sĩ giao liên đã làm sẵn để vượt sông. Nếu không có giây thừng này thì dòng nước có thể cuốn chúng tôi đi bất cứ lúc nào.

Chúng tôi vừa khênh xác tử sĩ qua sông thì cũng là lúc máy bay Mỹ bắn phá hai bên bờ sông Bến Hải. Chúng tôi vội vả khênh xác tử sĩ đến xã Vĩnh Ô, Vĩnh Linh để mai táng. Mấy anh em hì hục đào huyệt chôn cất tử sĩ và ghi thẻ mộ chí cho anh Sơn. Mai táng tử sĩ xong, chúng tôi khẩn trương quay lại sông Bến Hải để về đơn vị. Sau đợt công tác đặc biệt này, lỗ mũi tôi lúc nào cũng thoang thoảng mùi tử sĩ, mặc dù luôn xức dầu con hổ nhưng vẫn không hêt cái mùi thum thủm ấy.
Câu chuyện trên đây chỉ có người lính mới gặp phải. Khi còn là học sinh chẳng bao giờ tôi nghĩ tới. Với chiến trường, sự sống và cái chết gần nhau trong gang tấc. Cùng nhau giữa chiến hào nhưng chỉ giây phút sau, đồng chí của mình đã gục ngã bởi đạn địch, không một lời trăng trối. Thương tâm hơn, vừa ăn cơm xong có người đã dính mảnh đạn pháo của địch chết ngay. Có biết bao lời hẹn ước lúc lên đường dành cho ngày gặp lại, mà không thể thành hiện thực. còn biết bao đồng đội, mặt búng ra sữa, chưa một ánh mắt trao nhau, chưa một lời hẹn ước…đã phải từ giã cuộc đời.
   
Là con người, ai chẳng muốn sống, muốn chiến tranh được kết thúc nhanh để được trở về với gia đình, với người thân? Có lẽ, mong ước cao nhất, hy vọng muôn phần của người lính là được về với quê hương. Khi bom đạn tạm thời yên ắng, nằm trong căn hầm dã chiến ẩm ướt giữa mùa mưa miền rừng Quảng Trị, chúng tôi càng thêm nhớ nhà, nhớ quê hương. Có ở chiến trường mới thấy hết giá trị lớn lao của sự sống. Trước đây, tôi mơ ước được đi học nước ngoài bao nhiêu thì bây giờ mơ được về quê còn gấp bội bấy nhiêu. Nhiều hôm tay ôm súng đứng gác trong đêm, nghe tiếng chim gõ kiến mổ lốc cốc vào thân cây, tiếng tắc kè điểm nhịp chẵn lẻ báo mưa báo nắng ngày mai, tiếng chim từ quy gọi nhau “chóp thì bóp” khắc khoải, đi mai táng tử sĩ…lòng tôi lại nao nao nghĩ tới số phận mong manh của người lính và cồn cào nhớ tới những người thân nơi hậu phương. Đêm nay tôi còn đứng đây nhưng biết đâu ngày mai không còn ở trên đời này nữa, không thể lường được chuyện sinh tử nơi mưa bom bão đạn này. Hay rồi lại như Sơn, được gói trong tấm áo mưa và được đồng đội đưa đi chôn trong khu rừng hẻo lánh…Cha và chị tôi sẽ ra sao khi nghe tin tôi hi sinh. Vào chiến trường, nghĩ đến cái chết thấy hãi hùng nhưng buồn nhất là chưa giúp gì cho Cha Mẹ để đền đáp công ơn sinh thành. Ngày tôi đi, cứ nghĩ rằng cuộc chiến đấu sắp kết thúc rồi nhưng khi vào chiến trường mới thấy cuộc chiến còn dài và gian khổ, ác liệt vô cùng. Ước gì không có chiến tranh để tôi khỏi phải xa nhà, được gần gũi gia đình. Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng trong trẻo như ta vẫn nghĩ và thầm mong. Ở nơi đây, ngày nào cũng như ngày nào, phải đối mặt với bom đạn, chết chóc.   

Cũng may ở nơi đây còn có những người lính cùng chia ngọt, sẻ bùi, thương nhau nên tôi cũng thấy vơi đi sự cô đơn, trống vắng. Không có những người đồng chí, đồng đội chắc chắn không có sức mạnh nào có thể giúp cho tôi vượt qua những khó khăn ác liệt này. Đó là tấm lòng thơm thảo, thủy chung trong tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của các anh như anh Thu- Chính trị viên, Anh Trọng- Đại đội trưởng, Anh Hoàng- Tiểu đội trưởng, rồi các bạn cùng nhập ngũ như Trữ, Dung, Ngọ, Xuân…
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM