Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 02:43:30 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những người lính trung đoàn - Họ chiến đấu như thế  (Đọc 46106 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #10 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:25:33 pm »


Vài hôm nữa Viện trở về đơn vị, chúng tôi liên hoan, chia tay nhau bằng cách: Hai thằng đi ra nương lấy rau tàu bay và hái nấm. Một bãi rẫy của dân cách không xa bệnh viện là bao, những cây cổ thụ bị đốn gục bằng dao quắm, có cây dài đến vài chục mét. ở đó mục nhĩ (Nấm mèo) mọc chi chít từ gốc đến ngọn. Ðất tơi xốp, ẩm mục cho các loại rau đua nhau mọc, ngọn tàu bay mập to như ngón tay người. Ðầy hai gùi, chúng tôi hăm hở về lán.
 - Chị Liên đâu? Cho anh Nếnh mượn chiếc ấm đun nước!
 - Âm để làm chi zậy! Hổng có nước thì tôi lấy cho, việc gì phải đun!?
 - Nước của các bà chưa sôi..
 - Sao lại chưa sôi..
 - Thì cứ đưa ấm lại đây, mặc xác chúng tôi!
Cho rau tàu bay vào ấm- Luộc! Vớt ra đưa vào cái chậu nhựa thường lấy cơm, đút vào chăn hai người ngồi trên giường, chùm lên - Lại luộc! Hết rau tàu bay đến mục nhĩ, có ai đấy bảo: Thôi chết rồi, bà Liên đến!

Chị Liên vào lán, bà này biết chắc chúng tôi có cái gì đấy, lúng ta lúng túng, khói lại tự nhiên từ trong chăn ông Nếnh bay ra.
 - Kìa, nước sôi rồi kìa!
 - Cứ để cho nó chín kỹ..Thế chị Liên hôm nay không phải làm gì à!
 - Hông!

Bà ta ngồi xuống cạnh bếp, chả lẽ để cho rau chín nhừ thành cao! Tôi đành nói thật và nhờ chị xin thêm ít muối.
- Biết rồi! Làm kheo khéo nghe - Hổng bà bác sỹ biết là mệt cho tụi tôi lắm !

Gần 3 tháng nằm viện, có quân lực trung đoàn đến đón về đơn vị.Tôi được ra viện. Hôm chia tay, thấy chị Liên rơm rớm nước mắt :
- Anh Hậu đi may mắn và mạnh giỏi nghe!
Kết thúc những ngày điều trị vết thương ở bệnh viện tỉnh đội Kon Tum.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #11 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:27:40 pm »


Trở về Trung đoàn


Chúng tôi có hơn 10 người cùng đơn vị được ra viện. Nói của đáng tội: Toàn quân sứt sẹo cả, kẻ băng đầu, người băng tay bước thấp bước cao khập khiễng ngang quân thất trận.
Tôi nhìn bên ngoài còn lành lặn hơn cả: Các vết thương đều ở kín trong người, sau hai tháng nằm viện lại trắng trẻo, béo ra như tân binh.Thế nhưng đi khoảng vài tiếng đồng hồ, lên thác, xuống khe, cơ bắp vận động, hai chân bắt đầu trở trứng: Vết thương mảnh còn ngập sâu trong đùi sưng tấy lên, cơ đùi co giật tê buốt. Hai vết thương xuyên mặt trong hai đùi mới lên da non cọ sát vào quần tấy đỏ như phải bỏng. Gần trưa, cái nắng càng oi nồng, mồ hôi túa ra sót như tra muối, vừa đi, vừa nghỉ.

Ðến một khe nước chảy ven đường, có ai đó cắm một ống nứa đón mạch nước từ trên vách đá, nước chảy tong tỏng, mát lạnh. Chúng tôi dừng lại ăn cơm trưa. Xung quanh rừng cây um tùm, gió từ dưới thung lũng ào qua mát lạnh. Ðứng trên bờ khe nhìn xuôi con suối, xa tít tắp chỉ thấy núi rừng xanh biếc, nhấp nhô như vô tận.Tỉnh lỵ kiểu gì mà trập trùng ngang trường sơn, không biết bao giờ mới đến đồng bằng đây.
Nghe người sỹ quan quân lực nói:
- Nếu đi nhanh thì hơn một ngày là đến thị trấn Tân cảnh. Còn dọ dẹo như chúng tôi cầm chắc hai ngày mới ra đến cầu Ðak Mót. Từ đấy đi về toàn đường nhựa và đường đá, địa hình trống trải, máy bay rà sát suốt ngày, nếu ra đấy vào buổi chiều mà hành quân đêm là hay nhất.

Tôi cởi phăng quần dài cho đỡ vướng, dùng hai cuộn băng bó chặt vết thương bên đùi cho khỏi rát, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Khoảng hơn một tiếng, có một con đường cắt ngang, một thanh nứa người ta vạt nhọn đầu kẹp vào thân cây ven đường ở đó kẻ chữ : K 4A. Chúng tôi rẽ vào. Ði khoảng 20 phút thì đến kho gạo, mỗi người nhận 6Kg rồi tấp tả quay ra. Ơ đây rừng có vẻ bằng phẳng hơn, phía xa không thấy núi chắn trước mặt, nghe nói cũng xắp ra đến bờ sông Pô Cô rồi, chúng tôi dừng lại nấu cơm. Mắc võng tòng teng ven suối chẳng hầm hố gì cả, xa xa có tiếng máy bay vọng lại, hình như vẫn đang đánh nhau ở ven thị xã Kon Tum.

Sáng hôm sau lại cơm nắm lên đường, thỉnh thoảng đã thấy có mấy đơn vị chuyển quân qua, một vài đoàn đi về kho lấy gạo, không gặp ai quen mà hỏi thăm cả. Qúa trưa ra đến bờ sông, đại đội công binh đang bắc cầu treo qua sông. Bốn sợi cáp đã được kéo căng từ gốc cây bờ bên này sang lùm cây bờ bên kia, tán cây xoè ra hai bên sông không đủ che kín cho đoạn cáp ở giữa dòng.Tôi nghĩ bụng: Thế này khi cầu làm xong thì nguỵ trang kiểu gì để che mắt thằng VO10 được đây. Qua sông bằng một mảng nứa kéo tay, có ai đấy bảo:
-  Trên bờ chú ý thằng VO10 đấy, có gì thì gọi to lên!

Ðến bờ, chúng tôi đi một đoạn rồi ra đường 18, cả đoàn nghỉ lại ăn cơm trưa.
Con đường giải nhựa đã bong vẩy, đá lởm chởm, chỉ cách đây có vài tháng thôi, nó là mạch máu giao thông huyết mạch của địch ầm ầm xe tải và xe nhà binh, hôm nay vắng lặng phơi mình dưới nắng. Phía đông, một khoảng trời rộng mở, những sườn đồi thoai thoải bám theo con lộ, thấp thoáng đã thấy những bản làng nhà tôn sáng lấp loá ẩn hiện trong vườn cây ăn quả.Gió từ phía đông mên man bò theo sườn dốc rồi ào xuống thung lũng mát lạnh. Ðã lâu lắm rồi chúng tôi mới được phóng tầm mắt xa đến như vậy, một vùng giải phóng rộng lớn mà biết bao nhiêu đồng chí của tôi đã ngã xuống mới giành lại được. Mỗi người vác một cành cây trên vai, vừa che nắng vừa nguỵ trang. Chúng tôi hàng một bám theo ven đường hành quân. Ðang quen leo đèo, lội suối nay đi toàn đường bằng thấy gan bàn chân như căng ra, bắp chân mỏi dừ thế mới lạ. Sau lưng chúng tôi là căn cứ PLâyCần lọt giữa vùng giải phóng. Hình như nó cũng biết thân phận cá nằm trên thớt của mình nên không dám quăng pháo vô tội vạ như trước nữa, con đường tiếp tế cho chúng chỉ còn dựa vào hàng không mà thôi.

Có tiếng VO10 bay đến, chúng tôi tạt vào ven đường. Chiếc máy bay nghiêng ngó dọc bờ sông rồi bay về phía quận lỵ. Ðến một bản ven đường cách Ðak tô 2 (Sân bay Phượng Hoàng) không xa, chiếc VO10 quay lại, nó chổng mông bắn đạn khói, hai chiếc A37 từ đâu ào đến quăng bom xuống bãi gỗ cạnh sân bay. Khói cuồn cuộn bốc lên, những thân cây bị bom văng quay mấy vòng trên trời, đất đá tung lên mù mịt. Chúng tôi chui vào một ngôi nhà sơn toàn màu đỏ( Sau này đặt tên là Bản đỏ) đứng xem máy bay địch hùng hổ thừa bom đạn. Có đơn vị nào ở đấy mà chúng nó đánh dữ thế không biết, thôi tốt nhất là dừng lại nấu cơm, tối đến hành quân đêm cho mát.

Ban đêm trời mùa mưa mây bảng lảng, thỉnh thoảng còn sót lại vài ngôi sao trôi vật vờ rồi chìm vào khoảng đen sâu thẳm. Gió lành lạnh thổi ngược đường, phía thị trấn Tân cảnh tối mịt mùng không thấy ánh điện đâu cả. Qua bãi gỗ, đất đá văng ra khắp đường, mùi khét của khói bom, mùi gỗ mục xen lẫn mùi cao su cháy dở nhắc người ta trở về với hiện hữu: Chiến tranh đã ở ngay trước mặt. Dọc đường 18 quang tinh trập trùng, chỗ đen, chỗ trắng, hai bên đường trống trơ không thấy có cây cối nào cả. Qua căn cứ 42- Chỉ huy sở của sư đoàn 22 nguỵ-Tôi nhận ra nó giống y như xa bàn cát đã học. Hướng cửa mở của K8 là đây: Vượt qua bãi lầy, đào hầm sát chân đường, tiền nhập qua mặt đường 18, giáp tà luy là hàng rào đầu tiên của căn cứ.

Lớp hàng rào bùng nhùng bị phá bung ra thành lối vào cửa mở. Phía trong kia, hàng lô cốt đầu cầu bị đánh xụp thành những đống đen sì, thảm hại. Giáp cửa mở một tháp nước đổ ụp, nằm chông chênh, hai cột bị bẻ cong xuống và hai cột còn lại như hai bàn tay của chúa chọc lên trời. Không biết bao nhiêu đồng đội của tôi hy sinh trên cửa mở này, nghe nói C6 đánh qua cửa mở là bị thương và hy sinh gần hết. Anh Hậu đại đội trưởng cùng hai chiến sỹ hy sinh trong cùng một hố pháo dưới chân tháp nước kia. Tôi nhìn lướt qua, rồi đi xuôi theo con dốc, qua cầu cùng đoàn người tiến vào thị trấn Tân Cảnh.

Ðêm hôm ấy, chúng tôi ghé vào một ngôi nhà không chủ nghỉ tạm. Sáng hôm sau, đi tham quan một vòng thị trấn, một vài pho tượng Ðức Bà bị bắn vỡ đầu. Phía ngoài thị trấn, một qủa bom ném trúng mặt đường 14, hơi nổ cày lên từng mảng bê tông nhựa to bằng tấm phản, mảnh bom cào sước mặt đường thành những vệt loang lổ. Quá trưa thầy trò lục tục chui vào rừng đi về trung đoàn bộ.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #12 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:31:15 pm »


Trung đoàn nằm trong một cánh rừng phía sau thị trấn Tân Cảnh. Sau giải phóng, địch cay cú đổ quân, tung biệt kích thám báo hô hào tái chiếm Ðak Tô-Tân Cảnh. Chỉ cần nghi ngờ cánh rừng nào là bom dội xuống, B52 trà đi sát lại như muốn huỷ diệt toàn bộ những gì còn sót lại trong rừng. Bởi thế ở đây hầm hố đã được sửa sang lại, hầm thùng đào sâu xuống đất, phía trên lợp bằng cỏ gianh hoặc máng vầu, bên cạnh là một cửa thông vào hầm chữ A chắc chắn.

Thấy đoàn thu dung vạ vật trước hầm quân lực chờ phân bổ về các đơn vị. Một người dáng gầy còm đến hỏi tôi:
- Này, mới ở bệnh viện về à! Cậu quê ở đâu!
- Em ở Lâm Thao, Phú Thọ.
- Thế tớ cũng ở Lâm Thao - Ơ Tiên Kiên đây! Vào chỗ tớ uống nước đã!

Tôi khoác ba lô theo anh vào một căn hầm cách đấy khoản 10 m. Qua câu chuyện tôi biết anh vào chiến trường từ năm 67, hiện nay là y sỹ của trung đoàn bộ, anh bảo tôi:
- Trung đoàn chuẩn bị mở một lớp y tá tại C 21 quân y. Theo anh, trắng trẻo đẹp trai như cậu cứ theo học ở trên này một thời gian, ra trường có gì anh xin ở lại trung đoàn hoặc làm y tá các tiểu đoàn cũng đỡ ác liệt hơn, nếu nhất trí anh báo quân lực rồi ở đây luôn với anh!

Nghe anh nói tiểu đoàn 8 nhất là C6 thương vong gần hết, sau đánh Tân Cảnh, Kỳ được phong lên làm tiểu đội trưởng, đánh quân biệt kích đổ bộ xuống Ðak Tô, Kỳ dẫn đầu tiểu đội bám địch không may bị mìn hy sinh gần hết tiểu đội. Số lính cũ hầu như không còn người nào, bây giờ về đơn vị chỉ toàn là quân mới bổ xung mà thôi!
Thấy thế, tôi đã nản lòng và nghe anh ở lại trung đoàn bộ.

Những ngày ở trung đoàn chờ quân số các đơn vị gửi lên, tôi quay về thăm tiểu đoàn 8.
Ðơn vị đóng quân phía ngoài vị trí tập kết cũ, trong một cánh rừng sơ sác vì B52. Gặp lại mấy sỹ quan quân lực và sỹ quan hậu cần, tôi hỏi về trận Ðak tô - Tân cảnh. Anh ta kể:
- Sau khi tôi bị thương, địch tiếp tục đổ quân và nống ra ven thị trấn hòng phát hiện lực lượng chủ lực của ta và chiếm lĩnh các cao điểm. Các đơn vị phải tổ chức đánh vét chúng xuống để lấy vị trí tập kết cho pháo binh chiếm lĩnh trận địa.

15 giờ ngày 21-4-72 mở màn chiến dịch giải phóng Ðak Tô - Tân Cảnh. Pháo binh và tên lửa B72 của ta khai hoả bắn phá chỉ huy sở sư đoàn 22 và các căn cứ xung quanh Tân Cảnh.
Ðêm 23 - 4 - 1972 một tổ thông tin gồm: đ/c Ðệ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn thông tin, đ/c Bản, đại đội phó đại đội 16 cùng Phùng Văn Tích chiến sỹ thông tin PRC 25 và 4 trinh sát cắt rừng ra ven quận lỵ ÐakTô đón xe tăng của ta. Ðoàn người đi trong ánh đèn dù của máy bay C130 và pháo sáng từ căn cứ địch bắn lên. họ phải tránh các đồn bốt của địch chốt ven đường, áp sát đường 14 chờ xe tăng của ta. Ban đêm cờ giải phóng cắm trên xe rất khó nhận diện, sợ nhầm phải xe tăng địch. Theo hợp đồng: xe tăng của ta nòng pháo được buộc thêm một bó nứa. Khoảng gần 21 giờ có 9 chiếc xe từ phía ngầm Pô Cô hạ đi lên. Mấy điểm chốt của địch ven quận lỵ bắn ra như vãi đạn. Biết chắc là xe tăng của ta, họ leo lên đường 14 chạy bộ đuổi theo. Hình như đại đội thiết giáp nhận hợp đồng có quân ta đón ở khu vực này, họ phát hiện có người đuổi theo và dừng lại. Hai bên gặp nhau và nhận lệnh:
- Từ giờ phút này đại đội thiết giáp gặp bất kỳ ổ đề kháng nào của địch đều có quyền tiêu diệt. Cứ theo trục đường 14 này, 03 giờ sáng ngày 24 - 04 - 1972 phải vào đến thị trấn Tân Cảnh kết hợp cùng K9 và các đơn vị phối thuộc giải phóng thị trấn, sau đó một bộ phận theo hướng cửa mở K7, số còn lại theo cửa mở K8 đánh chiếm sư đoàn 22 nguỵ và tiếp cận đánh Ðak Tô2 và sân bay Phượng Hoàng.

04 giờ sáng ngày 24- 4 -1972 xe tăng của ta cùng K9 giải phóng thị trấn Tân Cảnh.
Phía cửa mở K8, do tiểu đoàn trưởng Bùi Thanh Hiêm chỉ huy cho bộ đội tiền nhập áp sát đường 18 từ 21 giờ tối ngày 23- 04. Bộ phận dò gỡ mìn, cắt rào, gá bộc phá đã hoàn tất trước 5 giờ sáng. Ðúng 05 giờ 10 phút ngày 24 - 04 - 1972 pháo binh ta trút bão lửa xuống căn cứ 42 - Chỉ huy sở sư đoàn 22 nguỵ.

Mìn phá rào đồng loạt nổ, cửa mở được khai thông, xe tăng cùng bộ đội ào ạt tiến vào cửa mở. Ðịch điên cuồng phản kích, pháo ta, đạn địch mù mịt, bộ đội theo sát xe tăng tiến công. Ðịch cho xe tăng M48 cùng bộ binh ra bịt cửa mở, nhiều chiến sỹ K8 đã hy sinh. Chiếc xe tăng đi đầu nòng pháo vướng vào hàng rào bùng nhùng phải lùi lại, đạn địch bắn ra như mưa, nhiều chiến sỹ nằm sát xe tăng không quan sát bị xe tăng chèn phải, có người chui từ gầm xe tăng chui ra. Tiểu đoàn trưởng Bùi Thanh Hiêm và đại đội trưởng Hậu cầm súng ngắn chạy lên , chạy xuống đôn đốc bộ đội nhanh chóng chiếm lĩnh cửa mở.Có chiến sỹ ôm bộc phá 5 Kg đánh lô cốt đầu cầu và hy sinh trong tư thế oanh liệt: Người và bộc phá áp sát lô cốt, tay cầm điểm hoả, anh dựa vào tường thành, những bao cát tung ra phủ lên đầu, lên cổ.

Không ai lường được trên tháp nước có một trung đội địch chiếm giữ, ÐKZ, súng phóng lựu và đại liên bắn ra như mưa. Ðại đội trưởng Hậu cùng một chiến sỹ B40, một chiến sỹ AK tiến đến chân tháp nước thì hy sinh trong cùng một hố pháo. Xe tăng địch phản kích đều bị tên lửa B72 của ta tiêu diệt, khi phát hiện trên tháp nước có địch, xe tăng ngóc nòng pháo bắn hai quả đạn xuyên thủng, nước trên tháp chảy ồ ồ xuống đất. Ðến khi tên lửa B72 bắn trúng, tháp nước đổ gục, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt, bộ đội ta ào ạt tiến vào cửa mở.
Ðại đội 6 sau khi chiếm lĩnh được khu vực đầu cầu chỉ còn lại không đầy 10 tay súng. Luận ( Bảo Thanh-Phù Ninh) hy sinh trong lô cốt đầu cầu, một số bộ đội bị thương tự bò ra hoặc được vận tải cáng ra ngoài. Ðại đội 5 và đại đội 7 chia làm hai gọng kìm đánh thọc vào khu trung tâm. Ðịch điên cuồng ném bom và bắn pháo bừa bãi xuống cửa mở.

Phía cửa mở K7 càng ác liệt, đến giờ hợp đồng tác chiến, xe tăng của ta chưa vào đến cửa mở. Lệnh nổ súng, bộc phá điểm hoả mở cửa không hết, còn một hàng rào trong cùng. Tiểu đoàn trưởng Phạm Văn Vượng lệnh cho bộ đội ôm bộc phá đánh công kiên. Xe tăng và đại liên trong lô cốt của địch quét dọc cửa mở, bộ đội chưa ôm bộc phá đến nơi đã thương vong, tình thế vô cùng căng thẳng.

Tiểu đoàn trưởng Phạm Văn Vượng xin trung đoàn chi viện hoả lực tiêu diệt xe tăng địch và khu vực lô cốt đầu cầu. Anh xông xáo cùng bộ đội đặc công đoàn 37 đánh cường tập, phá hàng rào, thông cửa mở và đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Ðược hai xe tăng ta kịp thời chi viện, trung đội trưởng đại đội 2 Ðỗ Văn Sử (Việt Trì-Phú Thọ) cùng tiểu đoàn trưởng Vượng ( Lúc đó đã bị thương) chia làm hai mũi dẫn bộ đội đánh chiếm khu trung tâm, bắt liên lạc với K8 và các đơn vị bạn trong căn cứ.

11 giờ trưa ngày 24 tháng 04 năm 1972 lá cờ giải phóng đã tung bay trên căn cứ 42- Chỉ huy sở Sư đoàn 22 nguỵ. Ðại tá Lê Ðức Ðạt - Sư đoàn trưởng và cố vấn Mỹ bị tiêu diệt. Sư đoàn phó Vi Văn Bình cùng toàn bộ 429 sỹ quan, binh lính bị bắt làm tù binh.
Trong chiến dịch Ðăk Tô - Tân Cảnh, trung đoàn bổ sung thêm quân số( Ðoàn Hoà Bình, Vĩnh Phú, Hoàng Liên Sơn). Sau chiến thắng, ta củng cố lại lực lượng, bao vây và giải phóng nốt cứ điểm PlâyCần. Nhưng do không nắm chắc địa hình và lực lượng của địch trong cụm cứ điểm này. Phía ta có tư tưởng tự mãn, chủ quan khinh địch nên trận Plây Cần bị thất bại, tổn thất rất lớn. Ðó là bài học đắt giá mà trung đoàn phải rút kinh nghiệm. Trong trận này: Nguyễn Văn Tịnh, nhập ngũ một ngày với tôi; Bường và Ngôn cùng quê (Ðoàn Vĩnh Phú mới bổ sung) đã hy sinh tại đây.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #13 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:35:37 pm »


Lớp y tá trung đoàn
Tặng cán bộ học viên bệnh xá trung đoàn 66, Sư đoàn 10, QÐ 3.


Lớp y tá gồm 25 người được gửi từ các đơn vị trong trung đoàn lên. Lớp học khai trương bên cánh rừng thưa cạnh một con suối khá dốc, phía trên chúng tôi là nơi ở của nhân viên, bên kia là khu điều trị thương bệnh binh trong bệnh xá.
Chúng tôi chia ra 4 người ở trong một nhà hầm lợp bằng máng vầu, hai người một giường, ở giữa là chiếc bàn uống nước. Bên này tôi và Giáp còn giường bên kia là Kế với Hà (Cùng nhập ngũ cùng quê Lâm Thao). Ðêm đầu tiên trong căn nhà mới không có gì để liên hoan, chúng tôi ra cạnh rừng bẻ vội mấy ngọn măng về ca cóng. Cũng định nấu đến sáng mai lấy cơm về ăn thêm. Nhưng khi nồi măng vừa chín, cái đói cồn cào, người này nếm thử, kẻ kia ăn theo, nồi măng vừa đắng vừa he mà nhoàng một cái đã hết sạch.
Lớp học lợp bằng phên nứa, bàn ghế là những chiếc cột chôn xuống đất, ghế buộc bằng thân vầu bổ đôi. Còn bàn thì tuỳ theo học viên tự tìm kiếm : Người mảnh gỗ, kẻ kiếm được mặt bàn lấy từ ngoài thị trấn đem về, kê lên nhìn đến là hay.

Y sỹ Trịnh Minh Tước- quê ở (Thanh Sơn- PT) được phân làm chủ nhiệm lớp, lúc ấy anh khoảng 23 tuổi. Ðó là một anh chàng, hay khôi hài, nắm chắc nghiệp vụ và rất có năng khiếu sư phạm. Thân hình to béo nên chúng tôi vẫn bảo: Ông này mà bị thương thì chắc nằm lại sau cùng, thằng nào cũng tranh nhau chọn thương binh bé nhất để cáng! Anh Tước cười: Bởi thế cho nên tao không bao giờ bị thương cả! Thời gian này, lớp y tá học cả sáng và chiều. Một hôm tôi bảo anh Dao- y sỹ-giáo viên dạy khoa ngoại:
- Ðại đội em chúng nó chôn rất nhiều hộp trong hầm, có đứa bị thương không quay lại lấy được, hai anh em đi về đấy tìm đi!

Nghỉ trưa, chúng tôi cầm súng sách gùi cắt rừng về khu vực tập kết của K8. Qua những khu rừng bị bom đánh cây đổ ngả nghiêng, những hố bom cỏ đang lên xanh mơn mởn, lần đến hầm của đại đội tôi ở.
Lúi húi bới tìm, gần chục hầm mới thấy 4-5 hộp, toát cả mồ hôi, chúng tôi ngán ngẩm quay ra.
Ðến một cánh rừng, qua khoảng trống thấy một chá Sơn Dương (To bằng bê con) đang ung dung gặm cỏ. Anh Dao vội đưa súng lên bóp cò. Con hoãng nhảy dựng lên rồi lồm nhồm lao vào rừng để lại những vệt máu loang lổ. Tiếc quá, tý nữa thì được bữa thịt cho đội phẫu ngon lành!
Ngoài những giờ lên lớp, cứ mỗi tháng chúng tôi phải từ hai đến ba lần đi qua thị trấn Tân Cảnh, về cầu Ðăk Mót lấy gạo. Một phần cho chúng tôi và nhân viên trong bệnh xá, một phần phục vụ các bệnh nhân đang điều trị.

Sau thất bại Ðak Tô Tân Cảnh, địch co cụm củng cố và tăng cường các vị trí phòng thủ nhất là ven thị xã Kon Tum. Phía ta, đang giữa mùa mưa, mọi hoạt động tiến công tạm dừng lại. Các đơn vị ổn định tổ chức, học tập chính trị, bổ xung quân số và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng. Ðường hành lang từ hậu cứ ra phía trước đã được thông thoáng, gạo đạn và các nhu yếu phẩm cho bộ đội tương đối đầy đủ. Chúng tôi không bị đói như đầu năm 1972, có hôm đi lấy gạo, mỗi hầm để lại cả bao gạo để nấu dần mà cũng không ai buồn ca cóng.

Một đêm trời mưa rất to, con suối sau nhà nước chảy như thác, ngày mai đi lấy gạo rồi, thấy trời mưa, ai cũng ngán. Bỗng có con gì nhảy lạch tạch trên giường, tôi vùng dậy:
- Giáp kìa! Rắn rết- rắn rết!
Chúng tôi vùng dậy lấy đèn soi thì không phải, một con giun gần bằng ngón tay, đỏ quạch dãy dụa trên giường. Mẹ kiếp, giun lại muốn ngủ cùng với người! Ngày mai đi lấy gạo có điềm gở gì đây!

Sáng hôm sau chúng tôi khoác gùi đi lấy gạo. Qua thị trấn Tân Cảnh đi về phía cầu treo Ðak Mót. Chiếc cầu bắc nối giữa hai lùm cây, đoạn giữa được nguỵ trang bằng cây song đã khô lá. Sàn cầu lát bằng các thanh gỗ với bốn sợi cáp rất chắc chắn.
Ðến kho gạo chúng tôi nghỉ ăn cơm trưa. Ðầu tôi cứ láng máng hình ảnh con giun đất từ mái nhà rơi xuống giường đêm hôm qua. Ăn xong, đóng gạo vào bao, chúng tôi lục tục quay về.

Ðến gần cầu treo, có tiếng OV10 bay dọc bờ sông, nó vòng đi, vòng lại. Thế rồi máy bay lao xuống kèm theo tiếng ụt ụt như động cơ bị tắc, một loạt tiếng nổ chát chúa ngoài bờ sông, lại một loạt tên lửa nữa bắn xuống. Cầu treo bị lộ rồi! OV10 dến thế nào cũng bị bom, chúng tôi được lệnh sơ tán vào khe suối.
Thế mới mệt đây! tối nay có vượt được sông hay không? Cầu hỏng thì đi bằng cách nào? chỉ tại con giun đất, mày hại chúng tao quá!

Khoảng gần tối máy bay cút, chúng tôi mò ra bờ sông.
Ra đến đường xe thồ, thấy bộ đội cáng nhau ngược chiều, máu vẫn còn loang trên võng:
- Nó đánh chỗ nào đấy hả đồng chí? Mình bị thương có nhiều không?
- Nó đánh vào hai đầu cầu! Ðứt cầu treo rồi!

Người cáng thương vừa đi vừa trả lời cho xong việc. Bây giờ làm thế nào đây, ra bờ sông hay chốt lại. Ðàng nào cũng không ổn, ở lại thì ăn bằng gì, ngủ ở đâu trời mùa mưa thế này tăng võng không mang theo. Cuối cùng chúng tôi quyết định cứ ra bờ sông rồi tính sau.

Tối một lúc thì ra đến bờ sông, hai đầu cầu cây cối nghiêng ngả, mùi khét của thuốc bom còn chưa tan hết, có mấy chiến sỹ công binh cầm súng đứng ở ven cầu.
- Này đồng chí ơi, chúng tôi xê 21 quân y, sang sông bằng cách nào hả đồng chí!?
- Không có thuyền đâu, các ông phải chờ đến ngày mai xem thế nào!

Chúng tôi ngồi bệt xuống đất thở rốc, xui xẻo quá, kiểu này ở đây đến nhịn đói, ngồi làm mồi cho muỗi và dĩn, biết đâu đêm nay B52 mò đến sơi tái cả lũ cũng nên. Nếu gùi gạo quay lại khu vực an toàn thì có mà sáng.
Cầu treo bị bắn đứt hai sợi cáp cùng một bên, sàn gỗ buông xuống một đầu vẫn bám vào sợi cáp, hai đầu cầu vẫn hở trên mặt nước còn đoạn giữa chìm sâu xuống lòng sông.
Có một đoàn cán bộ từ bên kia đi sang, họ bám tay vào sợi cáp trên, còn chân thì đi lên sợi cáp dưới, ở giữa sông nước ngập ngang đùi:
- Cứ sang đi, không việc gì đâu! Chết nó có số rồi!

Thấy vậy một đoàn vận tải đi gùi hàng hăm hở lên cầu. Có ai đấy bảo:
- C21 đâu, chuẩn bị sang sông!
Người ta đi được thì mình cũng đi được, chúng tôi sắn quần, khoắc gùi trên vai có vẻ quyết tâm lắm.
Nhìn sợi cáp to gần bằng cổ tay vít chắc chắn vào gốc cây, tôi cũng yên bụng. Kìa ông này, lên đi! Chú ý đi thưa ra! Từ từ thôi!
Chúng tôi lần lượt lên cầu, ở đầu bên này, cáp bị nước kéo căng nên có vẻ chắc chắn. Ðến khi ra đến giữa dòng, cáp chìm sâu xuống nước, những thanh gỗ sàn cầu vẫn bám vào sợi cáp lại bị lực nước cản, cứ đu đưa như đánh võng. Cáp trùng xuống mà sợi trên thấy như cao thêm, nước ngập đến quá đùi, sơ sảy một tý là trượt chân rơi xuống dòng nước xoáy. Thế rồi chúng tôi cũng lần lượt sang sông, ướt hết quần áo. Thôi thế là may lắm rồi, đi ra ngoài đường nhựa rồi hãy nghỉ, khẩn trương lên!

Vừa đói, vừa mệt, mò mẫm đến gần sáng chúng tôi mới về đến đội phẫu, người như muốn lả đi.
Sau ba tháng học lý thuyết, chúng tôi chuyển sang vừa học vừa thực hành. Phân theo ca trực cùng y, bác sỹ, tiêm và thay băng cho thương binh, kiến tập các ca phẫu thuật nhỏ trong bệnh xá.
Có một bệnh nhân của K9 tên là Hồng. Một sinh viên đại học bách khoa năm thứ tư thì nhập ngũ. Anh ta đã bị sốt rét ác tính, sốt đi sốt lại nhiều lần và trở thành tâm thần phân liệt. Theo lời của người cáng bệnh nhân đến thì thời gian nằm viện của anh ta nhiều hơn thời gian ở đơn vị. Người ta sẵn sàng quy cho là bệnh tư tưởng và không thiếu điều ong, tiếng ve. Bởi thế bệnh tình ngày một nặng thêm. Nhìn anh ta có lúc như kẻ mất hồn, lúc tỉnh táo lại có vẻ rất thông minh, với hai con mắt mở to, cằm hơi nhọn và cái trán vừa rộng, vừa hói. Chúng tôi được lệnh giám sát anh ta với một câu chuyện: Một bệnh nhân tâm thần phân liệt ở một đội phẫu nọ, khi thấy bộ đội cáng thương binh vào bệnh xá vô tình để súng ở ngoài cửa lán. Anh này cầm súng và bắn luôn vào đầu tự sát. Ây thế là còn may đấy, ví thử anh ta cầm súng mà lia luôn cả băng vào tất cả thương binh đang điều trị trong bệnh xá thì cái gì xẽ sảy ra đây!?. Bởi thế ca nào cũng phải áp sát người bệnh nhân tâm thần phân liệt này.

Một đêm chúng tôi đang ngủ thì có lệnh báo động mất bệnh nhân Hồng. Tất cả y bác sỹ đến học viên toả đi các hướng tìm kiếm, tang tảng sáng thì thấy anh ta ngồi lù lù cạnh một thác nước rất sâu sau đội phẫu. Chúng tôi bảo nhau: Hay là cũng định tự tử!? Xét về mặt tâm lý : Một người đang ốm đau, bệnh tật mà lời động viên quan tâm của đơn vị thì thiếu, trong khi đó câu trì triết chụp mũ lại qúa là thừa. Một chiến sỹ có hiểu biết, có trình độ lại phải chịu dưới sự chỉ huy, quản thúc của một người cán bộ thiếu năng lực chẳng hạn thì khó có sự đồng cảm. Thường thì những người như thế lại rất hay máy móc, nguyên tắc và bài bản dở hơi.

Trong bệnh xá, còn có một chiến sỹ công vụ cho ông Dần, Trung đoàn phó, Chiến sỹ này tôi không nhớ tên, quê ở Thái Bình. Thường thì lính công vụ đều nhanh nhẹn tháo vát và đẹp trai. Viên đạn xuyên qua làm gãy xương hàm phải và trái, đứt đôi lưỡi, khuôn mặt méo đi không thể nhận ra gương mặt khả ái ngày xưa nữa. Anh ta kể trong ngọng ngựu, tiếng được, tiếng mất, có câu phải luận mãi mới ra: Vừa giải phóng xong, tôi và mấy trinh sát cùng thủ trưởng Dần ra ngay thị trấn Tân Cảnh. Chưa đi đến hết bìa rừng thì gặp một toán tàn binh nguỵ. Chúng sả súng bắn rồi bỏ chạy vào rừng. Thủ trưởng Dần ngã xuống, tôi thấy mặt mình biêng một bên và tê đi, máu trong mồm chảy tràn ra, nhổ mãi không hết. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ một điều: Chạy ngay về đội phẫu! Thế là tôi chạy quay lại, về gần đến đây thì ngã xuống không biết gì nữa! Nghe đâu trung đoàn phó Dần đã hy sinh, còn người công vụ này chờ vết thương ổn định rồi chuyển ra bắc. Không biết số phận người chiến sỹ ấy hiện nay ra sao!

Tháng 10 Năm 1972 chúng tôi theo đội phẫu tiền phương đi phục vụ chiến dịch PLâyCần đợt hai. Rút kinh nghiệm trận đánh trước, lần này toàn trung đoàn ra quân với khí thế quyết chiến quyết thắng, tập trung nhân vật lực và vũ khí hiện đại hiện có, tiêu diệt bằng được cụm cứ điểm này. Nơi tiểu đoàn 95 biệt động biên phòng nguỵ được Nguyễn Văn Thiệu gắn huân trương bội tinh và tuyên dương ( Anh hùng cao nguyên trấn) chiếm giữ.

Lệnh khai hoả! pháo binh tên lửa, tầm xa tầm gần, đồng loạt nhả đạn. Pháo bắn hai ngày hai đêm, lũ nguỵ long óc, một số hoảng loạn liều mạng vượt rào, đứa này bị mìn chết đứa kia leo lên lưng nhảy qua kẽm gai chạy ra rừng.

10 giờ sáng Ngày 12 Tháng 10 Năm 1972 ba mũi tiến công của K7, K8, K9 và tiểu đoàn 37 đặc công cùng các đơn vị phối thuộc đồng loạt tiến công vào cứ điểm. Ðịch ngoan cố chống cự trong hoảng loạn. Sau 5 giờ chiến đấu ác liệt, ta làm chủ hoàn toàn trận địa.Tiêu diệt 404 tên, bắt sống 40 tên, bắn rơi 6 máy bay các loại, thu hồi toàn bộ phương tiện chiến tranh và kho tàng của địch. Thế là Bến Hét-Cụm cứ điểm PlayCần -Tiểu đoàn 95 biệt động biên phòng của nguỵ quyền Sài Gòn- Bị xoá sổ.( Lịch sử sư đoàn 10 � Ðại tá lê Hải Triều- NXB QÐND).

Cuối Tháng 10 đầu Tháng 11 Năm 1972 chúng tôi lại theo đội phẫu đi phục vụ chiến dịch Ðak Xiêng.
Sau trận Ðak Xiêng này, lớp y tá quay về bệnh xá trung đoàn tổ chức thi tốt nghiệp. Hầu hết học viên đều nắm chắc lý thuyết, thực tế đã cùng đội phẫu qua các trận đánh, đủ kinh ngiệm về chuyên môn nghiệp vụ để trở về đơn vị chiến đấu.
Tôi được điều về làm y tá tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66. Lại một trang mới gay go và ác lệt phía trước.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #14 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:40:35 pm »

Chống lấn chiếm trên bản Ðak - rơ - cót,  Kon tum
Tặng cán bộ chiến sỹ tiểu đoàn 8 bộ binh - Trung đoàn 66 - Sư đoàn 10 - QÐ 3.


Tháng 12 Năm 1972 hội nghị Pa - Ri về Việt Nam bế tắc, Mỹ đơn phương chấm dứt đàm phán, đưa máy bay chiến lược B52 đánh phá Hà Nội- Hải Phòng và một số tỉnh phía bắc, hòng chiếm ưu thế trên bàn hội nghị.
Hàng ngày nhìn những tốp B52 hùng hổ bay ra phía bắc, chúng tôi thấy tim mình như nghẹn lại, lo thay cho hậu phương lớn. ở đây là một vùng rừng núi bao la, B52 giải thảm chắc gì đã huỷ diệt được những người lính như chúng tôi đã từng chung sống và quen với bom và đạn Mỹ. Nếu B52 mà ném bom xuống Hà Nội , Hải Phòng, xuống nhà trường, bệnh viện và làng quê bình yên của miền bắc thì sự huỷ diệt của nó tàn bạo đến như thế nào đây.

Nhìn lên trời, hàng tốp B52 không cần máy bay tiêm kích hộ tống, đen xẫm phun khói ngạo mạn bay ra miền bắc. Thế nhưng rồi chiều hoặc sáng hôm sau lại thấy một hoặc hai chiếc lầm lũi như kẻ cắp bị đòn lủi thủi bay về phía Thái Lan. Qua bản tin thời sự của Ðài tiếng nói Việt Nam, quân và dân Miền Bắc anh hùng đã bẻ gãy cuộc tập kích chiến lược của địch, bắn rơi 81 máy bay trong đó có 34 chiếc B52. Con bài ngáo ộp cuối cùng của Mỹ bị thất bại buộc chúng phải ngồi vào bàn thương lượng tại hội nghị Pa Ri về chấm dứt chiến tranh Việt nam.
Tiểu đoàn bộ nằm sau thị trấn Tân Cảnh trong một cánh rừng loang lổ vết bom. Quân y tiểu đoàn có 3 người, Nguyễn Kiến Ðào -Y sỹ bệnh viện Yên Bái nhập ngũ theo đoàn Hoàng Liên Sơn vào chiến trường cuối năm 1971 (Hiện nay là viện phó BVÐK Yên Bái). Ðó là một y sỹ còn rất trẻ, cao ráo, đẹp trai, rất quyết đoán trong mọi công việc. Anh Tuấn y tá, quê ở Hà Tây- Có cái đầu to, tóc quăn luôn chải bồng về phía sau nên trông lại càng to, tiểu đoàn quen gọi lóng là (Tuấn cán gáo), Người thứ ba là tôi- Hoàng Kim Hâu y tá mới vừa ra trường.

Về tiểu đoàn bộ được một tuần thì đài kỹ thuật của ta báo về: Toạ độ Y+2 vĩ tuyến bắc và N-1 vĩ tuyến nam khẩn trương sơ tán. Trong khi chưa kịp di chuyển đơn vị. Bắt buộc từ nay tất cả phải nằm trong hầm chữ A, không ai được nằm hầm thùng!

Toạ độ đó đúng vị trí đóng quân của tiểu đoàn 8 chúng tôi. Có lẽ lũ biệt kích cắt rừng phát hiện ra vị trí đóng quân của ta, chúng điện về xin B52 đánh bom. Bộ phận đài thông tin kỹ thuật của sư đoàn bắt được.
Tôi dọn lại hầm chữ A, thế nhưng lâu không ai vào, nó vừa hôi, vừa mốc. Anh Ðào bảo: Thôi, cứ mắc võng trong hầm thùng, có gì chui vào đó sau cũng được!
Khoảng 1 giờ sáng ngày hôm ấy, tôi chỉ thấy ba bên bốn bề sáng quắc lên, đất đá ào ào phủ lên lán hầm, tiếng huỳnh huỵch xung quanh, tai ù đặc, võng lắc như ngồi trên thuyền vượt thác. Tuấn kêu to: B52 rồi! Thế là ba người cùng một lúc lao vào cửa hầm chữ A.
Một quả bom nổ rất gần hất bay mái lán, ba lô, thuốc thang để trên giá cũng bay đâu mất. Cây cối, đất đá phủ đầy hầm, xung quanh quang tinh để tơ hơ ba ông quân y cùng chen nhau vào cửa hầm mà không ai vào được. Chiếc chăn dù hoa một đầu quấn vào chân tôi và một đầu vẫn loài thoài trên võng.
Hết ba loạt bom, tim đập thình thịch, chúng tôi sờ soạng tìm ba lô và túi thuốc. Anh Ðào bảo:
- Chú ý nghe xem có hầm nào kêu cứu hay không.? Mẹ nó, may mà còn ôm theo túi thuốc cấp cứu - Ðèn pin của ông Tuấn đâu? đèn của tôi bay bố nó đâu mất rồi!

Ðầu tháng 1 Năm 1973 hội nghị Pa Ri về chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã được ký sơ bộ. Ðể đáp ứng công tác chính trị trong điều kiện mới và bảo vệ vững chắc vùng giải phóng- Chúng tôi nhận lệnh hành quân.
Cắt về phía đông, qua dãy núi Ngọc-Bầu-Biêng, những cánh rừng hoang sơ cây cổ thụ cao 4-5 chục mét đã bị chất độc màu da cam huỷ diệt. Những thân cây cao lêu đêu, trơ trụi lá, cành cây khẳng khiu như cánh tay quỷ giơ cao lên trời. Vượt trên triền núi, gió từ phía đông thổi rất mạnh làm cho cây và cành khô gãy răng rắc. Có ngày vượt qua một khu rừng cháy đen, trơ trụi lá, đất tơi xốp bốc bụi mù mịt. Lệnh trên hàng quân truyền xuống: Bộ đội dùng nước trong bi đông thấm ướt khăn mặt thay cho khẩu trang! Khẩn trương vận động qua bãi chất độc hoá học! Không ai được dừng lại!

Qua mấy ngày hành quân, chúng tôi đã tập kết cạnh chân cao điểm 601- Ven đường 14 phía bắc thị xã Kon Tum khoảng 8Km. Ðại đội 7 và một khẩu đội 12 ly7 của C14 thay cho đơn vị bạn chốt giữ cao điểm 601. Tiểu đoàn bộ nằm trong bãi nương bỏ hoang của dân, lúp xúp cây cộng sản mọc thưa thớt.
Hết bom lại pháo, trên cao điểm không lúc nào tan khói. Thằng địch đang cố đẩy ta ra khỏi chốt, tận dụng hết uy lực của bom đạn Mỹ trước khi hiệp định Pa Ri được ký kết.
Từ tiểu đoàn bộ nhìn lên, khói bom bao trùm cao điểm, cứ nghe hàng loạt tiếng đề pa của pháo là từng cột khói dựng lên trên chốt như đang xem phim thời sự vậy. Hết pháo, bộ binh địch mò lên, tiếng AK đồng loạt điểm xạ, B40 ùng oàng chớp lửa. Ðịch bỏ chạy, bom và pháo lại trùm lên cao điểm. Người lính hàng ngày kiên gan đọ sức cùng bom đạn Mỹ như thế, chắc gì mày đã đánh đáo trúng hầm của bọ? Nếu trúng thì bọ hy sinh còn không cứ cho quân chúng mày lên đi!

Một buổi chiều, có chiếc trinh sát L19 bay đến, nghiêng ngó dọc khe suối cạnh tiểu đoàn bộ. Hai chiếc AÐ6 từ Kon tum bay lên, đạn khói được phóng xuống thượng nguồn con suối, thế là hai chiếc máy bay cứ thế bổ nhào ném bom. Có lẽ địch nghi ta trú quân dọc theo khe suối, chỗ nào có cây xanh là chúng huỷ diệt. Rất may đến quả bom thứ 12 địch choang đúng bụi le cạnh bềp anh nuôi và hầm quân y tiểu đoàn. Quả bom rơi cách chúng tôi khoảng 6 m, hơi bom làm sập một góc hầm quân y, bụi bay mù mịt. Nồi quân dụng cơm đã chín để ngập trong bếp Hoàng Cầm bị hơi bom lật úp, bật ra ngoài. Tiểu đoàn bộ chốt trong bãi nương bình yên vô sự, đó cũng là một chiến thuật trú quân mà thằng địch không thể lường hết được.

Một buổi trưa, không gian vắng lặng, bỗng nghe có tiếng nổ đùng đục làm rung chuyển cả căn hầm. Chúng tôi nhìn lên chốt, một cột khói đen bốc cao quấn theo cây cọc và đất đá lên trời, có ai đấy bảo: Bom nổ chậm rồi!
Một lúc sau, từ trên chốt điện về báo cho quân y tiểu đoàn chuẩn bị cấp cứu. Khoảng 20 phút, một thương binh được cáng về đội phẫu. Ðó là người đại đội phó của đại đội 12 ly7.Vết thương cắt ngang qua mặt, sống mũi bị chia làm hai, môi trên xệ xuống kín cả miệng. Trước khi để cho chúng tôi băng bó, anh đẩy hai cánh mũi lên, cúi xuống cho máu chảy ra và bảo:
-Có lẽ lần này tôi nằm viện rất lâu, ngày mai là ngày chuyển Ðảng chính thức của tôi, các đồng chí ở lại làm thủ tục cho tôi được chuyển Ðảng đúng hạn định. Còn thằng Kế cố gắng tìm và chôn cất cho nó được chu đáo! Sau đó anh mới để cho chúng tôi băng lại.

Qua những người cáng thương kể:
- Khẩu đội 12,7 ly từ trong cao điểm 601được lệnh chuyển ra ngoài hàng rào để đủ tầm bao quát chi viện cho bộ binh và bắn máy bay địch. Hầm đào gần xong, Phùng Văn Kế , cùng nhập ngũ một ngày với tôi (Quê ở Thuỵ Vân-Lâm Thao-Phú Thọ) y tá đại đội và chiến sỹ liên lạc vào rừng chặt kèo hầm. Khi về đền nơi, người đại phó đang lúi húi sửa lại hầm. Vừa nặng, vừa mệt, Kế lao bó gỗ xuống bên cạnh, không ngờ trúng luôn quả mìn chống tăng của địch chôn từ trước, cả người và bó gỗ bay lên trời.

Hiệp định Pa ri có hiệu lực từ 7 giờ sáng Ngày 28 Tháng 01 Năm 1973. Với bản chất hiếu chiến của Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn. Ðúng 6 giờ sáng cùng ngày, 3 loạt B52 còn đánh xuống khe suối dưới chân cao điểm. Lý Sài Quẩy, anh nuôi đại đội 7 vừa đưa cơm trên chốt quay về, may mà không có ai việc gì.
Ðúng 7 giờ Ngày 28 - 01 - 1973 hiệp định Pa Ri về Việt nam có hiệu lực, lệnh ngừng bắn được ban bố, các bên tham chiến giữ nguyên vị trí tập kết của mình, cắm cờ phân chia khu vực dưới sự giám sát của uỷ ban quân sự bốn bên. Không thấy tiếng động cơ máy bay và tiếng pháo gầm rú. Xung quanh vắng lặng bỗng đâu vẳng tiếng gáy của chú gà hoang gọi bạn. Chúng tôi chạy ùa lên hầm: Hoà bình rồi, cờ đâu treo lên để đón máy bay Liên hiệp quốc!

C7 bàn giao cao điểm 601 cho đơn vị bạn, K8 chuyển về khu vực Kông Trang kla-Kông Trang Kép và� Ðak Rơ Cót làm nhiệm vụ giữ đất, cắm cờ. Chỉ huy nhẹ tiểu đoàn gồm: Ông Lợi - Chính trị viên phó, một tổ trinh sát, một thông tin PRC 25 và một công vụ, cùng C7 cắm cờ trên bản Ðakrơ Cót. Tôi, y tátiểu đoàn tạm thời về tăng cường cho C7.

Ðó là một bản nhỏ bỏ hoang còn sót lại vài ngôi nhà sàn siêu vẹo, những tấm tôn hoen rỉ rơi vãi cong vênh. Ði đến góc nào của bản cũng gặp cồng chiêng lớn bé, chum vại đủ loại nằm lăn lóc.
Phía đông là một dông đồi cao ráo với vạt rừng thưa, phía bắc có con đường mòn đi ra cao điểm 601 và đường 14. Phía tây bản là một bãi lầy loang lổ hố bom ngập đầy nước, xung quanh cỏ và rau cần hoang mọc xanh rì.
Trong thời điểm này, cả ta và địch luôn giữ khoảng cách giữa chiến tranh và hoà bình: Súng đạn lúc nào cũng sẵn sàng nhưng không ai được nổ súng.

Hàng ngày chúng tôi cắm cờ trên bản, chia nhau đi tuần tra toàn khu vực, cho bộ đội đi cắt gianh, củng cố lại hầm hào và lán trại. Thằng địch ngoài vị trí chiếm đóng ra, chúng còn cho từng toán quân chui vào vùng giải phóng của ta để treo cờ nguỵ. Hôm ấy tổ tuần tra phát hiện toán địch mũ sắt lố nhố, một tên gài lá cờ ba que sau đít đang leo lên ngọn cây.
- Ai cho phép chúng mày cắm cờ ở đây!?
Quân nguỵ quay ra đã thấy bộ đội ta đứng ngay bên cạnh, phong thái đàng hoàng dõng dạc vội vàng bỏ chạy tán loạn, tên nguỵ trên ngọn cây hoảng sợ tụt ngay xuống đất, bỏ cờ lủi mất.

Trung đoàn tổ chức các điểm tiếp xúc với nguỵ quyền Sài Gòn, thành lập nhà hoà hợp dân tộc cho các đội công tác tuyên truyền chính sách của mặt trận đối với gia đình và binh sỹ nguỵ quyền. Giải thích các điều khoản về hội nghị Pa Ri, về hoà hợp dân tộc và hoà bình đang được vãn hồi.
Hầu hết binh sỹ nguỵ đều mong mỏi hoà bình, chấm dứt cuộc đời đi đáng thuê, chết thay cho Mỹ. Lũ sỹ quan ác ôn và bọn tâm lý chiến thì ngoan cố, quanh co nhiều khi còn đưa ra những đòi hỏi láo sược.
Một hôm, ba tên nguỵ sách theo chai rượu và mấy con cá mực đi đến. Cán bộ ta lấy kẹo lạc ra mời và xin lỗi: Bộ đội giải phóng không uống rượu trong khi đang làm nhiệm vụ. Ba tên ra về, cách nhà một đoạn, chúng ngồi bệt xuống đất, đem rượu và mực ra chén sạch sau đó mới trở về nơi đồn trú.

Ðêm hôm ấy tôi đang ngủ, thấy tiếng leng keng trong bản, anh Lan thức dậy cắp súng đi kiểm tra. Mất cờ! Ðến hỏi trung đội nhận ca ban chiều giao cho trung đội ca đêm cờ vẫn còn. Chiến sỹ nhận ca đêm bảo tối quá không nhìn thấy cờ. Thế thì biệt kích mò vào bản lấy trộm cờ rồi! Lệnh báo động. Cả đại đội nháo nhào, đến khi người đại phó trong hầm chui ra bảo: Tối hôm qua đi kiểm tra thấy cờ vẫn treo trên cột, sợ mất trộm nên tôi gỡ cất đi rồi!
Thế cái gì leng keng trong bản? Không phải địch thì là gì? Ði kiểm tra một vòng thấy có rất nhiều vết chân trâu trong bản. Sáng hôm sau, tổ trinh sát bắn chết một con trâu mẹ và trâu con dưới bãi lầy. Trâu mẹ được chia về cho các đại đội trong tiểu đoàn, trâu con thì để lại chỗ thầy trò ông Lợi. Từ đó bộ đội gọi lệch ra biệt danh là ông Lợi nghé!

Ðịch bắt đầu lén lút phá hoại lệnh ngừng bắn. Chúng cho quân mò sang vùng giải phóng, gài mìn trên đường đi tuần của ta. Hôm ấy tổ tuần tra gồm Sơn tiểu đội phó, Chuốt ( Hai người cùng quê Vĩnh Tường ) và Phòng (Nhìn anh ta lúc nào cũng lôi thôi nên gọi là ông thợ cối) đi đến bãi gianh thì vướng mìn. Sơn hy sinh tại chỗ, Phòng bị thương, Chuốt bỏ chạy về bản. Khi ra đến nơi, bãi gianh cháy lan sang người Sơn, tóc tai và áo quần cháy nham nhở, các vết thương bị cháy xém nứt ra.

Nhìn thấy đồng đội của mình như vậy, là lính mới vừa vào chiến trường, Chuốt hoảng sợ, nhân lúc một mình đứng gác đã dùng kíp mìn tự thương. Tôi cùng đại đội và ban chính sách trung đoàn vượt qua bãi lầy ra ngay điểm chốt. Chuốt bị cụt ba ngón tay trái tính từ ngón út. Khi xét kỷ luật, Chuốt thành thật nhận lỗi về mình. Xin không quay ra Bắc mà ở lại chiến đấu, lập công chuộc tội.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #15 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:40:46 pm »

Tháng 03 Năm 1973, Nguyễn Văn Thiệu trắng trợn phá hoại lệnh ngừng bắn, thực hiện chiến dịch vết dầu loang: Ðưa quân lấn chiếm từng vùng giải phóng, khu vực nào không dúi được thì chúng giả vờ ngồi bàn hiệp thương và hoà hợp dân tộc. Phía ta vẫn kiên trì quan điểm hoà giải, từng khu vực giữ vững vùng giải phóng.
Khu vực Cơrong-Trung Nghĩa, bản Ðak Rơ Cót-Kông Trang Kép, Kông Trang Kla địch lấn chiếm ác liệt, khu vực này đã trở thành mũi tiền tiêu chống lấn chiếm. Tôi nhận lệnh quay trở về đội phẫu của tiểu đoàn bộ.
Chúng tôi đóng quân trong cánh rừng le khá bằng phẳng. Tôi chịu không xác định được mình đang ở khoảng nào và hướng nào của bản Ðak Rơ Cót. Xung quanh pháo bắn mù mịt, thương binh từ các đại đội lần lượt cáng về.

Cấp cứu rồi sơ cứu, phân loại thương binh cho chuyển về phía sau. Suốt ngày chui lên hầm, chui xuống hầm, tiêm thuốc băng bó cho thương binh, lo tránh pháo. Ðêm hôm ấy có thương binh của C5 cáng về. Anh ta tên là Giang ( Tôi không nhớ quê). Vết thương xuyên cột sống, liệt toàn bộ từ thắt lưng trở xuống. Ðáng ra phải chuyển thương binh này về tuyến sau, nhưng thương binh được đưa về quá muộn nên chúng tôi phải cấp cứu và thay nhau trực. Anh Ðào bảo:
-  Tôi mệt quá rồi, ông trực mấy tiếng sau đó gọi (Tuấn cán gáo) thay cho!
-  Anh phải gọi lão Cán gáo này gác trước sau đó để lão gọi em mới được, ông
này ngang lắm!
Anh Ðào đi các hầm, thò cổ vào:
- Tuấn ơi! ới Tuấn!Không có ai thưa.

Kiểu này là hắn trốn tiệt trong hầm rồi! Thôi, ông cứ trực thương binh đi, lúc nào mệt quá thì gọi tôi!
Thương binh nằm ngổn ngang trong hầm, người nọ gác vào người kia. Có một thương binh ban chiều còn kêu được vài câu bây giờ đã chết, Người thương binh cột sống này một nửa người đã lạnh giá, anh ta bảo tôi kéo chân anh chàng đang ngáy bên cạnh ra không thì nó cựa và đạp vào mặt. Bên ngoài pháo địch câu đến, trong hầm leo lét ngọn đèn đốt bằng ống tiêm, mùi mồ hôi lẫn với mùi tanh của máu.

Tôi dựa vào vách hầm và ngủ mất. Tỉnh dậy sờ vào người thương binh đã thấy cứng ngắc, anh ta chết từ bao giờ, ca trực của mình mà không biết, hai chân người thương binh bên cạnh lại còn khư khư gác lên cổ.
Tôi cố lay gọi, hai tay anh ta lạnh giá, sờ vào cổ, vẫn còn hơi ấm. Thôi được rồi, tôi leo lên hầm đi gọi anh Ðào. Trăng thượng tuần chênh chếch sau cánh rừng, có lẽ là cuối của tháng âm lịch. Gió ào qua xe lạnh, anh Ðào lập cập cầm túi cấp cứu cùng tôi chui xuống hầm.
- Ông cầm đèn soi đi!
- Qua ánh đèn pin tối mù mù, bàn tay người thầy thuốc lách kim tìm tĩnh mạch. Chỉ một lúc sau, thương binh tỉnh dần, anh ta còn bảo:
- Gãy cột sống thế này thì chết thôi! Tiêm làm cái gì cho mệt ra!
- Chết là thế nào? Mai đưa ông về đội phẫu chữa chạy xẽ khỏi, cuối năm lại ra bắc cưới vợ, yên tâm đi!
Người thương binh này sáng hôm sau cáng về đến đội phẫu thì hy sinh.

Ðầu tháng tư, chúng tôi được lệnh rút về hậu cứ, bàn giao cho đơn vị bạn giữ chốt.
Ðường hành quân phải qua một bãi tráng rộng khoảng 500 m, phía bên kia là con suối có chiếc trực thăng rơi, ai đó đã lấy cánh quạt máy bay kê làm cầu qua suối. Bởi thế cho nên người ta gọi tên là: Suối trực thăng rơi cho dễ nhớ.
Chúng tôi ba lô, thuốc thang cồng kềnh lần lượt rút quân. Tuấn đi đầu đã vượt được gần một nửa bãi tráng, tôi và anh Ðào ra cách bìa rừng một đoạn bỗng hai chiếc trực thăng từ sau bìa rừng ào đến, đại liên bắn sối sả xuống bãi tráng, cánh quạt hắt thuốc súng xuống khét lẹt.
Tuấn lăn kềnh ra bãi tráng, tôi và anh Ðào chạy quay trở lại, nhảy xuống một khe suối nhỏ. Anh Ðào bảo: - Tuấn cán gáo chết rồi! Tuấn cán gáo chết rồi!

Máy bay ào qua một lúc thì thấy ông cán gáo lạch bạch chạy về: Mặt mày tái mét, Tuấn bảo:
- May quá, nó bắn ở bên kia suối trực thăng rơi!
Kết thúc những ngày cắm cờ đầy gian nan mà ác liệt.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #16 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:44:04 pm »


Ðánh vào trung tâm tiểu đoàn bảo an - Bắt sống tiểu đoàn trưởng


Tháng 10 Năm 1974, tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 nhận lệnh cùng đại đội 19 đặc công, luồn sâu đánh vào sở chỉ huy tiểu đoàn Bảo an Nguỵ đang chốt giữ trên điểm cao 827 phía Tây Bắc, giáp thị xã KON TUM.
Tiểu đoàn Nguỵ đóng trên bốn dông đồi có thế liên hoàn ứng cứu lẫn nhau: Chỉ huy sở đóng ở trung tâm trên một cao điểm không dốc lắm, ba đại đội Bảo an địch án ngữ theo thế chân kiềng rất gần trong tầm cối 60 chi viện cho tiểu đoàn bộ và các điểm chốt.
Ðồng chí Tạ Ngọc Oanh- Quê Phú Xuyên Hà Tây-Tham mưu phó trung đoàn trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Nhiệm vụ của tiểu đoàn 8 là: Luồn sâu bỏ qua ba đại đội vòng ngoài, đánh thẳng vào trung tâm tiểu đoàn bộ, bắt sống sở chỉ huy của địch, buộc chúng phải co cụm về thị xã.
Ðường hành quân loanh quanh trong rừng, chúng tôi cứ theo trinh sát dẫn đường mà đi, chẳng biết Ðông Tây Nam Bắc là hướng nào cả. Có lẽ cũng rất gần thị xã, ban ngày thấy tiếng máy bay lên xuống rất thấp. Ðêm về C130 lượn xung quanh, thỉnh thoảng bắn 20 ly và thả cái gì nghe hun hút như cắm cây nhiệt đới.
Sau ba ngày hành quân, đến vị trí tập kết, các đại đội bí mật cưa gỗ làm hầm, Ngày hôm sau, để một số đồng chí yếu sức khoẻ ở lại trông ba lô, còn tất cả hành quân về phía trước.
Thường ngày, y tá đại đội họp giao ban cùng các B chiến đấu, nhận xét công tác vệ sinh phòng dịch của các trung đội, kiểm tra giếng nước, bếp ăn của anh nuôi, các trường hợp chiến sỹ bị ốm đau bệnh tật, báo cho đại đội biết quân số đủ điều kiện sẵn sàng chiến đấu.
Trong trường hợp xuất kích, chiến sỹ nào ở lại vị trí tập kết đều do y tá đại đội đề xuất ý kiến.
Trận đánh này rất ác liệt, bỏ qua ba đại đội vòng ngoài đánh thẳng vào chỉ huy sở tiểu đoàn địch, hy sinh mất mát là khó tránh khỏi. Trong khi đó Phạm Hồng Quân  Cán bộ trung đội khung mới vào chiến trường. Quê (Phú Lộc  Phù Ninh  PT) dạo này đang bị sốt do viêm hạch, chân đi tập tễnh, tôi xếp cho Quân ở lại cùng nhóm coi ba lô. Quân vui vẻ, không có ý kiến gì cả.
Chiều hôm ấy, tôi và Nguyễn Văn Ninh Y tá ( Quê: Hoà Bình) đang chuẩn bị thuốc men thì Quân đến:
 - Tôi đi xuất kích, không ở nhà nữa đâu!
 - Tại sao lại không ở nhà?
 -  Lão Bính (Trần Xuân Bính � Ngưòi Cao Bằng - Thay Khoản làm tiểu đội trưởng cối 60) đi giao ban về nói tôi chẳng ra gì cả!
 - ông Bính bảo sao?
 - Lão ấy bảo: Cái lũ cán bộ khung ngoài Bắc vào thằng nào cũng hèn nhát! Chưa chiến đấu đã rụt vòi vào! Hơi sốt một tý đã mò lên đại đội xin ở lại!
 - Ông Bính tiểu đội trưởng, ông là tiểu đội phó, kể ra có ông cùng đi thì nhiệm vụ của tiểu đội cũng nhẹ nhàng hơn! Nhưng mà danh sách ở lại đã duyệt qua đại đội rồi!
 - Duyệt rồi tôi cũng không ở nhà, tức lắm!
 - Chú Quân- Tôi thay đổi cách xưng hô thân mật như người nhà- Trận đánh này ác liệt lắm đấy! Chú lại chưa trải qua chiến đấu bao giờ cả, mặc xác lão Bính!
 - Không! Chết thì chết, tôi cứ đi!
 -  Khoảng 5 giờ chiều, đại đội bỏ ba lô lại vị trí tập kết, mỗi người mang theo súng đạn, tăng võng và gỗ làm hầm vác trên vai hành quân vào phía trước, Quân nhất quyết đuổi theo đơn vị.
Ðến nước này thì tôi đành phải van xin:
 -  Trong chiến trường, có người can ngăn mà không nghe là dở lắm đấy!
-       Không!
�Cùng lúc ấy, ông Lợi chính trị viên phó tiểu đoàn đi đến, tôi trình bày:
- Báo cáo thủ trưởng: Ðồng chí Quân hiện nay đang sốt, đại đội phân công coi quân trang tại vị trí tập kết nhưng cố tình chống lệnh ạ!
-       Không chấp hành mệnh lệnh thì thu súng lại!
-       Thủ trưởng thu súng thì tôi lấy súng của tử sỹ để đánh nhau! Là người lính đi chiến đấu tôi không có tội!
Thấy Quân lý sự như vậy, người chính trị viên phó thôi không nói nữa.
 - Quân này, trong chiến đấu anh gàn mấy trường hợp họ không nghe đều hy sinh cả đấy! Chú nghe anh quay về đi!
Quân không nói không rằng, lầm lũi đuổi theo đơn vị.
Tiểu đoàn tôi chia làm ba mũi đánh vào cứ điểm. C7 đi theo ba hướng: Trung đội 1 cùng đại đội đặc công đánh vào tiểu đoàn bộ, trung đội 2 cùng khẩu đội cối của Quân tiến lên sát đại đội bảo an vòng ngoài pháo kích, quấy rối không cho địch ứng cứu lẫn nhau. C5 và C6 trong tiểu đoàn dùng 2 trung đội đánh vào hướng chính, một trung đội kiềm chân đại đội bảo an vòng ngoài, bắt chúng phải tự đối phó, bỏ trống chỉ huy sở tiểu đoàn cho chúng tôi làm thịt.
Tôi cùng trung đội 3 Trung đội trưởng Trần Quốc Thăng (quê Gia Lâm-Hà Nội) nhận nhiệm vụ độc lập: Ði vòng ra sau cứ điểm của địch, chốt chặn không cho tàn binh chạy về thị xã Kon Tum.
Khoảng 8 giờ tối ngày 27-10-1974 các mũi tiến quân cuả ta đã đến giáp hàng rào chỉ huy sở địch đào hầm. Trinh sát dẫn đường cùng chúng tôi vẫn mải miết cắt rừng về phía sau chốt địch. Khoảng 10 giờ đêm, có tiếng lựu đạn nổ trên chốt, hình như quân ta vướng phải mìn, nếu lộ ra, địch xẽ câu pháo đến, trong khi đó chúng tôi vẫn còn lang thang trên mặt đất như thế này.
Trung đội tôi chốt trên sườn đồi, ở đây cây rừng mọc nhiều tầng nhiều lớp. Trinh sát tiểu đoàn chỉ hướng cho chúng tôi phục kích sau đó quay về địa điểm xuất phát. Phía lên dốc trước mặt là chốt địch, sau lưng là sườn đồi thoai thoải chắc có một con đường chạy về thị xã Kon Tum.
5     giờ sáng ngày 28 -10 - 1974 cối và DKZ của ta đồng loạt bắn lên cao điểm. Hoà cùng tiếng nổ ầm ầm ấy, pháo của địch từ các hướng cũng nhất loạt câu về. Không phân biệt đâu là đạn ta, đâu là đạn địch, chỉ thấy phía trước tiếng nổ như quyện vào nhau.
Pháo địch từ phía sau câu đến, qua đầu chúng tôi tầm đạn đã xuống rất thấp, qủa đạn xé không khí vụt qua réo ù ù.
Gần 10 giờ trưa, không thấy súng nổ trên cao điểm. Phía trước mặt, pháo địch vẫn không ngừng bắn lên dông đồi, tiếng nổ nối thành dây trên chốt, hay là chúng nó thất bại, huỷ trận địa đi rồi.
Ðứng dưới hầm, chúng tôi căng mắt tìm địch, bỗng có tiếng người lao sao lại gần, qua kẽ lá, mấy bóng đen loang loáng.
Ðịch, địch! Tằng tằng, cắc bụp.
Trần Quốc Thăng nhanh tay lia một băng đạn, chiến sỹ M79 vội vàng bắn phóng lựu nhưng tầm gần quá đạn không nổ.
Hai bóng đen ngã bật ngửa ra rừng và hét lên: Ta ! Ta !
Chúng tôi nhảy khỏi hầm:
 - Ði đâu mà không gọi, không nói gì thế!
 -Nói thế còn nói thế nào nữa!? Ði gọi chúng mày về mà còn bắn cái con c...người ta!
-Thôi, thôi! Không cãi nhau nữa, hai ông có ai việc gì không?
Người trinh sát đi đầu là Nguyễn Văn Tá - Quê Vĩnh Tường-Vĩnh Phúc khoác khầu AK trên vai, tay phải đặt lên ốp tay trên, loạt đạn bắn, bay ốp che tay dưới mà không hề sứt sẹo. Luồng đạn bay sát da bụng, áo bám khói đen xạm lại.
Tôi bảo: Quân ta không chiến thắng quân mình là may lắm rồi! Mình rút chứ! Hai chiến sỹ trinh sát hình như vẫn còn bực mình, họ không nói gì cả, lầm lũi quay về đi như chạy. Sợ lạc đường, chúng tôi cố bám đuổi theo.
Lên đến đỉnh đồi, pháo bắn loang lổ tan tành từng khoảng rừng, cây đổ ngang dọc. Các đơn vị trong tiểu đoàn đang rút quân, mạnh ai nấy chạy lục tục xuôi theo dông đồi. Pháo địch vẫn đang cay cú bắn ùng oàng phía trước, có ai đấy kêu lên: Ong đốt các bố ơi! Chạy nhanh lên!
Ðến vị trí đào hầm dưới chân đồi, tự nhiên pháo ngừng bắn. Mạnh (Hạ Hoà-Phú Thọ) bảo: Một thằng thông tin nguỵ đeo PRC chạy đến đâu là gọi pháo bắn đuổi theo đến đấy! Mình bắn chết thằng thông tin ấy, thế là pháo địch tịt luôn!
Tôi nhảy xuống hầm, Bích (Hải Phòng) bảo:
Tròn ( Vô Tranh , Hạ Hoà - Phú Thọ) và Quân chết rồi, ông đã biết chưa?
-Chết ở chỗ nào ?! Liệt sỹ hiện nay để ở đâu rồi!
-Thằng Bình chạy qua vẫn thấy Tròn tay bịt mặt kêu cứu, lúc quay lại thì nó thấy đã chết rồi! Hình như cối 82 của thằng C8 bắn đuối tầm, đít quả đạn nằm cạnh hai liệt sỹ của mình. Kìa, đang cáng về kia kìa!
Tôi chạy lên, Quân bị một mảnh đạn cắt ngang mặt trong khuỷ tay trái, trên người lăm nhăm mảnh đạn, máu chảy đẫm ngực áo. Tôi tháo ví lấy toàn bộ ảnh và kỷ vật, hy vọng có ngày quay trở về trả lại cho gia đình Phạm Hồng Quân.
Tròn bị mảnh đạn bay mất một bên mắt phải, vừa mới hy sinh, sờ lên người còn mềm và nóng. Tôi đang bóp tim hồi sức cấp cứu cho tròn thì pháo bầy của địch lại câu đến, nhảy đại xuống căn hầm bên cạnh:
-Ông nào đây! lên đi! Ông nào đây, tránh ra, hầm tù binh!
Tù binh hay không thì cũng giữ lấy gáo đã, hết đợt pháo bầy, tôi leo lên khỏi hầm đã thấy quân vận tải lục tục cáng thương binh và liên sỹ về vị trí tập kết.
Về đến nơi, thấy quân tướng mặt mày sưng húp cả. Ông Oanh bị mấy mũi châm vào tay, ông Lợi chính trị viên phó mặt méo một bên, tay trái bị ong đốt sưng tấy, y sỹ tiểu đoàn Nguyễn Kiến Ðào (Hiện nay là viện phó bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái) đang tiêm thuốc giảm đau. Có chiến sỹ bị ong châm không mở nổi mắt. Tôi hỏi tổ ong ở chỗ nào, họ bảo trên đỉnh dông đồi, pháo bắn trúng tổ ong đất (Ong bầu lỗ ), bộ đội chạy qua thế là nó túa ra đuổi theo. Tôi chạy ngay sau ông Lợi mà không bị châm mũi nào.
Lũ tù binh cứ hai thằng trói vào với nhau bằng dây dù, ngồi tụm ở ven rừng. Tên thiếu tá Nhân tiểu đoàn trưởng và một sỹ quan tâm lý chiến, một quân y sỹ bị đưa ra hỏi cung sơ bộ.
Hắn nói: Chập tối hôm ấy tự nhiên tôi thấy hai bên tai nóng như lửa, trong người bứt dứt không yên. Khoảng hơn 8 giờ tối, sỹ quan tác chiến báo cáo có hiện tượng không bình thường quanh khu vực đóng quân. Tôi cầm máy báo về trung tâm hành quân, trung tâm trả lời: Bên ngoài các anh còn có 3 đại đội chốt chặn, hai nữa ở đây xa hậu cứ của cộng sản, các anh cứ bình tĩnh đi! Hơn 10 giờ tối, có tiếng US nổ trong hàng rào ( Hướng đại đội 5 bị vướng lựu đạn gài) thực ra cũng có nhiều khi cành cây khô gãy đổ hoặc chồn thú đi qua làm nổ mìn. Ðể cho thật an toàn, tôi xin pháo bắn xung quanh căn cứ từ 500 m trở ra. Gọi sang các trận địa pháo, họ bảo: Ðêm tối rất khó căn chỉnh tầm hướng thật chính xác, sợ bắn nhầm vào các đại đội đồn trú bên cạnh. Càng về khuya, tiếng động càng rõ hơn, tôi báo động cho 3 đại đội bảo an có kế hoạch ứng cứu. Sáng hôm sau thì tất cả chúng tôi đều bị pháo kích.
Chôn cất liệt sỹ xong, ngay chiều hôm ấy chúng tôi rút quân. Trinh sát dẫn lũ tù binh đi với nhau, mấy ngày hành quân chúng nó cũng phải có nồi để nấu cơm. Một trinh sát tiểu đoàn bảo:
- Mày là tiểu đoàn trưởng ăn bơ thừa, hộp cặn của Mỹ nhiều rồi hôm nay phải đeo nồi!
Tên công vụ vội vàng đỡ lấy.
- Này thằng kia! Từ hôm nay mày với nó bằng nhau, để đấy cho nó!
Anh ta buộc luôn chiếc nồi quân dụng vào lưng ngài tiểu đoàn trưởng, cả lũ tù binh nửa buồn cười nửa sợ, Bộ đội lần lượt dẫn chúng quay về hậu cứ.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #17 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:46:14 pm »


Chiến dịch mùa xuân năm 1975


Cuối năm 1974 - Chúng tôi tập trung vào công tác tổ chức, điêù chỉnh cơ cấu cán bộ để phù hợp nhiệm vụ mới. Các đồng chí làm công tác chính trị có năng lực và khả năng phát triển, được đưa về thực tế qua đơn vị chiến đấu. Ðồng chí Lê Hải Triều - Trưởng ban chính sách trung đoàn (Quê: Thạch Thất - Hà Tây )về làm chính trị viên đại đội 5 thuộc K8. Ðỗ Văn Hoan - Trợ lý ban chính trị trung đoàn (Quê: Sơn Dương- Lâm Thao-PT ) cùng nhập ngũ với tôi về nhận nhiệm vụ trung đội phó C5 thuộc K8. Vậy anh Lê Hải Triều, tôi và Hoan lại cùng chung một tiểu đoàn.
Thời gian này, sư đoàn tổ chức cho bộ đội học tập chính trị, chỉnh huấn toàn quân, huấn luyện các khoa mục mới-Hiệp đồng binh chủng và chiến thuật đánh vào thành phố.
Các đại đội tổ chức cho bộ đội ăn tết trước- Tết Quang Trung trong hậu cứ Chư Mom Ray. Hôm ấy đại đội 5 mổ lợn, Hoan mời tôi sang ăn tết cùng đơn vị.
Ðầu tháng 1 Năm 1975 chúng tôi nhận lệnh hành quân. Ði đâu, làm nhiệm vụ gì chúng tôi không được phổ biến. Chỉ biết rằng: Chuẩn bị đầy đủ súng đạn, quân tư trang, và mỗi người phải may lấy một chiếc khẩu trang khi nào cần xẽ dùng.
Ðại đội tôi bổ xung thêm một y tá nữa-Y tá Kỷ-(Quê Dị Nậu-Tam Nông-PT). Ðó là một anh chàng ốm yếu, gầy gò lúc nào cũng xanh xao, siêu vẹo. Chúng tôi thường bảo: Không biết ai người ta cho chú mày đi học y tá!? có lẽ cấp cứu y tá trước rồi chữa chạy cho bộ đội sau!Vừa lôi thôi lại luộm thuộm, đi lấy cơm người ta đã thấy không yên tâm huống chi là điều trị cho bệnh nhân! Hắn còn cãi: Ngày xưa em cũng béo trắng ra phết đấy! Sốt rét triền miên như thế này thì khoẻ làm sao được!
Lên đường hành quân, trên vai chúng tôi ngoài quân tư trang, súng đạn, gạo và xẻng cuốc ra, mỗi người phải mang theo rau khô, thịt xấy. Ðại đội khiêng một con lợn để ăn tết, riêng gà thì mỗi tiểu đội một con.
Văn phòng đại đội ưu tiên cho Kỷ không phải đeo gạo, chỉ cầm bộ nẹp và chú gà sống buộc lắc lư trên nắp ba lô.
Theo lịch hành quân, cứ một tiếng nghỉ giải lao 10 phút, càng đi về phía tây, rừng núi có vẻ dốc và rậm rạp hơn.
Một hôm cả đại đội đang gò lưng leo dốc, mồm mũi thi nhau thở, Kỷ mệt mỏi nhón từng bước chân. Lên đến đỉnh dốc,� hắn tệt đít quăng phịch ba lô xuống đất. Không ngờ cái bu gà đứt dây cứ thế lăn lông lốc xuống dốc, con gà càng đạp thì chiếc bu gà càng lăn nhanh. Ðoàn quân đã mệt lại còn buồn cười, làm thế nào đây? Quay xuống lấy bu gà, quay lên thì người cấp cứu! Kỷ cau có lẩm bẩm: Thà nhịn ăn còn hơn đeo nặng!
-Thế thì còn gì bằng! Người ta vì ăn mới phải mang vác, từ nay chú mày cứ nhịn ăn thì chẳng còn phải lo gạo nước, gà qué làm gì cho mệt xác ra! Từ đó cái câu: Thà nhịn ăn còn hơn đeo nặng, chúng tôi đặt biệt danh cho Kỷ.
Buổi chiều dừng lại đóng quân trong một khu rừng rậm rất nhiều cây to bóng. Chúng tôi đào hầm theo kiểu biệt kích rồi mắc võng đu đưa dưới gốc cây. Trời cuối khô, mây trong vắt, gió từ phía tây thổi về làm sao động khu rừng. Có một chòm phong lan mọc chênh vênh trên chạc cây cổ thụ, vòi hoa tím biếc đong đưa, lá xoè ra chao ngiêng theo từng cơn gió. Giá như có dò phong lan kia mà đem về treo trước nhà thì đẹp biết chừng nào!
Tổ anh nuôi vào rừng chặt cây làm bếp đem về một cây nhiệt đới. Ðó là loại cây nhựa, thân cây màu xanh, to hơn ngón chân cái, phía trên có ba tua xoè ra làm ba đầu ăng ten phát ra ba hướng. Dưới gốc cây, cấu tạo như một quả tên lửa đầu nhọn, đuôi có 4 cánh, bên trong là hệ thống điện tử và pin khô. Nghe nói Mỹ sử dụng loại cây này để phát hiện lực lượng hành quân của ta. Mỗi cây một toạ độ, gốc cây ngập xuống đất, nhận và phát luôn tín hiệu để báo về trung tâm chỉ huy. Nghe nói chỉ cần buộc túm ba dâu ăng ten lại hoặc chặt đôi thân cây là nó hết tác dụng.

Sau hai ngày, chúng tôi đi ra con đường chiến lược, sau này gọi là: Ðường Hồ Chí Minh. Tà luy đường còn đỏ màu đất mới, không biết thanh niên xung phong hay đơn vị nào thi công mà chẳng thấy bóng một ai cả.Có một vài khoảng đường trống người ta phải bắc dàn để nguỵ trang tránh máy bay địch. Có lẽ ở đây đã giáp với biên giới Căm Pu Chia nên cũng ít thấy máy bay rà sát hơn.
Chúng tôi rẽ vào một khoảng rừng bằng phẳng đã có ô tô đến chờ từ bao giờ. Các trung đội lục tục xếp ba lô lên xe, ba lô bên dưới, người ngồi lên trên, hơn hai chục người chen chúc trên thùng xe trong khi cấp trên phổ biến là hành quân dài ngày, đi liên tục, không nghỉ.
Trong khi chờ lệnh khởi hành, tôi nhảy xuống xe cho đỡ ngột ngạt. Thấy bộ đội túm quanh một chiếc xe thùng xăng bị dò rỉ, họ chen nhau mở nắp bật lửa tranh thủ nạp thêm nhiên liệu. Dao găm, bật lửa là vật bất ly thân của lính tây nguyên, có người còn may túi có dây đeo kỳ công và quý bật lửa hơn cả đồ trang sức. Có ai đấy lấy xăng xong bật thử luôn bên cạnh, lửa nhoàng ra bàn tay, anh ta vảy liên tục và thế là lửa bắt luôn sang thùng xăng. Chỉ mấy dây sau, một cột lửa bao trùm lên thùng xe, con lợn bị nhốt chặt trong cũi không chạy ra được kêu eng éc. Có hai, ba người nhảy vội lên xe quăng được vài chiếc ba lô xuống đất, còn lại tất cả mạnh ai người nấy chạy vào rừng.
Tôi cắm cổ theo đoàn người leo qua ba dông đồi rồi nằm bẹp trong một khe suối cạn. Khói đen sì cuồn cuộn bốc lên khỏi ngọn cây rừng. Ðạn AK, đạn 12 ly 7 thi nhau nổ. Chỉ cần một chiếc trinh sát bay qua, chắc chắn khu vực này xẽ trở thành túi bom của địch.

Sau hai giờ đồng hồ, không gian vẫn yên lặng, chúng tôi lục tục kéo nhau ra bến đỗ. Chiếc xe thảm hại chỉ còn trơ lại bộ khung sắt, tất cả những gì xếp trên xe nay đã cháy thành than. Ðoàn xe chen nhau đi di tản cũng đang lục tục quay về bến đón bộ đội. Thế là số người ở chiếc xe cháy đành phải xếp chen lên xe khác để kịp giờ lên đường.
Thế là xa hậu cứ Kà leng, xa đỉnh Chư Mom Ray với bao nhiêu huyền thoại. Những chiến công oanh liệt gắn liền với truyền thống đoàn Plây Me anh hùng: Ia Ðrăng, Ngọc Rinh Rua, ÐăkTô, Tân Cảnh�Xa đồng bào Tây Nguyên đã từng đùm bọc những người con của trung đoàn 66, xa những đồng chí của mình còn nằm lại trong những cánh rừng ngút ngàn hương rừng và gió núi.
Chúng tôi lên xe khi chiều tà gần tắt nắng, núi rừng vắng lặng, im lìm trong ánh chiều bảng lảng. Không thấy một bản nhỏ ven đường nào để được ngắm những tia khói lam chiều� bay lên khét mùi cá kho đồng nội. Quê tôi giờ này chắc cũng đang vào vụ cấy. Cánh đồng hai vụ mùa chiêm thẳng cánh cò bay đến bao giờ cho mình trở lại để rồi thả hồn theo ngọn gió nam chiều đầy ắp hương lúa mới. Mẹ và các cháu đang làm gì nhỉ? Con bắt đầu hành quân có lẽ đi rất xa, khi nào dừng chân đồn chú, con xẽ thư cho gia đình biết sau.
Xe chạy trên con đường xóc nảy người, chiếc xe như con ngựa bất kham thỉnh thoảng lại nhảy lên hất bộ đội chồm về phía trước. Hơn hai chục người chen chúc trên thùng xe dựa vào nhau gật gù trong tiếng động cơ lúc tăng, lúc giảm. Có tiếng máy bay C130 phía sau, xe dạt vào ven đường tắt máy. Người lái xe thò đầu ra quan sát và bảo: Thằng này bắn theo tia la de tìm nhiệt! Tắt đèn chạy mà nó �xiên thùng� chính sác lám! Bắn toàn vào ống xả mới láo chứ!
Hai người lính lái xe thay nhau chạy, chúng tôi lúc ngủ lúc thức, có ai đấy say xe nôn oặc ra, một người� kêu lên: Bố này nôn ra đầy lưng tôi rồi! Khiếp quá!
Mùi chua nồng cứ luẩn quẩn trong thùng xe: Ông tướng nào say thì ra ngồi ngoài cùng đi! Mẹ, mai sáng coi khéo ba lô thằng nào cũng đầy cơm và cháo!
Hết đêm rồi sang ngày, xe cứ mải miết chạy. Sang ngày thứ ba, rừng ở đây có vẻ bằng phẳng hơn, lác đác hai bên đường, những cánh rừng thưa có rất nhiều cây bàng mọc. Phụ lái leo lên thùng xe bảo: Các bố này chắc chưa được ăn măng Khoọc! Chiều nay đến vị trí đóng quân mang xẻng đi mà đào! Cây Khoọc đấy! Không phải rừng bàng đâu!
Bắt đầu đi vào một cung đường bụi mù mịt, mùa khô đất tơi xốp, hàng ngàn lượt xe quần đảo đất đã trở thành tinh bột. Xe dừng, tôi nhảy xuống đường, lớp bột mát lạnh ngang lưng ống chân, bởi thế chiếc xe chạy như bơi trong sương mù đặc quánh, xe sau không nhìn thấy xe đàng trước, bụi mù bốc lên khỏi ngọn cây.
Bộ đội bịt khẩu trang kín mặt, người ta phổ biến chuẩn bị khẩu trang là dùng vào lúc này đây! Lúc ngủ bụi đọng đầy hốc mắt, khi tỉnh dậy phải cúi xuống lau hết bụi rồi mới mở mắt ra. Ðêm hôm ấy, có chiếc xe tải chở đạn chạy ầm ầm phía trước, bụi cuốn ra phía sau, xe chúng tôi bật đèn, kéo còi xin vượt. Chiếc xe tải như điếc, ngáng đường không cho. Ðiên tiết người lái xe vác AK nện cho hai loạt, anh chàng xe tải luống cuống dạt ra ven đường rồi nhảy xuống nhòm vào lốp xe. Bộ đội nhao lên: Dừng lại cho thằng này một trận!
Người lái xe chở lính nhảy xuống cho anh chàng xe tải hai cái tạt tai:Thằng ngu này! Bộ đội ngồi đầy trên xe, xin bao nhiêu lâu mà mày không cho vượt! Cảnh cáo nhé! Lần sau còn như thế thì cho mày chốt lại giữa rừng mà trông hàng!
Anh chàng xế xe tải biết mình yếu thế trước chiếc xe chở đầy lính bộ binh,đành lủi thủi lên xe chạy theo sau. Ơ đây đường chạy ngang dọc, những ký hiệu ma toi về đường đi, bến đỗ chắc chỉ có người dẫn đường hoặc lái xe mới biết. Kiểu này mà thả chúng tôi xuống đây thì thế nào cũng bị đơn vị bạn bắt làm tù binh.
Ðêm hôm ấy, chúng tôi tập kết trong một cánh rừng cao bóng, rất thưa. Sáng ra mới biết mình trú chân dưới cánh rừng Săng lẻ, một loại cây trông giống như cây ổi nhưng rất to và thẳng, có cây cao đến ba, bốn mươi mét. Bên dưới lúp xúp những bụi cây nhỏ chỉ cao đến ngang bụng. Như thế này người ta gọi là rừng nhiệt đới một tầng, cây rất thưa, mặt đất bằng phẳng khô nẻ phủ đầy lá rụng. Ơ trong rừng mà tầm nhìn xa được hàng trăm mét.
Anh nuôi làm bếp cạnh con suối khá to, nước chỉ còn đọng lại thành từng vũng. Cuối mùa khô, vùng này đang bị hạn, chỉ cần đóng quân ở đây một thời gian ngắn chắc không có nước mà dùng.
Tôi sách súng đi dọc theo con suối, hai bên bờ những bụi cây lơ thơ cằn cỗi đang chờ mưa đổ xuống. Những vũng nước nông phủ đầy lá mục chẳng thấy con cá nào cả, ven suối, thỉnh thoảng có vết chân thú rừng xuống uống nước. Nếu có đèn mà đi phục ban đêm, chắc chắn thế nào cũng bắn được hươu nai hoặc lợn rừng.
Sáng hôm sau, thấy Hợp sách súng vào rừng, tôi cầm súng theo sau. Mậu cười bảo: Lão Hậu cũng đi săn cơ à! Nếu được con thú nào thì cứ cắm cọc vào lưng tôi mà nấu!
Hợp dạt lên rừng, tôi lội ngược con suối, rón rén quan sát may ra gặp chú nai nào vô phúc xuống uống nước.Tôi là sát thú, sát cá lắm, biết đâu lại gặp may cũng nên.
Tôi bước vào cánh rừng chỉ mọc một loài cây Săng lẻ, có cây gốc bạnh ra, ruột thối rỗng ba người chui vào, ngồi trú qua đêm cũng còn thoải mái. Ðang ngó nghiêng bỗng đoàng đoàng hai phát, tôi quay lại phía súng nổ. Hợp gặp một đàn vượn đi ăn và nổ súng. Một con Vượn đen chuyền cành vun vút lao về phía tôi, vừa đến ngọn cây tôi đang đứng thì dừng lại, ngó về phía sau. Tôi áp AK vào thân cây và nảy cò. Chỉ nghe thấy tiếng kêu chít-chít, thế rồi tay nó nắm chặt cành cây, đung đeo trên khoảng không, chân đạp chới với. Tôi nhằm vào cánh tay và bắn tiếp, con vượn rơi huỵch xuống đất cách tôi hai mét. Tôi cầm tay nó kéo lê theo suối về bếp anh nuôi đại đội: Tên Mậu đâu! ra đây để đóng cọc vào lưng! Mậu cười toe toét: Thôi thôi! Tôi xin chịu phạt đi làm lông vậy! Lão Hậu thế mà giỏi quá nhỉ!
Hành quân bộ thêm hai ngày nữa, chúng tôi tập kết trong một cánh rừng phía tây bắc quận lỵ Ðức Lập. Mục tiêu tác chiến đến nay đã quá rõ ràng rồi- Trung đoàn 66 sư đoàn 10 đánh chiếm quận lỵ Ðức Lập. Ngay tối hôm ấy, đại đội trưởng Tẩm cùng trinh sát, cán bộ tác chiến và tham mưu các cấp đi trước nắm địa hình. Chúng tôi chuẩn bị súng đạn, quân trang và cưa gỗ làm hầm.
16 giờ ngày 08 tháng 03 năm 1975 nhận lệnh xuất kích. Ba lô bỏ lại vị trí tập kết, mỗi người đem theo đủ cơ số đạn, vác gỗ trên vai hàng một tiến về phía đông.
Xẩm tối, ra đến một vạt nương của dân, có ánh lửa bập bùng phía trước và mùi khét của khói. Dân đi làm nương vừa mới về đó- Ði thưa ra-Bám theo mảnh giấy trinh sát cắm trên mặt đất ấy! Cúi thấp người xuống!
Ðêm tối xẫm, chúng tôi cứ bám theo nhau lùi lũi tiến về phía trước. Tiếng súng va vào gỗ lách cách, có tiếng xuỵt nhẹ Gần địch lắm rồi đấy! Khẽ chứ thôi!
Bỗng có tiếng đề pa của khẩu cối địch bắn rất gần, chúng tôi đồng loạt nằm bẹp xuống đất. Tim tôi đập thình thịch, đội hình bị lộ rồi chăng?
Tiếng nổ bụp ngay trên đầu, ánh hoả mai bùng lên, địch bắn pháo sáng! Tôi xếp bó gỗ dọc theo thân người ngóc đầu nhìn về phía trước, ánh hoả mai sáng trắng soi rõ đoàn người lồ lộ trên nương. Chúng tôi nằm im như chết, tiếng thở hổn hển của ai đó, tiếng tim tôi đập nghe rõ từng nhịp.
Pháo sáng tắt, chúng tôi lại vác gỗ trên vai, bước chân có vẻ gấp gáp hơn. Cứ như thế, có pháo sáng của địch thì chúng tôi nằm như dán xuống đất, màn đêm buông xuống là người lính lại vội vã lên đường.
Giáp căn cứ địch là một bãi lầy, tôi vác bó gỗ trên vai, bò ba chân lên những thân cây dân phát nương chặt đổ trên bùn. Sang đến bên kia bãi lầy là hàng rào đầu tiên của chốt địch, trinh sát dò mìn giao từng vị trí đào hầm cho các tổ.
Nhìn lên cứ điểm, hàng lô cốt đầu cầu xám xịt, thỉnh thoảng một băng đạn từ trong cái hốc đen ngòm ấy tuôn ra đỏ lừ lia sát hàng rào. Cái lũ này có lẽ thừa súng đạn hoặc quá hèn nhát nên bất kỳ ở đâu chúng cũng bắn thị uy như vậy. Phía trong hàng lô cốt, một cái tháp canh cao lêu đêu in đậm trên màn trời sáng nhờ. Có mấy tàn lửa lập loè trên tháp canh, không rõ có mấy thằng gác.
Tổ dò gỡ mìn thì thào gọi nhau bò vào cắt rào kẽm gai. Không còn thời gian mà quan sát nữa, tôi tháo xẻng ra vội vã đào hầm.

Từng lượt xẻng nhẹ nhàng sắn vào lòng đất, anh Mão lấy bao cát ra cho tôi đổ đất vào rồi xếp phòng xung quanh hầm. Bên phải, bên trái, tiếng đào đất lắc cắc, lụp bụp trong đêm nghe rõ mồn một. Ai cũng lo cho mình thật nhanh cái hố để cho chắc gáo, anh Mão ném hòn đất sang hầm bên ra hiệu đào khẽ thôi.
Bỗng nghe cốc một cái, tiếng đề pa của khấu cối rất gần. Không ai bảo ai, tất cả cùng lao vào cái hốc đất chưa sâu hết một lượt xẻng. Có tiếng nổ bụp ngay trên đỉnh đầu, ánh hoả mai bùng lên, địch bắn cối sáng! Cùng một lúc, tiếng hút gió ghê người của đuôi qủa cối rơi xuống. Tôi vớ luôn lưỡi xẻng che lên đầu, anh Mão đội bao tải cát, có ai đó rúc vào kheo của tôi hơi thở nóng rực. Bịch! Ðuôi quả cối rơi trong hàng rào, nó mà trúng vào ai thì coi như toi mạng.
Anh sáng trắng nhờ soi rõ chốt địch, xung quanh im lặng nghe rõ tiếng thở của người bên cạnh. Hết pháo sáng, chúng tôi lại đàò, lại khoét, không biết mấy bố cắt rào, dò gỡ mìn phía trên kia như thế nào, vô phúc chạm nổ quả mìn thì coi như tất cả phơi lưng hứng pháo. Trên tháp canh, có tên lính nguỵ nào đó gọi nhau thay gác, tiếng miền nam ngái ngủ lạnh ngắt tan vào khoảng đêm mông lung.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #18 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:46:39 pm »

Một đêm không biết bao nhiêu lần tránh pháo sáng của địch. Hầm mỗi lúc một sâu hơn, tôi bò sang tổ cắt rào giúp họ lát hầm. Gần sáng, tổ cắt rào và dò gỡ mìn quay về, hơi lạnh từ người họ toả ra, áo quần ướt đẫm sương núi:
-       Xong rồi! Tổ gá bộc phá cũng gần ra đến hàng rào ngoài cùng rồi! Rét quá!
Khoảng 2 giờ sáng, các tổ lần lượt quay về tranh thủ sửa sang lại hầm hào, anhTẩm bò đi các hầm kiểm tra lần cuối công tác chuẩn bị chiến đấu.
Ðúng 5 giờ sáng ngàí 09 tháng 03 năm 1975, lệnh nổ súng.
Phía Ðức Lập, tiếng nổ rền vang như xấm, pháo tầm xa, tầm gần của ta thi nhau trút bão lửa xuống đồn địch.
Phía chúng tôi, lệnh điểm hoả. Tất cả bộc phá đồng loạt hất tung hàng rào kẽm gai, quét sạch mìn tạo thành con đường lên cửa mở. Cùng một lúc, đạn pháo và DKZ bắn thẳng của ta cứ vụt qua đầu thúc bung từng lô cốt trên cao điểm. Có khẩu DKZ 75 của C8 đặt bên kia bãi lầy tiếng nổ banh banh làm ù hết hai tai. Khẩu12 ly 7 khoá chặt tầm, hướng đường đạn thẳng căng chui tọt vào từng lỗ châu mai của địch.
Khẩu Ðại pháo cối 60 của đại đội tôi do Bích chỉ huy cứ loong coong cậm kịch từng quả nổ tung trên chốt. Không thấy địch phản kích bắn trả, hình như chúng chỉ còn một việc là chui tọt xuống hầm ngầm tránh đạn. Tôi bò sang tổ cối:
-Ðể tôi bắn thử một quả xem sao!
-Này đạn đây! Ðưa đạn vào nòng đi! Vuốt xuôi tay xuống! Thế!
Kịch! Tôi nhìn theo quả cối như một mũi tên bay lên trời, đến độ cao nhất định nó chúc đầu lao xuống. Quả đạn rơi gần đến một ngôi nhà lợp tôn sáng loá, tiếng nổ chìm trong mớ âm thanh của đại bác và cối 120 ly.
Tôi hạ thấp nòng hướng cho quả đạn bay đến ngôi nhà lợp tôn, quả đạn làm thủng một lỗ trên� mái nhà, hất bung mấy tấm tôn cong vênh lên trời.
Phía Quận lỵ Ðức Lập, tiếng nổ rền vang, khói đen cuồn cuộn bay lên, tiếng liên thanh kéo từng băng dài, có lẽ quân ta bắt đầu tiến công.
Máy bay địch bu xung quanh Ðức Lập ném bom, trực thăng phóng rốc két khói xịt ra từ hai bên sườn. Pháo phòng không của ta thi nhau bắn trả, đạn 37 ly vàng choé nổ bụp từng đụn khói trên trời. Ðạn 12 ly 7 và 14 ly 5 từ xe thiết giáp tự hành quấn xung quanh trực thăng. Có một chiếc trúng đạn đâm sầm xuống đất.
Sau 60 phút pháo binh ta bắn cấp tập, chúng tôi hồi hộp chờ lệnh xung phong.
Trung đoàn truyền lệnh xuống: C7 giữ nguyên đội hình, tập trung đánh địch phản kích, pháo binh bắn kiềm chế chờ quân tăng cường đến, sau đó mới đánh lên cửa mở!
Máy bay địch đánh ác liệt khu vực quận lỵ Ðức Lập. Có lẽ mặt trận đồng loạt nổ súng nên chúng chỉ đủ sức tập trung khống chế các điểm chủ yếu. Phía chúng tôi chẳng thấy chiếc máy bay nào nhòm ngó đến cả. Nghe đâu căn cứ ÐăkSắc này có cả hệ thống hầm ngầm, năm 1968 đại đội quân Ðại hàn chốt giữ, một tiểu đoàn quân của ta đánh không được, tổn thất rất lớn. Pháo binh ta bắn từ sáng đến giờ không thấy chúng có phản ứng gì, trong chốt im như tờ có vẻ lỳ lợm lắm. Trung đoàn thấy một mình C7 chưa chắc dứt điểm được nên cho C5 và C6 đánh Ðức Lập xong xẽ quay về tập trung công kích.
Trưa, cái nắng đổ xuống cửa mở, kiểu này anh nuôi không thể đem cơm và nước ra cho bộ đội ngoài chốt được. Sau lưng chúng tôi là một bãi lầy và vạt nương trống trải không một bóng cây. Trên đỉnh đồi, hàng lô cốt của địch xám xịt với những lỗ châu mai đen ngòm sẵn sàng nhả đạn. Bộ đội đành phải ăn lương khô và uống nước từ vũng lầy tanh đến lợm giọng.
Không thấy một bóng người trên chốt, Bích lom khom chạy từ hầm cối xuống bãi lầy lấy nước. Cái bố này chủ quan quá! địch phát hiện thấy bắn cho một nhát thì sao?
-Chúng nó chắc chạy hết rồi! Bích cười: Ông thấy có thằng ma nào thập thò ra ngoài đâu!
Trời ngả về chiều, nắng càng gắt, bộ đội thay nhau xuống lấy nước. Có lẽ chúng bỏ chốt thật, tôi cũng lom khom bò ra bãi lầy.
Tôi nhìn lên cao điểm, lô cốt đầu cầu với cái lỗ châu mai thao láo nhìn xuống chân đồi, rất gần. Nguy hiểm thật, chỉ cần một loạt đạn là chắc rằng tôi không thể ở lại cho đến ngày hôm nay.
Phía Ðức Lập, hàng tốp máy bay địch vẫn cay cú dội bom, nghe đâu ta đã đánh chiếm căn cứ hành quân của sư đoàn 23 nguỵ và đang giải phóng nốt quận lỵ.
5        giờ tối, C6 và C7 cùng đại đội hoả lực K8 đến tăng cường. Chúng tôi chuẩn bị đánh lên cửa mở.
Xẩm tối,bộ đội bò lên nằm dọc theo cửa mở, tôi nằm giữa đội hình. Lệnh cho tổ bộc phá lên đánh cường tập vào hàng rào cuối cùng giáp lô cốt đầu cầu. Cối 82, DKZ của tiểu đoàn bắn áp đảo lên cao điểm. Hai khẩu 12ly7 đưa từ bên kia bãi lầy sang lia sát sạt qua đầu chúng tôi. Một khối lửa màu da cam trùm lên, đất đá rơi lộp bộp xuống đầu, xuống cổ. Anh Tẩm hô: Trung đội một đâu! Cho bộ đội lên đi!
Quả bộc phá nổ cháy sang bãi cỏ gianh, bóng bộ đội loang loáng nhảy qua hàng rào kẽm gai, tôi sách súng, đeo túi cứu thương bò theo bộ đội. Bỗng từ trong lỗ châu mai lửa chớp liên hồi, địch bắt đầu phản kích. Cùng như một lúc, hai khẩu 12ly7 đồng loạt bắn vào lô cốt đầu cầu. Luồng đạn xanh biếc như những lưỡi gươm hút vào lỗ châu mai. Bỗng có tiếng hô từ trên cửa mở:
-12ly7 thôi không bắn nữa! Chết hết bộ đội rồi!
Ðạn nổ ù tai, lệnh truyền từ trên qua từng người mới đến khẩu 12ly7. Có ai đấy gọi xuống: Anh Hậu khẩn trương lên cấp cứu thương binh!
Chạy lên cửa mở, bộ đội nằm dọc theo sườn đồi, bên phải lửa cháy rát mặt.Tôi nhảy đại qua mấy lớp kẽm gai nhiều khi dẵm cả vào đùi, vào lưng bộ đội nằm la liệt bên dưới. Lọt vào bên trong hàng rào, bộ đội cũng tràn lên cửa mở.
-              Thương binh đâu? Ai đấy! Thằng Huấn hả!( Huấn quê ở Vĩnh Tường-VP) bị vào đâu? Cho thương binh lại đây đi!
Tôi và một chiến sỹ nữa ôm Huấn đến một hố đạn đại bác cạnh lô cốt đầu cầu, sờ lên đầu hắn thấy máu chảy lênh láng, băng xong đầu, Huấn lại chỉ xuống kheo đùi. Hai viên đạn trượt qua mặt trong phía trên đầu gối máu ra ướt đẫm quần. Lột quần dài vứt đi, tôi băng chặt vết thương lại. Hoá ra ông tướng này lên chiếm lĩnh lô cốt đầu cầu trước tiên. Ðáng lẽ phải dùng bộc phá đánh vào lô cốt, nhưng Huấn lại đứng bên trong cửa ra vào� bắn găm xuống. Bên dưới cửa mở nhìn qua lỗ châu mai thấy lửa chớp liên hồi tưởng địch bắt đầu phản kích. Thế là 12ly7 theo hợp đồng bắn lên, quân ta chiến thắng quân mình! Thật may là không có ai hy sinh.
Bộ đội bắt đầu tảo trừ trận địa, tiếng lựu đạn nổ đanh gọn, tiếng bộc phá lục bục trong hầm, AK điểm xạ từng loạt, xung quanh lửa cháy rừng rực.
Tôi bảo Huấn nằm tại chỗ rồi chạy vào trong đồn. Có một ngôi nhà mái lợp tôn,� nửa chìm nửa nổi, anh Lợi chính trị viên phó tiểu đoàn cùng anh Mão đang chỉ huy bộ đội phát triển đánh vào bên trong. Tôi bảo chiến sỹ thông tin 2w điện cho trung đội vận tải lên ngay lô cốt đầu cầu cáng thương binh về phía sau.
Lại một kho xăng bốc cháy, tiếng đạn nổ ùng oàng trong hầm, không thấy một thằng lính nguỵ nào kể cả xác chết. Có lẽ thấy Ðức Lập thất thủ, địch đã bỏ chốt chạy tháo thân từ trước rồi.
Anh Lợi nhắc anh Mão lệnh cho các mũi xung kích bảo vệ không để cháy kho chiến lợi phẩm, các mũi tiến công kết hợp chốt chặn không cho địch có cơ hội phản kích.
Qúa nửa đêm, tiếng súng thưa dần, vừa đói, vừa mệt, lúc này mới thấy khát cháy cổ. Chiến sỹ thông tin và công vụ lôi về mấy két hộp thịt gà và dò ba khoanh. Chúng tôi mở hộp ra, vừa cảnh giới, vừa bốc vừa nhúp, đào đâu ra bát đũa bây giờ!?
Sáng hôm sau, hai bàn tay băng bó cho Huấn máu nhuộm đỏ lòm, riêng bốn ngón tay đêm bốc thịt hộp tôi đã mút sạch tưng, khiếp quá!

Nắng lên, toàn cảnh căn cứ Ðăk Sắc phơi bày trước mặt, những ngôi nhà bị đạn pháo bắn siêu vẹo, tan hoang. Những lô cốt và căn hầm xụp đổ, lửa cháy nhem nhuốc khét lẹt mùi cao su. Bộ đội tiếp tục truy tìm hầm ngầm và thu gom chiến lợi phẩm. Nhìn về phía sau cứ điểm, những vạt rừng cà phê đang vào mùa nở hoa trắng xoá, phía xa kia, thấp thoáng mái nhà tôn chìm dưới bóng dừa và hàng cây ăn quả. Giá như hiện hữu không phải là chiến tranh thì cuộc sống thật thanh bình và yên ả làm sao.
6 giờ 5 phút ngày 10 tháng 03, hướng quận lỵ Ðức Lập, đại liên kéo từng băng dài, pháo và bom vẫn nổ ùng oàng, từng cột khói bốc lên nhìn rõ mòn một. 8 giờ 30 phút quân ta làm chủ hoàn toàn quận lỵ. Bắt sống 50 tù binh và tên trung tá quận trưởng.
Khoảng 15 giờ chiều ngày 10 tháng 03. Chúng tôi được lệnh quay lại vị trí tập kết nhận thêm cơ số đạn, cho tăng võng vào gùi, theo trinh sát cắt rừng về phía đông.
Qua những cánh rừng thưa và nương cà phê trổ hoa ngào ngạt, hành quân trên mấy vạt nương dân làm dang dở, chúng tôi chui vào một sườn đồi cà phê lúp xúp. Phía dưới là xã Ðức Minh , một ngôi làng mà đứng ở trên chốt tôi thấy nó rất gần cứ điểm với mái nhà tôn lấp loá, thanh bình.
Ơ đấy có hai đại đội bảo an và một số tàn binh từ Ðức Lập chạy về co cụm lại. Ðại đội 6 và đại đội 5 chia làm hai mũi tiến công Ðại đội 5 do đại đội trưởng Trần Ðới và chính trị viên Lê Hải Triều trực tiếp chỉ huy. Ðứng ở trên cao, nhìn mặt trận bên dưới rõ mồn một, ta đánh đến đâu, khói bao trùm đến đấy. Tiếng đại liên và AR15 của địch chống trả quyết liệt, AK điểm xạ, lựu đạn và B40 ùng oàng, lửa cháy rừng rực khi một phát B40 bắn ra. Tôi ngồi cạnh đài 2w của tiểu đoàn bộ, nghe các thông tin đi tăng cường cho đại đội truyền lệnh bằng mặt mã cho nhau. Một chiến sỹ thông tin theo hướng của C6 hy sinh, chiến sỹ thông tin khác khoắc 2W lên vai theo trinh sát chạy xuống tăng cường ngay. Phía trước chiến sự sảy ra ác liệt, lửa khói chùm lên những ngôi nhà và hàng cây ăn quả, C7 chúng tôi chuẩn bị xuất kích.
Bỗng một thông tin của C5 đang truyền mật mã, bỏ luôn mật khẩu gào lên trong máy:
-Anh bảo thằng C6 đừng bắn vào khu nhà thờ nữa! Bắn hết vào C5 rồi!
Tiếng nổ thưa dần, ta đã chiếm được khu nhà thờ, tàn binh địch bỏ chạy vào rừng, C5 và C6 tổ chức thu gom chiến lợi phẩm, bắt tù binh và làm công tác dân vận. C7 của chúng tôi nhận lệnh hành quân tiếp về phía đông.
Trong khi các đơn vị trong trung đoàn đánh chiếm quận lỵ Ðức lập, tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 phối hợp cùng tiểu đoàn 2 đặc công 198 đánh chiếm căn cứ Ðak Song do tiểu đoàn 1 trung đoàn 53 nguỵ chiếm giữ.
Bắt đầu từ 5 giờ sáng ngày mùng 9 tháng 3 cho đến� 17 giờ chiều ngày 10 tháng 3 cán bộ chiến sỹ sư đoàn 10 đã đập tan tuyến phòng thủ phía tây, giải phóng một địa bàn quan trong, bắt tù binh, thu vũ khí làm bàn đạp cho chiến dịch đánh chiếm thị xã Ban Mê Thuột.
Ngày 11 tháng 3 chúng tôi đóng quân trên một khu rừng lưa thưa toàn le và nứa, chờ xe về đón, tăng cường cho trận Ban Mê Thuột.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #19 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2012, 02:50:31 pm »

Tăng cường cho mặt trận ban mê thuột
Hành quân chặn địch đổ bộ xuống phước an


Tại mặt trận Ban Mê Thuột - 2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 trung đoàn đặc công 198 mở màn nổ súng tiến công khu kho Mai Hắc Ðế, sân bay thị xã và sân bay Hoà Bình. Pháo binh ta dồn dập bắn phá chỉ huy sở sư đoàn 23 nguỵ, tiểu khu Ðăk Lắc, khu pháo binh và khu thiết giáp.
Trung đoàn 95B sư 10 đánh qua sân bay thị xã, chọc thẳng vào ngã sáu và chiếm tiểu khu Ðăk Lắc.
Hướng tây bắc, trung đoàn 148 cùng xe tăng đánh chiếm khu thiết giáp, khu pháo binh. Trung đoàn 174 tiến công khu kho Mai Hắc Ðế, cư xá sỹ quan và đánh sang khu truyền tin.
Mũi thọc sâu binh chủng hợp thành của sư đoàn 10, có xe tăng và xe bọc thép chở quân, băng qua lô cà phê và chè tiến vào cửa mở. Trung đoàn 24 thọc qua khu gia binh tiến về khu truyền tin. Ðến 10 giờ ngày 10 tháng 3 ba mũi thọc sâu của sư đoàn 10 đã phát triển đến khu cột cờ. Tại đây, trận kịch chiến ác liệt xảy ra, địch dùng bom oanh kích vào các mũi xung kích của ta, chúng tổ chức các đợt phản kích có xe tăng yểm trợ. Trung đoàn 24 và lữ đoàn xe tăng 273 bình tĩnh dùng súng 12ly7 đánh trả máy bay địch. Các mũi tiến công đã áp sát chỉ huy sở sư đoàn 23 nguỵ. Ta mở nhiều đợt đánh chiếm chỉ huy sở, địch điên cuồng phản kích, bom ném tràn trên cửa mở, súng phun lửa thiêu cháy cỏ và hàng rào kẽm gai. Bộ đội áp sát, xe tăng dẫn đường trong khi chưa có công sự che đỡ. Có hai chiếc xe tăng của ta bị cháy, một chiếc khi vượt qua chướng ngại vật cắm nòng xuống đất, lực lượng thọc sâu của ta lúc này có nhiều tổn thất.
Ðêm 10 tháng 3, ta củng cố lại lực lượng, các mũi xung kích tranh thủ đào hầm hào, bổ xung thêm súng đạn. Sư đoàn 10 điều thêm trung đoàn 28 và lực lượng còn lại của trung đoàn 66 phía sau lên tăng cường cho trung đoàn 24.
5 giờ 30 sáng 11 tháng 3, ta mở đợt công kích cuối cùng vào chỉ huy sở sư 23 nguỵ. Ðạn pháo và hoả tiễn của ta phá huỷ hầu hết các lô cốt và ổ đề kháng của địch, bồn xăng trong sở chỉ huy bốc cháy, địch ngoan cố dùng máy bay ném bom bừa bãi và cho xe tăng xe bọc thép M113 ra bịt cửa mở.
Trung đoàn 95B và đại đội xe tăng đoàn 273 từ tiểu khu ÐăkLăc tiến sang phối hợp cùng trung đoàn 24 đánh vào cửa mở. Ðến 11 giờ, các mũi tiến công binh chủng hợp thành của sư đoàn 10, trung đoàn 95B và trung đoàn 174 sư 316 đã hợp điểm tại sở chỉ huy sư đoàn 23 nguỵ. Bộ chỉ huy sư đoàn 23� bị tiêu diệt, dại tá Vũ Thế Quang - Tư lệnh phó sư đoàn, chỉ huy trưởng mặt trận phía nam và đại tá Nguyễn Trọng Luật tỉnh trưởng ÐăkLắc bị bắt sống. Thị xã Ban Mê Thuột gần như đã hoàn toàn giải phóng.
Khoảng 18 giờ ngày 11 tháng 3, hai chiến sỹ trung đội vận tải K8 đi cáng thương binh, trên đường về tiểu đoàn bắt được 3 tên tù binh. Chúng đói khát, mệt mỏi lang thang� mò ra đường đi vào xã Ðức Minh. Có một tên trung tá, hắn sinh quán tại quận Hai Bà Trưng � Hà Nội, di cư vào nam năm 1954. Hiện nay là trung đoàn phó trung đoàn 53 nguỵ bị bắt cùng với một sỹ quan hậu cần và một lính công vụ. Tên trung tá bị thương gãy nát cánh tay trái, chúng bẻ cây rừng nẹp lại với một đụn thịt tím ngắt, lòi ra thối khủng khiếp. Có lẽ do quá đuối sức, chúng ra đường định nhờ xe dân chạy chốn không ngờ lại bị bắt. Khi bị dẫn giải, tên trung tá ỳ ra, không chịu đi bộ, người trung đội trưởng vận tải bảo: �Ðến bố mày đây cũng còn phải đi bộ! mày có đi hay ở lại!? không đi thì cho chúng mày về chầu âm phủ!�
Thằng trung tá quỳ xuống chìa chiếc ảnh hai đứa con ra, xin bộ đội giải phóng tha chết và dìu nhau đi.
Sáng hôm sau, chính trị viên phó tiểu đoàn gọi tôi lên, ông bảo:
- Anh Ðào Y sỹ tiểu đoàn (Hiện nay là viện phó bệnh viện đa khoa Yên Bái) cùng đội hình tiền trạm đã đi trước rồi! Ðồng chí sử lý lại cánh tay thằng này không thì nhiễm trùng mất!
�Nhìn cánh tay hắn ròi đẻ lúc nhúc, thịt đã phù nề thối đến ngạt thở, tôi bảo:
Báo cáo thủ trưởng, ở đây y tá đại đội không đủ điều kiện để giải quyết vết thương này. Mở ra bây giờ rất phức tạp, tốt nhất dọc đường gửi nó lại ở một đội phẫu nào đó!
Ðến quá trưa, chúng tôi lên xe chạy về Ban Mê Thuột, lũ tù binh cho chúng nó ngồi sau cùng. Mỗi khi xe dừng lại, mùi thối từ cánh tay tên trung tá xông lên, bộ đội cay cú bảo: Ðạp cổ cái thằng đuổi tây quá đà ấy xuống! Thối hơn mở mả!
Quá nửa đêm, xe đổ chúng tôi xuống một nương cà phê phía đông Ban Mê Thuột, trên trời có chiếc C130 thả đèn dù, đạn 20 ly bắn xuống, pháo phòng không 37 của ta bắn lên từng chùm đạn đỏ rực. Lợi dụng ánh đèn pháo sáng, ngại đào hầm, tôi mắc võng cạnh một cái hố dân đào giữa hai luống cà phê để bón phân thì phải.
Sáng 13 tháng 3, máy bay địch thay nhau oanh kích vào trung tâm và ngoại vi thị xã. Có một đơn vị pháo phòng không cạnh chúng tôi đánh trả quyết liệt. Ðịch ném bom xuống rừng cà phê, khói đen che phủ phía mặt trời mọc. Khi hành quân qua đơn vị pháo 37, tôi nhòm vào một chiếc xe bọc thép K63 của ta, có hai chiến sỹ phòng không hy sinh được đặt ngay ngắn trên ban căng.
Chúng tôi loanh quanh trong rừng cà phê, mùi hoa thơm xen lẫn mùi thuốc súng, có một nương hồ tiêu thoạt đầu tôi cứ tưởng dây trầu thế mà chẳng thấy có vườn cau nào cả.
Ðịch cay cú hô hào tái chiếm Ban Mê Thuột, chúng huy động tối đa máy bay, pháo binh và thiết giáp, đưa liên đoàn biệt động số 21 dùng trực thăng đổ quân xuống quận lỵ Phước An. Buổi tối, chúng tôi được lệnh cắt ra hướng Phước An đánh quân đổ bộ. Ðường hành quân toàn đi trên nương đồi, phía trước bom toạ độ, pháo bắn từng chập lại rộ lên. Bên phải, bên trái có những dải đen xẫm không biết làng bản hay là rừng cà phê, tiếng chó cắn ông ổng vẳng ra. Có ai đấy đi sau đẩy vào lưng tôi: Bám sát lên đi! Người đi trước lạc đường là kéo theo cả một đoàn quân đấy!
Tang tảng sáng thì đến một cánh rừng thưa, cây cối lúp xúp không mắc được võng, lệnh rừng lại, ngồi xuống là hai mắt cứng đờ, tôi dựa vào ba lô ngủ mất.
Bộ đội tản ra các ụ đá nhấp nhô tranh thủ ngủ lấy sức, anh nuôi gạn nước từ vũng lầy nấu cơm. Chưa ăn xong đã có lệnh quay lại nhận nhiệm vụ khác.
Khoảng 19 giờ tối, chúng tôi leo lên đường 14 phía bắc Ban Mê Thuột. Gió đông thổi thốc lên mát lạnh, đang hành quân chui luồn qua nương đồi, nay đi trên mặt nhựa rộng rãi, phẳng lỳ thấy thoải mái quá. Phía sau chúng tôi là Ban Mê Thuột, ánh đèn hoả mai và tiếng bom vẫn chưa dứt, hình như tất cả chiến tranh đang dồn vào thị xã.
Ðại đội tôi dẫn đầu đội hình. Bộ đội bắt đầu chủ quan coi như đây đã là vùng giải phóng. Ðoàn người từ hàng một dồn lên hàng ba, hàng bốn, nói chuyện rì rầm.
Vừa đi, vừa nghỉ, cứ dừng lại ngồi xuống là ngủ gật. Quá nửa đêm, cơn buồn ngủ không thể cưỡng lại được, gần nửa tháng hành quân liên miên, những ai ở trong hoàn cảnh này mới thấy sự kỳ diệu của con người: Vừa đi, vừa ngủ, người sau gục vào ba lô người đi trước mà ngủ. Không hiểu chúng tôi ngủ kiểu gì, trong đầu thì mê đi mà chân vẫn bước lẹp kẹp theo đội hình. Tôi cứ nửa tỉnh, nửa mơ như vậy không biết bao lâu bỗng một loạt đại liên bắn ngay trước mặt. Tôi nhoàng dậy thấy luồng đạn từ bên trái đỏ lừ cắt ngang đội hình cách tôi vài mét. Bộ đội chạy tản ra, phía sau lùi lại, tôi sờ xuống, thấy mặt nhựa phẳng lỳ vội vàng lăn mấy vòng sang bên phải, nằm bẹp ven mép tà luy đường. Nhìn sang bên trái, có một chiếc cổng với những tàu lá chuối bay lật phật trong đêm. Hình như đây là một bản dân tộc vẫn còn tàn binh địch, một nhóm cảnh giới với khẩu đại liên chốt chặn ngoài bản. Ðịch ngủ gật, khi tỉnh dậy thấy bộ đội đã đi ngang qua, chúng chỉ còn kịp bắn một loạt đạn thế rồi tháo thân. Tôi nghe bước chân chạy thình thịch và tiếng chó cắn cứ sâu dần vào trong bản. Rất may là nó bắn cắt ngang qua đường, nếu chúng quét dọc theo trục lộ thì không biết bao nhiêu người hy sinh.�
Xung quanh tĩnh lặng, không thấy ai kêu cứu, phía trước có người bò lệt sệt, tôi gục xuống và ngủ lịm đi.
Gần sáng, có người kéo áo tôi: Ai đấy! Hậu hả! Dậy đi! Có ai bị thương không? Bộ đội quay lại hết rồi!
Tôi nhoàng tỉnh, nhận ra anh Mão chính trị viên đại đội. Tôi bảo: Em nằm từ lúc ấy đến giờ mà không nghe thấy ai kêu cả!
May qúa nếu không có anh Mão lên tìm, chắc chắn tôi sẽ làm một giấc cho tới sáng.
Ðội hình tiểu đoàn đang vượt qua một bãi lầy. Bên phải đường là một tràn ruộng cấy, có một con suối chảy ngang qua, bùn sôi ùng ục dưới chân. Leo lên một vạt nương với những bụi chuối tối xẫm, anh Mão và tôi vượt lên đuổi theo đơn vị.
Trời sáng dần, sương rơi ướt đẫm, những bụi chuối lờ mờ hiện ra:
-Này, đại đội 8 đã vượt đường xong chưa?
-Báo cáo, Còn hai trung đội nữa đang vượt qua bãi lầy!
-Khẩn trương lên, dồn lên đi! Tổ chức cho bộ đội vượt nhanh trước khi trời sáng!
Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra người trung đoàn phó trực tiếp đi theo cánh quân của tiểu đoàn 8 chúng tôi.( Rất tiếc đến giờ này tôi vẫn chưa nhớ nổi tên )
Sáng rõ, có tiếng đại liên và súng cối nổ ngoài bãi lầy, bộ đội chen nhau vượt lên. Người đại đội trưởng hoả lực chạy ào đến:
-         Báo cáo, trung đội 12ly7 của C8 chưa sang hết! Ðịch đang bắn vào đội hình của ta! Xin ý kiến thủ trưởng!
-         Sao các anh ngu thế! Người trung đoàn phó gầm lên. Hoả lực trong tay, địch thì bắn vào đội hình mà không biết làm gì à! Cho bắn 20 quả cối 82 vào bản!
Chỉ một lúc sau, tiếng cối của ta đáp lại thật đanh thép, súng 12ly7 quét hàng băng dài qua bãi lầy, địch quăng cối tán loạn chạy vào trong bản, cối 82 dồn theo.
Nắng bắt đầu gắt, từ mờ sáng đến giờ chưa hề gặp một con suối nào. Tất cả bằng phẳng như mặt sân bóng đá, đất đỏ ba zan tơi xốp. Chúng tôi hành quân trong một nương chuối và đu đủ quả chín rục trên cây. Thỉnh thoảng qua vạt nương khoai lang chỉ cần đạp nhẹ một cái là dây và củ bật ra, thế mới biết đất ở đây tốt như thế nào.
-         Trung đoàn truyền xuống: Tất cả bám sát đội hình, các đơn vị bảo đảm công tác dân vận, không lấy hoa quả của dân!
Qúa trưa,� khát cháy cổ, các bi đông nước đã dốc ngược, vẫn không thấy một khe suối nào để nấu cơm. Nắng gắt càng làm cho đội hình mệt mỏi, chệch choạc, không khác gì quân Tào Tháo hành quân thời chiến quốc. Bộ đội phải dùng dao găm đâm vào gốc chuối lấy nước uống, nước chát sít hôi mùi nhớt sên. Không nấu được cơm, đành phải lấy chuối chín và đu đủ ăn lấy sức để hành quân.
Khoảng 13 giờ chiều, chúng tôi được lệnh tản ra các bụi chuối thay nhau cảnh giới và ngủ lấy sức. Bỗng có tiếng B40 nổ, tiếng đạn cực nhanh loạn xạ, các trung đội chuẩn bị xuất kích. Súng nổ một chập rồi im lặng, có một toán tàn binh địch gặp đội hình thu dung của ta và xảy ra cuộc đọ súng trên. Có lẽ do lực lượng hai bên qúa chênh lệch, địch tháo chạy và gọi cối 106,7 câu đến. Có tiếng nổ đầu nòng của khẩu cối đâu đó khá xa, tiếng ro ro của quả đạn bay đến rồi nổ phía trước, phía sau, lung tung cả.
Chiều, chúng tôi tiếp tục hành quân, tối mịt mùng vẫn không ra khỏi cái vườn đu đủ ấy. Vừa đói, vừa mệt, các đại đội chia nhỏ ra từng tổ, thay nhau gác và ngủ nhịn qua đêm.
Khoảng 9 giờ sáng ngày hôm sau mới ra khỏi vườn cây ấy, tìm được một khe suối bên vạt rừng le lưa thưa, bộ đội dừng lại nấu cơm.
Ngày 15 � 03 ta bao vây liên đoàn biệt động 21 và trung đoàn 44 của sư 23 đổ bộ xuống khu vực quận lỵ Phước An. Sư đoàn điều trung đoàn 24 tăng cuờng xe tăng và pháo binh vòng về hướng tây nam đánh chiếm khu Nông trại rồi tiến về ngã ba Phước An. Trung đoàn 28 hành quân bằng xe tăng cơ giới� theo trục lộ 21 bao vây phía đông bắc quận lỵ. Ngày 16 tháng 3 quân ta đồng loạt tiến công địch khu vực Nông trại, Chư cúc và liên đoàn 21 biệt động ở Phước An. Bao vây quân địch co cụm tại căn cứ B50 �(Hoà Bình). Ngày 16 tháng 3 trung đoàn 24 đánh chiếm Nông Trại, K7 và K9 trung đoàn 66 cùng trung đoàn 149 tiến công san phẳng căn cứ B50 (Hoà Bình), Ngày 17 tháng 3 trung đoàn 28 tiến đánh trung đoàn 24 nguỵ chốt chặn đường 21 và khu vực Phước An. 12 giờ trưa ngày 18 tháng 3 tổng công kích vào cứ điểm Chư Cúc.
Trong chiến dịch tiến đánh quân đổ bộ xuống Phước An. Ta tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng còn lại của sư đoàn 23 và liên đoàn 21 biệt động Sài Gòn, bắt sống hàng ngìn tên, thu vũ khí và phương tiên chiến tranh của địch.
Sau chiến thắng Ban Mê Thuột và tiêu diệt quân đổ bộ xuống quận lỵ Phước An. Chính quyền Thiệu hoảng loạn ra lệnh rút khỏi cao nguyên trung phần. Một cuộc di tản chưa từng có xảy ra: Trên các trục lộ 7,14, 19 hàng đoàn xe, pháo, xe quân sự, xe dân sự chen chúc hỗn loạn trên đường. Quân ta thừa thắng truy đuổi, cắt đường tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân đoàn 2 nguỵ.
Mặt trận đã chuyển sang bước ngoặt mới, khẩu hiệu thấn tốc sốc tới Giải phóng miền nam được phổ biến đến các đơn vị. Tất cả cứ sôi lên sùng sục: Hệ thống phòng thủ phía bắc quân khu 1 bị vỡ, ta giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị, bao vây thành phố Huế. Lực lượng quân khu 5 các tỉnh Bình Ðịnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi nổi dậy bức hàng và bức rút hàng loạt căn cứ quân sự, tiến gần xung quanh Ðà Nẵng. Mặt trận đông nam bộ và nam bộ cũng đồng loạt tiến công phối hợp với chiến trường Trị Thiên Huế đánh chiếm nhiều căn cứ hành quân của địch.
Logged

Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM