quanvietnam
Thành viên
Bài viết: 202
|
|
« Trả lời #189 vào lúc: 12 Tháng Mười Hai, 2012, 10:24:14 am » |
|
CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH 2- Về nhà Tôi cắm đầu cắm cổ đạp băng băng, thi thoảng cả xe và người nẩy tung lên, những lúc như vậy là xe gặp phải ổ gà mà không kịp tránh, được cái, sau những cú như vậy tôi thấy xe và người không bị sao nên vẫn cứ duy trì tốc độ. Trong đầu tôi lúc này, chỉ nghĩ sắp được về gặp mẹ là tôi quên cả mệt, lại mím môi mím lợi đạp cho nhanh. Cũng có lúc tôi nghĩ: Đi như thế này nhỡ hỏng xe thì không có chỗ mà sửa, tiền thì bây giờ không lo nữa rồi vì ban nãy chị gái đã kịp dúi vào tay tôi mấy đồng, điều đáng lo bây giờ là chỗ sửa xe, rõ ràng càng cách xa thị xã càng hiếm hiệu sửa xe, về vùng nông thôn có khi còn không có. Nghĩ thế, nên tôi giảm tốc độ, nhưng chỉ được một lát thì chứng nào lại tật nấy, vẫn những cú sóc tung trời. Dọc đường quốc lộ số 1, từ thị xã Ninh Bình xuôi về huyện Yên Mô. Đoạn đường này, đường sắt và đường bộ chạy song song với nhau, có chỗ thì nhập vào, cũng có chỗ thì tách ra. Cánh đồng hai bên đường chi chít những hố bom, hố to, hố nhỏ, chồng chồng lớp lớp. Các hố bom do quá sâu, không thể canh tác được gì đành bỏ hoang, nhìn thấy chỉ toàn nước là nước, lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi xế chiều. Từ khi Đế quốc Mỹ dừng ném bom phá hoại Miền Bắc đến giờ mới được mấy năm, đường xá cầu cống cũng chỉ mới sửa tạm nên còn khó đi, nhưng chẳng sao, đi được là tốt rồi. Ruộng đồng, những chỗ còn trồng cấy được thì dân tranh thủ tận dụng, những chỗ không tận dụng được thì để hoang hóa, cây Năn cây Lác mọc um tùm hoang dại. Bên đường những cây xà cừ còn sót lại sau những trận bom, bây giờ trông to lớn cành lá xum xuê, tỏa bóng mát xuống mặt đường nhựa bong tróc nham nhở. Mấy bà bán hàng nước, lợi dụng bóng mát của những cây bạch đàn, kê chiếc trõng tre bên gốc cây, trên mặt trõng bầy la liệt hàng hóa nào là kẹo lạc, kẹo dồi, kẹo sữa, hoa quả, đủ loại mỗi thứ một tý, nhiều hơn cả vẫn là hai mặt hàng: Chuối và Bưởi. Quen thuộc nhất vẫn là ấm nước chè xanh, quán nào cũng có chồng bát úp bên cạnh để rót nước chè xanh, có một vài người khách đang ngồi uống nước chuyện trò cười nói râm ran, nhìn họ tự nhiên tôi có cảm giác khát nước, kể ra bây giờ dừng lại làm bát nước chè xanh thì quá tuyệt vời. Nghĩ thế, nhưng chân vẫn đạp đều đều, vì đường về nhà còn xa lắm. Đến cây số 9, tôi vượt qua đường tầu hỏa đi vào đường tỉnh lộ 59 để về Yên Mô. Từ đây về nhà còn khoảng 14 đến 15 cây số nữa, nhà tôi ở ngay mặt đường này. Hoàng hôn đang đuổi theo phía sau lưng, bóng tôi đổ dài về phía trước. Gió Đông từ biển thổi vào mang theo hơi nước, cộng với mồ hôi, làm tôi có cảm giác lành lạnh. Ngắm nhìn quê hương trong buổi chiều tà, khi ánh hoàng hôn sắp tắt mà héo hắt cả ruột gan. Vốn dĩ quê tôi đã nghèo, nay lại gồng trên lưng những vết thương chiến tranh, nên lại càng nghèo hơn. Khói lam chiều đã lan tỏa trên những mái tranh sau lũy tre làng. Trên cánh đồng người nông dân vẫn đang cặm cụi làm cố những công việc còn lại trước khi trời tối. Những con đường mòn về làng, từng tốp trẻ chăn trâu hồn nhiên vô tư nô đùa, những con trâu con bò cũng đang cố gặm thêm những ngọn cỏ cuối cùng trong ngày để không bị đói qua một đêm dài. Tình hình này, chắc nồi cơm của các gia đình bữa tối nay, vẫn chất độn nhiều hơn cơm, đã thế mà ăn cũng không đủ no. Chiếc xe đạp của tôi cứ nhảy tưng tưng trên những hòn đá to bằng đầu gối trơ lỳ, lớp đá dăm chèn và lớp ma hao do lâu năm quá bây giờ chúng chạy đi đằng nào không biết, mặt đường chỉ còn trơ khấc lại những hòn đá nhẵn thín lầm lụi theo thời gian. Xóc quá, tôi điều khiển chiếc xe đi vào những lối mòn của người đi bộ, nhưng rồi cũng chỉ được từng đoạn, cuối cùng vẫn phải chấp nhận người và xe cùng nhảy tưng tưng trên mặt đường. Gần về đến nhà, tự nhiên tôi thấy trong tôi trào lên niềm vui lâng lâng. Nghĩ lại: Cuộc chiến tranh vừa qua ác liệt là vậy, tôi thì đi chiến trường, bố tôi, các anh các chị, kể cả nhà tôi đều ở trong vùng trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Thế mà, cả nhà tôi không ai bị sao cả, ơn Trời Đất thật là may mắn. Lần này tôi về sẽ gặp được đầy đủ mọi người trong gia đình, trừ ông anh cả, anh cả tôi là giáo viên dạy cấp hai. Ban nãy chị gái tôi kể: Ngay từ khi chưa giải phóng Sài Gòn thì Bộ và Sở Giáo dục đã huy động các giáo viên lên đường vào Miền Nam để tiếp quản công tác giáo dục của vùng giải phóng. Nghe nói lệnh cũng gấp lắm. Thế là anh cùng các đồng nghiệp vội vã lên đường. Tôi nghĩ: Có lẽ anh hành quân vào khi chúng tôi hành quân tiến vào giải phóng Sài Gòn. Anh tôi đi công tác, ở nhà chắc là chị dâu tôi với các cháu sẽ vất vả. Nhưng thời buổi này có ai là không vất vả đâu, nhất lại là chị em phụ nữ. Có một điều mà tôi rất ân hận, chỉ vì bất cẩn của tôi mà làm khổ bố mẹ và tất cả mọi người trong gia đình phải lo lắng. Chị gái tôi bảo: Mấy bữa trước, có một anh bộ đội cầm thư đến đưa cho chị, lúc ấy chị không có nhà, anh bộ đội ấy lại rất vội. Thấy vậy, mọi người trong cơ quan bảo anh bộ đội cứ để thư ở đây rồi tý nữa chị ấy về sẽ nhận, anh bộ đội cứ đi ra lại đi vào, có vẻ không yên tâm lắm, nhưng vì đợi lâu quá nên anh đành để lại và nói với mọi người: Đây là thư rất quan trọng, mong mọi người chuyển đến tận tay người nhận. Chị về, mọi người đưa thư cho chị, khi mở ra xem thì có một tấm ảnh rơi ra, chị nhặt lên nhìn thì không phải là em, người chị lạnh toát, tóc gáy dựng ngược lên, chị đọc thư thì chỉ vẻn vẹn có mấy dòng: Bố mẹ kính yêu! Con đã về Miền Bắc, mấy bữa nữa con sẽ về nhà. Con của bố mẹ. Em ký tên nhưng không viết rõ họ tên, nhìn chữ viết có chữ thì giống chữ em, có chữ thì không. Chữ viết có vẻ nguệch ngoạc và run rẩy, giống như bị thương hay là ai bắt chước chữ của em. Từ lúc nhận thư ấy, chị vừa mừng vừa lo. Mừng là vì, bặt đi ngần ấy năm không có tin tức gì, bây giờ mới nhận được tin em. Trong khi đó ở quê, chỉ sau giải phóng được ít ngày thì nhiều người cũng đã nhận được tin tức của người thân, còn em thì vẫn bật vô âm tín. Lo vì không biết có phải là em không hay là người đưa thư nhầm địa chỉ. Chị không biết làm thế nào, đành viết thư nhờ người cầm về cho bố. Chị nói với bố, thông tin này chưa cho mẹ biết vội. Bởi vì thời gian này do chưa nhận được tin em, mà mẹ lại nghe nhiều tin đồn thổi, lành ít giữ nhiều, mẹ cứ ốm lên ốm xuống, rồi trốn cả bố đi đến những thầy cao tay để xem bói. Nhà thì đã nghèo, lấy tiền đâu để mua lễ rồi đặt lễ để cầu khấn, đã thế: Lắm thầy thì thối ma, mỗi thầy nói một phách, người bảo chết rồi, người bảo còn sống, mẹ cứ cuống lên không biết phải làm thế nào, thế là ốm, nhiều hôm mẹ không ăn không uống gì cả, làm cả nhà lo lắng. Thật là một việc làm bất cẩn và đáng trách, số là: Hôm ngồi trên tầu đi qua đất Thanh Hóa, chẳng hiểu thế nào, tôi hứng chí viết mấy dòng nhờ anh bạn xuống ga Ninh Bình, chuyển vào cho chị tôi để báo tin là tôi đã về. Tầu chạy rung bật bật, bàn không ra bàn, bút mực cũng chẳng ra hồn bút mực, hơn nữa cũng đã lâu không viết nên nét chữ nguệch ngoạc, đã thế lại chỉ ký tên, cộng với tấm ảnh của thằng Tuân quê ở Thanh Hóa tặng tôi làm kỷ niệm, tôi đút vào túi áo ngực cùng với lá thư tay, chẳng hiểu thế nào mà tấm ảnh lại chui được vào nếp gấp của bức thư. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy ân hận quá, nhưng vẫn còn may là tôi sắp về tới nhà. Cho đến lúc này, những thông tin cở bản về gia đình tôi đã nắm được, những thông tin ấy làm tôi vui lắm, vui nhất là cả nhà tôi bình an vô sự. Tuy nhiên, niềm vui của tôi, tự tôi cảm thấy là chưa trọn vẹn, bởi vì mối quan tâm của tôi không chỉ tập trung vào gia đình mà còn tập trung vào Vân nữa. Gia đình thì tốt rồi, còn Vân thì sao? Biết bao nhiêu câu hỏi cứ quay cuồng trong đầu tôi, tôi trách chị tôi sao lại không giữ cẩn thận những bức thư mà Vân đã gửi, để đến bây giờ thất lạc lẫn lộn ở đâu mà tìm không thấy. Nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, mình trách chị là hơi quá, bởi vì trong hoàn cảnh chiến tranh, giặc Mỹ bắn phá Miền Bắc, chồng chị thì đi bộ đội. Ở nhà, chị một nách hai đứa con thơ, chị lo chống chọi và lăn lộn với cuộc sống cho mình rồi cho các con, làm gì còn thời gian mà quan tâm đến những bức thư của Vân gửi. Tôi lại tự an ủi mình, vẫn còn cơ hội gặp lại. Về đến nhà. Nhà tôi vị trí vẫn như xưa, nhà hướng Đông, lưng quay ra đường, nhà chạy song song với đường tỉnh lộ 59. Mấy năm qua chắc cũng có nhiều thay đổi, điều thay đổi đầu tiên mà tôi nhận được ngay, mặc dù trời cũng đã tối hẳn. Đó là dặng tre gai, bây giờ nhìn nó giống như một nửa cổng chào bắc qua đường, gốc vẫn ở chỗ cũ ngọn vươn sang cả sang bên kia đường, đã thế hàng ngày trâu bò đi qua đây đều cọ mình vào dặng tre, lâu ngày tạo nên bức tường toàn bằng tre ken xít vào nhau, uốn cong cong trông đẹp mắt. Tôi không biết dặng tre này có từ bao giờ, nghe bố tôi bảo: Ngày xưa ông nội tôi trồng để ngăn cách giữa đường và nhà, mục đích là không cho xe “Cóc” của bọn Pháp ở bốt Tiên Nông đi càn lội vào vườn vào nhà. Trời tối quá, tôi không giám đi thẳng xe vào sân, hồi còn ở nhà tôi hay đi như vậy. Nhưng hôm nay tôi xuống xe và dắt bộ, hai con chó bằng đá ở hai bên đầu cổng đang nhìn tôi, chúng có từ khi nào tôi cũng không rõ, nhưng nó gắn liền với tuổi thơ của tôi, bao nhiêu năm tháng đã qua đi mà nó vẫn bền bỉ đợi tôi về. Cây nhãn đầu hồi nhà bây giờ trông có vẻ như to lớn hơn, mấy cây na vẫn còi cọc như xưa. Bước chân vào sân, một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi, toàn thân nổi da gà, tóc gáy dựng đứng. Tôi hồi hộp quá, tôi như đang mơ, chân bước không thật, mảnh đất dưới chân tôi như đang nghiêng đi. Trong nhà tối om, ánh lửa từ dưới bếp hắt lên trên nhà, cái mà tôi nhìn thấy đầu tiên là chiếc xe đạp của bố tôi đang dựng ở ngoài sân. Tôi mừng quá, vậy là bố tôi hôm nay cũng có nhà, chắc là ông vừa ở cơ quan về nên xe vẫn còn để ở ngoài sân. Tôi dựng xe rồi đi xuống bếp, ánh lửa từ trong bếp hắt ra, tôi nhìn thấy mẹ tôi đang nấu một nồi gì đó ở trên bếp, bà đăm chiêu ngồi nhìn những cọng rạ bị ngọn lửa thiêu cháy thành than đỏ rực cong keo, những tàn lửa đỏ nổ lép bép bay lên và chui vào bóng tối. Tôi đứng ngắm mẹ tôi mà rưng rưng nước mắt, tôi cố kêu lên một tiếng: -Mẹ ơi! Nhưng không hiểu vì sao cổ họng của tôi như bị nghẹn lại không bật ra thành tiếng. Như có linh tính, mẹ tôi nhìn ra ngoài cửa bếp, trong ánh lửa bập bùng, mẹ tôi nhìn thấy một chú bộ đội. Đột nhiên tôi bừng tỉnh, ào vào ôm lấy mẹ tôi. Mẹ khóc, con khóc. Lửa cháy tràn ra cả ngoài bếp mà cả hai mẹ con vẫn ôm nhau khóc.Tôi từ từ đỡ mẹ tôi ngồi xuống, tôi nghe có nhiều tiếng chân người đang tiến về phía cửa bếp, tôi nhìn ra: -Ôi! Bố. Chỉ kịp nói có thế là tôi lao ra ôm lấy bố tôi và các em. Bố tôi và các em tôi, ôm tôi vào trong vòng tay của họ, người bố tôi và hai thằng em trai của tôi bóng nhãy mồ hôi, có lẽ họ đang làm gì đó ở ngoài vườn, thấy có tiếng khóc của mẹ tôi nên mọi người ùa vào. Bố con, anh em ôm nhau, không ai nói câu nào, một lát sau mọi người buông tôi ra. Mẹ tôi khêu cho ngọn lửa cháy to hơn, tôi thấy mẹ tôi, bố tôi và các em tôi đang nhìn tôi chằm chằm, hình như mọi người đang cố phát hiện xem có điều gì khác lạ trên cơ thể của tôi không? Tôi hiểu được ý của mọi người, tôi nói: -Con không bị thương vào đâu cả, bố mẹ đừng lo. Đã qua đi những phút giây xúc động của ngày gặp mặt, mọi người vẫn chưa hết bàng hoàng, cho đến lúc này vẫn chưa thấy bố mẹ và các em nói gì với tôi hay hỏi han tôi câu nào, họ đau đáu nhìn tôi, có lẽ niềm vui đến bất ngờ quá làm cho mọi người còn đang ngây ngất tận hưởng niềm vui mà quên mất những điều cần hỏi. Xúc động và sung sướng, làm cho những giọt nước mắt của mọi người, của tôi cứ tự ý trào ra không thể nào kìm được. Sau đấy, cả nhà tôi cứ loanh quang hết chuyện nọ lại chuyện kia, còn chưa kịp cơm nước gì, thì anh em chú bác trong họ và bà con làng xóm láng giềng xung quanh, mọi người ùn ùn kéo đến hỏi thăm và chúc mừng bố mẹ tôi. Ai đến cũng nắm lấy tay tôi rồi hỏi thăm rối rít, nhiều câu tôi chưa kịp trả lời thì người khác đã hỏi rồi. Mọi người đều xuýt xoa: - Hai bác và cháu thật may mắn, ơn nhờ hồng phúc của tổ tiên. Khu nhà nhỏ bé của gia đình tôi, tối nay bỗng trở nên một điểm sáng trong làng, tiếng cười nói, tiếng mời chào cứ râm ran mãi tới khuya. (Còn nữa).
|