Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:07:25 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những người lính trung đoàn - Họ chiến đấu như thế  (Đọc 46048 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #20 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:50:40 pm »

Chúng tôi cũng cuốn theo chiến dịch, hầu như không biết dừng hoặc quay lại mà cứ nhằm về phía trước thẳng tiến.
Sau khi giải phóng căn cứ Hoà Bình, ngày 21- 03 lực lượng lớn của trung đoàn cùng đơn vị bạn tiến đánh địch trên đường 21 và bao vây quận lỵ Khánh Dương. Tiểu đoàn 8 chúng tôi vẫn mải miết cắt rừng đi về phía đông.
Sau những ngày hành quân trong rừng, sáng 22 tháng3 chúng tôi ra một sườn đồi phía trước là một thung lũng rộng với những dông đồi thoai thoải. Con đường 21 uốn lượn bên những sườn đồi xanh mát mắt. Những làng bản ẩn hiện trong lùm cây với mái nhà tôn sáng lấp loá. Phía ấy tiếng súng từng chập lại rộ lên, ta đang đánh vào quận lỵ Khánh Dương.
Có hai chiếc A37 ở đâu bay đến bổ nhào ném bom. Pháo phòng không của ta bắn lên, đạn vàng choé vây hai chiếc máy bay ấy. Bỗng phía cuối con đường vắt qua ngọn đồi phía xa, một quả tên lửa vác vai bay lên. Nhìn nó như chiếc kim kéo theo sợi chỉ trắng nhằm chiếc máy bay lao đến. Chỉ một tích tắc, sau tiếng nổ bụp một cái, chiếc máy bay đứt làm hai, lửa cháy đùng đùng và lao xuống đất.Trên bầu trời xanh ngăn ngắt ấy có chiếc dù đỏ bung ra. Kìa tên phi công nhảy dù, bắn đi!
Có tiếng AK từ dưới đất bắn lên, số thằng phi công này hết rồi! chúng tôi ngồi xem trận đánh đất đối không còn đẹp và sinh động hơn phim màn ảnh rộng.
Hai chiếc trực thăng từ phía đông lao đến, chúng bay rất thấp, đạn phòng không 12ly7 vây xung quanh, chúng xà xuống sát chân đồi. Bỗng chỉ nghe thấy ù ù thế rồi không thấy chúng bay lên nữa. Phía thung lũng, tiếng súng từng chập lại rộ lên.
Lệnh hành quân, chúng tôi bám nhau leo xuống chân đồi. Con đường 21 nhựa phẳng lỳ lượn mình chạy về� hướng đông. Không biết đơn vị� mình có đuợc đánh Nha Trang hay không, bất giác tôi thấy lòng mình rạo rực.
Ði một đoạn, bắt gặp hai chiếc trực thăng nằm chềnh ềnh giữa đường, có vài người lính cầm súng đứng bên cạnh. Hỏi ra mới biết rằng: Ta bắt sống tên phi công lái máy bay A37 và bắt nó điện về xin trực thăng đến cứu. Hai chiếc trực thăng này bay đến và ta bắt sống luôn cả tổ lái! Hoá ra Việt cộng cũng ma lanh thật.
Tôi bỏ ba lô xuống và leo lên trực thăng. Hai bên sườn máy bay bị đạn bắn thủng lỗ chỗ, sàn máy chứa khoảng 6 người được lát một tấm sắt dày, hai chiếc ghế phi công một lớp sắt nữa với tấm che cho hai tay cầm cần lái. Phía trên, một lớp sắt bảo vệ động cơ dưới cánh quạt. Kiểu này AK và trung liên cũng khó mà bắn cháy được nó.

Ngày 22 -03 -1975 quận lỵ Khánh Dương được giải phóng, các đơn vị bạn đang chuyển quân rầm rập, xe tăng, xe thiết giáp lấp ló trong cánh rừng thưa, chúng tôi lục tục bám theo đội hình.
Ðến một ngã tư, thấy anh Nguyễn Thanh Xuân (Yên Khánh - Ninh Bình) phó ban hậu cần tiểu đoàn bảo:
- Tiểu đoàn 8 vào đây lấy thêm gạo rồi tiếp tục hành quân!
Tôi theo đoàn người rẽ vào quận lỵ. C5 và C6 đã có nhiều chiến sỹ lấy xong gạo đang quay ra. Tôi cho gạo vào bao rồi vội vàng bám theo họ. Ði dọc đường 21 khoảng một tiếng nữa thì thấy con đường bị cây lấp lại, ở đó có biển chữ viết vội vàng: Ðường này có địch. Không đi!
C6 và C5 được lệnh đi sang bên phải đường, C7 và C8 cùng cơ quan tiểu đoàn bộ rẽ sang bên trái, dừng lại ăn cơm trưa.

Pháo binh và hoả tiễn của ta bắt đầu bắn lên đỉnh đèo Ma ÐRắc (Ðèo Phượng Hoàng). Tiếng hút gió của chùm đạn bay đi và một loạt tiếng nổ dây truyền vọng vào núi. Bao nhiêu năm chiến đấu trên mặt trận Tây Nguyên, hôm nay chúng tôi hành quân đuổi địch dưới tầm đại bác và tên lửa chi viện, thấy cũng phấn trấn và an tâm.
Khoảng hơn 13 giờ chiều, chúng tôi đi vào một tràn cỏ xanh mướt, đồi núi nhấp nhô trông như thảo nguyên vậy. Phía xa kia là đèo Phượng Hoàng, nghe đâu địch đã ném lữ dù 3, Con át chủ bài của Thiệu lên chốt chặn. Tiểu đoàn 8 chia làm hai gọng kìm từ chân đèo tiến lên.

Ðoàn người như con rắn khổng lồ trườn mình trên thảm cỏ tiến về phía chân đèo. Chưa bao giờ chúng tôi dám vượt qua bãi tráng vào ban ngày như thế này cả, ngoại trừ hôm nay. Quy luật của chiến tranh thường hay lập lại: Sự chủ quan khinh địch thì bao giờ cũng phải trả giá. Ðội hình đi đầu của C7 do anh Tẩm đại đội trưởng, anh Dỏng đại phó vừa vượt qua bãi lầy tiến cách chân đèo khoảng vài trăm mét thì nghe một loạt tiếng nổ từ trên đỉnh đèo vọng tới. Ðã có kinh nghiệm khi thấy tiếng nổ đầu nòng của pháo địch, đoàn người chững lại, tai căng ra. Chỉ vài giây sau, tiếng rú của quả đạn bay đến, khói bao trùm đội hình đi đầu. Không ai bảo ai, tất cả tản ra, nằm bẹp cạnh các mô đá và ven bãi lầy, phơi lưng hứng pháo bầy của địch.

Tôi và hai chiến sỹ khác nằm dựa vào một tảng đá nhô lên khỏi mặt cỏ, rút xẻng đào hầm. Khi bị pháo thúc vào đít, họ đào hầm nhanh lắm, không biết mệt, không kịp thở, không ai phải nhắc nhở ai. Mạnh ai người ấy đào, cố khoét cho mình lấy một cái hố để giữ gáo. Xung quanh khói lửa mù mịt, loạt đạn trước chưa tan khói thì loạt sau lại trùm lên đội hình, hai tai ù đặc.

Một toán lính dù bò xuống chân đèo, dùng cối 60 và súng phóng lựu bắn vào quân ta, anh Doỏng bị một quả M79 vào cạnh sườn, Hậu ( Vĩnh Tường) bị mảnh đạn cắt ngang ống chân. Anh Tẩm bảo: Pháo bắn ác liệt quá, tôi bò lại băng bó cho thằng Hậu, một lúc sau đã thấy nó chết rồi. Tất cả bộ đội nằm dán xuống mặt đất mặc cho pháo bầy địch trà đi sát lại.

Cứ đội pháo như thế cho đến xẩm tối, toán lính dù cũng rút lên chân đèo. Rất may là các mặt trận đang đồng loạt nổ súng nên máy bay địch không đủ sức chi viện. Nếu chúng vác bom đến thì chắc rằng chúng tôi đã thành tương tất cả.
Phía mũi tiến công của đại đội 5 và đại đội 6 bám sát ven đường 21 tiến lên chân đèo. Ðại đội 5 do đại đội trưởng Trần Ðới và chính trị viên Lê Hải Triều đẫn đầu đội hình hành quân dưới sự chi viện của hoả tiễn và pháo binh. Ðến giáp chân đèo, địch phát hiện lực lượng của ta, gọi pháo bắn cấp tập. Chúng cho xe bọc thép M113 ra chặn đội hình và gọi máy bay oanh kích dữ dội. Lập tức, hoả tiễn và pháo binh của ta bắn trả lên đỉnh đèo, do hiệp đồng giữa pháo binh và bộ binh chưa chặt nên loạt đạn thứ tư, hai quả đạn 155 ly hụt tầm rơi trúng vào giữa đội hình đại đội 5 làm 9 cán bộ và chiến sỹ hy sinh, bị thương hơn 20 người, gây tổn thất nghiêm trọng đơn vị này.

Trời tối xẫm, có lệnh truyền xuống:
- C7 tổ chức lên lấy thương binh ngay!
Không biết thương vong có nhiều không. Tôi sách túi cứu thương bò lên đầu đội hình. Qua một bãi lầy hẹp, lên dông đồi cỏ phẳng lỳ xung quanh loang lổ hố pháo. Có mấy thương binh đồng đội băng cho đang được dìu ra. Trước mặt tôi cảnh tượng thật thê thảm: 8 liệt sỹ, có 1 thông tin 2w còn lại đại đội tôi 7 người. Tất cả đã được tập kết về một chỗ, ai nằm tư thế nào thì bây giờ vẫn như vậy, cứng ngắc, cong keo.

Cứ hai người khiêng một liệt sỹ, cố gắng mang ra càng nhanh càng tốt. Lý Sài Quẩy (Sa pa, Lào cai) một mình vác anh Doỏng ra, có hai người khiêng Hậu đã cứng như khúc gỗ, cái chân còn dính tý thịt đong đưa. Có một liệt sỹ bị mảnh pháo xuyên qua cắt đôi chiếc thắt lưng da trung quốc. Không còn thời gian xem tên từng người, tôi và một chiến sỹ nữa khiêng liệt sỹ thông tin.
Buộc võng vội vàng, chúng tôi lục tục chạy xuống bãi lầy, đường trơn dép tọt lên tới bắp chân. Dây võng tuột làm rơi liệt sỹ xuống bùn, đặt cáng xuống, khênh liệt sỹ vào võng và cứ thế nước chảy tong tỏng cho đến vị trí tập kết.

Anh Ðiệp ở lại cùng đơn vị vận tải làm công tác tử sỹ. Chúng tôi tiếp tục lên đường.
Cắt sang bên trái tiến về phía đỉnh núi đen xẫm. Bên phải, bên trái đâu đâu cũng nghe thấy tiếng súng địch nổ. Quá nửa đêm thì đến chân đèo. Dốc dựng đứng, chúng tôi bám theo nhau bò ngược dốc. Xuyên qua một rừng cây thưa giống như một nương sơn. Ðến đỉnh núi, có những tảng đá xếp chồng lên nhau tạo thành nhiều hang hốc. Lệnh cho C7 chốt lại trong hang, các đơn vị trong tiểu đoàn tiến lên phía trước. Tôi mò tìm chỗ giải ni lông, dựa vào một tảng đá và ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau, anh nuôi tìm suối để nấu cơm, bộ đội chia nhau cảnh giới, chuẩn bị súng đạn và ngủ lấy sức.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #21 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:56:32 pm »


Tuyến phòng thủ MaÐrắc đập tan lữ dù 3
((Máu ở đường 21, Nhật ký chiến tranh)

Qua những ngày lặn lội trong rừng, những đỉnh núi cao tưởng chừng như chui vào lớp mây mù với hang động hiểm trở. Hôm nay đã tụt xuống bên này và nghe pháo địch bắn rất gần. đường xuyên rừng loanh quanh quá tôi không rõ hướng nào vào hướng nào cả chỉ mang máng rằng: Phía sau tôi là đỉnh núi cao ngất mà vượt qua nó là quận lị Khánh Dương. Trước mặt tôi chếch bên phải và bên trái chỗ nào cũng thấy tiếng những khẩu pháo điên loạn khạc đạn. Cơ hồ như mỗi đỉnh núi xanh nhấp nhô kia đều là chỗ ngồi của những cỗ pháo đáng sợ và căm ghét âý. Mỗi tiếng nổ từ đầu nòng làm rung rinh hạt mưa đêm còn đọng lại trên lá rừng là tiếng xé không khí của quả đạn bay ra, rồi nổ ùng oàng vọng vào trong núi. Chui vào giữa lòng địch với địa hình bất lợi cho chúng tôi trong khi kẻ địch lại nắm chắc địa hình và án ngữ trên các cao điểm. Cứ nghe tiếng súng lớn súng con thì coi như xung quanh chúng tôi chỗ nào cũng có địch.
Nghe đâu chỉ còn bốn tiếng xuyên rừng nữa là ra đến đường 21 đèo MaÐRắc đi Khánh Hoà. Chúng tôi phải vượt sang bên kia đường ở đó hoàn toàn là đất địch nên việc tiếp tế gạo nước súng đạn là rất khó khăn, gạo lại sắp hết tính ra chỉ ăn được vài ngày nữa. Bắt buộc phải cho người trở lại Khánh Dương lấy hàng. Quay lại ư? Có nghĩa là phải vượt một đỉnh núi cao trọn một ngày. Tôi thấy ớn lạnh. Nghĩ mà sợ quãng đường vượt qua quá.
Bộ phận quay về lấy gạo ra đến con suối bìa rừng bị địch phục kích, may mà không ai hy sinh. Con đường huýêt mạch trở về hậu cứ đã bị cắt đứt, mọi liên lạc với chỉ huy sở tiền phương còn trông chờ vào đài 2w. Vì thế nên chúng tôi được lệnh vượt đường.
 Gần tối mới dám cho rút tổ cảnh giới trên đỉnh đại đội tôi đóng quân. Ðêm tập trung cả tiểu đoàn ven suối, chúng tôi lặng lẽ hành quân.

Trong rừng trời tối như bưng, hai chân làm thay cho hai con mắt lần theo lòng suối với những hòn đá rêu bám trơn như mỡ. Những vỉa đá ngang ngạnh luôn thử ống đồng của những người vô ý, đau điếng nhưng chỉ dám xuýt xoa. Một vài người ngã lủm bủm, súng va vào đá chát chúa, cái chết luôn bám theo sự vô ý của con người, kiểu này lộ ra có mà ăn pháo! Không ai biết địch đóng ở chỗ nào cả, nhìn những khu rừng chìm trong màn đêm tôi linh cảm như có hàng nghìn con mắt dõi theo chúng tôi vậy.
Ra đến một vạt rừng gianh tôi mới nhận ra đêm nay có trăng. Bầu trời như chìm trong màu trắng đục. Sao rất thưa, thưa như bất kỳ ở một vùng rừng nào, không thấy một ngôi sao đổi ngôi, trăng đêm lạnh lẽo nhất là như đêm nay.
Dòng người bỗng nhiên dừng lại, phía trước là một bãi lầy không thể vượt qua được. Bỏ con suối chúng tôi chui vào một khu rừng dốc gần như dựng đứng. Hai tay đu người lên mà cũng vất vả. Âm thanh của khẩu cối nổ ở đâu gần lắm, tiếng vọng vào rừng rồi tan trong màn đêm tĩnh mịch.
Qua đỉnh núi này rối sang đỉnh núi khác, tôi tưởng như địch đã chờ sẵn chúng tôi lên, chuẩn bị một cuộc đọ súng, nhưng đến nơi lại thấy tiếng súng ở bên dông đồi và cứ như thế.
Quá đêm gặp một nương của dân họ mới phát cây đổ ngổn ngang không thể qua được. Chúng tôi đành men theo sườn dốc, chui hoặc leo từ cây này sang cây kia khá vất vả vì mắc đồ đoàn, súng ống, rồi bộc phá�
Xuống một con suối khá rộng, nước sâu ngang ngực bùn sôi ùng ục dưới chân. Qua vạt nương ngô đang lên xanh tốt là con đường 21 chạy qua. Con đường trải nhựa còn hằn vết xích xe thiết giáp, cách nhau 3 mét, chúng tôi sách súng lúp súp vượt đường.
Bì bọp qua bãi lầy ven đường, chúng tôi leo lên một quả đồi trọc khá dốc, nhìn xuống con đường 21 rõ mồn một, đoàn người lồ lộ in trên màu sữa pha loãng của ánh trăng đêm. Một bản nhỏ nằm sát mé đường, mái tôn bắt ánh trăng trắng lấp loá. Cúi thấp người xuống! Ði thưa ra!
Tụt xuống sườn dốc dựng đứng, hai tay vịn vào chít và cỏ gianh cháy dở, ngã xấp, ngã ngửa, dép bật quai, cực không kể đâu cho hết. Từng đàn dĩn lại lăn xả vào đầu, vào cổ mà hít máu, ngứa ran mà không còn tay để gãi.
Loanh quanh hết xuống lại lên, chui qua lớp cỏ gì lá sắc hơn dao, mồ hôi túa ra sót như tra muối. Vừa sách dép vừa trượt như lăn, chúng tôi tụt xuống con suối khá rộng.
Sang bên kia, có một con đường mòn, có lẽ đường của dân vẫn đi làm thì phải. Dừng lại sỏ quai dép, không bám kịp tốp đi đầu quay nhìn lại phía sau cũng không thấy ai cả, coi khéo lạc mẹ đường rồi, loáng quáng rơi vào chốt địch thì toi mạng. Có bóng người lờ mờ phía trước, tôi hỏi:
-         Sao quay lại! Quân ta đi đường nào rồi?
-         Không thấy thằng nào cả! Có khi lạc đường rồi!
-         Chắc không còn con đường nào khác đâu! Cứ đi thôi!
      Tôi để ý tìm dấu dép ven đường, có vũng nước đục ngầu chắc ai đó mới đi qua. Tôi bám lên phía trước nhưng cái cảm giác gặp mìn cứ rờn rợn, lẩn quất đâu đây.
Ðến một đoạn suối, chúng tôi lội ào qua bất kể khô, ướt, lại qua một đoạn suối nữa có bóng đen đứng chờ trên bờ:
- Lội khẽ chứ thôi! Phía trước có địch đấy, nhanh lên!
Ði thêm một đoạn nữa thấy bóng người ngồi lố nhố ven suối, một giọng ngái ngủ: Nghỉ đi! Ðừng hút thuốc! Mẹ buồn ngủ thật. Có ai phía sau tôi hỏi nhỏ: Thế nào, xắp đến chưa? Chẳng ai buồn trả lời chỉ thấy giọng nói ấy lành lạnh rồi tan vào trong sương.
Xắp sáng.
Lệnh C7 tạt sang bờ suối, các đơn vị còn lại đi lên phía trước. Sáng thật lạnh, quần áo ướt dính vào da thịt thấy nhớp nháp quá. Tôi cúi xuống định sắn quần lội qua suối bỗng một loạt đại liên nổ phía trước mặt. Lại một loạt đạn nữa bay chiu chíu trong màn sương, có giọng miền nam quát lên: Ðơn vị nào hả!? Ðơn vị nào? Lên tiếng lên!
Bộ đội lội ào qua suối, bùn đất sục dưới chân. Thằng C6 gặp địch rồi! Có ai việc gì không? Tôi bám theo đoàn người bò lên dông đồi. Lại thấy tiếng đại liên nổ ở phía sau, đoạn suối có người chờ chúng tôi ban nãy. Có nghiã là địch có cả trước và sau, chúng tôi lọt vào giữa, sáng ra chắc là ác liệt lắm đây.
Tiếng miền nam lại nheo nhéo bắt liên lạc, hình như chúng sợ bắn nhầm phải nhau. Không ai trả lời, chúng lại kéo cò. Bỗng một loạt AK từ bên này suối bắn sang, thế rồi đại liên địch kéo hàng băng dài vào phía súng vừa nổ, đạn phóng lựu kỳ cạch chớp lửa nổ đanh lắm. Trời sáng lờ mờ, chúng tôi vội vàng cấu trúc công sự chiến đấu. Không ai dám cuốc to, lưỡi xẻng thận trọng cắm vào trong đất. Tôi cầm lưỡi xẻng không có chuôi mới thấm thía cán xẻng hơn bao giờ hết. Hành quân là vót sẵn cán mang theo, tôi thấy nó lỉnh kỉnh và quăng đi, bây giờ mới thấy nó quý hơn vàng.
Sáng rõ, tôi và Ninh cũng đào được cái hố cho hai thằng rúc tạm. Màn sương vén lên phơi bày trước mặt toàn bộ cảnh vật mà đêm hôm qua vẫn mờ mờ, ảo ảo. Cái hầm tôi đào tưởng rất kín ai mgờ lại nằm trên một cành cây đổ, đứng ở đây nhìn xuống chân đồi rõ mồn một. Bên kia con suối là một vạt gianh rộng lan đến sườn núi loang lổ vết cháy. Con đường nhỏ mà đêm qua chúng tôi đi trông như con rắn len trong vạt cỏ gianh đang lên mơn mởn. Từ bờ suối lên đến hầm của tôi không đầy năm chục mét, gần quá!
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #22 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:57:16 pm »

Có bốn, năm tên nguỵ xuất hiện phía bên trái hầm, tôi nín thở, tim đập thình thịch và chuẩn bị thước ngắm. Lũ nguỵ cụm lại trên bờ suối, hai loạt cực nhanh bắn lên dông đồi, tiếng phóng lựu nổ bên trái hầm tôi, mảnh bay lắc cắc. Tất cả vẫn im lặng, căng thẳng quá, đánh nhau đến nơi rồi. Tiếng súng vừa dứt lại nghe tiếng cuốc đất thậm thịch, tôi ném đất sang hầm bên nhắc đào khẽ thôi. địch vẫn chưa biết chúng tôi chốt ở sườn núi này.
Có hai thằng đi lại phía tôi, một tên bảo:Thắng hả! Kêu zậy xem có phải đơn vị bạn không? Một tên nguỵ có lẽ tên Thắng lấy tay làm loa: Ðơn vị bạn phải hông? Ðơn vị nào thì lên tiếng lên! Bắn đây nè! Hai quả phóng lựu nổ,chúng tiến đến sát bờ suối.
Một loạt AK nổ rất đanh, một tên nguỵ chạy quay trở lại, lũ nguỵ trên đường nằm bẹp xuống bắn như vãi đạn. Phóng lựu bắn bừa lên sườn đồi, tôi vội lấy lưỡi xẻng che lên đầu, một động tác ngộ nghĩnh nếu mà ghi hình lại thì buồn cười lắm. Chúng bắn chán lại im lặng, thêm mấy tên nữa từ đâu lúp xúp chạy ra, tụm lại. Có tiếng nhí nhéo bên kia bãi gianh, một thằng đeo 2w bò ra, có lẽ chúng định gọi pháo câu đến chăng. Tôi cho tên thông tin vào đầu ruồi sẵn sàng nhả đạn.
Tên lính 2w nói cái gì theo tiếng lóng, rất gần mà tôi chịu không dịch ra được. Hình như thượng cấp của nó vẫn sợ bắn nhầm phải nhau nên cố gắng bắt liên lạc, gọi chán chúng lại cạch oành.
�Nắng đã nhuộm vàng sườn núi phía xa, không biết là mấy giờ rồi, trưa nay chắc nhịn ăn, bố ai dám xuống suối lấy nước nấu cơm bây giờ.
Im lặng tràn xuống thung lũng miền rừng này, không một tiếng súng nào nữa, có lẽ lũ nguỵ cũng đã quá chán rồi, chúng đi lại lố nhố và tụm lại chỗ thằng bị thương, có hai thằng mang võng ra đi ngang trước mặt tôi, gần lắm. Chúng khiêng thằng bị thương đi xuôi theo con suối tôi còn nghe hắn kêu: Chu cha! Lẹ lẹ lên, đau quá trời má ơi!
Tôi bảo Ninh ngủ để tôi cảnh giớí, nhìn hắn kéo chiếc gùi lấm lem kê lên đầu dựa vào vách hầm mà ngủ, mồ hôi toá loa bám đầy đất cát trên mặt.
Chúng tôi thay nhau ngủ, quần áo ướt át lấm lem như con dúi, thấy tôi dậy Ninh bảo: Chúng nó kéo nhau đi đâu hết rồi ông ạ!
Con đường vắt ngang qua bãi cỏ gianh ngập nắng, xung quanh im lặng, có tiếng pháo bắn ùng oàng vọng về, tôi và Ninh kéo nhau lên đồi.
Ðại đội tản ra trên cánh rừng thưa, anh nuôi đem gùi xuống khe suối nấu cơm, chúng tôi chen nhau trong chiếc hầm đào dưới gốc cây đổ, rễ cây bưng lên một khối đất ngiêng ngiêng thay chiếc nắp hầm chắc chắn, lại dựa vào nhau mà ngủ.
Một tiếng nổ khá to làm chúng tôi choàng dậy, lại tiếng ro ro vút xuống kèm theo tiếng nổ long óc. Mẹ, lũ này chơi toàn cối 106,7, sang thật. Có mấy chiến sỹ C8 đi qua chui vào tránh đạn, tôi nghĩ bụng: Ðông như thế này, mấy bố ngồi ngoài chắn mảnh đạn cho, càng tốt!
Ðịch bắn vu vơ một chập rồi im hẳn, chúng tôi ra khỏi hầm đi lại cho thoải mái. Nghe đâu chuẩn bị xuất kích, các tổ bắt đầu cưa gỗ làm hầm. Tôi xuống khe suối lấy cơm và đóng nước. Cái bếp nhỏ làm vội ven suối nước không chìm hết mắt cá chân, thấy anh nuôi vẫn hì hục móc hầm, tôi bảo: Này! Hành quân đến nơi rồi còn đào hầm làm gì? Chia cơm cho bộ đội đi!
Túi cơm mấy ngày không giặt nó đã lên men, vừa chua vừa mốc. Ôi dào, rũ qua� là được, ăn bẩn đã có ai chết bao giờ đâu.
�Chiều ngày 28 tháng 3 lại nhận lệnh bỏ gỗ, tiếp tục hành quân. Ðoàn người hướng về phía súng nổ, càng đi càng dốc, hết lên lại xuống. Những cây búng báng mọc chênh vênh bên sườn đá, loại cây này ưa đất dốc và sỏi đá mới lạ chứ.
Tiếng súng nổ mỗi lúc một gần, bên phải, bên trái. Hình như chúng tôi đang len vào giữa lòng địch, hướng nào cũng thấy những khẩu pháo điên loạn khạc đạn. Vừa đi vừa dừng, lúc tiến lúc lui, hình như còn dò tìm đường thì phải. Coi khéo mà chui vào ổ phục kích của địch thì toi mạng.
Xắp ra đến đường, nghỉ ăn cơm. Chúng tôi dừng lại ở một khe suối cạn, lấy vạt áo lau qua bát, bẻ cành cây rừng làm đũa, một đời lính ba đời tráng, có sao đâu.
Trời đã về chiều, ánh nắng không còn lọt xuống lòng khe nữa, có tiếng máy bay ào qua và tiếng bom nổ vọng vào khe núi. Người ta liên tiếp truyền lệnh giữ bí mật, bám sát đội hình.
Rẽ lên một khe nhỏ, chúng tôi chốt lại đào hầm. Ðời lính chiến đi đến đâu là đào hầm đến đấy
. Không biết chiếc hầm này nó có �se ri�thứ bao nhiêu rồi. Giá như gộp lại khối lượng đào đất của lính thì đã thành con sông chảy từ Hà Nội vào đến Sài Gòn rồi. Khủng khiếp thật.
Ba người thay nhau đào đào,cuốc cuốc, toàn đá tảng. Xắp tối rồi mới khoét được cái hố một người chui lọt. Tôi lấy bao cát cho đất vào và xếp chắn ngoài cửa hầm.
Hoàng hôn buông xuống, núi rừng như trầm lại, côn trùng bắt đầu kéo bản nhạc buồn bã, mù u. Nhìn vỉa đá gan góc trơ ra, tôi chán nản nhét xẻng vào bao. Cái tư tưởng chủ quan án ngữ mãnh liệt nhất là khi đã thấm mệt và chiến trường dìu dịu.
�Các trung đội chuẩn bị xuất kích ra chốt chặn đường 21. Cơm chiều chưa có, cái đói ở đâu ào đến quặn ruột, nghe đâu đại đội đã vét đến bao gạo cuối cùng rồi. Kiểu này đến nhịn đói mà đánh nhau đây.
Bóng đêm buông xuống thật nhanh, chúng tôi bám nhau men theo những vạt gianh rồi bì bõm xuống một bãi lầy. Tôi đi sau Bích ( Nam Hà) người A trưởng cối 60 vào chiến trường năm 67. Anh ta nổi tiếng gắt gỏng và rất ngang. Trăng đầu tuần đói so hắt ánh sáng yếu ớt xuống thung lũng. Bãi lầy cỏ mọc um tùm, bùn thụt đến đầu gối. Tôi đang dò tìm chỗ đặt chân thì Bích gắt:
- Cái Ð.. mẹ, đường ở đâu không biết!? Mấy cái thằng cán bộ đi đâu hết rồi!
Thấy có bóng người đứng lù lù phía trước, anh ta gắt:
- Ðường ở đâu!? Hỏi không nói, đứng ăn C.. người ta ở đấy à!
�Cái bóng đen ấy nói như quát:
 -Ðường đàng này! Ði đâu ra đấy! Không bám lên còn đứng mà nói tục!
 Bích nói bừa:
-Tục cái con C.. ông đây này!
Cái bóng đen ấy túm lấy cổ áo người A trưởng khốn khổ:
-Này ! anh nào đấy? Anh Bích phải không!?
- à, thủ trưởng Huy! Tôi tưởng ai!
- Ði đường này không đi! Ðã gần địch lắm rồi đấy! Bám sát lên! Người tiểu đoàn phó ấy đã dịu giọng.

Tôi đặt chân lên bãi đất khô, anh Mão chính trị viên đại đội bảo:
Ðường 21 ở ngay đây rồi, khoảng 50 mét! Cứ bám theo đường dây điện thoại sang bên kia bãi lầy. Trước mặt là chốt của trung đội 2!

Lội ngang qua bãi lầy, đại đội bộ chốt cùng trung đội 1. Sườn đồi trống trải không một bóng cây với bãi gianh cháy nham nhở. Con đường ở ngay dưới chân đồi, ban đêm nhìn nó sao thấy hiền dịu quá. Mặt nhựa bắt ánh trăng sáng nhờ cách hầm chúng tôi đào khoảng 20 m.
Lại đào hầm, phần thức đêm, phần thì đói, người tôi như muốn lả đi. Anh Mão đi kiểm tra các trung đội về lôi trong gùi ra bánh lương khô cuối cùng. Bốn người chung một bánh lương khô, không là bao thế mà nó tỉnh táo và khoẻ hơn bao lần.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #23 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:58:00 pm »

Trăng lên khỏi đỉnh núi bên kia đường, hầm chúng tôi đã đứng tạm được 4 người, tôi bắt đầu khoét ngách hầm thì anh Tẩm đại đội trưởng ấn vai tôi xuống. Một trung đội lính dù hành quân qua, dưới ánh trăng tôi đếm được 24 đứa. Chúng đi theo đội hình hàng một, mỗi đứa cách nhau 2 mét, rất đều, rất nhẹ.Tiếng dầy khua lách cách xuống mặt đường nhựa rồi tan vào màn đêm tĩnh mịch. Tôi hồi hộp quá, có đánh bọn này không đây.
Thằng cuối cùng đi qua hết điểm chốt của tôi, còn chốt B2 nằm sát mé đường, liệu chúng có phát hiện ra không?
Không một tiếng súng nổ kể cả chốổitung đội 3 khoá đuôi. Ðêm trở lại yên tĩnh lạ lùng, ánh trăng chảy dài như vô tận, những đỉnh núi xa bên kia đường mờ dần vì sương xuống, gió tràn về thật lạnh. Chúng tôi lại thay nhau đào và xúc.
Thế rồi không ai bảo ai, tất cả như ngừng thở lắng nghe tiếng động cơ ô tô xen lẫn tiếng gió lùa trên cây cỏ. Tiếng động cơ càng to dần, ô tô hay xe tăng, địch nhiều hay ít? Tim tôi như muốn nghẹn lại. Anh Tẩm báo cho trung đội� một chuẩn bị hoả lực, tôi kéo AK lại gần, đánh nhau thật rồi, hầm hố chưa đâu vào đâu cả, chắc là ác liệt lắm.
Cái giây phút đợi chờ căng thẳng ấy đã đến. Tim tôi càng nhảy trong lồng ngực khi một bóng đen lù lù nhô ra từ sườn đồi bên trái. Tiếng nổ tành tạch như cố ý ngậm lại cái âm thanh của động cơ máy. Ô tô! Sao lại chỉ có một chiếc!?
Tôi cúi sát mặt đất nghe xem phía sau nó còn xe nữa hay hết. Chiếc xe lăn bánh qua ngang chúng tôi rồi đi vào chồt B2. Tôi chưa kịp định thần thì một luồng lửa màu da cam kèm theo tiếng nổ inh tai chớp lấy chiếc xe. Hàng tràng tiểu liên xanh biếc nhì nhằng xiên vào cái bóng đen ấy. Lửa bùng lên từ thùng xe soi rõ bóng những tên lính nguỵ chấp chới kêu la. Chiếc xe hầu như chững lại vài giây rồi nó rú ga chồm về phía trước. Phía chốt B3 khoá đuôi, một vệt sáng xanh biếc của B41 bắn vọt qua nổ chớp xanh bên kia đường. Chiếc xe như con thú bất kham chồm lên, cõng theo cả khối lửa trên lưng. Chạy được khoảng 50 mét thì dừng lại, lửa bùng lên kéo theo những tiếng nổ lục bục.
Chỉ huy sở tiểu đoàn liên tục điện ra yêu cầu báo cáo lại trận đánh ban nãy, cần phải xác minh chính sác chiếc xe ấy chở cái gì để biết thêm ý định của địch, chúng chuyển quân hay rút quân.
Lửa đã tắt, đêm trở về với bản năng của nó, tất cả những gì vừa xảy ra với màn đêm thật vô nghĩa. Ðêm tĩnh tại mông lung cho côn trùng khóc than không nuối tiếc.
Trăng sáng nhờ, sương bắt đầu xuống đặc. Nhìn lên chị Hằng chợt nhớ những đêm quê hương ngồi ngắm trăng hóng mát, tìm chú cuội trên gốc cây đa. Quê hương ơi, liệu có còn ngày nào được ngắm nhìn mây trôi lững lờ chấp chới ánh lân tinh kia không nhỉ. Có tiếng pháo từ phía nam vọng lại, giá như đừng có chiến tranh, chúng tôi xẽ nằm phơi trên con lộ kia cho đỡ nhớ.
Bỗng một loạt tiếng nổ xé toang màn đêm mộng mơ ấy. Ðạn lửa bay đan chéo vào khoảng không với mớ âm thanh chết chóc. Anh Tẩm bảo hình như phía ấy là thằng K9 đánh vào điểm chốt nào đó. Nếu vậy thì chúng tôi không phải là đơn độc, đồng đội vẫn ở ngay bên cạnh sẵn sàng chia lửa cùng chúng tôi.
Tiếng súng vẫn nổ không ngớt, tôi đứng lên quan sát thì hàng loạt tiếng nổ chói tai, lửa toé loe ngay đoạn đường vòng vào chốt B1. Cơ hồ như hàng trăm khẩu súng cùng bắn một lúc, tất cả như chiếc cối xay đạn túa vào hai bên đường làm rung chuyển cả căn hầm.
Những bóng đen ầm ầm chạy ra, vừa đi vừa bắn, tiếng xích xe nghiến trên mặt đường, tiếng động cơ gầm rú, tiếng đạn nổ hỗn loạn, đạn bay hoa cả mắt.
Xe tăng rồi! Tôi nhằm vào những khối đen lừng lững ấy mà nẩy cò. Anh Mão bảo:
 - Khéo bắn phải thằng B1 phía trước! B40 đâu? bắn nhanh không nó chạy hết!
Một luồng lửa phụt về phía tôi, tiếng nổ tức ngực, khói cay xè. Ðịch phản pháo chắc, tôi và anh Mão chúi xuống hầm.
Trên đường, một khối lửa bùng lên bao chùm cả chiếc xe. Cháy rồi! B1 đánh tốt lắm! Bắn đi!
Lửa cháy dữ dội, những chiếc xe phía sau chạy chen lên, đạn B40, B41 chớp lửa, AK quây lấy những con voi sắt ấy. Lại thêm một xe nữa bùng cháy trước điểm chốt trung đội 2, chiếc thứ ba hoảng loạn húc đầu vào tà luy đường ngay dưới chân trung đội 3, lũ nguỵ lúc nhúc chui ra khỏi xe nhảy xuống đường.
Tôi nhằm vào những chiếc áo vằn vện ấy bóp cò, anh Mão bảo: Thằng trung đội 2 ở đấy! Khéo bắn phải nó!
Ðạn trong xe nổ dữ dội, lửa cháy sáng rực soi rõ những xác chết nằm lăn lóc trên đường. Chiếc xe trước mặt tôi ăn trọn quả B41 vào ngang sườn hất văng khẩu 12ly7 nằm chỏng lỏn trên đường. Tên xạ thủ bị quăng xuống sau chiếc xe đang dãy dụa kêu khóc, tôi đưa nó vào đầu ruồi nhưng rồi lại không bóp cò nữa. Cứ để cho nó thấm thía đời lính đánh thuê nhục nhã của mình, để rồi ai xẽ đến cứu hắn!
Anh Tẩm báo cáo vắn tắt trận đánh chặn đoàn xe tăng địch, tiêu diệt hai xe thiết giáp, chiếc thứ ba vẫn nổ máy xình xình. Tiểu đoàn ra lệnh: C7 tổ chức bắt sống xe tăng!
Tôi chột dạ: Bắt sống để làm gì! Ai biết lái mà bắt sống! Ðịch thì vẫn còn rất nhiều hai bên đường. Nếu ra mặt đường bây giờ chắc chắn quân ta xẽ thương vong.
Anh Tẩm và anh Mão bò xuống ven bãi lầy lấy tay làm loa ra lệnh cho B2 bắt sống xe tăng. Thương binh hay tử sỹ rồi cũng đến tay mình cả, chỉ vì thành tích hão mà đưa bộ đội vào chỗ chết như vậy, tôi cáu tiết bảo Ngân liên lạc đại đội:
- Mày chạy ngay ra bảo anh Tẩm: lệnh tiểu đoàn cho tiêu diệt chiếc xe tăng ấy đi, không bắt sống nữa!
Cậu liên lạc sách súng chạy lúp xúp trên bãi gianh, tôi nghĩ bụng: Dù trái lệnh chăng nữa để đảm bảo cho bộ đội không thương vong là được.
�Tôi chưa kịp định thần thì nghe bên kia bãi lầy gọi sang cấp cứu thương binh. Ðấy! Nói có sai đâu cơ chứ! Tức thật!
Tôi sách súng cầm túi cứu thương bò ra ven bãi lầy, anh Tẩm đang ra lệnh cho B2 tiêu diệt chiếc xe tăng ấy. Nhìn sang bên kia đường, qua ánh lửa thấy Phán cùng hai chiến sỹ nữa vác B41đang lom khom quỳ bắn. Lại một luồng lửa xanh biếc phụt ra, cùng như kèm theo tiếng nổ là cột lửa bao trùm lên chiếc xe ấy.
Ngoài đường ba chiếc xe cháy mỗi lúc một to, đạn 12ly7 nổ từng tràng dài trong thùng xe, thỉnh thoảng một quả đạn pháo hoặc DKZ nổ cuốn theo lửa và cột khói cuồn cuộn. Cả một khúc đường sáng rực như trên sân khấu, tàn lửa bay tứ tung.
Vượt qua bãi lầy sang chốt B2, thấy bộ đội đứng lố nhố ven đường, tôi hỏi:
-Thương binh ở đâu!?
-ở ngoài đường ấy!
-Ai bị thương?Tại sao lại bị ngoài ấy?
_Anh Lý trung đội trưởng tổ chức ra bắt sống xe tăng thì bị địch bắn!( Lý Quê Thanh Ba-PT)
-Thế thì anh nào cùng tôi ra lấy thương binh!
Tôi sách súng, đeo túi cứu thương cùng Bích và Phán leo lên mặt đường. Con đường 21 ban đêm thấy nó rộng như đại lộ, ba chiếc xe thiết giáp cháy dữ dội, lửa rừng rực soi rõ như ban ngày. Không thể bỏ thương binh ở lại trên đường một mình được, nhưng chạy trên mặt lộ trống trải như thế này trong khi địch còn đầy hai bên đường thì cầm chắc tám phần chết, hai phần sống. Chúng tôi dễ dàng trở thành mục tiêu sống cho lũ nguỵ đang mai phục ở ven đường. Sống hay mái cũng không được bỏ thương binh.Tôi tự nhẩm trong bụng: Ðịch đang nhằm bắn mình! Chuẩn bị tắc bùm này! Tắc bùm này!
Lý nằm sóng soài trên mặt đường cách chiếc xe định bắt sống khoảng 3 mét. Trong xe, đạn đại liên và DKZ nổ từng chập tung tàn lửa cuồn cuộn bốc lên, nóng rát mặt. Giá như nó không có cái vỏ bọc thép bao xung quanh thì chắc chắn không có ai dám lại gần. Lý lật ngang rồi lật trái, hai tay định chống người lên nhưng rồi lại quỵ xuống, thở hổn hển. Tôi bảo: Nhanh lên! ôm lấy ngang người Lý, Bích và Phán ôm phần đùi và chân, chúng tôi chạy quay trở lại. Lý to béo và khá nặng, tôi liên tục xốc lên, áp sát Lý vào ngang sườn. Mỗi lần như vậy,� máu từ vết thương của Lý lại trào ra, chảy dọc theo bên đùi, xuống ống chân tôi nóng hôi hổi.
Nhảy xuống mép đường, không thấy địch bắn, thế là thoát chết. Ôm lý chạy về hầm, tôi bước qua một thân hình quần áo rằn ri nằm ngang đường, tôi hỏi:
-         Sao thằng nguỵ này lại nằm ở đây?
-         Một chiến sỹ trung đội 2 nói gấp gáp:
-Thằng này từ trên xe cháy hoảng loạn nhảy đại xuống, thấy bộ đội ta áp sát mé đường, nó tưởng là lính dù mới hỏi: Chạy đi đâu bây giờ! Thế là tôi bảo: Giơ tay lên!
Ðặt Lý nằm dựa vào vách hầm, tôi đứng dậy. Chết thật, bắt tù binh mà không ai trói buộc gì cả, nó quăng cho quả US thì sao! Cùng như một lúc, tên nguỵ thấy chúng tôi túm vào với thương binh thừa cơ bỏ chạy. Vớ khẩu AK trên hầm, tôi lia theo cái bóng đen loang lổ ấy. Chỉ thấy hắn hự lên rồi cắm đầu xuống bãi lầy. Lần đầu tiên tôi trực tiếp giết người như vậy mà không hề run tay!
Quay lại với thương binh, viên đạn bắn xuyên qua mạn sườn đút lọt ngón thay cái, Lý luôn mồm kêu: Khó thở quá! Khó thở quá!
Tôi băng vết thương lại thì thấy sức Lý cứ đuối dần. Khoảng 15 phút sau trung đội trưởng Lý tắt thở vào tang tảng sáng ngày 30 tháng 03 năm 1975. Tôi buồn bã vượt qua bãi lầy về báo tin cho đại đội biết.
Lý sinh ra ở một miền quê nghèo giáp thị xã Phú Thọ, đã có vợ và một con. Hồi trong hậu cứ Kà Leng Lý kể: Vợ mình năm ấy thế chó nào lại đẻ vào giữa vụ gặt, các ông còn lạ gì cái cảnh gặt hái của hợp tác nữa, tất cả đổ xô ra đồng. Không còn ai để nhờ khiêng ra bệnh viện, nhìn chiếc xe cải tiến chở lúa, tôi nghĩ ngay ra: Ðược rồi! Mẹ nó cứ ngồi lên đây! Tôi chùm cho chiếc chăn và cứ thế kéo đến bệnh viện!
Hôm nay Lý đã hy sinh, để lại người vợ goá và đứa con nhỏ nhoi sinh ra vào mùa gặt. Cho đến hôm nay, cho dù là người cùng quê với Lý, đã bao nhiêu lần nhắn tìm rồi mà vẫn chưa gặp được cái gia đình liệt sỹ ấy.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #24 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:59:02 pm »

Ðêm lạnh lẽo, trăng sáng đục có lẽ cũng xắp sáng. Ngoài đường những chiếc xe chỉ còn lại vài đốm lửa lập loè. Sương xuống đặc quánh, trời se lạnh, không gian lặng im tưởng chừng như nghe thấy tiếng côn trùng rỉ rả, đưa ma.
Mờ sáng, tiếng súng thưa dần, bắt đầu thấy đói cồn cào, không còn cái gì để ăn tạm, nghĩ đến bánh lương khô mà nước bọt cứ tứa ra.
Bỗng ngang dông đồi chúng tôi có tiếng gì như hàng trăm bước chân đang rê trên mặt cỏ, rất gần. Anh Tẩm quát: Ai! Rồi nâng AK, một loạt đạn bắn về phía ấy. Có tiếng lao sao gấp gáp, tiếng súng vội vàng va vào nhau, địch rồi! Tôi và anh Mão cùng ném hai quả US vào phía ngang đồi. Tiếng rào rào té ngược lên đỉnh dốc. Ðịch rồi! B1 đâu! Cho bộ đội đánh vận động chặn địch!
Tiếng phóng lựu của ta bắn lên dông đồi, AK bắn từng loạt, không thấy địch bắn trả, chỉ thấy tiếng rầm rầm như hàng đàn thú chạy ngược dốc. Anh Mão gọi C8 cho cối 82 bắn ngay lên dông đồi mà chúng tôi đang chốt. Khẩu cối bảo: Sương xuống quá dầy, đêm tối không lấy được xạ giới! Chúng tôi yêu cầu Cối 82 cứ bắn, bên này bộ binh chỉnh tầm và hướng. Có lẽ sợ lộ trận địa, địch xẽ phản pháo cho nên khẩu đội cối của tiểu đoàn cứ làm ngơ, không bắn quả nào cả.
Sáng, sương đặc quánh, cách ba mét thôi mà nhìn không rõ mặt người, anh Mão chạy về bảo:
-Tao với mày lên đồi tìm hộp đi! Thằng B1 lấy được nhiều ba lô lắm!
Nghe đến hộp, tôi sáng mắt cùng anh lò dò lên đồi. Cách hầm chúng tôi khoảng 4 mét, rừng gianh như có ai dùng gậy cán dẹp thành con lộ chạy ngược lên đồi, hai thằng nguỵ chết nằm tơ hơ trên mặt đất, một thằng ăn trọn quả M72 vào mặt, sương hàm toắc ra, những vệt máu tươi còn lê trên vạt cỏ. Rõ ràng phải có hàng tiểu đoàn địch chạy qua đây mới làm cho cả rừng gianh nát bươm như vậy.
Tôi nhìn thấy có mấy chiếc ba lô nguỵ nằm lăn lóc trên vạt cỏ gianh, hướng địch chạy xuống bãi lầy. Anh Mão hai tay hai ba lô, tôi thấy có một chiếc gần bãi lầy vội chạy xuống, khoắc lên vai.
-Ði ra! Giơ tay lên!
Có tiếng miền bắc của ai đó trong màn sương vọng ra, gần lắm, tôi bảo:
-         Ai đấy! C7 trên này đấy!
Cái tiếng ấy vẫn lạnh lùng:
-         Có đầu hàng không? Bắn đi!
Tôi gào lên:
-         C7 đấy! Ðừng có bắn!
Anh Mão cũng gào lên: C7 trên này đấy! Ðừng có bắn!
Một loạt AK hướng về phía tôi. Chết cha rồi, ông kễnh nào mắt nhắm mắt mở thấy tôi khoắc ba lô nguỵ nên tưởng nhầm chăng! Tôi không còn hồn vía nào nữa, quăng ba lô xuống đất bò bốn chân lên đồi, mồm không ngớt kêu: Ðừng có bắn! C7 đấy!
Vẫn cái tiếng lạnh lùng ấy tan trong màn sương: Chết rồi! Ông lại xem đi!
Hoá ra hai ông anh nuôi của C8 đem cơm cho trận địa cối. Họ đi ngang qua và phát hiện thấy hai tên lính dù chui rúc ven bãi lầy. Tên lính dù thì ở giữa, tôi ở trên sườn đồi cho nên mới có đoạn đối thoại toát mồ hôi trên.
Chúng tôi kéo ba lô về hầm, lấy gạo xấy và thịt hộp ra thi nhau xúc. Túi cóc ba lô một tên còn có cả ống cóng thịt lợn kho vẫn còn nóng. Chén đi! Không có thuốc độc đâu mà lo! Bỗng có tiếng miền nam ngay sau lưng: Em đầu hàng các anh ơi! Em xin đầu hàng các anh ơi!
Theo phản xạ chúng tôi nhảy ào xuống hầm, anh Tẩm vớ lấy khẩu súng:
-         Ði ra! Giơ tay lên!
Có bóng đen lệt xệt trong bãi cỏ gianh ngay sau hầm chúng tôi. Anh Tẩm quát:
-Ðứng lên!
-Dạ em bị thương gãy dò!
-Tôi cảnh giới cho! Ông Hậu lên băng cho nó đi!
Tôi cầm súng leo lên hầm, tên nguỵ cởi trần mặt cắt không còn giọt máu, từ trong bụi lê ra. Bên cạnh hắn là một xác chết với đống quần áo loang lổ. Một tiểu đoàn địch đã xắp tràn qua hầm chúng tôi, quá là gần. Nếu địch biết chúng tôi chỉ có một trung đội thì chắc trận đánh giáp lá cà xẽ diễn ra. Hai quả lựu đạn của tôi và anh Mão đã chặn bước đi của địch buộc chúng rẽ ngược lên đỉnh đồi. Phía sau khe suối, địch hoảng loạn tháo chạy vứt súng ống, ba lô chồng lên nhau kể cả đài thông tin 15w.
Tôi thu ba lô và súng địch, có một chuỗi hạt cườm, một túi vải thêu loang lổ của người theo công giáo. Bên trong túi có tờ giấy với dòng chữ viết vội mấy câu thần chú �úm ba la� gì đó. Phía sau còn chú thích: Nếu gặp tai hoạ cứ đọc mấy câu thần chú này thì tai qua, nạn khỏi! Tên tù binh này liệu có thoát chết hay không khi sinh mạng của nó đang nằm trong tầm tay chúng tôi!
Nắng tràn trên đường, thằng nguỵ với khẩu 12ly7 nằm chỏng gọng lúc sáng còn gọi má ơi; bây giờ không thấy động cựa gì nữa. Ba chiếc xe bọc thép M113 hôm qua hung hãn là thế nay chỉ còn một đống sắt vụn đen sì. Những tên tàn binh nhập nhoạng chạy ra đường đã trở thành mục tiêu của các tay bắn tỉa. Xác lính dù nằm lăn lóc rải rác dọc quãng đường hơn ba trăm mét. Nhìn tên tù binh run lên lập cập, tôi cho nó chiếc áo dù khoắc tạm và một bi đông nước.
Khoảng 9 giờ sáng ngày 30-03-1975, đại đội 5 được lệnh xuất kích truy đuổi tiểu đoàn 5 dù bỏ chạy đêm hôm qua. Ðỗ Văn Hoan ( Quê Sơn Dương-LâmThao-Phú Thọ) trung đội trưởng dẫn quân dọc đường 21. Ði ngang qua chốt của trung đội 3 một đoạn, gặp chiếc xe DMC đêm hôm trước chúng tôi bắn cháy, trên xe chở đầy thịt hộp thế là bộ đội túm quanh chiếc xe. Cùng lúc ấy có chiếc VO10 bay đến, bắn đạn chỉ điểm, hai máy bay A37 lao đến cắt bom. Ðứng ở trên chốt nhìn từng chiếc máy bay lao xuống, tiếng bom rung chuyển căn hầm, khói đen cuồn cuộn bốc lên. Ðịch đánh dọc đường từ phía chiếc xe cháy đến giữa bãi lầy rồi cút. Nghe đâu đại đội 5 bị hy sinh mấy người, tôi sốt ruột quá, thằng Hoan có việc gì hay không!?
Quá trưa, trung đội của Thanh quê ở (Ðại Phạm - Hạ Hoà - Phú Thọ) tôi có gặp anh năm 1978 đang công tác tại phòng xây dựng huyện Vĩnh Tường-Vĩnh Phúc) bắt được 5 tên tù binh. Một quả bom nổ giữa bãi lầy, hơi bom quét một vùng cỏ và bèo làm hở lưng mấy chú lính dù dưới đầm nước. Do sức ép quả bom quá mạnh cộng thêm đỉa rúc và cái nắng giữa trưa, lũ tàn binh không còn chịu được nữa.Thanh cầm súng đi ngang qua thấy chúng động đậy ven hố bom quát lên một tiếng, cả năm thằng vội vã đứng dậy xin hàng.
Khoảng hơn 13 giờ chiều, thấy đoàn cáng thương của C5 đi ngang qua chốt, tôi hỏi:
-         Này các ông ơi! Thằng Hoan trung đội trưởng có việc gì không?
-         Hoan chết rồi! Vừa mới khiêng về bên bãi lầy kia kìa!
Tôi chạy dọc đường 21 sang bên kia bãi lầy, ở đấy người ta đang đào 4 cái huyệt ngay cạnh điểm chốt của B2. Ðại đội 5 ba liệt sỹ, đại đội 7 một người là Lý.
Hoan nằm trên cáng, khói ám đen khuôn mặt thông minh và đẹp trai ấy.Trên ngực Hoan, những mảnh đạn găm thủng lỗ chỗ, vạt áo bị cháy nham nhở, một vài con kiến vẫn còn bu trên miệng các vết thương. Tôi chua sót lấy khăn lau mặt cho Hoan, trước khi vào chiến dịch, chúng tôi còn chúc rượu và vui với nhau trong hậu cứ. Còn hôm nay.
Nghe nói trung đội của Hoan đi đến đoạn chiếc xe cháy thì bị bom đánh vào đội hình. Nghe bom rít trên đầu, Hoan cùng mấy chiến sỹ lao xuống ven đường cạnh một trận địa pháo của địch không ngờ dính quả mìn dâu tôm. Ba người hy sinh, một bị thương.

Tôi không còn đủ can đảm để nhìn những tảng đất phủ lên thân hình thằng bạn của mình. Quay ra, đi xuôi về nơi Hoan chết, ở đấy chiếc xe DMC đã cháy thành than, những thùng thịt hộp cháy nổ văng ra xung quanh. Trên thùng xe, có mấy xác lính nguỵ chết đen thui chỉ còn phơi bộ xương sườn cong vênh, vừa khét, vừa khẳn.
Bên kia đường, có hai khẩu pháo 105 ly với nước sơn xanh biếc ngồi chồm hỗm cạnh đường. Có lẽ thấy lũ thiết giáp bị chặn đánh tơi tả, lính pháo binh hoảng sợ bỏ pháo tháo chạy. Bên ngoài trận địa pháo, một sợi thép gai căng ngang, ở đó có một mảnh bìa các tông vẽ cái đầu lâu với hai cẳng sương ống và hàng chữ :CO MIN!
- Hoan chết ở đây.

Tôi buồn nản quay về, đi ngang qua chiếc xe bọc thép thấy Thanh và hai chiến sỹ nữa đang lấy cung năm thằng tù binh dù, có một tên điếc đặc vì sức ép, lửa bom cháy quăn bên mặt. Thấy tôi, Thanh hỏi nhỏ: Lũ tù binh này thì nên làm thế nào? Nghĩ đến Hoan và các liệt sỹ của ta, tôi càng cáu tiết: Cho thịt mẹ chúng nó đi!
Trở về hầm, anh Tẩm đi kiểm tra các điểm chốt, nhìn thằng tù binh nguỵ, máu trong người như muốn sôi lên. Tên nguỵ lúc này đã đến đường cùng nên gương mặt của nó như vừa hối tội lại vừa van xin. Nhiều khi định cho nó một băng đạn nhưng lại thấy tồi tội.
Cùng thời gian này, lực lượng vũ trang quân khu Năm và quân đoàn 2 đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh duyên hải miền trung từ Quảng Trị, Phú Yên, Quảng Nam, Quảng Ngãi và đang ào ạt tiến vào thành phố Ðà Nẵng.
Phía chúng tôi đánh chiếm đèo Phượng Hoàng, sử dụng một lực lượng lớn của sư đoàn với chiến thật luồn sâu, chia cắt, tiến công và chốt chặn không cho địch ứng cứu lẫn nhau. Những mũi luồn sâu áp sát đội hình làm vô hiệu hoá hoả lực và các trận địa pháo của địch làm cho chúng hoang mang dao động. Chúng tôi đã giáp trận rất nhiều với quân cộng hoà, bảo an, biệt động. Hôm nay đối mặt với lính dù nguỵ rõ ràng lực lượng này lỳ lợm và thiện chiến hơn rất nhiều. Trên một con đèo dài 15 km với địa hình hiểm trở địch đã chiếm ưu thế về địa hình và hoả lực, ta không có cách đánh hợp lý thì tổn thất là không tránh khỏi. Chúng tôi đã nhịn đói, luồn sâu, biết bao nhiêu hy sinh vất vả để bao vây chia cắt địch theo đúng ý đồ của bộ chỉ huy chiến dịch. Dàn địch mỏng ra để tiêu diệt, khúc đầu, đuôi và khúc giữa cùng oằn lưng mà ăn đòn. Nghĩ lại mới thấy bộ đội ta thông minh mà anh hùng thật.
Chiều 30 tháng 03, không gian như tĩnh lặng, phía đông, tiếng bom và pháo vẫn vọng về, có lẽ các đơn vị bạn đang tiến công và truy kích địch hướng chân đèo. Nắng bắt đầu gắt, mùi hôi hôi, ngai ngái của xác chết, mùi khét của khói đạn xen trong gió ngàn thỉnh thoảng lại đưa lên hầm. Sau khi cho tên tù binh uống nước, anh Tẩm bảo: Thằng lính nguỵ này làm thế nào? Tha hay giết đi! Anh Mão ngửa cổ tu nước trong chiếc bi đông nguỵ chép miệng: Thôi, thả mẹ nó ra, giết làm gì cho bẩn tay! Nó đi đâu, sống hay chết mặc xác nó!
Gọi tên tù binh ấy lại, hắn lập cập lê đến bên hầm, thịt ở hai bên má run lên, anh Tẩm bảo:
-         Bây giờ thì tha chết cho mày! Ði xuống cái bản kia kìa, ở đó có ban quân quản người ta đón, nghe chưa!
-         Tên tù binh dạ ran rồi vội vàng cất tờ giấy phóng thích viết tay như cầm tờ hộ mệnh. Nhìn nó lê đít trên sườn đồi, chúng tôi quay về với bữa cơm chiều. Anh nuôi không phải đưa cơm nữa, chúng tôi mở gạo xấy và thịt hộp ra.
-         Sáng hôm qua tôi cứ tưởng nó bắn ông, mẹ! chạy bán sống bán chết!
-         Tôi thấy ông nằm bò ra vạt gianh, ướt hết cả áo, thôi cũng sợ đi!
-         Trong ba lô có thằng còn đem theo con gà trống, tụi này ăn cắp gà ở đâu không biết, tôi định mang về thịt nhưng thằng B2 xin mất rồi!
-         Khe đồi phía trên kia cơ man nào là ba lô và súng đạn, giá như thằng cối 82 nghe mình tương lên dông đồi thì bọn dù này ăn đủ!
Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ, hình như chiến tranh đang ở đâu xa lắm rồi. Bất chợt tôi nhìn xuống đường, Thanh đang quỳ xuống ngắm bắn, trước mặt là tên nguỵ mà chúng tôi phóng thích đang lê trên mặt nhựa. Tôi nhận ngay ra và kêu lên: - Ông Thanh!
Chưa dứt câu thì hàng loạt điểm xạ đã nổ, tên tù binh lăn còng keo ra đường, anh Tẩm bảo: Người ta đã phóng thích, ông còn bắn nó làm cái gì!? Thanh cắp súng quay đi: Tôi không tha thằng lính dù nào cả! Cú chúng nó lắm rồi!
Có lẽ Thanh thoát chết trong trận pháo ngày 23 tháng 03 dưới chân đèo. Bao nhiêu đồng đội của mình đã vĩnh viễn không bao giờ trở lại vì tụi nguỵ này nên anh rất căm tức lữ dù này. Thấy thế tôi chạy xuống đường và bảo:
-Lúc nãy anh bắn nó đã chết chưa?
-Chết rồi! Khoảng cách không đầy 20 mét ấy mà!
Một đêm trôi qua thật bình lặng, tiếng súng vẫn ì ầm phía đông, hầu như chiến tranh đã lùi qua đây rồi thì phải. Chúng tôi khoan khoái ngắm ánh trăng mên mang chảy tràn trên đồi cỏ, lại mở hộp ăn với nhau.
Khoảng nửa đêm, chúng tôi nhận lệnh hộ tống một đoàn xe K63 của ta chạy về phía đông. Ðể một trung đội ở lại chốt đường, chúng tôi chia nhau vào các xe thiết giáp. Tôi bâng khuâng nhìn sang hai bên đường, núi đồi nhấp nhô huyền ảo trong màn sương khuya mai mảnh. Gió lọt qua khe cửa đem theo mùi xăng đến nôn nao. Qua khỏi chiếc xe GMC bị cháy một đoạn, chúng tôi dựng lá chắn thùng xe lên đề phòng địch phục kích. Tôi chột dạ: Biết đâu hôm nay địch cũng chờ chúng tôi ở đâu đó, một quả ÐK thôi là tất cả chìm trong cái quan tài sắt này!
Ði khoảng 6 km thì bàn giao cung đường cho đơn vị khác hộ tống tiếp, chúng tôi hành quân bộ quay trở về điểm chốt. Bắt đầu thấm mệt và buồn ngủ.
Sáng 31 tháng 03. Nắng chảy tràn trên dông đồi, gần một tháng liên tục hành quân không tắm gội gì cả, tôi và anh Tẩm đem quần áo ra con suối sau bản tắm giặt.
Ði xuống đường, những xác chết hôm qua bị kéo sang hai bên lấy đường cho xe ta chạy, để lại những vũng máu đen như hắc ín. Những tấm lưng trần bị nắng hun đúc lợt da nhầy nhụa. Có xác chết nằm co quắp thân thể cháy đen thui. Tôi thở dài: Chiến tranh là thế đấy!
Tôi cố tìm xác tên nguỵ hôm qua phóng thích xem bị bắn như thế nào. Lật tìm mãi mà không thấy đâu cả, quái lạ, chả lẽ nó vẫn thoát chết!
Vào trong bản, cái làng dân tộc mà hôm nào chúng tôi vượt đường thấy mái tôn sáng lấp loá. Dân có lẽ đã chạy hết vào rừng chỉ nhìn thấy bóng vài người đàn ông đóng khố ngồi trên sàn nhà. Vài chú gà choai đuổi nhau với đàn lợn hí hoáy dũi ven hè. Ðến nhà Rông, tôi giật mình nhận ra thằng tù binh đã phóng thích ngồi lù lù trên xạp gác. Hai đùi hắn đã được thay lớp băng mới trắng xoá, bên cạnh hắn là mấy thằng tù binh bị trói tay khoặc ra phía sau. Nhìn thấy chúng tôi, nó hoảng sợ lấy tay che mặt, tôi bảo anh Tẩm:
-Thằng này số của nó cao thật! Vua Diêm Vương đã sờ đến cổ rồi mà vẫn còn chưa chết!
Con suối mát lạnh trong veo nước chảy lững lờ, hai bên bên bờ hàng lau xậy xanh um ào ào khi một luồng gió núi thổi qua. Lâu lắm rồi, hôm nay chúng tôi mới lại được tắm trên con suối yên hoà như thế này. Lại lặn, lại ngụp và té nước vào nhau cười khúc khắc. Hầu như chiến tranh đã lùi thật xa cho cái chết không còn khắc khoải nữa. Tôi lại thấy yêu đời, yêu cuộc sống tệ. Nhìn lên vòm trời xanh cao vời vợi, bất chợt tôi thèm khát một chiều quê hương, một gương mặt ngỡ ngàng của người con gái thơ buồn nào
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #25 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 03:02:23 pm »

Chiến dịch Ðăk -Xiêng. Tháng 11 năm 1972.


Sau chiến thắng Pờ-Lây-Cần, mảng cứ điểm phía tây Kon Tum bị san phẳng. Phía bắc, căn cứ Ðăk xiêng-Trung tâm huấn luyện biệt kích của nguỵ quyền Sài Gòn ở Tây Nguyên như thách thức trung đoàn 66.
Ðể mở thông hành lang Ðông-Tây đưa lực lượng lớn vào áp sát thị xã, trung đoàn 66 chúng tôi nhận lệnh tiêu diệt cứ điểm này.
Ðại đội quân y thành lập đội phẫu tiền phương, cùng bộ đội hành quân vào mặt trận.
Tiến lên phía Ðông -Bắc, tiết trời cuối năm se lạnh, núi ở đây khá dốc, lác đác có những cây thông mọc xen trong cánh rừng thưa, nghe đâu cắt về phía đông là xuống đến Quảng Nam - Quảng Ngãi gì đó.
Ðội phẫu nằm trong một cánh rừng tương đối bằng phẳng,cách Ðắc Xiêng khoảng hơn 01 Km đường chim bay. Bên ngoài điểm đóng quân có một đường xe ngựa bỏ hoang, nghe nói cứ theo con đường nây là về đến cứ điểm.
Không khác gì các đơn vị chiến đấu, ngoài lo hầm hào cho mình, chúng tôi còn phải húc hầm phẫu, hầm chứa thương binh, hầm pha chế thuốc...Có nghĩa là bàn tay của người thầy thuốc, ngoài mổ xẻ, tiêm chọc và băng bó ra, chúng tôi cũng phải thêm một tiêu chuẩn nữa: Khoẻ để đào hầm và nhiều khi phải cáng thương binh nặng về tuyến sau.
Trung đoàn 66 gồm có 3 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo và các C trực thuộc Trong mặt trân này, K7 và K9 cùng các Xê phối thuộc tiền nhập làm hai hướng mở cửa đánh vào chốt dưới sự chi viện của pháo binh trung đoàn, pháo phòng không của mặt trận. Tiểu đoàn 8 dự bị làm thê đội hai, sẵn sàng chờ lệnh.
Các hướng tiến quân bí mật vào vị trí tập kết. Pháo binh, súng cối , DKZ chọn vị trí thuận lợi cố gắng nhằm bắn trực tiếp cho có hiệu quả. Trinh sát trung đoàn, tiểu đoàn cùng cán bộ tham mưu, tác chiến và các cấp đại đội liên tiếp đi địa hình, chui vào hàng rào, vẽ từng lô cốt và cách bố phòng trong đồn địch.
Ðịch nghe thấy có hiện tượng không bình thường quanh điểm chốt. Chúng yêu cầu đánh bom vào những vị trí nghi ngờ, máy bay do thám vè vè suốt ngày quanh đỉểm chốt. Ðêm về, C130 thả pháo sáng và bắn 20ly phía ngoài đường xe thồ. Mặt trận vẫn yên lặng, trực thăng và máy bay hạng nhẹ của địch thỉnh thoảng đáp xuống sân bay tăng cường quân số và cung cấp súng đạn, lương thực cho cứ điểm.
Trước kế hoạch nổ súng một ngày thì K7 bị lộ: Người ta cáng vào đội phẫu một thương binh bị mìn dập nát hai bàn tay. Nghe đâu đoàn cán bộ tác chiến và trinh sát K7 đi địa hình. Ðịch phát hiện nổ súng, đúng hướng chọn làm cửa mở , ta hy sinh một trinh sát, bị thương một người.Tự nhiên tôi hỏi người cáng thương binh:
- Này ông gì ơi, trinh sát tên là gì?- ừ để tôi cố nhớ xem.!.- Có phải là Ninh không!
- à đúng rồi-đúng tên là Ninh, trinh sát K7. Vào năm 71 !

Thôi chết rồi, Ninh cùng quê, cùng nhập ngũ một ngày với tôi! Tại sao lại là nó!Tôi mong cho người cáng thương kia nhớ nhầm. Trưa hôm ấy, tôi thực hành là Y tá vô trùng chuẩn bị y cụ cho ca mổ cắt cụt này.
Ðó là anh lính trinh sát còn trẻ măng, 18 tuổi, hai má vẫn còn như bụ sữa, trắng trẻo, đẹp trai. Anh ta bảo:
- Em dò mìn vướng phải loại mìn lá này, nó nổ luôn trong tay, may mà mặt mũi không việc gì! Các anh cố giữ tay cho em, đừng cắt cụt.
Kíp mổ gồm : Anh Dao mổ chính, Trịnh Minh Tước phụ mổ, một Y tá gây mê, hồi sức và tôi: Y tá vô trùng Y cụ.
Khi người thương binh đã được gây mê, người ta dán vào cạnh lỗ mũi thương binh một ít bông để cho y tá gây mê theo dõi nhịp thở. Khi bóc toàn bộ bông băng ra khỏi hai bàn tay thì bác sỹ đành phải lắc đầu: Không thể bảo lưu được, hai bàn tay đã có dấu hiệu hoại tử. Ðể an toàn tính mạng cho thương binh thống nhất hội chẩn : Cắt cụt cả hai bàn tay!
Bắt đầu từ dưới khớp bàn tay, một đường dao tiện tròn đến giáp xương ống, hai đường xẻ ngược lên nghiêng hai bên ống tay, dùng nạo đẩy ngược các mô còn bám vào xương, vuốt ngược hai lớp thịt cho hở xương ống ra và bắt đầu dùng cưa cắt như cưa gỗ. Khi nghe tiếng: Cấc một cái, một bàn tay rời ra. Anh Dao ném nó vào góc hầm và khôi hài: Thôi, cái này để chiều về hầm lấy bát canh măng!
Chèn tuỷ sống, Mài xương, Cắt ba via , thắt mạch máu và thần kinh xong rồi khâu lại. Trong vòng hơn hai giờ đồng hồ hai bàn tay mà tạo hoá ban tặng, cha mẹ sinh thành ra con người đã bị chiến tranh tước bỏ. Nhìn người thương binh ấy chỉ còn hai cùi trỏ, tôi tháy tái tê một nỗi buồn vô hạn, ngày mai khi tỉnh dậy anh ta xẽ như thế nào đây!

Do cửa mở bị lộ, sư đoàn quyết định đánh theo phương án hai: Pháo binh khai hoả vào ba giờ chiều cùng ngày, bộ binh dưới sự yểm trợ của pháo tầm xa và hoả lực các loại, mở cửa đánh công kiên.
Tiếng đạn nổ rền trên điểm chốt, DKZ 106,7 của ta trên sườn đồi bắn áp đảo pháo binh địch, mỗi quả đạn là một lô cốt bị hạ. Ðịch kêu gào máy bay kể cả B52 đánh ngay vào thằng khói vàng!
Ðăk Xiêng chìm trong lửa khói mù mịt, các hướng của ta phát triển tốt, lô cốt và các điểm hoả lực của địch lần lượt bị khống chế và tiêu diệt. Trên trời máy bay các loại quần đảo, ném bom bừa bãi vào các khu rừng quanh điểm chốt, nhất là dông đồi khói vàng có khẩu DKZ 106.7 của ta.

Chập tối tiếng súng thưa dần, tiếng bộc phá tảo trừ trận địa, truy kích và bắt tù binh. Ðứng trên cao nhìn vào chốt thấy chỗ nào cũng lửa cháy đùng đùng. Dứt điểm rồi!
Không phải vào mặt trận, không đối mặt với cái chết trên cửa mở mà chúng tôi thấy thật hồi hộp, thật sung sướng. Nghe nói ta bị tổn thất không đáng kể, ôi hạnh phúc biết bao!
Khoảng 8 giờ tối, điện thoại từ sở chỉ huy tiền phương điện về: Ta chiếm được một kho có rất nhiều thuốc quí của địch, bộ đội đang bảo vệ nhưng lửa cháy xắp đến nơi, yêu cầu quân y trung đoàn cho người xuống chọn và lấy thuốc ra.
Thế là đội phẫu chọn 12 người -Bác sỹ có, y sỹ và y tá có - Ðem theo gùi xuống ngay điểm chốt. Có ai đấy bảo: Ðiện cho trinh sát về đẫn đường chứ! Tối thế này biết đàng nào mà lần!
-Ôi dào, ra đấy quân mình cáng thương, lấy hàng lũ lượt đầy đường, lạc thế nào mà lạc!
Chúng tôi thấy cũng có lý, ra ngoài kia thấy lửa trong chốt cháy sáng rực, cứ cắt đường mà đi!
Ðoàn người bám nhau ra đường xe ngựa, không thấy có ai mà hỏi, đi một đoạn có một con đường mòn rẽ về điểm chốt - Ðúng là đường này rồi- Ði đi!
Chúng tôi đi một đoạn khá xa thì thấy con đường như lượn vòng ra bên cạnh, phía bên phải, lửa dưới chân đồi sáng rực: Khéo nhầm mẹ đường rồi các ông ơi!
Cũng vừa đến đấy thì cụt đường, phía trước là một bãi B52 địch mới đánh hồi chiều, cây đổ như phát nương, mùi nhựa cây hăng hắc và mùi khét của khói bom vẫn còn khét lẹt. Chúng tôi đang lúng túng tìm đường ra thì có một người như bóng ma từ dưới đất chui lên: - Ðơn vị nào đấy!
- C21 quân y! ở đây là đâu?- Xuống chốt đi đường nào hả đồng chí!
-Các bố đi nhầm đường rồi! Ðây là trận địa DKZ- B52 đánh suốt từ chiều rồi đấy! các ông quay ra ngay không chết cả lũ bây giờ!
Chúng tôi tá hoả, nháo nhào tìm đường quay ra. Cùng lúc ấy, có tiếng ì ì đùng đục và tiếng bom rít ngay trên đầu. B52 rồi - nằm xuống!
Ðỉnh đồi phẳng lỳ, không có hầm hố, khe rãnh nào để rúc, mười hai cái đầu cùng châu vào một gốc cây to khoảng một người ôm đã bị B52 phạt lưng chừng, thân cây tướp ra.
Tôi nằm dán xuống mặt đất, một tiếng nổ như xé màng tai và kèm theo tàn lửa bay lên như pháo hoa, đất tung lên phủ kín người, dông đồi lắc lư như nằm trên võng, lồng ngực nghẹn lại, xóc lên như bị buộc chặt vào lưng con ngựa phi nước đại.Tai ù đặc, miệng đắng ngắt mùi thuốc bom.
Có ai đấy hực lên mấy tiếng, thằng Hiếu bị rồì! Chúng tôi càng nằm như dán xuống mặt đất, mười phút sau, tiếng B52 ù ù rồi xa dần , quả bom đầu tiên rải thảm cách chúng tôi khoảng 10m sau đó rê về phía trước mặt .Sau tiếng ù ù đặc khét trong tai, dông đồi trở lại bình lặng.
 Chúng tôi chạy lại dìu Hiếu chui qua bãi rừng đã bị bom phạt quang tinh, cây cối đổ ngang dọc, mùi nhựa cây xen lẫn khói bom vừa hắc, vừa cay. May quá, Hiếu chỉ bị sức ép, máu mồm, máu mũi ộc ra.
 Về đến nhà đã hơn mười giờ đêm, chui xuống hầm , đất cát bám đầy đầu, đầy cổ, Chẳng cần tắm gội gì cả, thật hú vía!
 Người ta lục cục cáng thương binh về, mặt trận nào mà chẳng có tổn thất, có thương binh thì chúng tôi lại sẵn sàng phục vụ kể cả suốt đêm..
 Sáng hôm sau, trung đoàn điện cho quân y quay lại Ðăk Xiêng lấy thuốc, nhiều đại ca tối hôm qua chết trượt trận B52 lắc đầu tháo lui. Tôi lại xung phong đi trong tốp ấy.
Theo một đoàn vận tải, chúng tôi đeo gùi hăm hở lên đường. Trên đầu, máy bay L19 cứ vè vè lượn quanh điểm chốt, thỉnh thoảng lại xèo xèo bắn đạn khói cho máy bay oanh tạc vào dông đồi đặt pháo tầm xa của ta. Mặc xác chúng mày, chúng tôi vừa đi vừa tránh những khoảng rừng trống xuôi dần về Ðak xiêng.
Khác với các trận đánh nhỏ lẻ hoặc đánh giáp căn cứ của địch. Tảo trừ xong trận địa là chúng tôi vội vàng lao vào rừng tránh bom, tránh pháo . Nếu chốt lại thì lăn lưng húc hầm để giữ gáo. ở đây Ðak Xiêng lọt thỏm trong hậu cứ của ta, nhổ xong cứ điểm này vùng giải phóng như rộng mãi ra, rừng núi ngút ngàn vô tận địch biết đâu mà dội bom cho xuể.
Từng đoàn người xuôi ngược, bắt tay nhau thôi thì đủ cả: Thằng 40 pháo binh , thằng C19 đặc công, đoàn vận tải..Lại còn đoàn bộ đội địa phương, Kinh có , Thượng có, những bộ quần áo dân tộc chen trong màu xanh áo lính .
Chúng tôi đi vòng đường băng sân bay vào chốt. Bên ngoài những chiếc cờ ba que vứt tung toé, .có một mảnh cờ trắng cắm ở bìa sân bay không rõ để làm gì. Xác người chết ngổn ngang chưa kịp thu dọn, khói đen cuồn cuộn khét mùi xăng dầu.
Leo qua mấy hàng rào kẽm gai thưa, chúng tôi lọt vào trong chốt. Một căn cứ biệt kích Ðak Xiêng quá nhiều nợ máu với chúng tôi hôm nay xụp đổ. Những khẩu pháo 105, Cối 106.7 từng ngạo mạn hú ù ù tác oai tác quái bây giờ nằm đó, không động cựa. Những căn nhà, doanh trại từng huấn luyện lũ biệt kích xuyên rừng với những trang bị hiện đại nay tan tành. Những mảng hầm ngầm, kho tàng đang được bộ đội tháo dỡ.
Trinh sát đưa chúng tôi xuống một căn hầm rộng, trong đó ngổn ngang các loại
thùng các tông, thùng gỗ, mùi dầu, mùi hắc của hoá chất dị ứng rất nhanh với mũi của lính: Chúng tôi quen sống cảnh rừng rú nên mùi nước hoa, mùi cồn, mùi cao su cháy gây hắt hơi ngay. Có sỹ quan hậu cần bảo: Mẹ, toàn chất dễ cháy, kiểu này là dễ cháy kho lắm đây!
Mặc cho mấy ông y sý chọn thuốc, chúng tôi vào một kho dù: Thôi thì đủ loại dù, vô thiên lủng: Dù hàng to như chùm kín sân kho hợp tác, một đống kếch sù với những đường gân có sợi dù to tổ bố luồn bên trong. Dù hoa loang lổ, dù pháo sáng trắng ngần....Tôi dùng dao găm phay luôn nửa chiếc dù hoa: Loại này nhẹ đẹp , vừa làm chăn đắp lại có thể nguỵ trang.
Ði lùng sục xung quanh hầm được mấy gói gạo xấy, mấy hộp thịt có ai đó không đeo hết bỏ lại góc hầm, thế rồi tôi leo lên mặt đất.
Nắng tràn trên điểm chốt, nhìn ra đường băng sân bay ánh nắng như hơi nước loang loáng, vằn vện bay lên. Bộ đội hầu như chui cả xuống hầm tránh nắng. Chiếc L19 vẫn cay cú, lượn vòng, nghiêng ngó xuống cứ điểm. Không thấy nó gọi bom đánh vào chốt, có thể vẫn còn hầm ngầm hoặc tàn binh.
Tôi đi lại phía cửa mở K9, hỏi thăm loanh quanh người ta bảo: Ông Viện C9 phải không? Ðang gác tù binh ở phía sau khu kia kìa!
Tôi chạy lại, Thấy Viện ( Cùng quê) đang cầm súng gác lũ tù binh dưới hầm. Tôi thông báo tin Ninh đã chết, Viện bảo: Tôi cũng nghe loáng thoáng như vậy, không biết thực hư ra sao! Chiều nay ông có ghé qua vị trí tập kết của K9 được không? Hầm của tôi còn nhiều hộp lắm, đến đấy gùi ít về mà ăn!
Quay về hầm quân y cho các loại thuốc đã chọn vào gùi, chúng tôi lục tục ra khỏi chốt.
Không gian như loãng ra, những ngày căng thẳng chuẩn bị cho chiến dịch đến nay đã thắng lợi hoàn toàn. Bộ đội được nghỉ ngơi lấy sức, thỉnh thoảng vẳng lại tiếng máy bay do thám buồn bã, cam chịu của kẻ thua trận.
Tôi hỏi thăm và lần tìm đến hướng cửa mở của K7.
Ðơn vị đóng quân trong một khu rừng nứa đại, bộ đội ở đây chẳng ai nằm hầm mà mắc võng tòng teng trong rừng, anh nào cũng có vẻ mới tắm giặt sạch sẽ lắm. Hỏi thăm người ta chỉ sang tiểu đoàn bộ và tôi lần sang trung đội trinh sát, nơi trước Ninh ở.

Người trung đội trưởng trinh sát nói:
-Trinh sát chúng tôi cùng ban tác chiến, ban tham mưu đi trước chuẩn bị địa hình căn cứ Ðắc Xiêng hàng tháng trời. Nghiên cứu sa bàn, bản đồ, chọn hướng cửa mở thế rồi: Ðêm chui vào hàng rào kiểm tra thực địa, có bao nhiêu loại hàng rào, mìn nhiều hay ít. Ngày về sửa lại sa bàn , đêm lại chui vào cửa mở.
Hàng tháng trời thức đêm căng thẳng như vậy, ngày ngủ chẳng là bao. Ðêm cuối cùng phân công cho Ninh cầm súng gác ngoài cửa mở, chúng tôi đang ở trong hàng rào. Khoảng gần 5 giờ sáng thấy có tiếng súng phía Ninh cảnh giới. chúng tôi bò ra thì thấy một toán địch đang túm phía ngoài hàng rào. Có lẽ mệt quá Ninh ngủ quyên mất, khi địch đi tuần phát hiện thấy nó ngủ dựa vào gốc cây và bắn chết .Chúng tôi đành phải nổ súng dù biết rắng đã hoàn toàn lộ cửa mở. Ðịch chết hai tên, số còn lại bỏ chạy tán loạn.
Ninh vất vả từ nhỏ, mẹ là vợ kế cùng em gái đi lấy chồng khác, Ninh ở lại với bố và các anh con bà vợ cả. Nhà đông người, tần tảo quanh năm, con trai mà làm đủ mọi việc trong nhà, ngoài đồng. Từ sàng sảy, giã gạo, xay lúa đến cày bừa, cấy hái úp nơm, đẩy nhủi việc gì cũng hay làm. Cùng nhập ngũ một ngày với tôi, Ninh bảo:
-                               Là người lính vào đến chiến trường, một là sống, hai là chết. Chết xanh cỏ mà sống phải đỏ ngực, không bao giờ quay lui, đầu hàng!
Hôm nay Ninh đã vĩnh viễn nằm lại ven căn cứ Ðak Xiêng này, thế rồi chúng tôi, ai còn, ai mất. Ai xẽ quay trở về để báo tin cho gia đình Ninh đây!
Tôi buồn nản quay về đội phẫu. Thế là quá rõ ràng - Chiến tranh mà! Ai mà lường hết được.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #26 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 03:05:00 pm »

Ðánh chiếm cụm cứ điểm Ðak-pét ( Tháng 5 Năm 1974).


Ðầu tháng 5-1974 hầu hết các cứ điểm phía tây và tây bắc tỉnh Kon Tum đã được giải phóng.
Trên trục đường 14 Kon tum đi Quảng Nam, Quảng Ngãi, cụm cứ điểm Ðăk Pét của địch án ngữ đồng bằng khu 5 lên cao nguyên trung phần.
Ðể mở thông đường hành lang Ðông - Tây, nối cao nguyên với đồng bằng trung bộ, trung đoàn 66 sư đoàn 10 lại nhận lệnh tiêu diệt cứ điểm này.
Ðầu mùa mưa, con đường tiến về phía đông bắc lác đác có những trận mưa nhỏ. đất ba dan đỏ quạch như� muốn bám lấy chân người lính. Nhìn về phía đông, xa tít tắp có một dãy núi xanh biếc phủ mây trắng bồng bềnh làm người ta tưởng rằng: leo lên cái đỉnh nhòn nhọn kia là xẽ nhìn thấy biển.
Tiến về phía đông, rừng ở đây có vẻ bằng phẳng hơn. Lác đác đã gặp những cánh rừng thông già, rất thưa, cây to bằng một người ôm, phía dưới là một thảm cỏ xanh như thảo nguyên vậy. Thỉnh thoảng gặp một vạt rừng toàn cây Vạn tuế, nghe nói loài cây này mỗi năm chỉ ra có một hàng lá, có cây cao đến 5-6 mét. Vậy nó đã có mặt ở mảnh đất này hàng mấy trăm năm rồi.
Chúng tôi đóng quân ven một con suối nhỏ cách Ðak Pét không xa lắm. Phía bên dông đồi là một rừng thông già, một vài khoảng rừng mảnh pháo đã găm vào thân cây từ bao giờ, nhựa cây đọng lại thành vệt dài, vàng màu mật ong, trong suốt như kẹo kéo.
Hai ngày húc hầm, ngày thứ ba bắt đầu lên đường đi gùi gạo và đạn. Không giống như mặt trận Tân cảnh, ở đây chúng tôi ra đường đông vui hơn.
Ðơn vị này chuyển quân, đơn vị kia kéo pháo, nghe đâu trận đánh Ðak pét là thí nghiệm cho trận hiệp đồng binh chủng: Dưới đất thì bộ binh được pháo binh và xe tăng yểm trợ, trên trời có pháo phòng không 14,5 và pháo 37 ly đánh trả máy bay địch. Khí thế ra quân hừng hực và phấn trấn lắm.
Phải hôm gùi gạo nó còn êm lưng, những ngày gùi đạn nhất là cối 82 ly hoặc cối 120 ly chẳng hạn, nó lủng ca lủng củng trong gùi như đàn lợn con vậy. Ra đường thấy đơn vị pháo họ có kinh nghiệm: Bẻ cong hai thanh tre bánh tẻ, kẹp tráo đầu đuôi xếp quả cối thành hàng, họ gùi được đến 6 đến 7 quả đạn.
Một hôm tôi cùng Tích ( Trung đội trưởng- Quê ở Hà Bắc) gò lưng gùi đạn, gặp một đơn vị bạn hành quân ngược chiều, bỗng Tích đứng sững người kêu to:
- Ôi anh Bằng!(Hay là Bình-Tôi không nhớ lắm)
Người đàn ông kia sững lại, nhìn như dán vào mặt Tích, thế rồi hai người ôm ghì lấy nhau, Tích nức nở:
- Anh ơi, người ta đã báo tử anh rồi! Mẹ đã lập bàn thờ cho anh rồi, anh ơi!

Tôi bỏ gùi đạn xuống đất, đỡ chiếc gùi trên vai xuống cho Tích. Người anh hạ ba lô xuống ven đường, lấy khăn lau nước mắt cho em còn trên gương mặt của mình thì nước mắt rơi lã chã.
Tôi vặn lưng cho đỡ mỏi, đi xuống suối rửa mặt để cho anh em họ dốc bầu tâm sự. Thế đấy, chiến tranh đến bao giờ cho chấm dứt để không còn cảnh vừa sót sa lại vừa ngọt ngào hạnh phúc như thế kia! Có lẽ người anh đang vội, họ đành phải chia tay nhau, nắm chặt tay tôi, anh bảo:
- Ðây là thằng em ruột, tôi cũng không biết nó vào chiến trường này đâu! Tôi ở trung đoàn 40 pháo binh. Sau chiến dịch này xẽ đến thăm các đồng chí!

Tích gạt nước mắt, bịn dịn nhìn theo chiếc ba lô của anh khuất sau cánh rừng.Tích nói:
- Gia đình nhận được giấy báo tử của anh ấy, địa phương đã tổ chức lễ truy điệu rồi. Có lẽ do bị thương lạc đơn vị, ra viện lại chuyển từ đơn vị bộ binh sang trung đoàn pháo binh nên đơn vị cũ báo tử nhầm!
- Thôi, gặp nhau ở chiến trường thế này là may mắn và hạnh phúc lắm rồi. Cùng đánh Ðak Pét cả, sau chiến dịch đến thăm ông ấy sau! Tôi động viên Tích rồi hai người đeo gùi lên vai hăm hở đuổi theo đơn vị.
Tối hôm sau, chúng tôi nhận lệnh lên dông đồi giáp căn cứ địch đào hầm cho pháo binh ta bắn thẳng.
Bám nhau theo một con suối khá dốc, những vỉa đá trơ trơ cho làn nước gợn qua nhìn trong như thạch. Hai bên suối, loang lổ vết pháo địch bắn đến, có ai đấy đã khoét vội mấy chiếc hầm ếch vào khe suối để tránh đạn. Vậy khu vực này đã nằm trong tầm pháo và cối của địch rồi.
Chúng tôi leo lên một dông đồi khá bằng phẳng, một vài cây thông cổ thụ thưa thớt đứng trong đêm . Trăng đầu tuần nhạt nhoà, cỏ dưới chân mịn như lụa giải quanh những gốc thông mờ mờ trong sương núi. Phía trước mặt, chỉ thấy mây dăng dăng, có tiếng đề pa khẩu cối của địch đẩy tiếng nổ sang phía bên kia dông đồi, tiếng đại liên kéo hàng băng dài như đe doạ.

Tối hôm sau, công việc vẫn tiếp tục, tổ vác đà cứ vác, tổ cưa gỗ cứ cưa, tổ đào hầm cứ thế mà đào. Không biết do địch bắn hú hoạ hay biệt kích, thám báo phát hiện ra chúng tôi ở đây: Nghe tiếng nổ đầu nòng của khẩu cối đánh kịch một cái, tiếng quả đạn 106,7 xoè xoè bay đến và một tiếng nổ chói tai. Ðịch bắn ngay trên đỉnh đồi , một quả rồi quả nữa, có tiếng rít ngay trên đầu, chúng tôi tranh nhau lao xuống hầm. Trần Xuân Binh( Người Cao Bằng) không còn chỗ nào vội nằm đè lên đầu chúng tôi. Một tiếng nổ long óc, đất cát hất đầy đầu đầy cổ. Bính kêu lên: Tôi bị thương ! Rồi không ai bảo ai tất cả vùng chạy quay về phía sau.Tôi đứng lên, Quả đạn nổ cách hầm không đầy hai mét, đất và cỏ bị quét sạch đến giáp miệmg hầm, xung quanh tôi chẳng còn ma nào cả. Nhìn lên trời trăng vẫn sáng, chiếc túi cứu thương treo trên ngọn le vẫn gật gù sau tiếng nổ. Tôi leo lên giật lấy túi cứu thương và vội vàng đuổi theo họ. Lại một quả đạn nữa bay đến, cả lũ ngu dốt tự nhiên bỏ hầm nằm tơ hơ trên dông đồi, châu đầu vào một cây thông cổ thụ đơn độc giữa rừng hứng pháo. Sau tiếng nổ , toán người bỏ chạy về phía sau đỉnh đồi, nằm bẹp trong khe suối.
Mấy ngày hôm sau, địch cấp tập bắn pháo và cối vào dông đồi chúng tôi đang đào hầm, chúng gọi bom đánh dọc theo khe suối và những cánh rừng ven cứ điểm. Ban ngày thì máy bay trà sát, pháo bắn vô tội vạ, đêm đến cối của địch quăng lung tung, không biết giờ nào hướng nào mà lần.
Hôm sau,chúng tôi bàn giao lại hầm hào cho công binh và đơn vị pháo, chuấn bị súng đạn xuất kích.
Chập tối ngày 14 tháng 5 năm 1974. Tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 7 chia làm hai hướng tiến công Ðăk Pét. Chúng tôi bí mật luồn theo bìa suối, leo qua những hàng rào bằng nứa và chông đã được trinh sát gỡ thành lối đi, qua những vạt nương không biết dân họ trồng những gì, đến sát hàng rào kẽm gai của căn cứ đào hầm.
Ðêm trập trùng, chỉ thấy một vài ánh đèn leo lét, một vệt đèn pin quét đi quét lại. Tiếng súng bắn cầm canh, tiếng chó sủa râm ran rồi lan ra xung quanh cứ điểm. Tôi ngước nhìn lên chốt, phía cửa mở K8 không thấy có tháp canh, không thấy dãy lô cốt và lỗ châu mai nào mà tất cả lù lù, đen sẫm như trên sườn đồi.
Các tổ dò gỡ mìn, cắt rào và gá bộc phá bò lên cửa mở. Chúng tôi đào hầm nín thở căng thẳng chờ từng khắc trôi qua.
05 giờ sáng ngày 15 Tháng 05 Năm 1974, pháo binh ta đồng loạt trút đạn xuống cứ điểm địch, khói lửa bao trùm căn cứ . Lệnh cho bộc phá điểm hoả, một mảng hàng rào vừa chông, vừa tre và hàng rào kẽm gai bị hất tung lên, quét sạch một lối lên cửa mở. 8 giờ sáng, pháo binh ta chuyển làn vào khu trung tâm và phía sau căn cứ, không thấy địch chống cự, chỉ thấy đạn pháo của ta nổ đan vào nhau, kèo hầm và bao tải cát bị hất văng ra xa. Trên trời, máy bay địch ào đến, quăng bom sát hàng rào, mấy chiếc trực thăng bị pháo phòng không của ta hất quay trở lại, đạn pháo 37 ly vàng choé nối đuôi nhau bám chặt máy bay địch làm cho chúng không dám lại gần cứu giúp đồng bọn.

Lệnh C7 tiến lên chiếm lĩnh lô cốt đầu cầu. Chúng tôi vọt ra khỏi hầm, người nọ bắn ghìm đầu địch cho người kia tiến lên cửa mở. tiếng AK điểm xạ, tiếng lựu đạn nổ lụp bụp phía trong hàng rào. Nguyễn Văn Tròn (Vô Tranh-Hạ Hoà-PT)Nằm sau một gốc cây cụt bắn quả B41 vào chiếc lô cốt đã bị đạn pháo làm sập một góc. Vốn trước là xạ thủ B40, thấy ngứa chân tay,Tôi lom khom bò lên bảoTròn:
- Ông cho tôi bắn một quả đi!
Có ai đấy ra lệnh: B41 Thôi không bắn nữa! B 1 khẩn trương chiếm lô cốt đầu cầu, đánh thẳng lên đi!.B 2 vòng sang bên trái, B3 đánh sang phải! Nhanh lên!
Tôi cùng bộ đội nhảy xuống một đoạn chiến hào, chẳng thấy xác thằng nguỵ nào cả. Tiếng AK bắn găm, tiếng bộc phá tảo trừ đánh vào lô cốt và các ngăn hầm của địch, bộ đội tổ chức đánh ngược lên đỉnh đồi.
Tôi và người chính trị viên phó tiểu đoàn đi vào một căn hầm cửa rát rộng.Hình như là một kho hàng thì phải, những thùng gỗ và vỏ đạn cối lăn lóc. Một tên lính nguỵ bị thương, cởi trần chùm mảnh dù nằm trên cáng kê sát chân tường. Thấy chúng tôi vào, mặt xanh biếc, nó bảo:
- Các anh ơi, Hầm thằng tiểu đoàn trưởng ở ngay hầm bên đó!
- Tại sao mày lại nằm ở đây!
- Dạ - Em là lao công đầu binh bị chúng nó bắt đi gùi đạn đó mấy anh!
- Lao công đầu binh phải cạo trọc đàu hoặc nuôi tóc dài chứ! Mày là lính pháo binh hôm qua bắn chúng tao gần chết còn nhận là lao công hả?! đưa súng đây cho tôi.

Ông cầm súng, mở khoá an toàn và không cần ngắm, một loạt đạn lia sát sàn sạt mặt tên lính nguỵ, bụi đất bay mù mịt, phủ đầy người hắn.
- Lại còn lao công đầu binh hả, Bao nhiêu đồng đội tao hy sinh vì chúng mày rồi!
Chúng tôi tiến lại gần, tên nguỵ bỗng nhiên mở mắt ra:
- Anh tha cho em các anh ơi, em còn mẹ già các anh ơi!
- Nó chưa chết, ông đưa súng đây! Một loạt đạn găm vào người tên lính nguỵ, tay chân hắn đồng loạt giựt lên, mắt trợn ngược bắt chuồn chuồn. Tôi cầm súng và đi ra ngoài.

Ði ngược theo chiến hào sang sườn đồi bên, có hai chiến sỹ đang chĩa súng xuống một căn hầm, lũ nguỵ lúc nhúc chui ra, giơ tay hàng. Tôi ra lệnh:
- Bỏ súng xuống, tập trung vào căn hầm này! đứa nào chạy tao bắn chết!
Ðể cho hai chién sỹ gác tù binh, tôi đi về phía súng nổ, có ai đấy gọi: Anh Tích ơi, hầm bên kia có địch!
Tích từ chiến hào vọt lên, bắn một loạt điểm xạ và quát:
- Ðầu hàng đi! Giơ tay lên!
Bỗng: Bụp một tiếng, Tích ngã huỵch xuống đất- A, địch chống cự, anh Tích bị thương rôi! Bộc phá đâu? .

Hai quả thủ pháo cùng ném sang đoạn chiến hào bên. Không được, để nó đấy cho tôi! đem quả bộc phá ống lại đây! Bích (Nam Hà) cầm quả bộc phá ống chuyên phá hàng rào, dài hơn một mét, to bằng bắp chân, giật nụ xoè rồi lao vào đoạn chiến hào có địch. Một tiếng nổ rung cả chiến hào, bộ đội ào sang.
Dưới hầm, địch đứa thì chết, đứa bị thương, số còn lại ngơ ngác như kẻ mất hồn nhưng tất cả chúng đều nhớ một điều: Giơ cao hai tay qua đầu xin hàng.
Lũ tù binh bị đưa lên hầm, một thằng tù binh lắp bắp tâng công: Anh ơi, thằng thượng sỹ này vừa rồi bắn anh giải phóng đó, mấy anh!
Thằng nào!? thằng này à! Thế thì thịt thằng này đi thôi !
Tên nguỵ đã bắn anh Tích bằng khẩu Côn 60 mặt cắt không còn hột máu, nó lem lém cúi đầu, mắt liếc ngang dọc. Tôi nhìn nó mà máu sôi lên, nhiều lần định vác súng gì vào cổ tên nguỵ ấy mà bóp cò.
Một đoàn cán bộ ban chính sách đến làm công tác tù hàng binh, tôi cùng Bính đi dọc chiến hào lục soát,. ở đây các căn hầm đều đào vào trong lòng đất, phía trước để một khoảng đi tương đối rộng. Có một căn hầm cửa vẫn khoá, Bích đi tìm búa đập, tôi bảo:
-Cần gì phải búa, đưa súng đây!

Ghé súng vào khoá nảy cò, cửa bật ra, tôi tống một quả lựu đan khói- Vào đi!
Khói đặc quánh, không nhìn thấy gì cả. Thôi, sang hầm khác!
Phía cửa mở K7, Xe tăng của ta đã chiếm khu vực trung tâm, căn cứ Ðak Pét thất thủ hoàn toàn, cờ giải phóng tung bay trên sở chỉ huy của địch, nhìn sang khu A và B chỗ nào cũng thấy bộ đội ta áp tải tù binh. Những chiếc máy bay không bắt được liên lạc, trút bom bừa bãi xuống ven cứ điểm rồi chuồn mất. Còn lại thằng VO10 lảng vảng ngoài xa chứng kiến thêm một cụm cứ điểm bị trung đoàn 66 chúng tôi xoá sổ.
Tích đã hy sinh, chúng tôi đưa anh về đỉnh đồi có những cây thông đơn côi và vạt cỏ mịn như thảo nguyên chôn cất. Anh nằm đó, mặt hướng về phía biển, nơi có những con sóng ầm ào, có một khoảng trời bao la mà anh hằng mơ ước.
Ngày hôm sau, người anh trai của Tích tìm đến, có ai đủ can đảm để chứng kiến cảnh bi thương này hay không. Họ gặp nhau trong nước mắt và vĩnh biệt nhau trong hoàn cảnh trớ trêu đầy đau thương như vậy.Tôi không đủ sức cùng anh ra viếng mộ Tích mà ở nhà chùm chăn mắc võng trong rừng, tôi như muốn quyên đi tất cả.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #27 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 03:08:31 pm »

Dưới chân núi Chư-Mom-Ray


Tháng 3 - 1973 chúng tôi chuyển hậu cứ về chân núi Chư-Mom-Ray. C7 đóng quân cạnh một con suối khá rộng. Phía tây, một dông đồi thoai thoải với cánh rừng thưa xen lẫn nứa và giang. Lán trại nằm trên bãi đất bằng phẳng ven suối, những bụi nứa và cây con đã được chặt quang tinh để lại cây to nguỵ trang và làm bóng mát. Phía trước là một con suối lớn, một vũng nước sâu có những cây cổ thụ mọc nghiêng ra rủ bóng dương sỷ nhìn có vẻ hoang sơ lắm. Mặt nước xanh biếc vắng lặng im lìm như miệng hang động. Tôi cứ mường tượng ở dưới đó có hàng đàn cá sấu và thuồng luồng trú ngụ.

Ven suối là bếp và nhà của anh nuôi, cách 6-7 mét là nhà quản lý , văn thư, y tá đại đội. Chếch bên trái nhà hội trường, sang bên phải là nhà đại đội bộ. Các trung đội làm tản ra xung quanh cách nhau từ 10 đến 15 mét. Riêng tiểu đội cối của Khoản chốt trên đỉnh đồi phía tây để bao quát toàn đại đội.
Nghe tiểu đoàn phổ biến ở đây xây dựng hậu cứ lâu dài nên các lán trại làm đẹp đẽ, đầy đủ hầm hào và chắc chắn. Trung đội này nối với trung đội kia nền sân được quét dọn sạch sẽ, rất mát và thoáng.
Ðại đội có khoảng gần 50 người, anh Choáng (Quê Cao Bằng) làm đại đội trưởng, anh Chung (Hoà Bình) đại phó. Anh Lan (Tư Mỹ-Tam Nông-Phú Thọ) chính trị viên trưởng, Nguyễn Văn Chương(Nam Hà) làm liên lạc đại đội.

Lán của tôi lợp bằng phên nứa, xung quanh vách nhà đan nong mốt rất vuông vắn. Trong nhà có hai giường, ở giữa là chiếc bàn uống nước, bên kia Tạ Văn Sang (Hưng Hà-TháI Bình) quản lý và Trần Xuân Thu (Sơn Dương-Tuyên Quang) văn thư đại đội.Tôi và Nguyễn Văn Ninh (Hoà Bình ) hai y tá nằm chung một giường.
Ðại đội có 4 anh nuôi, mỗi người một quê: Trần văn Hợp dân tộc Mường (Thanh Sơn-Phú Thọ ), Hoàng Văn Ðường (Tam Ðường-Lào Cai), Lý Sài Quẩy dân tộc dao (Sa Pa-Laò Cai) và Tô Văn Mậu người Nùng ( Tân Văn-Bình Gia-Lạng Sơn).
Hàng ngày, đại đội cử hai chiến sỹ đi cải thiện lấy măng và rau rừng, còn lại tất cả lên thao trường tập quân sự. Anh nuôi vừa phục vụ ba bữa cơm cho bộ đội, vừa chăn nuôi và trồng rau cải củ ven suối. Ninh theo bộ đội lên thao trường, còn tôi ở nhà chăm sóc bệnh nhân sốt rét, viết báo tường và trang trí cho đại đội.
Con suối chảy qua đại đội về đến đây chia làm hai dòng chảy, bên kia suối có một bản nhỏ bỏ hoang từ thời Ngô Ðình Diệm dồn dân, bom đánh cả vào bản, những cột nhà cháy đen xì, xung quanh cỏ gianh mọc lút đầu người. Con đường lên tiểu đoàn bộ phải đi dọc theo bản mất 7 đến 8 phút đi bộ, mỗi lần qua thấy rợn cả tóc gáy. Hợp bảo: Hổ báo thường hay trú ngụ trong rừng gianh như thế này lắm!
Ðể củng cố vững chắc hậu cứ, tự túc một phần lương thực và thực phẩm. Trung đoàn khuyến khích các đơn vị chăn nuôi sản xuất, phát nương làm rẫy. Ðể kịp thời vụ gieo hạt vào đầu mùa mưa, đại đội để các đồng chí ốm yếu ở nhà coi lán trại, số còn lại mang tăng võng lên rừng phát nương.

Trong đại đội còn lại anh Chung đại đội phó, Sang quản lý, y tá là tôi và hai anh nuôi. Hàng ngày tôi lên các trung đội kiểm tra sức khoẻ của bộ đội, nhắc nhở vệ sinh toàn khu vực, Phát thuốc và tiêm cho bệnh nhân nặng. Thời gian rỗi, tôi vác khẩu Cacbin đi dọc theo suôí săn bắn.
Xuôi theo dòng suối phia dưới đại đội có một con thác nhỏ, nhìn sang bờ bên lau sậy mọc um tùm. Bờ bên này là một dải đất bằng phẳng, mọc rất nhiều cây trám xanh, quả rụng trạt gốc. Một lần Hợp bảo: Các ông có biết người ta hái trám như thế nào không? Nếu hái từng quả thì bao giờ cho được trong khi cây trám nào cũng to và cao. Phải biết cách, thích thu hoặch cả cây hay từng cành cũng được, chỉ cần dùng dây thép đánh nín hoặc buộc bó muối xung quanh gốc là sáng mai trám rụng bạt ngàn! Ði một đàng học một sàng khôn -Mấy cái ông "Tông dật" này cũng nhiều ngón nghề lắm!

Có đàn khỉ thoáng thấy người đã nhảy xuống đất chạy ào ào vào rừng , có con chim xanh như chim chả cá bắn một phát nó bay đi đâu mất. Tôi ngồi ven thác xem những đàn cá vượt dòng rồi sách súng quay về đơn vị.
Phát nương và trồng tỉa xong, đại đội trở lại hậu cứ huấn luyện. Những ngày đầu mùa mưa, khoa mục chiến thuật không tập được vì thao trường lầy lội, ướt bẩn. Bộ đội chuyển sang học xạ kích, đem theo tăng để che lên bệ bắn. Một hôm tôi đang đứng trước nhà cắt tóc cho Chương thì thấy một loạt AK bắn ngay sau đại đội. Thường thì trong hậu cứ, công tác bí mật quân sự luôn được nhắc nhở, không mấy ai bắn súng trong vị trí trú quân cả. Hôm nay ai đó lại kéo hàng tràng tiểu liên. Biệt kích đổ bộ hay có vấn đề gì đây? Cả đại đội nháo nhác.

Thấy Viện (Quê Hà Giang ) trung đội trưởng lên báo ban trên tiểu đoàn về bảo: Có một con Nai ra vườn củ cải của đại đội ăn rau đã bị bắn chết, cho người ra khiêng về ngay!
Thế là chúng tôi vui như hội, con Nai hơn hai tạ được kéo theo suối về nhà bếp. Hai chiếc sừng mới thay, nhung mọc nhú dài hơn gang tay, mềm nhũn được cắt một chiếc cho vào nấu cháo chia toàn đại đội. Còn lại chiếc kia theo luật ở rừng: Phần thưởng của người săn thú.
Vấn đề đại đội quan tâm là: Có nên báo cho tiểu đoàn biết hay không? Nếu báo tiểu đoàn thì chắc chắn con Nai này phải chia cho các đơn vị trong toàn tiểu đoàn.. Thế là chúng tôi cố ý im luôn. Ngoài thịt tươi để lại ăn trong vài ngày, chúng tôi cho lên bếp xấy khô. Số còn lại Hợp đem ướp trong các thùng đạn đại liên để ăn dần.
Chẳng biết ma sui, quỷ khiến thế nào lại đến tai ông Vũ Văn Kết-(Quê Nam Ðịnh) Chính trị viên trưởng tiểu đoàn. Nghe chừng để lại không có lọt, đại đội cử hai người gánh thịt lên biếu tiểu đoàn bộ.
- Tiểu đoàn bộ không ăn thịt này- Ông Kết môi đã thâm vì sốt rét nay lại càng như xám hơn.- Ðại đội 7 gánh ngay lên cho anh em thương bệnh binh của ta đang điều trị tại bệnh xá trung đoàn!

Ðấy cũng là bài học về đạo đức tác phong, lối sống lành mạnh liêm khiết vì tập thể mà chúng tôi nhận được từ người chính trị viên liêm khiết và rất nghiêm khắc này.
Vào trung tuần tháng 7- 1973. Chúng tôi đang chùm áo mưa làm cỏ lúa trên nương thì nhận lệnh quay về chuẩn bị súng đạn xuất kích: Nguyễn Văn Thiệu trắng trợn phá hoại hiệp định về ngừng bắn, đưa quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Lợi dụng mùa mưa, chúng tung quân đánh chiếm hậu cứ của trung đoàn 95-Khu vực Ngô Thanh-Tà Rộp ven thị xã Kon Tum.
Ðó là một chiến dịch đầy khó khăn gian khổ, đầy hy sinh mất mát và cũng là bản anh hùng ca của các anh hùng, liệt sỹ, những người cán bộ và chiến sỹ của trung đoàn 66 chúng tôi.
Sau gần hai tháng, trung đoàn 95 vừa đánh địch vừa di chuyển hậu cứ. Trung đoàn 66 dùng hai tiểu đoàn -(K8 và K9 cùng các đại đội phối thuộc) chiến đấu với 3 trung đoàn nguỵ quân Sài Gòn (53 - 44 - 45 ) có xe tăng và máy bay yểm trợ tối đa trong điều kiện xa hậu cứ và đang vào mùa mưa dữ dội. Lúc xuất kích quân số đại đội tôi có gần 60 người .Khi trở về hậu cứ, chúng tôi còn lại 10 người kể cả anh nuôi văn thư và quản lý đại đội. Anh Lan chính trị viên tử trận, anh Choáng và đại phó Chung bị thương, đại phó Thấu lãn binh nhận án kỷ luật.
Sau khi rút về hậu cứ, chúng tôi thiếu cán bộ nghiêm trọng. Trong thời gian chờ cán bộ tăng cường, mấy anh em tự quản, chia nhau vào các lán gần nhà đại đội bộ nghỉ ngơi cho ấm cúng. Thế rồi mấy chiến sỹ sốt rét và bị thương nhẹ cũng lục tục quay về đại đội.
Cuối mùa mưa, con suối trước nhà đã cạn đi nhiều và có vẻ trong hơn. Hàng chiều, chúng tôi cứ tồng ngồng cởi trần từ trong nhà chạy ra nhảy ùm xuống vũng nước trước cửa đại đội tắm giặt. Có hôm hứng trí kẻ cầm súng, người sách túi cơm cứ tồng ngồng đi dọc theo suối bắn cá. ở cái vùng này đi cả ngày đường cũng chẳng gặp một người dân nào, may ra chỉ có lính với lính mà thôi.
Một hôm Hợp rủ tôi đi săn. Hai thằng hai khẩu súng đi ngược con suối lớn rồi rẽ sang con suối bên trái vào chân dãy Chư Mom Ray.

Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #28 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 03:08:40 pm »

Con suối vòng vèo mang đầy vẻ hoang sơ bí hiểm. Hai bên bờ, chuối rừng mọc chen trong cánh rừng nhiệt đới với những cây cổ thụ già cóc cáy, những dây leo to bằng bắp đùi vằn vèo quấn vào nhau ẩn hiện dưới tán cây trông như một con trăn đang rình mồi. Cánh rừng im lìm, huyền bí vi vút gió ngàn và văng vẳng tiếng vượn hú gọi bầy. Hợp kể: -Năm ngoái ở hậu cứ Chư hinh, có những hoang rừng mà hầu như chỉ có lính mới đặt chân tới. Từng đàn vượn tranh nhau ăn quả - Ðoàng một phát, một con lộn cổ xuống, những con khác vội vàng vít lá che vào đit rồi nhòm xuống đất. Cứ như thế có hôm một đàn mà bắn được ba bốn con rồi lũ vượn mới ù té chạy. Có đoạn suối khi lội xuống, nước trong vắt nhìn rõ cả bàn chân, hàng đàn cá tung tăng bơi đến lượn quanh chân của lính., nếu có một sải lưới thì thao hồ mà ăn cá.

Bỗng Hợp bấm tay tôi, có một đàn lợn rừng vừa từ dưới suối đi lên, Hợp ra hiệu cho tôi dừng lại và lom khom tiền nhập tới gần. Hai loạt điểm xạ, đàn lợn chạy phá lên rừng, lại một loạt đạn nữa bắn ngược đỉnh đồi, chẳng thấy con nào kêu eng éc cả. Chúng tôi tìm qua quýt rồi bỏ đi:
-Mẹ nó, rõ ràng mình thấy hai con đứng xo le nhau trong bãi lá dong này, chắc mẻm trượt con này thì dính con kia thế mà lại hỏng ăn cả, xui xẻo quá!
Ðến một vũng nước có một ụ đá ở giữa dòng, nghiêng ngó một lát, Hợp bảo: Dừng lại thôi! Thế rồi hai thằng đặt súng, ôm đá to cả bằng chiếc mũ quăng xuống suối. Cởi quần áo và lao xuống, Hợp bảo:
- Ông lấy đá chèn hết các cửa hang bên ấy, để lại một hang thò tay vào mà bắt!
Tôi làm theo, hàng đàn cá cựa lục cục trong hang, một tay bắt cá quăng lên bờ còn tay kia giữ chặt hang đá. Thế rồi cá vào sâu bên trong, tôi thò chân vào hang, khi thấy cá bò theo chân ra đến đùi là chộp lấy. Chúng tôi tay không mà bắt được gần một yến cá rồi vội vàng kéo nhau ra về. Ngày hôm sau lại đi bắt cá, Hợp vẫn cay cú ghé qua bãi lá dong, thấy bó lạt của ai bỏ lại, tôi bảo:
- Hôm qua không thấy bó nạt này, có khi con lợn bị bắn chết, có thằng nào tìm thấy hớt tay trên bọn mình rồi cũng nên!
Lúc ghé qua tiểu đoang bộ, thấy Lê -Y tá tiểu đoàn quê (Hạ Hoà-Phú Thọ) cười:
- Hôm qua biết hai lão đi săn thì mời luôn về tiểu đoàn bộ ăn bữa lòng sốt có phải vui không!
Thế có cú không cơ chứ!

Thời gian sau, anh Tẩm ra viện về phụ trách đại đội. Trung đoàn điều anh Nguyễn Văn Mão-Quê (ở Thanh Oai-Hà Tây) làm chính trị viên trưởng. Tôi hỏi thăm Khoản, anh Tẩm bảo: Khoản bị cứng khớp gối đang chờ làm thủ tục ra bắc, không quay lại đây nữa đâu!
Một lần Hợp bảo chúng tôi tập trung tát vũng nước trước nhà, tôi lắc đầu: Suối sâu, đá lởm chởm thế kia lấy gì đắp bờ giữ nước mà tát cá?. Hợp nói: Không biết thì cứ làm đi rồi người ta bảo!
Thế là chúng tôi, kẻ bê đá, người khai luồng, Hợp như nhạc trưởng đứng chỉ huy, Xong xuôi, anh ta hô người dỡ tấm nứa lợp mái chuồng lợn xuống, xếp chắn dòng chảy về vũng nước, lấy mấy chiếc tăng ni non đặt lên thế là nước chảy sang dòng bên ngon lành.

Biết chắc không bao giờ tát suối lại cạn hết nước, anh ta lên rừng tha về một ôm vỏ cây và bảo chúng tôi đập ra, ruốc cá. Vũng nước tự nhiên chuyển màu vàng như nghệ, các chàng cá nhà ta thi nhau thò cổ lên ngáp. Kinh nghiệm ở rừng thì chúng tôi chịu thua cái lão Hợp này thật !
Cuối năm, tiết trời se lạnh, sương muối bay mờ mờ đỉnh núi phía xa. Chiều về hoặc tang tảng sáng, nghe dông đồi phía xa kia, từng đàn vượn hú gọi nhau đến nao lòng.

Một buổi sáng, Lý Sài Quẩy dậy sách nước nấu cơm hớt hải chạy về: Xung quanh nhà mình có Hổ!
Chúng tôi chạy ra, vết chân Hổ to bằng miệng bát B52 in bên bờ suối. Từ ngày bé đến giờ tôi mới nhìn thấy vết chân hổ, kể cũng đáng sợ thật.
Sáng hôm sau lại thấy vết chân con Hổ hôm qua lượn cạnh bếp anh nuôi, có lẽ nó phát hiện ra đàn lợn đại đội nuôi trong chuồng nên rình mò để bắt. Anh Tẩm lệnh cho bộ đội đóng cọc chắc chắn bên ngoài chuồng lợn chống Hổ. Trong cuộc giao ban thông baó cho bộ đội: Ði ra ngoài phải có từ hai đến ba người và mang theo súng!
Thế là huyền thoại chúa sơn lâm được người ta thêu dệt đủ loại, ly kỳ nhất vẫn là câu chuyện của Viện ( Hà Giang ) kể: Hồi chưa nhập ngũ, Hổ vào nông trường bắt mất một con ngựa giống, Bảo vệ nông trường toé loe đi tìm và thấy Ngựa đã bị Hổ ăn hết gần một nửa. Cái giống ăn thịt này bao giờ cũng không quyên miếng mồi cũ và thế là nông trường nhờ đơn vị biên phòng đóng quân bên cạnh phục kích bắn Hổ. Ði săn thú dữ không phải ai cũng dấm đi, cả đơn vị chỉ có một chiến sỹ người Cao bằng nhận lời và nhờ tôi đi cùng.
Chúng tôi hai người hai khẩu AK, hai đèn soi thật sáng, leo lên một cây cao có ba trạc cạnh con Ngựa ngồi rình. Ðể thật yên tâm, chúng tôi dùng dây buộc chặt người mình vào cành cây cho chắc ăn.
Ðêm mùa đông, sương muối lạnh giá, tôi đang khật khưỡng, lơ mơ thì thấy có mùi vừa khét lại vừa thum thủm. Bật đèn nhìn xuống, thấy như có ai đang cầm đóm hút thuốc bên dưới gốc cây. Quái lạ, tôi véo vào đùi đau điếng, không phải mình ngủ mê. Nhìn kỹ thì ra một con Hổ vằn vèo, chân trước đang đặt lên đầu con Ngựa, nhắm một bên mắt, ngiêng đầu nhìn lên ngọn cây. Mắt Hổ bắt đèn màu đỏ, không phải màu xanh như các loài thú khác. Lông my vừa cứng lại vừa dài, chớp chớp một bên như tàn lửa đang rơi xuống. Tôi run lên, cùng như một lúc, chiến sỹ bên cạnh cũng vừa nhận ra con Hổ, không ai bảo ai, hai người đồng loạt nảy cò.
Con Hổ chồm lên một đoạn rồi lăn vào một bụi cây, người tôi lạnh buốt, răng khua vào nhau lập cập, cứ thế chúmg tôi ngồi ôm nhau trên cây mong cho trời mau sáng.

Con Hổ rúc vào trong bụi, thò đuôi ra ngoài. Chờ cho sáng thật rõ mặt người, chúng tôi bắn thêm mấy phát nữa cho chắc chắn thế rồi mới dám cởi dây tụt xuống đất.
Hình tượng chúa sơn lâm đối với chúng tôi lại càng đáng sợ.
Thời gian này, đại đội nhận thêm một đợt tân binh quê ở Vĩnh phúc, hầu hết từ Vĩnh tường trở xuống. Có một chiến sỹ tên là Xuân, người béo trắng, nghe đâu hồi nhỏ bị chó dại cắn chữa chạy thuốc nam đã tạm ổn định. Nhập ngũ đi trên đường dây lại bị sốt rét ác tính, nay chuyển sang như người tâm thần. Rát thích khen đẹp trai, ai bảo hò là hò, bảo hát là hát ngay. Anh ta thích nhất bài hát Nổi lửa lên em -Các cụp cum- Bụm môi làm nhạc thay cho cối gĩa. Cứ thấy mặt anh ta là Sang lại bảo: Làm bài cắc cụp cum đi!

Có một tân binh đến tìm tôi, anh ta là tiểu đội trưởng khung huấn luyện, ở lại chiến trường và được biên chế vào khẩu đội cối.
-Anh ở Tứ Xã phải không? Năm 1972 em về nhận quân ở quê anh rồi đấy!
Anh ta tự giới thiệu tên là Phạm Hồng Quân- (Quê Phú Lộc-Phù Ninh-PT).Trong chiến trường, gặp người cùng tỉnh đã là thấy quý lắm rồi,Quân và tôi lại cùng một huyện, tự nhiên chúng tôi thấy thân nhau hơn. Có câu chuyện gì Quân đều cho tôi biết kể cả mối tình đầu đã ăn dạm với Liên, người con gái cùng xóm.

Cách đây mấy tháng, trung đoàn gửi lợn giống cho các đơn vị nuôi để chuẩn bị cho ngày 22 Tháng 12 và tết âm lịch 1974.
Không hiểu con lợn của chúng tôi đi tư tỏi kiểu gì lại chửa chềnh ềnh ra đấy, thế là ngày 22 - 12 - 1973 - Ngày tết quân đội -Chúng tôi đành phải nuôi cho nó đẻ để lấy giống. Ngày lễ trông chờ vào nguồn thực phẩm của trên cấp và một phần vào rừng tự túc. Năm ấy, chúng tôi tổ chức khá rôm rả: Gạo nếp nương đem sôi và nấu các loại bánh, đường, sữa cho vào nấu kẹo vừng, kẹo lạc. Ban ngày cho các trung đội thi kéo co, đêm về tổ chức văn thơ, hái hoa dân chủ...
Sáng hôm sau anh nuôi báo mất con lợn nái. Nhìn xung quanh không thấy có vết máu hoặc vết chân Hổ. Anh Ðường và Hợp chia nhau đi tìm.
Ðến một bụi gianh trên dông đồi sau nhà, thấy có tiếng lợn mẹ hộc lên và tiếng lợn con kêu eng éc. Tưởng rằng Hợp đang dồn đàn lợn về, vừa lẹp kẹp đôi guốc mộc, vai khoắc khẩu súng AK, nhòm vào bụi gianh, Ðường hỏi:
- Thế nào? Nó đẻ mấy con hả ông?!
Con Hổ to lớn ngồi chồm hỗm trong bụi gianh, đang nhai lợn con, mồm và máu be bét. Lợn mẹ bị vuốt Hổ móc lòi hai mắt đang cuồng lên hộc văng mạng sang hai bên. Không còn hồn vía nào nữa, Ðường chạy tháo lui, tay kéo cò, súng khoắc trên vai cứ nổ tằng tằng theo từng bước chân, đôi guốc văng đi đâu mất, miệng líu lên: Hổ-Hổ-Hổ Hổ!
Tôi nhảy tót vào nhà vớ lấy khẩu AK, đại đội nháo nhào như chuẩn bị đánh nhau với biệt kích. Hợp ở đâu chạy về cùng Viện và mấy chiến sỹ cắp súng lò dò tiến lên đồi như mò vào cửa mở.
Con Hổ chạy mất, để lại lợn mẹ mù hai mắt và một lợn con bị Hổ ăn mất một nửa.
Vuốt Hổ sâu lút ngón tay, chúng tôi dồn về và giao cho Ninh, y tá - Kiêm thêm chức thú y đại đội. Lợn mẹ và đàn lợn con được ưu tiên chăm sóc đặc biệt. Sau này cả đàn lợn đều trưởng thành và đã hy sinh theo đúng nghĩa của nó.
Một buổi tối, Sang đi họp về bảo Thu-Văn thư đại đội:
- Quân lực tiểu đoàn điện cho ông lên ngay nộp bảng tổng hợp quân số hiện có, trang bị hiện nay như thế nào! Lại chuẩn bị xuất kích hay sao ấy!
- Biết rồi, nhưng sao lại phải đi ngay bây giờ?
- Chắc là rất cần thiết nên quân lực mới yêu cầu ngay lập tức! Ông thử điện thoại lên xem!
Thu vội vàng chạy lên đại đội bộ. Vừa ra khỏi nhà, Sang nói với tôi:
- Tý nữa thằng Thu về, Tôi thì nâng cao quan điểm nhiệm vụ chiến đấu, còn ông cứ tán Hổ mạnh vào nhá! Nó sắp kết nạp Ðảng, để lần này thử thách nó luôn!
Thu về mặt méo xệch:
- Không biết có cái gì nghiêm trọng mà các lão ấy bắt lên đêm hôm như thế này!..
- Biết đâu lại xuất kích ngay như đợt Ngô thanh!? súng đạn mà không đủ thì toi, mình lại là quân lực!..
Tôi biết Thu trùng trình là sợ con Hổ trong rừng gianh vẫn loanh quanh bên suối.
- Thế nhưng sương lạnh thế này, Hổ là hay đi rình mồi lắm!
- Ư đúng rồi!Lôi thôi là toi mạng với nó chứ chẳng bỡn!
- Nhưng nhiệm vụ chiến đấu không thể bỏ qua được! Rất cần thì tiểu đoàn mới gọi!
- Nhưng mà đi qua bãi gianh tối như thế này cũng nguy hiểm lắm! Hổ lại hay rình mồi cạnh đường mòn!
Thu đi ra rồi lại đi vào, một phần đi, hai phần không.

Sang bồi thêm:
- Mà hình như ông đợt này kết nạp Ðảng hay sao ấy! Không hoàn thành nhiệm vụ là chúng tôi cũng khó nói lắm!
Ðến nước ấy Thu đành quyết định sắn quần lên đường. Trước khi ra khỏi nhà, hắn dặn:
-Thôi, sống hay mái cũng phải đi. Nhưng thế này nhá: Tôi lên khỏi suối sẽ bắn ba phát, đến đầu bản làm ba nhát nữa, chạy đến giữa bản cũng như vậy và ra khỏi bản là ba phát kết thúc! Còn nếu tôi kéo liên thanh hàng tràng dài là các ông phải ra cứu đấy!
Hắn lùi lũi cắp súng qua suối, chúng tôi ôm nhau bảo: này chuẩn bị đoàng!
Ðúng như hợp đồng, Thu bắn đủ bốn loạt loạt đạn, sau đó không gian trở lại yên lặng. Sáng sớm hôm sau thu mệt mỏi quay về:
- Các bố ấy lại bảo-Tối quá thì mai lên cũng được, làm mình sợ gần chết!
Gần đến tết Nguyên đán, đại đội cho Hợp và Quẩy đem theo áo quần, tăng võng lên cắm chốt trên sườn núi Chư-Mom -Ray săn bắn thú rừng. Ðược bao nhiêu xấy khô, đầy hai gùi thì quay về để chuẩn bị tết! Chúng tôi ở nhà người thì giã bột, người chuẩn bị lá bánh, xảy vừng, chọn Lạc để nấu kẹo.

Ðúng Ngày 27 tết, đại đội đang họp tổng kết thi đua năm 1973, Thu lên tiểu đoàn đón tân binh bổ xung cho đại đội. Bỗng ào một cái, máy bay địch lướt qua, tiếng bom rít qua đầu và một loạt tiếng nổ rung hội trường.
Chúng tôi được lệnh sơ tán và chuẩn bị xuất kích.
Tiểu đoàn điện về đại đội:
- Bom đánh trúng tiểu đoan bộ! Ðường dây điện thoại bị đứt, quân y tiểu đoàn bị thương gần hết! Cho anh Hậu lên ngay tiểu đoàn và mang theo thuốc cấp cứu!
Tôi cầm thuốc đi lên ngay tiểu đoàn, qua bãi gianh đã thấy một đoàn cáng thương đi ra, tôi hỏi:
- Thương binh có nhiều không hả đồng chí? Thằng Thu C7 có sao không?!
- Thu bị thương đang cáng đàng sau ấy!
Tôi giữ đoàn cáng Thu lại, hắn bị thương vào chân và mông, không gãy cụt đâu cả. Thế là may lắm rồi. Tôi động viên hắn mấy câu, đoàn cáng thương cũng vội vàng đưa thương binh về phẫu.
Ðến tiểu đoàn bộ, bom đánh sập nhà hội trường tiểu đoàn, mái tranh bị cháy dập lửa chưa hết vẫn còn bốc khói. Hầm quân y quả bom nổ ngay bên cạnh, lật bay ụ đất đắp nóc hầm, đứng trên mặt đất nhìn xuống nền hầm rõ mồn một. Anh Ðào và y tá Lê bị sức ép, máu mồm và máu tai chảy ra nhưng vẫn đang quyết tâm cứu chữa thương binh.

Ðoàn tân binh mới bổ xung về đến tiểu đoàn bộ, quân lực đang phân cho các đại đội thì bị bom oanh kích. Một số hy sinh và bị thương, có vài tân binh đang rửa chân hy sinh ở ven suối. Trung đội thông tin nằm phía bên kia suối, tiểu đội trưởng Khắc hy sinh ngay trên bếp khi đang tráng bánh.
Ðó là bài học về công tác phòng gian, bảo mật, an toàn khói lửa nơi đóng quân. Chỉ cần chủ quan, sơ sảy một tý là đổi bằng xương và máu của bộ đội.
Liệt sỹ được chôn cất trên dông đồi sau trung đội thông tin. Ngay tối hôm ấy, con Hổ mò đến bới tung ngôi mộ của Khắc, may mà ở hậu cứ, liệt sỹ được an táng rất sâu nên nó bới không tới.
Năm ấy chúng tôi ăn tết tuy đầy đủ về vật chất và tinh thần nhưng vẫn có một nỗi buồn thật khó tả.

Nhớ câu thơ của Xuân Quỳnh
Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #29 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 03:54:27 pm »

Có bao nhiêu mẹ liệt sỹ như thế

Mẹ già lắm rồi. Không biết bao nhiêu lần ông mặt trời soi qua khe cửa. Bao nhiêu buổi hoàng hôn tím ngắt để rồi mẹ ngồi bên bậu cửa, ngóng đứa con trai của mẹ trở về.
Tôi và Phùng Văn Kế cùng nhập ngũ tháng 12 - 1970. Kế ở Thuỵ Vân -Việt Trì-Phú Thọ. Cùng vào chiến trường, cùng học lớp Y tá tại bệnh xá của trung đoàn 66- F10-QÐ3 mặt trận Tây Nguyên.
Tháng 10 -972 chúng tôi theo đội phẫu tiền phương phục vụ chiến dịch giải phóng cứ điểm PLây Cần (Bến Hét).Tháng 11 - 1972 lại phục vụ chiến dịch Ðak Xiêng. Ðêm hôm ấy hai đứa cùng đội phẫu lạc vào trận địa DKZ của ta và bị B52 vùi xuýt chết.
Cuối năm 1972 tôi được điều về làm Ytá của đơn vị bộ binh, còn Kế về đơn vị pháo 12 ly7.
Tháng 1 - 1973 đơn vị tôi đánh chiếm điểm cao 601( cách Kon Tum khoảng 8Km về phía bắc). Ðại đội 7 cùng khẩu đội 12.7 ở lại giữ chốt. Hàng ngày đội bom, đội pháo đánh lui hàng chục đợt phản công của bộ binh Nguỵ.
Ðể giảm bớt quân số trên cao điểm, giảm thương vong và mở rộng tầm bao quát chi viện cho chúng tôi đánh bộ binh và bắn máy bay của địch. Kế cùng khẩu đội chuyển ra ngoài hàng rào đào hầm.
Hôm ấy khoảng hơn 3 giờ chiều. Bom im, pháo địch vừa ngừng bắn. Bỗng có tiếng nổ làm rung chuyển cả điểm chốt. Tôi chui ra khỏi hầm, một cột khói đen xì bao trùm phía ngoài hàng rào, cây cối, đất đá bay tơi tả. Có ai đấy nói vội vàng: Bom nổ chậm rồi!..
Phía khẩu đội 12.7 thấy bộ đội chạy xô đến vị trí vừa nổ, không biết có ai việc gì không. Tôi đang phân vân thì điện thoại của đơn vị Kế gọi Ytá bộ binh sang ứng cứu.
Tôi sách túi cứu thương cùng mấy chiến sỹ len qua hàng rào kẽm gai chạy sang. Trước mặt tôi cảnh vật thật thê thảm: Khói đen nát bét cây cỏ xung quanh, người ta đang nhặt những mảng còn sót lại của liệt sỹ. Một thương binh máu đỏ lòm đầy mặt chỉ còn hai con mắt chớp chớp.
Tôi được biết: Ðào gần xong công sự chiến đấu, Kế cùng một chiến sỹ liên lạc vào rừng chặt gỗ về làm hầm.Người đại đội phó ở nhà sửa sang và hoàn thiện nốt công việc còn lại.Kế vác bó gỗ về, vừa nặng lại vừa mệt, Kế lao bó gỗ xuống cạnh hầm không ngờ trúng luôn quả mìm chống tăng của địch còn sót lại. Cả người và bó gỗ bay lên trời.
Người đại đội phó đang lom khom xúc đất dưới hầm, mảnh mìn cắt ngang qua mặt, sống mũi bị chia làm hai, môi trên xệ xuống không nhìn thấy mồm đâu cả, máu phì phì tuôn ra từ cái miệng vết thương toang hoác ấy.
ở trong trường, chúng tôi được học cách sử lý các vết thương phức tạp như: Vết thương đứt động mạch cổ, vết thương sọ não, vết thương ổ bụng. Ðứng trước người thương binh này tôi thật lúng túng. Băng bó, cầm máu làm sao đây, sống mũ gồ ghề, nếu băng thật chặt thì thương binh thở bằng cách nào trong khi mồm và mũi đều tịt cả. Máu cũng có thể chảy ngược trong khoang mũi và tràn vào trong phổi. Dù sao cũng phải băng vết thương lại. Trước tiên tôi tiêm cho anh hai ống thuốc cầm máu.
Người đại đội phó ấy ra hiệu cho tôi dừng tay. Anh cúi xuống, nhổ cục máu đông trong miệng, hai tay đẩy hai cánh mũi lên cho miệng hở ra, máu chảy qua lỗ mũi thành dòng.Anh nói:
-Lần này có thể tôi phải nằm viện rất là lâu. Ngày mai là ngày chuyển Ðảng chính thức của tôi, các đồng chí ở lại làm thủ tục cho tôi được chuyển Ðảng đúng hạn định. Còn thằng Kế, các đồng chí cố gắng tìm kiếm, thu gom và an táng cho nó chu đáo. Nói xong anh để cho tôi băng bó. Tôi cuốn một lượt băng dưới lỗ mũi, vắt qua hai bên tai, kéo ngược về sau gáy cho miệng vết thương liền lại và mồm rộng ra để thở, sau đó đặt gạc ngang qua mặt và băng thật chặt. Tôi bảo:
- Anh cứ cúi xuống cố gắng thở bằng miệng. đừng nằm ngửa máu dễ tràn vào phổ lắm đấy.! Sau đó người ta dìu anh về đội phẫu tiền phương. Từ ngày ấy đến nay tôi cũng không rõ người đại phó ấy quê quán ở đâu và số phận sau này ra sao nữa.

Sau chiến tranh, những người lính còn sót lại họ tìm đến nhau mừng mừng, tủi tủi. Cho dù cuộc sống còn nhiều vất vả gian nan nhưng họ thật tự hào cho quãng đời đầy oanh liệt của mình.
Tìm đến các gia đình liệt sỹ. Trước gương mặt dăn deo khắc khổ và dòng nước mắt của mẹ, chúng tôi như những đứa trẻ đầy tội lỗi: Con của mẹ đâu? Tại sao nó không cùng về? Nó nằm ở chỗ nào? Sao con không quay lại cứu nó cho mẹ?! Không một câu ca thán, không một lời trách thốt nhưng chúng tôi giống như một kẻ hèn nhát, bỏ đồng đội để chạy thoát thân một mình.
Chính vì vậy mà sau hơn 20 năm tôi mới tìm đến gia đình liệt sỹ Phùng Văn Kế.
Hỏi thăm loanh quanh thì có một cháu gái dẫn đến tận nơi. Ngôi nhà lá hai gian nhỏ bé vách đố cửa phên vắng lặng. Nghe tin có đồng đội của liệt sỹ đến thăm, bà con lối xóm, anh em họ mạc cận kề chạy đến. Người ta bảo nhau đi tìm mẹ về.
Bố Kế mất sớm, một mình mẹ tần tảo nuôi ba đưa con ăn học.Trên Kế là anh trai, . sau Kế là cô em út. Chiến tranh kết thúc, cả anh và em đều yên bề gia thất nhưng mẹ không ở cùng với ai cả. Một mình mẹ với căn nhà lá đơn sơ như ngày nào Kế đi nhập ngũ.
Người ta dìu mẹ về. Một cụ già gầy gò chừng 80 tuổi, mẹ nhận ra gương mặt lạ hoắc của tôi giữa đàn con cháu quen thuộc của mình. Một ánh mắt ngời sáng chợt loé lên rồi vụt tắt: Nó không phải là thằng Kế! Mẹ lầm lũi bước lên thềm.
Ngôi nhà lá hai gian một trái, phía bên kê chiếc giường tre của mẹ, gian giữa kê bộ bàn ghế cũng bằng tre cũ kỹ, dọ dẹo. Bên kia, một bàn thờ khói hương nghi ngút ở đó có tấm ảnh liệt sỹ phóng to bằng sơn mài.
Kế ở đó trẻ trung và tươi tắn như ngày nhập ngũ. Tôi chợt nhận ra rằng: Ðối với mẹ, Kế không bao giờ chết, nó vẫn ngây thơ như ngày nào và rất cần bàn tay chăm sóc của mẹ. Ðã xa lắm rồi, lâu lắm rồi nó không về thăm mẹ nhưng rồi nó xẽ trở về và ôm chầm lấy me, nó nhận ra hơi ấm của người mẹ đã dưỡng dục và sinh thành ra nó. Chiều chiều khi đặt nồi cơm lên bếp mẹ lại ngóng ra đường, mẹ cứ chờ, cứ đợi trong hoài niệm, chập chờn nhận ra bóng thằng Kế chạy về.

Chính vì thế mẹ cứ một mình ở trong ngôi nhà xưa ấy không cho ai sửa chữa lại. Mẹ sợ khi thằng Kế trở về nó xẽ không nhận ra ngôi nhà, mảnh sân và con đường thân thuộc của mình. Nếu như nó thật sự không bao giờ trở lại thì hàng đêm hình ảnh nó vẫn còn bên mẹ, ở trong ngôi nhà ấy và mẹ con sưởi ấm cho nhau.
Tôi xin phép gia đình thắp cho liệt sỹ nén hương, mẹ nhìn tôi lặng đi trong nước mắt. Khi mùi hương lan toả đôi vai gầy của mẹ run lên, những tiếng nấc sót xa và thương con sâu thẳm.
Tôi lúng túng khi thấy người ta đặt mẹ nằm xuống giường và thay nhau xoa lên ngực cho mẹ. Người anh trai của Kế bảo: Năm nào cúng giỗ cho chú ấy mẹ đều nấc lên như vậy đấy! Thôi chú sang bên nhà uống nước.

Thế đấy! Ngày xưa chúng tôi ra đi tuổi xuân phơi phới có bao giờ hiểu thấu nỗi lòng người mẹ mong nhớ những đứa con của mình sống trong lửa đạn như thế nào. Chúng tôi từng giờ, từng phút đối mặt với cái chết và cũng sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc. Người ở nhà, một nỗi chờ đợi mỏi mòn dai dẳng và sợ hãi đến nhường nào.
Tôi gặp mẹ của liệt sỹ Nguyễn Ðức Kiến xã Tiên Kiên ,Lâm Thao,PT có một con liệt sỹ. Gặp mẹ Hà Thị Ðào Xã Tứ Xã -Lâm Thao,PT có hai con liệt sỹ hy sinh cùng một tháng. Ðời sống của các mẹ và gia đình chính sách còn nhiều khó khăn lắm. Nhưng các mẹ dành dụm, chắt chiu từng đồng tiền trợ cấp ít ỏi năm này sang năm khác để mong tìm thấy các con và đón chúng nó trở về.

Các mẹ liệt sỹ đều vào cái tuổi xưa nay hiếm, trái chuối chín cây không biết ngày nào rung. Con của mẹ ở đâu? Cuộc đời còn lại của mẹ chỉ mong ước một điều: Tìm thấy nó và đưa nó trở về với mẹ. Một việc tưởng như giản đơn thế mà có khi không bao giờ thực hiện được. Con của mẹ đang ở một vùng nào xa xôi lắm, cũng có đồng, có ruộng, có những người đồng đội bên cạnh, cũng có những người mẹ yêu thương như chính con đẻ của mình. Các con đã hoà vào non sông đất nước, là hìmh tượng mà dân tộc ta thờ phụng.
Lâm Thao ngày 05-12-2007
Hoàng Kim Hậu
Logged

Trang: « 1 2 3   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM