Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:55:45 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sự tham gia của chuyên gia không quân Liên Xô trong chiến tranh chống Mỹ  (Đọc 49902 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #20 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2014, 08:24:06 pm »

Trích "Việt Nam - không thể nào quên"


Việc đó đã xảy ra như thế đấy...

Trung tá Bobukh Anatoli Vladimirovitch

Sinh ngày 4 tháng 6 năm 1933 tại làng Sviatogorovka huyện Dobropolsky tỉnh Donetsk. Người Ucraina.
Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 1952 vào học trường phi công quân sự Pugachev, tốt nghiệp năm 1956.

Sau tốt nghiệp được phái đi phục vụ ở Viễn Đông. Đã phục vụ tại Kamchatka, ở đảo Sakhalin, phục vụ tại biên khu Primorskoie tại thành phố Khabarovsk. Kết thúc đời phục vụ tại Ekaterinburg năm 1980 do ốm đau bệnh tật.

Đã phục vụ trên các cương vị: phi công-hoa tiêu trực thăng, cơ trưởng trực thăng, biên đội trưởng trực thăng, phi đội phó trực thăng, phi đội trưởng, trung đoàn phó phụ trách huấn luyện bay, trung đoàn phó thứ nhất trung đoàn trực thăng vũ trang độc lập. Từ 1974 đến 1980 giữ chức chánh thanh tra an toàn bay tập đoàn quân không quân.

Từ tháng 1 năm 1961 đến tháng 5 năm 1961 tham gia chiến đấu tại Việt Nam trên cương vị cơ trưởng trực thăng.

Được tặng thưởng các huân chương Sao Đỏ, "Phục vụ Tổ quốc trong LLVT Liên Xô", và 12 huy chương trong đó có huy chương Hữu Nghị của chính phủ VNDCCH.


Các sự kiện mà tôi tham gia diễn ra đã nửa thế kỷ trước, song ký ức về nó chưa bao giờ phai nhạt.

Đầu năm 1960 N.S.Khrusev tuyên bố cắt giảm quân số LLVT Liên Xô xuống 1 triệu 200 ngàn người. Tôi lúc đó đang phục vụ tại một phi đội trực thăng cứu hộ độc lập trên cương vị cơ trưởng trực thăng Mi-4 tại đảo Sakhalin. Theo lệnh BTQP thì phi đội bị giải tán. Các kíp bay được biệt phái đi phục vụ tiếp tại biên khu Primorie, nơi đã thành lập một trung đoàn trực thăng độc lập. Chúng tôi thực hiện chuyến bay xa từ Sakhalin đến sân bay Chernigovka vào tháng 5 năm 1960.

Tới lúc đó, các tổ bay từ các đơn vị KQ tiêm kích và KQ ném bom bị giải tán đã đến trung đoàn. Các phi công cần được đào tạo lại để bay trên trực thăng. Tại trung đoàn bắt đầu công việc thiết lập căn cứ huấn luyện, nghiên cứu các bộ phận của trực thăng, các cơ cấu nguyên tắc khí động học, để sang năm mới có thể bắt đầu huấn luyện bay cho các chuyên gia chuyển loại.

Một buổi tối thứ bảy trước năm mới, người lính quân bưu chạy tới thông báo lệnh báo động tại trung đoàn và cần nhanh chóng có mặt tại đơn vị. Trung đoàn trưởng P.S.Anokhin ra lệnh tập hợp toàn bộ các kíp bay trực thăng tại lớp huấn luyện. Nhiệm vụ đặt ra: 5 kíp bay dưới sự chỉ huy của hoa tiêu trung đoàn bắt tay vào chuẩn bị cho chuyến bay theo hành trình, có hạ cánh tiếp dầu tại các sân bay của CHND Trung Hoa, điểm hạ cánh cuối cùng là tại sân bay Hải Phòng của VNDCCH. Đã có lệnh nhận bản đồ bay tại ban bảo mật của đơn vị. Thời hạn chuẩn bị - đêm từ ngày thứ bảy sang ngày chủ nhật và ngày chủ nhật. Cất cánh vào sáng thứ hai. Nhiệm vụ của chuyến bay - bay không tải trực thăng và chuyển giao chúng cho phía Việt Nam.

Trung đoàn trưởng nói rằng tại Hải Phòng sẽ có máy bay chờ chúng tôi để đưa chúng tôi về nhà.

Đồng thời viên kỹ sư của trung đoàn cùng nhân viên kỹ thuật sơn phủ số và sao trên thân máy bay, bổ sung dầu mỡ nhiên liệu, phụ tùng để đảm bảo cho một chuyến bay dài.  

Lời trung đoàn trưởng rằng chúng tôi sẽ trở về nhà sau khi chuyển giao máy bay cho người Việt Nam vang lên một cách đáng hoài nghi. Trong thời gian chuẩn bị cho chuyến bay, các phi công thảo luận các vấn đề nảy sinh. Ai ở Việt Nam sẽ bay trên các trực thăng của chúng tôi ? Chắc chắn các phi công trực thăng của mình ở đấy là không có. Trong thời gian này chúng tôi biết ở Nam Việt Nam người Mỹ đang bắt đầu các hoạt động quân sự chống các lực lượng du kích. Các cuộc ném bom các điểm dân cư do phía yêu nước Nam Việt Nam chiếm giữ đang gia tăng. Dễ nhạn thấy chiến tranh ở Nam Việt Nam đang ngày càng ác liệt, mở rộng về mặt lãnh thổ, nảy sinh nguy cơ chiến tranh lan rộng ra Miền Bắc Việt Nam.

Đúng thời điểm quy định chúng tôi đã chuẩn bị xong: kiểm tra các tài liệu bay, kiểm tra sự sẵn sàng kỹ thuật của các trực thăng. Buổi sáng thứ hai chúng tôi cất cánh. Tốp dẫn đầu bay phía trước, sau đó là các kíp bay khác theo trình tự giãn cách 15 giây bay trong tầm nhìn trực quan. Toàn bộ các kíp bay cất cánh theo thứ tự như vậy.

Chuyến hạ cánh đầu tiên tại CHNDTH để tiếp dầu là tại sân bay Mudanszian. Đoạn hành trình này chúng tôi bay khi nhiệt độ không khí bên ngoài là - 27 độ. Tháng 12 cho biết nó là thế nào. Máy sưởi chạy xăng thổi vào cabin không khí lạnh. Dù chúng tôi mặc áo bay da, đi ủng lông nhưng cái lanh vẫn thấu tận xương. Tay và chân đặc biệt lạnh cóng. Khi rẽ về phía nam từ Mudanszian đến Mukden, phi công phụ của tôi Alfred Naghibovitch, dù bị cóng vẫn luôn đùa cợt, nhìn về phía trước từ dưới bao tay:

- Nào, cuối cùng thì đường chí tuyến đâu nào?

Trời chỉ ấm hơn sau Mukden khi bay tới Bắc Kinh. Chuyến bay diễn ra không có sự chậm trễ nào trên suốt hành trình: bay, hạ cánh, tiếp dầu, ăn trưa, và lại bay, hạ cánh, tiếp dầu, ăn tối, ngủ, - rồi bay tiếp.

Các bạn Trung quốc đón chúng tôi trên mỗi sân bay rất hữu hảo, nhanh chóng bảo dưỡng, nạp bổ sung mọi thứ cần thiết. Đồ ăn rất ngon miệng và dồi dào. Chỗ nghỉ ngơi rất tiện nghi. Có cảm giác là ban lãnh đạo Trung quốc chăm lo sao cho việc bảo dưỡng và đón tiếp chúng tôi diễn ra ở mức độ cao.

Khi phải chậm lại do thời tiết, họ cố gắng giải khuây cho chúng tôi. Họ tổ chức các chuyến tham quan. Ví dụ họ cho chúng tôi xem chỗ Mao bơi vượt sông Hoàng Hà, họ chở chúng tôi đến nơi Mao sinh ra và chúng tôi được thấy căn nhà tồi tàn nơi lãnh tụ Trung quốc ra đời.

Chúng tôi đón năm mới tại thành phố Trường Sa, tại đây Tư lệnh cụm quân đội Trung quốc phía nam tổ chức bữa tiệc tối thết đãi nhóm chúng tôi. Trong bữa ăn ông ấy chúc mừng Năm Mới chúng tôi mong chúng tôi bay đến nơi an toàn và trở về thắng lợi. Lúc bấy giờ chúng tôi đã nghi ngờ chuyện có máy bay ở Hải Phòng chờ cúng tôi để chở về nhà. Nhiều người cho rằng ở đó chúng tôi sẽ có nhiệm vụ khác.

Nhiệm vụ thực sự của chuyến công tác của chúng tôi thì chúng tôi được biết, sau chuyến bay một tuần lễ qua Trung quốc và tiếp đất ở sân bay Cát-Bi Hải Phòng, từ tùy viên quân sự tướng Antipov. ông ngay lập tức tập trung chúng tôi để nói chuyện. Ông chúc mừng tất cả vì chuyến bay trót lọt và thông báo tình hình đã thay đổi. Chúng tôi phải ở lại đây một thời hạn không xác định. Nhiệm vụ thế này: đào tạo các học viên trường bay người Việt (chọn từ các lái xe). Một nhóm - đào tạo phi công lái trực thăng. nhóm kia - đào tạo thành các nhân viên kỹ thuật máy bay trực thăng, công việc phải hoàn thành trong thời hạn ngắn nhất.  

Tiếp đó tướng Antipov giải thích rằng chúng tôi sẽ sống tạm thời tại các nhà nghỉ vẫn gọi là Hồ Chí Minh trên bờ vịnh. Người ta sẽ dùng ô-tô buyt chở chúng tôi đến đó. Các thợ may cũng sẽ đến đo số đo và may cho chúng tôi các bộ trang phục dân sự, còn quân phục phải được chuẩn bị đóng gói cho vào hòm gửi trả về đơn vị.

Và rồi chúng tôi đã ở khu nhà nghỉ. Có lẽ nó được xây dựng thời Pháp thuộc. Chúng là các biệt thự nghỉ ngơi mùa hè, vì vậy các lỗ của sổ không có kính mà chỉ có nan chớp. Ngoài phố là tháng 1 nhưng nhiệt độ là +18 và +19 độ C rất dễ chịu cho chúng tôi. Mỗi phi hành đoàn ở một biệt thự riêng. từ hàng hiên mở ra vịnh một quang cảnh tuyệt đẹp, trên mặt nước phẳng lì của nó thỉường xuyên thấy bóng thuyền buồm của ngư dân. Khi hoàng hôn buông cảnh tượng đẹp tuyệt trần.


Chủ tịch VNDCCH Hồ Chí Minh (hàng thứ 2 ngồi giữa) cùng các chuyên gia quân sự Việt Nam và Xô viết tại sân bay thành phố Hải Phòng ngày 23 tháng 2 năm 1961

Nhưng chúng tôi rất buồn và lo lắng. Chiều tối khi mặt trời đã lặn, đêm sập xuống luôn, những ngôi sao phương Nam sáng rực, trăng lên rồi thủy triều dâng. Nước lan đến tận hàng hiên. Mọi người ngồi yên lặng. Mỗi người một suy nghĩ về người thân của mình. Mà còn nghĩ gì được nữa. Bản thân tôi, ở nhà trong căn hộ chưa bài trí xonng sau khi từ Sakhalin chuyển về còn lại người vợ trẻ và đứa con mới tròn năm. Ngôi nhà có bếp sưởi và "tiện nghi" nằm trong sân. Chúng tôi lo vì đã để gia đình lại không quan tâm chăm sóc vì tưởng chỉ bay đi một thời gian ngắn, nay than ôi, xem ra sẽ phải ở lâu. Ngày hôm sau những người thợ may đến đo và hai ngày sau trang phục dân sự cho chúng tôi đã chuẩn bị xong. Tiếp đó chúng tôi chuyển sang sân bay ở Hải Phòng.

Cạnh sân bay có trường đào tạo phi công và các dẫy nhà ở. Chúng tôi được sắp xếp ở tại đó. Trước hết cần kiểm tra phát hiện và sửa chữa những chỗ hỏng hóc trên các máy bay trực thăng, cũng như sơn lại dấu hiệu nhận dạng: "Liên bang Xô Viết. Hãng Aeroflot". Các kỹ thuật viên và các học viên người Việt đảm nhiệm việc đó. Các phi công có nhiệm vụ: nghiên cứu khu vực sắp bay. Để làm việc này người ta đưa cho chúng tôi bản đồ bay. Tất cả đều được ghi chú, ghi tên các điểm dân cư, sông ngòi, núi non bằng tiếng Pháp, trên bản đồ có nhiều vết trắng, đặc biệt trong khu vực rừng núi, Cần phải có phiên dịch tiếng Pháp và tiếng Việt và họ được đưa tới.

Đồng thời trong lúc đang lên kế hoạch bay thử khu vực sẽ diễn ra các chuyến bay, mây thấp từ phía vịnh tràn vào, thời tiết trở thành không thể bay được. Phải rút lại chuyện bay thử kiểm tra và chuyển sang dạy lý thuyết cho học viên. Tuy nhiên chẳng mấy chốc các giờ học bị gián đoạn vì có lệnh bay thử kết hợp làm nhiệm vụ chiến đấu luôn.

Toàn bộ các kíp bay bay đến phi trường Gia Lâm Hà Nội. Tại đây nhận nhiệm vụ: bay sang Lào, vận chuyển lương thực, đạn dược, thuốc men từ sân bay Sảm Neo tới thung lững Cánh Đồng Chum và chở thương bệnh binh ngược trở lại.

Hóa ra quân đội của đại úy Coong-Le người đã chuyển sang phe Hoàng thân Suvana Phuma đã bị các lực lượng thân Mỹ bên phía Vua Lào bao vây tại Cánh Đồng Chum. Tôi thì nghĩ: Hoàng tộc bất hòa, còn nhân dân thì chém giết lẫn nhau, như ở ta vẫn nói: "trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết".

Nhiệm vụ này được hoàn thành thắng lợi nhưng một số kíp bay bị stress vì phải bay qua mặt trận nơi bị người ta thực sự nhắm bắn. Do đó khi cần một tổ bay thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt, một bộ phận phi công "cảm thấy ốm mệt" vì thế họ từ chối thi hành nhiệm vụ. và chỉ muốn dồn hết nỗ lực dạy bảo các phi công Việt Nam.

Trong tổ bay của tôi không có người "khó ở" vì vậy trưởng nhóm là đại úy L.G.Karatchkov nhẹ nhõm ra mặt và ông hài lòng ra lệnh cho chúng tôi đi thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này. Ngoài tôi là người Ucraina, phi công phụ-hoa tiêu thượng úy Naghibovitch Alfred mang quốc tịch Belarus, còn kỹ thuật viên hàng không trên máy bay thượng úy Selitsev là người Nga.
.........
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Hai, 2014, 02:33:14 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #21 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2014, 04:49:08 pm »

Chúng tôi bắt tay vào chuẩn bị một cách cực kỳ kỹ lưỡng cho việc thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này. Kiểm tra máy bay trực thăng, lau rửa nó, gỡ tất cả các vật thừa ra khỏi khoang chở hàng. Có thể nó sẽ phải chở chủ tịch Hồ Chí Minh hoặc ai đó trong chính phủ VNDCCH.

Trong những ngày cuối cùng của tháng 1 năm 1961, kíp lái chúng tôi bay từ Hải Phòng về sân bay Gia Lâm Hà Nội. Người ta dành cho chúng tôi một chiếc minibus, xếp chúng tôi ở một khách sạn trung tâm Hà Nội. Phòng ở nằm tại tầng trên cùng. Ở đó rất ngột ngạt, thậm chí có quạt cũng không hết nóng nực. Trước khi cất cánh ở Hải Phòng, người ta phát tiền cho chúng tôi và chúng tôi trở thành những con người khá giả: có thể thăm viếng hiệu ăn ở tầng 1 của khách sạn.

Khi chúng tôi ở trong phòng, có một người Nga không quen xuất hiện. Ông ta chúc chúng tôi nghỉ ngơi thoải mái và thông báo sáng mai người ta sẽ mời chúng tôi đến sứ quán Liên Xô tầm 10 giờ. Lái xe minibus sẽ chờ chúng tôi dưới bãi đỗ gần khách sạn lúc 9 giờ.

Chúng tôi bắt đầu hiểu rằng nhiệm vụ này rất quan trọng.

Buổi tối chúng tôi quyết định ăn trong hiệu ăn của khách sạn. Chúng tôi tìm được một bàn nhỏ mặc dù khách rất đông. Đảo mắt nhìn xung quanh. Toàn là người Âu. Người Đức từ CHDC Đức, người Séc, người Ba Lan. Một người nam tiếp tân đến gần cất tiếng chào:

- Trào các đồm trí Liên Xô!

Tất nhiên chúng tôi vô cùng kinh ngạc, làm sao anh tiếp tân lại nhanh chóng nhận ra và xác định chính xác chúng tôi từ LBXV tới. Sau này, một phiên dịch viên (anh ta bay cùng chúng tôi, trước đó học ở Liên Xô về, bản thân cũng là phi công An-2) có giải thích nhưng vẫn khá tù mù:

- Tôi không biết tại sao, nhưng nhìn các bạn, những người Nga, thì không thể nhầm được. Ở các bạn có điều gì đó không thể giải thích được.

Trong thời gian thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này, chúng tôi đã kết thân với người phiên dịch của mình. Tên anh ấy là Phan Như Cẩn. Còn anh giới thiệu theo tiếng Nga là Sê-ri-ô-gia.


Kíp bay Mi-4 cạnh máy bay trực thăng của mình. Giữa là cơ trưởng đại úy A.V.Bobukh, bên trái ông là phiên dịch Phan Như Cẩn (Seriozha), tháng 3 năm 1961.

Buổi sáng chúng tôi đi xe đến sứ quán. Chúng tôi vùa đi vừa quay đầu tứ phía. Muốn nhìn và ghi nhớ tất cả những gì diễn ra trên các đường phố của VNDCCH. Thật sửng sốt với một số lượng xe đạp kinh hoàng, đi trên toàn bộ chiều rộng dải lưu thông của đường phố, những người đạp xích-lô, chở khách trên những chiếc xe ba bánh. Những người bộ hành trên vai là chiếc đòn gánh, gánh những đôi sọt lớn chở hàng. Tất cả tạo nên một màu sắc đặc biệt cho thành phố, khác hẳn các thành phố của chúng ta.

Tại sứ quán người ta dẫn chúng tôi vào phòng làm việc của tùy viên quân sự Liên Xô tại VNDCCH tướng Antipov mà chúng tôi đã quen biết. Chúng tôi trình diện. Chào mừng chúng tôi, quan tâm xem chúng tôi ăn ở tại khách sạn thế nào rồi tướng Antipov giải thích tình hình tại Lào một cách ngắn gọn, nơi ấy đang diễn ra chiến sự ác liệt tại Cánh Đồng Chum. Quân đội đang bị bao vây của đại úy Coong-Le cần sự giúp đỡ. Khả năng duy nhất giúp lực lượng bị bao vây - đó là tiến hành đàm phán với chính quyền kiểm soát các tỉnh Bắc Lào, mà trước đó đã tách khỏi Nam Lào. Cần thuyết phục ban lãnh đạo của nó giúp đỡ các đồng bào của mình trong thời điểm khó khăn này. Đóng tại các tỉnh Bắc Lào có một sư đoàn bộ binh được vũ trang tốt. Qua điện báo đã đạt được thỏa thuận với chính quyền các tỉnh Bắc Lào về một cuộc gặp gỡ của các đoàn đại biểu. Cũng đã định được địa điểm gặp gỡ để tiến hành đàm phán. Nó nằm trên lãnh thổ Lào. Địa điểm này được giữ tuyệt mật. Nếu đối phương biết địa điểm gặp nhau của các đoàn đàm phán, họ có thể gây khó dễ cho cuộc gặp hoặc đổ quân đổ bộ đường không xuống khu vực trên.

Tiếp theo viên tướng nói rằng người ta đã tin tưởng giao phó cho chúng tôi một bí mật tầm cỡ quốc gia và chúng tôi sẽ chịu bản án nghiêm khắc nếu làm lộ bí mật này. Trên bản đồ viên cố vấn chỉ ra điểm mà chúng tôi cần phải đưa đoàn đại biểu đến. Đó là một vùng núi cao có thung lũng sâu và một con sông chảy qua. Trên bờ sông có một lô cốt của Pháp (một hỏa điểm kiên cố lâu dài) từ thời mà quân đội Pháp còn đóng ở đó. Chỗ có lô cốt đó chính là chỗ hạ cánh của chúng tôi.

Tín hiệu để hạ cánh là 3 đống lửa, sẽ được đốt khi chúng tôi xuất hiện trên điểm hẹn. Khi không thấy đốt lửa hoặc đốt không đủ số đống lửa thì không được hạ cánh mà phải bay về.

Sau đó viên tướng bảo chúng tôi đưa bản đồ bay ra, ngồi xuống xung quanh bàn chuẩn bị cho chuyến bay. Khi chuẩn bị xong ông ra lệnh trao lại cho ông bản đồ. Ông nói sẽ giữ bản đồ trong két sắt của mình, chúng tôi chỉ nhận lại nó trước khi cất cánh từ tay người trưởng đoàn đại biểu.

Chào tạm biệt, chúng tôi ra sân bay. Tại SCH tôi làm quen với người lãnh đạo chuyến bay, với ban đảm bảo khí tượng hàng không. Dự báo thời tiết không tốt. Bản thân tôi cũng thấy thời tiết giống như thời tiết xuân-hè ở Sakhalin. Đêm và sáng sương mù thấp và có sương giá. Ban ngày sương mù bốc lên cùng với rìa mây dưới đến độ cao 50-100 m. Mỗi ngày lại lặp lại như vậy. Thời tiết như thế tại Sakhalin thường kéo dài một tháng rưỡi cuối xuân - đầu hè. Ở đây thời tiết giống như vậy quan sát thấy vào mùa đông. Kinh nghiệm bay trong kiểu thời tiết này thì tôi đã có. Trong 5 năm bay ở Sakhalin mọi chuyện đã trải qua.

Bắt đầu đến sự chờ đợi mệt mỏi. buổi sáng chúng tôi ở trên sân bay, nổ máy, chuẩn lại các hệ thống của trực thăng, làm công tác kiểm tra. Tại trạm khí tượng chúng tôi phân tích tình trạng và dự báo các điều kiện khí tượng. Chúng tôi xác định lại chính xác quy trình liên lạc vô tuyến. Chúng tôi chờ đợi lệnh cho đến giữa trưa. Sau đó lại trở về khách sạn. Ăn trưa, nghỉ ngơi, ăn tối, ngủ đến sáng. Và luôn luôn sẵn sàng cất cánh theo tín hiệu.
Sang ngày thứ hai trình tự đó thay đổi một chút, một nhân viên sứ quán Liên Xô đã quen biết xuất hiện, đề nghị buổi tối đi xem hát. Tất nhiên chúng tôi rất vui mừng đồng ý, thâm chí còn chẳng quan tâm ai trình diễn và chương trình biểu diễn thế nào.

Tòa nhà hát rất đẹp. Chúng tôi thấy nó giống như Nhà hát Lớn ở Moskva. Tối hôm ấy các nghệ sĩ Đoàn ca múa quốc gia Việt Nam biểu diễn. Chúng tôi choáng ngợp với màu sắc rực rỡ và các loại quần áo trang phục dân tộc đa dạng. Các bài hát luôn kèm theo sự chuyển động của những diễn viên có lẽ để giải thích những gì mình đang hát. Nhưng thích hơn tất cả là những màn múa, đặc biệt điệu múa sạp với những cây tre. Giá bạn đã xem nó! Các vũ công thực hiện những xảo thuật xiếc chân chính giữa vài cặp sào tre dài gõ vào nhau theo nhịp điệu ở độ cao thấp trên sàn. Các nghệ sĩ nhảy múa giữa các sào tre, thực hiện điệu nhảy một cách điêu luyện theo nhịp phách, tránh đập chân vào các sào tre. Khán giả chủ yếu là các nhân viên của các đại sứ quán đặt tại Hà Nội, hoan nghênh nồng nhiệt các nghệ sĩ. Buổi đi xem biểu diễn nghệ thuật đã để lại ấn tượng không thể nào quên cho chúng tôi.  

Trong những ngày đầu tháng 2 sự chờ đợi của chúng tôi đã kết thúc. Như thường lệ buổi sáng chúng tôi chuẩn bị trực thăng cho chuyến bay. Thời tiết may thay không còn sương mù, song trên sân bay mây thấp dày đặc vẫn còn. Chúng tôi bắt đầu chờ đợi các vị khách của mình. Họ đi trên ba xe ô tô đến. Có bảy người tới. Người trưởng đoàn trao cho tôi một chiếc hộp trong có bản đồ bay của chúng tôi. Họ giải thích qua phiên dịch. Chuyến bay cần thực hiện ngày hôm nay. Đoàn đại biểu vào chỗ trong cabin.

Phiên dịch có hai người: một dịch từ tiếng Lào và tiếng Pháp sang tiếng Việt, một dịch từ tiếng Việt sang tiếng Nga.

Trên máy bay có 7 vị khách và 1 thùng hàng. Rõ ràng người chỉ huy chuyến bay từ SCH quan sát những gì diễn ra xung quanh trực thăng. Bởi vậy ngay lập tức tôi mở máy và bật radio lắng nghe tín hiệu của mình. Người ta gọi tôi liên lạc. Nhận lệnh cho phép cất cánh, tôi lấy độ cao, trên cao độ 50m chiếc trực thăng lẩn vào mây. Khi lái theo thiết bị, trên độ cao 600 m chúng tôi ra khỏi mây và lấy hướng theo hành trình.

Sau 5 phút tôi nhận thấy thiết bị chỉ độ thăng bằng trên không "đảo" sang chiều nghiêng, còn la bàn con quay từ tính chỉ hướng không xác định, Cố gắng thiết lập các tham số chỉ thị cần thiết của các thiết bị này, tôi và phi công-hoa tiêu khẳng định rằng các thiết bị trên bị hỏng. Sao đây? Quay về và hạ cánh mà không có chỉ thị của các thiết bị này khi mây thấp là không thể.

Trong tình huống đang xảy ra tôi phải giữ hướng theo theo la bàn từ tính còn độ nghiêng xác định theo thiết bị chỉ đường chân trời hàng không của phi công phụ. Tôi quyết định bay theo hành trình đến sân bay Điện Biên Phủ. Tại đó theo kế hoạch chung tôi sẽ đáp xuống tiếp dầu.

Sau vài phút qua radio tôi nghe thấy tín hiệu gọi của mình. Ai đó gọi tôi liên lạc. Đó là phi công máy báy Li-2, bay cạnh tôi cách 2 km về bên phải.Tôi nảy ra ý nghĩ sử dụng máy điện báo có trên máy bay để liên lạc về SCH ở Hải Phòng báo cáo lãnh đạo nhóm phi công trực thăng về tình trạng các thiết bị hư hỏng vừa xảy ra. Tôi thông báo điều đó cho phi công Li-2, sau khi đã gọi tên các thiết bị hỏng hóc.

Phi công nhận thông tin, khẳng định thông báo trên ngay lập tức sẽ được gửi đi qua điện báo, anh ta yêu cầu liên lạc vì anh ta vẫn luôn bay bên cạnh phòng trường hợp chúng tôi cần giúp đỡ. Hóa ra kíp bay này đang thực hiện nhiệm vụ hộ tống chuyến bay của chúng tôi. Tôi nhẹ cả người vì cảm thấy mình không đơn độc trên bầu trời.

Chúng tôi bay đến Điện Biên Phủ một cách an toàn. Thời tiết trên đường bay tiếp đã sáng sủa. Chúng tôi định hướng theo các mốc đỉnh núi trên bản đồ và theo địa hình bằng mắt thường.  

Hạ cánh, tiếp dầu xong, người ta quyết định bàn xem kíp bay làm gì. Đợi chuyên gia đến sửa chữa thiết bị hư hại có nghĩa là sẽ mất ngày hôm đó. Chúng tôi đã nghiên cứu thời tiết từ khi bay trên cao. Xung quanh trời quang mây. Bởi vậy đã quyết định tiếp tục thực hiện nhiệm vụ ngày hôm nay, mặc dù thiết bị hư hỏng.

Chúng tôi cất cánh, lấy độ cao 2500 m trên sân bay và bẻ hướng sang Lào theo hành trình đề ra trên bản đồ. Chúng tôi định hướng theo các đỉnh núi, theo các thũng lũng bằng mắt thường. Các đỉnh núi đơn đạt đến độ cao 4000 m. Cuối cùng theo thời gian dự tính chúng tôi đã phát hiện được bằng mắt thường thung lũng cần tìm với dòng sông như một dải băng khá khó nhìn ra.  

Không hạ độ cao chúng tôi bắt đầu bay dọc thung lũng. Tôi hạ lệnh cho phi công và kỹ thuật viên hàng không dùng mắt thường tìm kiếm khói của các đống lửa báo hiệu. Bay qua một lần, quay 180 độ bay ngược lại. Rồi phi công phụ phát hiện khói của một đống lửa. Chúng tôi bay thẳng đến trên đầu đống lửa - chỉ có một đống lửa bốc khói, các đống lửa khác không thấy có. Bay qua ở độ cao thấp, ngoặt 180 độ bay trở lại, cố gắng tìm xem có thấy các đống lửa khác hay không. Nhưng đống lửa đang cháy đã tắt, còn các đống lửa mới khác vẫn không thấy. Chúng tôi bay ra khỏi khu vực bãi đáp. Cần phải nhanh chóng quyết đinh - bay đi hay là ....

Quyết định bay lại lần nữa ở độ cao cực thấp và chú tâm quan sát tất cả ở tốc độ bay nhỏ thêm lần nữa. Trên độ cao bay 30 m, tôi bay đến gần bãi đáp. Chẳng thấy có một sinh vật sống nào. Tôi quyết định tiếp đất ở rìa bãi đáp và không tắt máy, giữ trực thăng ở trạng thái treo.

Chúng tôi nhìn thấy: có người xuất hiện. Anh ta dừng lại cách 100 m và không lại gần. Tôi lệnh cho kỹ thuật viên hàng không: mở cửa, thả người phiên dịch tiếng Pháp xuống. Người phiên dịch chạy ra khỏi máy bay trực thăng, đến gần người kia và họ nói chuyện. Tôi chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tôi ra lệnh thả tiếp người phiên dịch tiếng Nga Phan Như Cẩn. Anh chạy tới chỗ đó, đứng lại, trao đổi rồi vẫy tay. Cuối cùng Phan Như Cẩn giơ tay bắt chéo nhau cao trên đầu. Đó là "dấu" báo tắt máy. Lạy Chúa!

Tôi tắt máy. Các đại biểu đi ra khỏi máy bay có vẻ lo lắng và nhìn ngó xung quanh. Các phiên dịch viên tiến đến, họ trao đổi với nhau rồi mọi người đã có vẻ yên tâm ra mặt.

Hai mươi phút sau từ phía sông, có hai người đi ra từ sau hàng cây. Một mặc quân phục, một mặc dân sự. Một cuộc nói chuyện diễn ra nhờ phiên dịch viên tiếng Pháp. Sau đó các phiên dịch viên lấy chiếc hòm chứa đồ và tất cả các đại biểu đi về phía sông rồi khuất sau hàng cây. Năm phút sau, phiên dịch tiếng Nga Seriozha-Phan Như Cẩn quay lại và thông báo ở bờ sông có 3 người và cuộc đàm phán đã bắt đầu.

Đã đến lúc nghỉ ngơi và ăn môt chút gì đó. Kỹ thuật viên hàng không trải bàn bạt trong bóng che của chiếc trực thăng, bày ra khẩu phần khô. Bỗng một đám người xuất hiện sau những bụi cây. Hóa ra đó là những đứa trẻ nhỏ, một số thiếu niên và vài người phụ nữ ở làng cạnh đây. Những đứa trẻ tò mò chạy đi chạy lại nhìn ngó con quái vật - chiếc trực thăng mà từ xưa đến nay chúng chưa nhìn thấy.

Người phiên dịch Seriozha của chúng tôi không biết tiếng Lào nhưng hiểu tiếng Pháp. Khi lũ trẻ đi gần hơn đến chỗ chiếc trực thăng, một số đứa nhìn thấy hộp muối trên chiếc "bàn" bằng bạt của chúng tôi. Chúng bắt đầu nói chuyện với nhau và gọi muối bằng tiếng Pháp. Người phiên dịch phát biểu giả thiết rằng dân địa phương đang bị thiếu muối trong đồ ăn và bọn trẻ khi nhìn thấy muối trên "bàn" chúng tôi, chúng quay ra bàn luận với nhau. Tôi đề nghị chia muối của mình cho bọn trẻ. Đối với chúng đó sẽ là món quà tốt. Kỹ thuật viên hàng không Selishev người lớn tuổi nhất trong bọn tôi, tìm thấy trong trực thăng một chiếc đĩa sắt, anh dốc toàn bộ muối trong hộp vào đó, đi đến gần lũ trẻ. Hàng chục cánh tay chìa ra với anh. Anh rải vào lòng bàn tay mỗi đứa một ít muối, chúng lập tức liếm chỗ muối, nhấm nháp rõ ràng mà không hề nhăn mặt. Thế là Selishev đi tới tất cả mọi người, thậm chí tặng cả cho các phụ nữ, sau khi đưa cho họ chiếc đĩa chứa số muối còn lại. Đương nhiên chúng tôi không thể ăn trưa. Chúng tôi không thấy thoải mái trước mắt tất cả mọi người.

Chẳng mấy chốc người phiên dịch tiếng Pháp trở lại nói rằng cuộc hội đàm ở đây đã kết thúc, cả hai đoàn đại biểu bây giờ sẽ bay đi để tiếp tục đàm phán ở Hà Nội. Tồi yêu cầu phiên dịch giải thích cho tất cả các khán giả xung quanh rằng máy bay trực thăng sắp cất cánh, họ nên rời xa trực thăng vì đứng gần khi nó cất cánh là nguy hiểm. mọi người nhanh chóng lùi xa.

Cả hai đoàn đại biểu gồm 10 người đã đến rất nhanh. Hành khách đã đông gấp đôi. chúng tôi phải bố trí họ ngồi sao cho không thay đổi tâm khối của máy bay trực thăng. Chúng tôi đã cất cánh và đưa hai đoàn an toàn về Điện Biên Phủ.

Sau khi hạ cánh chúng tôi được biết chiếc máy bay chở các chuyên gia đến khắc phục hỏng hóc thiết bị trên trực thăng của chúng tôi có thể chở được đoàn đại biểu và đưa họ về Hà Nội. Các đại biểu đã bay đi.

Hư hỏng của thiết bị đã được loại trừ: người ta thay thế cả cụm điện nguồn nuôi các thiết bị. Ngày đã ngả về chiều. Chúng tôi bắt tay chuẩn bị trực thăng để mai về Hà Nội. Nhưng ...
........
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Hai, 2014, 11:33:50 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #22 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2014, 11:16:48 pm »

Trùm bạt che trực thăng lại, chúng tôi đi vào đài không lưu đăng ký phép cho chuyến bay ngày mai. Tại đài không lưu có phiên dịch Seriozha của chúng tôi. Anh ta không bay cùng máy bay với đoàn đại biểu. Lãnh đạo Việt Nam để anh lại lo việc ăn ở của chúng tôi tại đây. Người ta tiếp nhận đề nghị cất cánh của chúng tôi, nhưng cất cánh thì ngày mai không, ngày kia không, 17 ngày nữa cũng không. Mỗi ngày ra đài không lưu chúng tôi đều nghe thấy:

- Đi Hà Nội lê-tai nhét!

Đó là Seriozha đã dạy người kiểm soát không lưu cách giải thích như vậy cho chúng tôi về việc chưa được phép cất cánh. Người kiểm soát viên không lưu vẽ ra một sơ đồ trên đó cho thấy rìa mây thấp - 50 đến 100 m.

Bắt đầu một quãng thời gian dài vô công rồi nghề. Phiên dịch Seriozha của chúng tôi bay đi 2-3 ngày sau, còn 3 chúng tôi ở lại đây chờ, trong miền rừng núi, "bên bờ biển thời tiết".    

Người ta bố trí ăn ở trong khách sạn rất tốt. Món ăn rất ngon dù không có bánh mì và súp.


Tại Điện Biên Phủ, tháng 3 năm 1961. Đi tham quan cùng các bạn Việt Nam di tích lịch sử trận đánh Điện Biên Phủ.

Đầu tháng 2 tại Việt nam bắt đầu lễ mừng Năm Mới theo lịch phương Đông. Người ta tổ chức những cuộc du xuân, tranh tài thể thao ở sân vận động. Nhảy vòng tròn, múa theo đủ điệu, các chàng trai và cô gái trang phục dân tộc sặc sỡ vui tươi trong các mặt nạ kỳ lạ. Mọ thứ có vẻ rất thú vị và bất thường. Người ta mời chúng tôi đi chơi xuân. Một bữa chúng tôi còn tham gia vào một điệu múa chiến đấu với rồng và đã có thể chiến thắng. Vì chiến thắng con rồng nên chúng tôi được thưởng một buồng chuối nặng đến 100 cân mà cả phi hành đoàn cũng không bê nổi. Khi đó các đồm trí (các bạn) Việt nam đã giúp chúng tôi đưa món quà lên xe ô tô chở về khách sạn.

Mọi lúc mọi nơi chúng tôi đều cảm nhận được sự quan tâm chăm sóc hữu nghị và mong muốn làm cho chúng tôi vui vẻ thoải mái. Mọi người Việt Nam tốt bụng mến khách đều đón chúng tôi với nụ cười niềm nở. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ mãi sự ấm áp và thân tình của những người bạn Việt Nam.  

Sân bay Điện Biên Phủ và vùng phụ cận đã được tuyên bố và hình thành nên một khu bảo tàng-tưởng niệm sau chiến thắng trước người Pháp. Tại đây có 17 ngàn quân Pháp bị bao vây và bắt làm tù binh. Vũ khí trang bị người Pháp bỏ lại được trưng bày ngoài trời. Một số nơi vẫn còn mìn, chỉ được phép đi theo những con đường mòn nhỏ.

Đi cùng chúng tôi có một phiên dịch viên đã kể cho chúng tôi nghe rất hay về tất cả những chuyện đó.

Sau rồi chúng tôi bỏ lại phiên dịch viên mà giao tiếp với người Việt Nam bằng điệu bộ cử chỉ và hình vẽ. Mọi chuyện diễn ra tiếp tục như thế cho đến ngày 20 tháng 2 năm 1961. Những ngày cuối chúng tôi nhận thấy dấu hiệu lạ lùng ở người kỹ thuật viên hàng không của chúng tôi. Anh thường lảng đi, tách riêng ra một chỗ, những chỗ mà chúng tôi rất khó tìm thấy anh. Ở anh bắt đầu có những biểu hiện của sự buồn bã, sầu nhớ (anh để lại ở nhà ba đứa trẻ còn nhỏ).

Tôi quyết định hàng ngày làm việc trên trực thăng: khởi động động cơ, chạy không tải toàn bộ hệ thống, vệ sinh sạch sẽ, lau rửa, để làm việc nhiều hơn nữa.

Ngày 20 tháng 2 một chiếc Li-2 bay đến đón chúng tôi. Bộ chỉ huy tập hợp mọi người nhân ngày kỷ niệm Quân đội Xô Viết. Khi chúng tôi vào trong máy bay bỗng thấy mùi hoại tử rất mạnh. Kỹ thuật viên hàng không kể rằng máy bay của họ chở xác các phi công máy bay Il-14 hy sinh ở Lào. Từ anh ấy chúng tôi biết chuyện chiếc máy bay An-12 bay tới Lào chở quan tài khi hạ cánh trong điều kiện mấy thấp cũng đã gặp nạn. Nó húc vào một cái đập được xây dựng để bảo vệ tránh nước tràn khi sông bị lũ. Con đê này nằm ở đầu đường băng cất cánh, Máy bay húc càng phải vào đê và càng bị phá hủy hoàn toàn. Phi công hạ máy bay bằng càng trái nhưng khi chạy xả đà ở vận tốc nhỏ đã quệt cánh phải vào mặt đất làm hư hại cánh.

Sau khi bay về tới Hà Nội, chúng tôi gặp toàn bộ các phi công trung đoàn chúng tôi. May mắn thay không ai việc gì. Nhưng tâm trạng của mọi người khó có thể nói là tâm trạng của ngày lễ. Như người ta vẫn nói, một ngày lễ đầy nước mắt và buồn đau.  

Chúng tôi đi ô tô về Hải Phòng, tại đây chúng tôi tổ chức mừng ngày 23 tháng 2 trong nội bộ các phi công trực thăng. Ngay sau lễ kỷ niệm người ta gọi chúng tôi về Hà Nội.

Nhiệm vụ đặt ra: Bay tới Điện Biên Phủ trên máy bay Il-14 cùng Hoàng thân Suvanna Phuma và đưa ông ấy bay trực thăng về Bắc Lào. Chúng tôi bay đến Điện Biên Phủ lúc chiều tối. Người Việt Nam tổ chức tiệc tối đón tiếp Hoàng thân, và kíp lái chúng tôi được mời ngồi cùng bàn với Ông Hoàng. Chúng tôi hiểu rằng đó là một vinh dự lớn cho chúng tôi, có lẽ do chúng tôi đã giúp chính phủ Việt Nam trong giai đoạn khó khăn này.  
 
Hoàng thân Suvanna Phuma nâng cốc nói lời chúc mừng. Tất nhiên chúng tôi chẳng hiểu gì, nhưng vẫn uống cạn từng ly vodka của sứ quán. Quanh bàn còn có nhiều người, trước hết là những người từ sứ quán Liên Xô, họ bay trên cùng một máy bay từ Hà Nội với chúng tôi.

Khi bữa ăn kết thúc chúng tôi về phòng của mình thì một trong những người của sứ quán đuổi kịp chúng tôi, anh giữ tôi lại và nói riêng với tôi rằng cần tìm bất kỳ lý do nào để không bay sang Lào. Anh ấy nói đúng từng chữ như sau:

- Chẳng có việc gì cho ông ta làm ở đấy. Người ta sẽ làm được tất cả chẳng cần ông ta.  

Ngày hôm sau đương nhiên tôi tìm ra lý do để không bay sang Lào: mây thấp, đỉnh các ngọn núi phủ đầy mây. Chuyến bay không diễn ra. Hoàng thân bay về Hà Nội.

Đại diện đại sứ quán lại đến chỗ tôi, anh kể lý do tại sao hôm qua lại ra mệnh lệnh như vậy. Hai trung đoàn trong vòng một tuần lễ đã chở một sư đoàn vào Cánh Đồng Chum để trao đổi lấy muối. Quân đội thân Mỹ đã bị đánh bật khỏi Cánh Đồng Chum và chẳng bao lâu Lào sẽ được giải phóng khỏi người Mỹ.

Phi hành đoàn chúng tôi lại ở lại Điện Biên Phủ một mình. Chúng tôi muốn bay về Hà Nội với người của mình với bất kỳ lý do nào. Ban lãnh đạo của chúng tôi sau tai nạn máy bay do mây mù chưa cho phép chúng tôi cất cánh. Dưới hình thức bay thử trực thăng sau một thời gian dài đậu tại bãi đỗ, chúng tôi bay về Hà Nội mà không xin phép. Lấy xong độ cao an toàn chúng tôi bẻ hướng về Hà Nội. Qua vài phút bay, tầm nhìn xấu đi, bắt đầu rung lắc. Sau đó chân trời biến mất, còn mặt đất chỉ nhìn thấy trực tiếp dưới máy bay. Rung lắc tăng mạnh. Tôi ngẫu nhiên thấy một dòng sông dưới máy bay và hỏi hoa tiêu Naghibovitch sông đó là sông gì. Anh trả lời ngoài sông Hồng ra chẳng còn sông nào khác.

Nghe xong tôi lập tức ngoặt gấp máy bay sang phải gần như 90 độ, Tôi biết rằng trong trường hợp nào cũng không thể cắt ngang sông Hồng bởi vì sau con sông độ cao các đỉnh núi tăng đột ngột. Gió mạnh cuốn chúng tôi về bên trái đường bay. Ngoặt gần như ngược gió, chúng tôi cảm thấy tốc độ hành trình của máy bay giảm đến mức máy bay gần như treo tại chỗ.

Rung lắc mạnh đến nỗi máy đo cao khục khặc lên xuống đến 200 m một. Lái theo thiết bị trong điều kiện rung lắc thế này tôi cảm thấy đã hết sức chịu đựng. Hai mươi phút tiếp tục như vậy. Rồi rung lắc bắt đầu giảm, chúng tôi cảm thấy mình đã ra khỏi khu vực sông và vùng núi cao. Chúng tôi giảm độ cao một chút để cuối cùng nhìn thấy được mặt đất, đường chân trời. Ở độ cao 1500 m tầm nhìn tăng mạnh, chân trời đã hé lộ. Chúng tôi đi vào tuyến bay theo bản đồ, chỉnh la bàn vô tuyến theo đài vô tuyến dẫn đường của sân bay Hà Nội. phia trước đã nhìn thấy đám mây rìa ngoài của thung lũng Hà Nội. Không liên lạc với SCH Hà Nội, chúng tôi quyết định đi vòng, "im lặng" tiến về phía bắc, đi ra đường ô tô Hà Nội-Hải Phòng. Mà chuyện đó là trong điều kiện với chúng tôi la bàn vẫn chạy tốt.

Chúng tôi bay chậm. Không thấy có các chuyến bay, trần mây dưới 70 m. Chúng tôi hạ cánh, lăn vào bãi đỗ, tắt động cơ. Chẳng có ai lại gần chúng tôi. Chúng tôi phát hiện ra kỹ thuật viên hàng không của mình trong khoang hàng, anh nằm trên ghế, thu mình vào với chiếc mũ trùm đầu. Kéo mũ, đánh thức, nhưng trạng thái của anh vẫn cho ta ấn tượng như thể đó là một người vô năng. Rõ ràng sự căng thẳng mà anh phải chịu trong cảnh trực thăng rung lắc tại chuyến bay này đã đè bẹp anh mà dù không có thì vẫn là một trạng thái tinh thần không đơn giản.

Chúng tôi che bạt trực thăng rồi đi bộ vào chỗ các phi công trực thăng của mình. Chẳng ai để ý đến chúng tôi. Chúng tôi đặt người kỹ thuật viên hàng không xuống giường. Tôi đi báo cáo với thủ trưởng trực tiếp, trưởng nhóm trực thăng L.G.Karatchkov, về chuyến bay của mình. Thật lạ lùng là ông cũng chẳng lấy gì đặc biệt ngạc nhiên về chuyến bay về của chúng tôi. Ông tiếp nhận mọi chuyện như nó cần phải thế.

Đến đây kết thúc giai đoạn đầu hoạt động của phi hành đoàn chúng tôi. Có thể nói chúng tôi đã đóng góp phần mình vào chiến thắng trước lực lượng thân Mỹ ở Lào. Đồng thời chúng tôi cũng phải chịu một kiểu tổn thất của mình: kỹ thuật viên hàng không trên máy bay thượng úy Selishev phải đưa vào viện, sau đó theo một chuyến máy bay quay về được đưa trả về Liên bang và có lẽ đã giải ngũ.

Kíp bay của chúng tôi được bổ sung một kỹ thuật viên hàng không mới lấy từ số kỹ thuật viên bảo dưỡng máy bay trên mặt đất. Giờ thì tôi không thể nhớ được họ của anh ấy. Đã 47 năm trôi qua kể từ thời ấy. Tiếc là hồi ấy tôi không ghi chép lại, mà cũng không thể. Kỹ thuật viên mới đã tiếp nhận máy bay trực thăng. Toàn bộ kíp bay kiểm tra trực thăng. Tôi cần tự mình khẳng định trực thăng vẫn tốt sau một trận rung lắc trên bờ vực thẳm như vậy (nhớ lại thật kinh hoàng). May mắn thay trực thăng vẫn trong tình trạng hoàn toàn bình thường.  

Sau gần một tháng công tác cuối cùng chúng tôi cũng viết thư về cho gia đình và cha mẹ. chúng tôi xuống Hải Phòng. Tại đây chúng tôi mua các đồ bản địa đặc sắc của Việt Nam, những món trang sức nhỏ làm quà, tiêu những đồng tiền tích lũy được (tiền đồng Việt Nam).

Thời điểm đó các cơn mưa rào nhiệt đới đã bắt đầu. Chúng bắt đầu vào nửa sau của ngày, lúc gần nửa đêm. Trong thời gian mưa rào, ngay trước cửa sổ phòng chúng tôi có một màn "trình diễn". Từ trong hang của chúng, những con nhái khổng lồ (kích thước đến 30 cm) bò ra. Còn từ các hang nhỏ, lũ kiến có cánh (với tôi có lẽ là như vậy) bay ra, tụ thành những đám dày đặc trên mặt đất. Lợi dụng cơ hội, bọn nhái đi săn kiến bằng cách bắn những chiếc lưỡi dài ra nhanh như chớp. Ngay khi cơn mưa rào chấm dứt, "sô" diễn thú vị này cũng ngừng luôn. Cả kiến cả nhái đều biến mất. Chúng tôi bất chợt nghĩ rằng không phải ngấu nhiên mà người Pháp, vốn rất yêu thích chân nhái, lại không muốn rời bỏ Việt Nam. Những chú nhái Việt Nam trông ngon làn một cách dễ sợ, chúng tôi vẫn đùa như vậy.

Tháng 2 đã hết. Tuần lễ đầu của tháng 3 cũng đã trôi qua. Rìa mây thấp cũng không còn nữa. Bắt đầu các chuyến bay luyện tập cùng các học viên trên 4 chiếc trực thăng.

Chiếc trực thăng của tôi và kíp bay không tham gia các chuyến bay huấn luyện. Chúng tôi làm dự bị cho Bộ Tổng chỉ huy và chờ các nhiệm vụ mới. Và thực tế đến giữa tháng 3 kip bay chúng tôi được gọi về Hà Nội. lần này người ta bố trí chúng tôi ở cùng các kíp bay của trung đoàn vận tải. Trung đoàn vận tải không hoạt động. Nhu cầu bay sang Lào đã không còn cần nữa. Lào đã được giải phóng hoàn toàn, hiệp định hòa bình đã được ký kết. Nhưng vi những lý do nào đó mà người ta chưa cho trung đoàn về nước. Các tổ bay tập hợp trong sân, to tiếng rằng các phi công đã hy sinh ở đây vậy mà người ta vẫn coi họ là khách du lịch, còn các chuyến bay - các chuyến dạo chơi trên các địa điểm diệu kỳ. Họ yêu cầu các quan chức có trách nhiệm chính thức nào đó phải tính một ngày ở đây bằng ba ngày, giống như trong chiến tranh.

Ngày hôm sau người ta gọi tôi và phi công-hoa tiêu đến sứ quán Liên Xô. Vẫn chiếc minibus ấy vẫn người lái xe ấy. Nhưng tại sứ quán người ta mời chúng tôi vào phòng của ngài đại sứ. Tôi nghĩ rằng nhiệm vụ lần này sẽ quan trọng hơn nhiều.

Sau khi chào hỏi và làm quen, ngài đại sứ nói rằng ông đã biết việc kíp bay chúng tôi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lần trước, rằng chính phủ Việt Nam bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đối với công việc mà chúng tôi đã làm.
........
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Ba, 2014, 10:49:57 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #23 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2014, 11:03:47 am »


Các chiến sĩ pháo binh một sư đoàn đóng ở Điện Biên Phủ tặng A.Bobukh bức ảnh tập thể làm kỷ niệm. Tháng 3 năm 1961.

- Tuy nhiên các anh sắp phải thực hiện một nhiệm vụ còn quan trọng hơn. Cực kỳ quan trọng. Bây giờ người ta sẽ đem bản đồ lại, các anh sẽ ngồi trong phòng tôi đây để xem bản đồ và chuẩn bị cho chuyến bay.

Đại sứ nhấc ống nói gọi đi đâu đó. Rồi ông bảo chúng tôi ngồi xuống bên bàn. Chúng tôi trải bản đồ bay của mình trên bàn, chuẩn bị tất cả các bước định hành trình.

Tùy viên quân sự tướng Antipov cầm một chiếc hộp bước vào phòng, ông đặt nó trên bàn rồi mở ra. Đó là bản đồ địa hình khu vực nơi chúng tôi sắp phải làm việc. Tùy viên quân sự bắt đầu tư vấn cho chúng tôi về cách thực hiện nhiệm vụ. Hành trình bay dẫn về phía nam nước VNDCCH, đến điểm dân cư Đồng Hới. Tại đó có một sân bay mà máy bay An-2 và Li-2 có thể hạ cánh. Đó sẽ là sân đậu cơ bản của chúng tôi, nơi chúng tôi có thể tiếp dầu cho trực thăng. Chúng tôi sẽ được bố trí ăn ở ngủ nghỉ tại thị trấn Đồng Hới.

Tiếp theo viên tướng cầm lấy bản đồ địa hình giải thích cho biết đường giới tuyến (biên giới giữa Bắc và Nam Việt Nam) đi qua chỗ nào, sau đó ông chỉ trên bản đồ nơi đóng đồn biên phòng Bắc Việt Nam. Tại đó, trong khu vực đồn biên phòng sẽ có các cờ hiệu đánh dấu hai sân đáp. Một do chúng tôi chọn, thuộc quyền xử lý của chúng tôi. Các sân đáp trên bản đồ địa hình được ghi chú bằng tiếng Nga, bởi vì bản đồ là sản phẩm của Liên Xô. Mặt sau bản đồ có dấu đóng "Mật. Bộ Tổng tham mưu Quân đội Xô Viết".

Người ta không khuyến cáo chúng tôi đặt hành trình bay từ Đồng Hới đến đồn biên phòng. Chúng tôi ngồi làm công tác chuẩn bị cho chuyến bay. Chúng tôi sắp xếp hành trình bay đến Đồng Hới, tính toán hướng, khoảng cách, thời gian bay. Với mỗi trường hợp chúng tôi đều tính toán khoảng cách, hướng từ trường và thời gian bay đến đồn biên phòng. Các dữ liệu tính toán bằng con số được chúng tôi ghi riêng một chỗ lên bản đồ bay. Sau đó chúng tôi bắt đầu nghiên cứu địa hình cục bộ trên bản đồ đoạn từ Đồng Hới đến đồn biên phòng và đặc biệt là địa hình khu vực sân đáp. Chúng tôi cố gắng ghi nhớ trực quan mọi thứ thật chính xác.

Khi chúng tôi báo cáo đã sẵn sàng, viên tướng cuộn bản đồ vào tấm giấy mang đi. Đại sứ tạm rời công việc của mình, quay sang dặn dò chúng tôi một cách ngắn gọn. Đặc biệt tôi nhớ lời ông nói:

- Chưa hoàn thành nhiệm vụ thì đừng có về!

Ra khỏi phòng ngài đại sứ chúng tôi vừa phân vân vừa đói. Chúng tôi quyết định ăn trưa tại nhà ăn sứ quán. Tìm thấy chỗ nhà ăn, chúng tôi đi vào chiếm lấy một bàn nhỏ. Chúng tôi đọc thực đơn mà phát cuồng. Có đủ thứ để vui mừng: món khai vị - cá trích với xà lách dầu dấm, món chính thứ nhất - xúp mì sợi, bắp cải (!), thứ hai - sườn nướng kiểu Hy lạp, thứ ba - nước táo. Một nữ tiếp viên đi tới thông báo giờ ăn trưa đã hết, cô lấy thực đơn đi nhưng hứa còn gì sẽ mang ra. Chúng tôi gọi với theo:

- Này cô gái! Hãy cho cá trích và bắp cải và nhất định phải có bánh mì!

Thật may cho chúng tôi, cô gái mang ra đúng những thứ chúng tôi yêu cầu (đúng là tiếng kêu của tâm hồn như ta vẫn nói!). Bởi lẽ đã ba tháng chúng tôi chưa được ăn bánh mì và bắp cải, không có một thứ gì mà chúng tôi đã quen dùng ở Tổ quốc. Chúng tôi phải ăn cơm thay cho bánh mì, thịt gà và suốt ngày xơi chuối. Tất cả những thứ cô tiếp viên mang ra chúng tôi đều chén vô cùng ngon miệng và thích thú! Bữa ăn đơn giản này chúng tôi nhớ mãi suốt đời, trong khi đó ít có buổi tiệc nào còn được nhớ đến.

Trở về từ sứ quán chúng tôi ra sân bay. Người ta không ấn định thời gian cất cánh như lần trước. Thời gian biểu trong ngày chúng tôi thiết lập cho chính mình: ăn sáng, kỹ thuật viên ra trực thăng, tôi và Naghibovitch đến SCH, phân tích tình hình trên không, dự đoán thời tiết, nhận biết các tín hiệu vô tuyến. Như tôi đã nói, lúc này rìa mây thấp đã hết, bắt đầu đến mùa mưa nhiệt đới. Sau khi nhận tất cả những số liệu bay cần thiết, chúng tôi ra trực thăng và chờ đợi. Cứ như vậy hai hoặc ba ngày.

Rồi một buổi ngày có 3 chiếc xe ô tô đi đến gần trực thăng. Trong hai chiếc thứ nhất có 6 người, có lẽ là lãnh đạo. Trong chiếc thứ ba - một minibus - người ta chở hang đến: 4 hòm to và khá nặng. Người ta chuyển các hòm lên trực thăng. Một trong những người vừa đến giới thiệu bằng tiếng Nga anh ta là phiên dịch của tôi. Tôi nói với phiên dịch mình đã biết hành trình bay, kíp lái sẵn sàng bay.

Khi kỹ thuật viên hàng không báo cáo hành khách đã ngồi vào chỗ, tôi khởi động động cơ rồi thực hiện cất cánh. Trực thăng bay dọc theo đường bờ biển tiến về phía Nam. Thời tiết tốt, ba giờ sau chúng tôi đã hạ cánh xuống sân bay Đồng Hới. Lúc này là nửa sau của ngày. Trong khi tiếp dầu và kiểm tra sau chuyến bay thì trời sập tối. Bay đến đồn biên phòng bây giờ là vô nghĩa. Chuyến bay để sang ngày mai.

Tôi cùng kíp lái rời sân bay bằng chuyến xe minibus thứ hai, về nơi người ta đã chuẩn bị bữa tối cho mọi người. Khi chúng tôi vào phòng thì nhìn thấy toàn bộ đoàn đại biểu. Họ ngồi sau chiếc bàn dài. Bên phải bàn còn trống. Phiên dịch viên nói chúng tôi hãy ngồi xuống chỗ trống còn anh ta ngồi xuống cạnh tôi.

Có thể thấy ai cũng có tâm trạng hào hứng vì công việc đã định bắt đầu trơn tru. Kíp lái chúng tôi không biết công việc đã định đó thực sự là gì và cũng chẳng muốn biết điều đó.  

Trò chuyện với người phiên dịch, chúng tôi tò mò muốn biết anh ta đã học tiếng Nga ở đâu và như thế nào mà khá như vậy. Rất ngạc nhiên là anh ta nói không hề có giọng lơ lớ. Hóa ra anh ta đã tốt nghiệp Học viện Y khoa Kharkov và làm xong nghiên cứu sinh, đã bảo vệ luận án. Tôi nghĩ rằng bây giờ anh ta đang lãnh đạo một học viện của Việt Nam, nhưng anh nói rằng mình đang giữ cương vị Chủ nhiệm Quân Y QĐNDVN. Tiếp theo trong quá trình nói chuyện mới biết rằng nhóm đại biểu này là các đại diện Chính phủ VNDCCH, BCT TUĐCSVN, Bộ Tổng Tham mưu QĐVN. Tôi hiểu đoàn đại biểu đó cao cấp đến thế nào.

Người ta đưa bữa tối đến, như thường lệ cơm với món phụ nào đó. Và người phiên dịch bỗng đùa:

- Chà! Bây giờ mà có một cốc vodka và đuôi cá trích!

Chúng tôi vui vẻ hưởng ứng câu đùa ấy. Chỉ có tôi phát biểu rằng uống vodka trong cái nóng nực thế này thì giống như tự sát. Giờ thì chúng tôi sẽ uống thứ có trên bàn: nước dừa non.

Ăn tối xong người ta chở chúng tôi về một ngôi nhà nhỏ để nghỉ đêm. Ở đây có một phòng 3 giường có màn. Giường khá rộng có đệm rơm hay nhồi một loại cỏ nào đó. Gối cũng được độn cứng. Không khó khăn gì có thể hình dung chuyện gì xảy ra với chúng tôi nếu giường trải đệm lông chim hay đệm bông. Nhiệt độ nóng đến gần 40 độ, độ ẩm không khí đến 90%.  

Trong ngôi nhà nhỏ mà cửa sổ là cửa cánh chớp thay cho kính ta cảm thấy sự chuyển động của không khí. Và tương đối mát. Cởi quần áo ngoài chỉ mặc mỗi quần cộc chúng tôi chui vào màn. Thật hạnh phúc biết bao khi cảm được hơi mát lạnh sau sự nóng nực ban ngày!

Hoàng hôn sậm lại, ve sầu ngoài cửa sổ cất tiếng ca "bài ca" của chúng! Giá mà ngủ được! Tuy nhiên chuyến bay chưa biết sắp tới và việc đáp xuống các sân đậu, được đánh dấu trên bản đồ địa hình, làm tôi lo âu. Thứ nhất, các sân đáp được chọn đều nằm trong thung lũng sâu có núi kề sát. Thứ hai, xung quanh sân đáp có thể mọc các loại cây cối buộc tôi phải bay treo máy bay trên độ cao lớn. Khi nhiệt độ và độ ẩm không khí cao, có mang hàng và người trên trực thăng, việc treo như thế có nguy cơ dẫn đến hạ đột ngột xuống sân đậu mà không phải là hạ cánh.  

Khả năng của Mi-4 tôi đã biết trước đây từ thực tế công việc của mình. Nhớ lại những lời căn dăn của ngài đại sứ của chúng tôi ở Hà Nội: "Chưa hoàn thành nhiệm vụ đừng có trở về!" Trong những điều kiện như vậy không thê hoàn thành nhiệm vụ thì chớ trở về. Vì những suy nghĩ ấy mà sau nửa đêm tôi mới ngủ được.

Buổi sáng chúng tôi thức dậy sớm. Trong khi chờ xe ô tô chúng tôi thảo luận trình tự thực hiện nhiệm vụ. Trên bản đồ bay theo trí nhớ chúng tôi đánh dấu vị trí đồn biên phòng và các sân đáp, đặt hành trình bay, hướng từ trường, khoảng cách và thời gian bay đến đồn.

Chẳng mấy chốc ô tô buyt có mặt đón chúng tôi đi ăn sáng. Chúng tôi lại ăn một loại cơm  gì đó, chẳng có vị gì. Uống trà, nước dừa, ăn chuối, khi đứng dậy chúng tôi còn cầm theo một nải chuối. Chúng tôi đi xe ra sân bay.

Một người cảnh vệ vũ trang đứng cạnh trực thăng. Từ nhà ra rìa sân đỗ còn có một người mang vũ khí khác, có lẽ là để đốc gác. Cậu kỹ thuật viên hàng không đi đến chỗ anh ta, hươ tay trên đầu làm điệu bộ. "Tốt!" - người cắt gác nói và đi đến chỗ trực thăng. Chúng tôi đi quanh trực thăng, kiểm tra dấu niêm trên cửa vào. "Tốt" - kỹ thuật viên hàng không nói với người đốc gác và giơ ngón tay cái ("tốt!") về phía anh ta. Người gác và người đốc gác đi khỏi. Chúng tôi đến cạnh trực thăng, kinh ngạc một cách đùa bỡn về việc cậu kỹ thuật viên hàng không học tiếng Việt lúc nào mà nhanh thế.  

Sau khi chuẩn y trực thăng vơi việc khởi động động cơ, chúng tôi tiến hành kiểm tra xem xét cụ thể. Các hành khách đi tới. Tôi báo cáo kíp lái đã sẵn sàng bay và các vị khách đã có thể vào chỗ ngồi trong máy bay.

Trời không mây, không gió. Chúng tôi bắt đầu lấy hướng. Sau một lúc có vẻ chúng tôi đã đi đúng tuyến bay. Tất cả các ngọn đồi, sông suối, thung khe, toàn bộ các đỉnh núi bên trái và bên phải đường bay chúng tôi đều dễ dàng nhận ra. Qua đó chúng tôi xác định vị trí của mình. Bởi vậy điểm chung cuộc của hành trình - đồn biên phòng - chúng tôi tìm ra nhanh chóng. Ngoặt về bên phải đồn biên phòng chúng tôi phát hiện ra sân đáp chiều dài 50 m được đánh dấu bằng cờ hiệu. Tuy nhiên các sân đó lại nằm giữa các cây cao. Chúng tôi bay qua trên đầu các sân đáp rồi vào tuyến lặp để hạ cánh. Tôi bắt đầu giảm tốc độ để thực hiện động tác treo trên sân đáp. Nhưng ngay khi tốc độ giảm đến 50 km/giờ thì trực thăng bắt đầu rung nhẹ cùng với việc mất độ cao. Vòng quay trục cánh quạt mang lực bắt đầu giảm vì quá tải. Tôi buộc phải chuyển trực thăng sang chế độ tăng tốc độ cùng với việc hạ độ cao. Bay qua trên các ngọn cây vài mét, chúng tôi lại vào vòng.

Chúng tôi chuyển sang sân đáp khác nhưng vào tuyến hạ cánh ở đây còn khó hơn. Những ngọn núi dốc đứng sát gần gây ra nhiều khó dễ. Sau khi lướt qua sân đáp thứ hai ở độ cao cực thấp ngay sát các ngọn cây, tôi đã xác định được cao độ của chúng: khoảng 30 m.
  
Rốt cuộc đã rõ việc hạ cánh an toàn không tai nạn tại cả hai bãi đáp là không thể. Vòng lại bay trên đầu đồn biên phòng, tôi xem xét vùng phụ cận xung quanh. Chẳng thấy có bãi đáp nào thích hợp.

Chúng tôi quyết định: bay về Đồng Hới. Cần khuyến cáo chính quyền địa phương chặt bớt cây xung quanh sân đậu để đảm bảo tiếp cận được nó ở độ cao thấp, nhằm xuất hiện khả năng treo trực tiếp là là mặt sân đậu.  

Chúng tôi bắt đầu rẽ hướng bay về Đồng Hới. Bống hoàn toàn bất ngờ, tôi để ý đến ngọn núi bên phải hướng bay. Trên sườn núi có một đoạn thềm bề mặt tương đối bằng phẳng nằm ngang. Không nghĩ nhiều tôi quay trực thăng lại bay qua thềm núi. Chúng tôi xác định được bề rộng thềm núi khoảng 100 m. Sườn núi và thềm núi phủ một lớp rừng thưa. Đó là món quà của số phận! Tôi kêu lên với phi công-hoa tiêu rằng có thể thu dọn thềm núi làm sân đáp trong một đêm. Chỉ cần chặt một số cây đơn, bụi cây, dây leo.

Lướt qua thềm núi về phía đồn biên phòng, sau đó vòng lại và lại bay qua trên đầu đồn biên phòng về hướng thềm núi. Tôi làm điều đó để chỉ dấn cho những người lính biên phòng đang quan sát chúng tôi định hướng được thềm núi. Tôi ra lệnh cho hoa tiêu đánh dấu lên bản đồ vị trí chính xác thềm núi kia và xét khoảng cách đến đó tính từ đồn biên phòng. Bay qua lần nữa trên thềm núi rồi chúng tôi hướng về Đồng Hới.

Sau khi hạ cánh xuống Đồng Hới, tôi và hoa tiêu ra khỏi máy bay mà rất hài lòng về kết quả chuyến bay. Chỉ băn khoăn một điều: liệu có liên lạc vô tuyến với đồn biên phòng để truyền tọa độ thềm núi và mệnh lệnh chặt cây và dọn dẹp tạo dựng một sân đáp kích thước 50x50m trên thềm núi.

Anh phiên dịch từ nhóm hành khách đi tới vẻ lo lắng nói rằng các vị hành khách rất không hài lòng và đòi phải báo cáo tại sao không thực hiện hạ cánh xuống sân đáp. Tôi giải thích ngắn gọn rằng các sân đáp đánh dấu bằng các cờ hiệu không phù hợp để hạ cánh an toàn do chướng ngại vật. Tiếp đó tôi nói chúng tôi đã xác định được từ trên không địa điểm hạ cánh an toàn và cần liên lạc với đồn biên phòng và truyền mệnh lệnh. Tôi trao tờ giấy có phần viết cùng các tọa độ địa điểm cần làm việc để chuẩn bị sân đáp. Nếu liên lạc với đồn biên phòng không có thì cần chuẩn bị cờ hiệu hoặc thư tín để ném xuống lãnh địa đồn biên phòng.

Rất may phiên dịch viên cho biết có đường liên lạc điện báo với đồn biên phòng. Phiên liên lạc ấn định vào buổi chiều.

Người ta đề nghị chúng tôi đi tắm biển, chúng tôi vui vẻ đồng ý. Một cơ hội như vậy trong cái nóng bức nhiệt đới thật là đúng lúc. Người ta lấy xe ô tô chở chúng tôi ra bờ biển "Nam Trung Hoa", nơi có một cửa sông. Người phiên dịch đi cùng chúng tôi. Anh ta, là bác sĩ và người bản địa, cho chúng tôi những lời khuyên về xử sự trên biển. Đặc biệt anh cảnh báo chúng tôi không bơi ra xa bờ vì lũ cá mập luôn săn rình những người liều lĩnh. Chúng tôi lặn ngụp trong nước biển và thấy ngay độ mặn cao của nó: ngứa và rát toàn thân. Bởi vậy chúng tôi không ở lâu trong nước biển mà hụp lặn trong sông để rửa muối. Thủ tục này chúng tôi làm 3 lần rồi xin về nhà trong bóng râm dưới mái nhà, bởi vì trên bờ chẳng có chỗ nào tránh được ánh mặt trời gay gắt không thương xót.

Trong thời gian ăn tối người ta thông báo phiên liên lạc với đồn biên phòng đã diễn ra, thông tin đã được thu nhận. Chúng tôi đi nghỉ, thỏa thuận sáng ngày mai sẽ cất cánh sớm hơn.

Chúng tôi cất cánh ngay sau khi mặt trời lên. Từ cư ly tầm 3 km chúng tôi đã thấy một khu vực phát quang không cây cối, khi tới gần hơn thì thấy nhiều người đang làm việc ở cạnh các bụi cây. Tôi quyết định hạ cánh trong hành tiến. Tôi xác định không có chướng ngại. Treo máy bay và tiếp đất, không hề giảm vòng quay trục cánh quạt. Cậu kỹ thuật viên hàng không khẳng định bánh xe đã nằm trên bề mặt bằng phẳng và ra tín hiệu. Tôi tắt động cơ, hãm vòng quay trục cánh quạt. Kỹ thuật viên hàng không mời hành khách ra khỏi máy bay. Tất cả nhanh chóng rời trực thăng.

Tôi quan sát từ buồng lái thấy những người mới đến vui mừng ra sao, họ ôm nhau thậm chí còn nhảy múa. Khi sự hoan hỉ chấm dứt, tất cả cùng đi rồi khuất sau đám cây. Người phiên dịch của chúng tôi, ông Bác sỹ (tôi bắt đầu gọi anh ta như vậy) nói rằng mọi người đi chọn vị trí để tiến hành các cuộc thảo luận.

- Thảo luận?

- Vâng, thảo luận, - Bác sỹ nói, - với những người tiên phong mở đường của Nam Việt Nam lần đầu tiên đi vòng đường giới tuyến trên lãnh thổ của nước Lào đã được giải phóng.
........
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Ba, 2014, 08:01:01 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #24 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2014, 05:02:16 pm »

Các cuộc đàm phán thảo luận đã quen thuộc với chúng tôi từ hồi thi hành nhiệm vụ thứ nhất. Từ sau đám cây một trong các thành viên đoàn đại biểu đi ra nói chuyện với Bác sỹ. Bác sỹ nói với chúng tôi địa điểm đàm phán đã chọn xong nay cần chuyển hàng đến. Tôi chỉ vào các chiến sĩ biên phòng đang tiếp tục mở rộng sân đáp. đề nghị người chỉ huy cho tạm dừng tay và động viên người ra bốc hàng trên trục thăng xuống và chuyển hàng đi.

Bác sỹ chuyển lời của tôi cho người đại biểu, ông ấy lại đi ngay. Rất nhanh chóng ông ấy trở lại cùng một nhóm chiến sĩ biên phòng. Họ lấy hàng mang đi.

Sau một lúc, nhiều người từ sau đám cây đi ra, xét theo trang phục họ là những người mở đường từ phía Nam. Quần áo họ bạc rách nhiều. Vẻ ngoài nhiều người mệt mỏi và kiệt sức. Kèm họ là các chiến sĩ biên phòng giúp một vài người di chuyển. Bốn trong số những người mới đến là người Việt, còn môt người tầm thước có lẽ là người Trung quốc. Bác sỹ của chúng tôi đón họ, nói chuyện với họ một chút rồi mời họ đi theo mình, Tất cả lại khuất sau đám cây.

Mặt trời đã lên khá cao. Những con ruồi trâu hay nhặng tấn công chúng tôi từ mọi hướng. Mặt trời đốt nóng thân trực thăng đã thu hút lũ bọ. Chúng bu kín máy bay, theo cánh cửa mở xông vào trong. Không sao chịu nổi lũ ruồi bọ hung hăng này, chúng tôi chạy ra đám cây, bẻ các cành cây để xua chúng đi. Dễ chịu hơn nhưng chẳng được mấy. Chúng tôi buộc phải tránh lũ côn trùng khát máu bằng cách liên tục di chuyển, chạy, nhảy, vung tay vung chân. Phi công phụ của tôi Alfred Naghibovitch tìm lối thoát bằng cách leo lên nóc trực thăng. Vô ích! Chúng tôi quết định lấy xăng bôi lên người. Chẳng được lâu. Xăng bốc hơi nhanh, chúng tôi tiếp tục lấy các cành cây xua lũ ruồi.

Về chiều muỗi to muỗi nhỏ xông ra cùng ruồi và cả những loại hút máu khác nữa. Bốn giờ chờ đợi như vô tận với chúng tôi. Cuối cùng thì Bác sỹ xuất hiện. Tôi nói với anh ta liệu không thể kết thúc hội họp để có thể bay về đến Đồng Hới khi trời còn sáng hay sao. Trao đổi với đoàn đại biểu, Bác sỹ chuyển đến chúng tôi lời người lãnh đạo đoàn:

- Nếu kíp lái vội thì cứ bay đi!

Tất nhiên bay về mà không có đoàn đại biểu thì chúng tôi không thể làm rồi. Chúng tôi mở động cơ, quay cánh quạt, cho máy bay treo, vòng 180 độ về phía bay đến. Sau các thao tác này chúng tôi lại tắt máy. Có lẽ điều đó có ảnh hưởng đến sự tăng tốc cuộc họp vì 10 phút sau mọi người đã xuất hiện sau đám cây. Họ có 11 người. Phân biệt những người tiên phong mở đường từ phương Nam với người Bắc Việt Nam là không thể. Tất cả bọn họ đều mặc quân phục QDNDVN. Các đại biểu ngồi vào trực thăng và chúng tôi cất cánh.

Tại Đồng Hới, một chiếc Li-2 đã chờ sẵn những người tham gia họp. Bác sỹ thông báo sáng mai chúng tôi có thể bay về Hà Nội. Điều đó làm chúng tôi vui mừng. Trong khi đi trên xe chúng tôi trao đổi ý kiến với Bác sỹ về các cuộc hội họp. Với chúng tôi nó diễn ra quá lâu. Bác sỹ nói anh phải xử lý vết thương cho những người mở đường, chăm sóc các bệnh nhân.



Chơi với trẻ em Việt Nam. Tháng 3 năm 1961.

Sau bữa tối chúng tôi đi nghỉ ngơi, khoan khoái nghĩ tới giấc ngủ dài bình yên không lo âu. Tuy vậy đêm đến lại khá ầm ĩ, nếu không nói là ác mộng. Khoảng 9 giờ tối bắt đầu cơn dông. Cứ tưởng: thế là tốt sẽ mát mẻ. Chúng tôi mở cánh cửa chớp, đứng bên cửa sổ, hưởng thụ sự mát mẻ. Bỗng ánh chớp chói lòa bùng lên ngoài cửa sổ. Đúng lúc đó tiếng sét đánh đột ngột dữ dội làm rung chuyển căn nhà của chúng tôi. Qua sương mù có thể thấy từ trên trời một màn nước dày đặc bao phủ xung quanh. Nước dội từ mái nhà xuống như dòng thác. Chớp lóe liên tục, tiếng sấm rền biến thành tiếng rú đặc quánh. Có cảm tưởng chớp bay ngay sát ô cửa sổ. Lời của bài hát "trong bóng tôi chớp lóa, sầm rền vang không dứt" minh họa đúng hiện tượng tự nhiên ngoài cửa sổ.

- Này cậu!

- Chính nó đấy!

- Như thể chúng ta cùng ngôi nhà đang lặn ngụp trong biển!

Chúng tôi trao đổi với nhau như vậy về những ấn tượng của lần đầu thấy tận mắt cơn dông nhiệt đới.
Cơn dông đã đi xa nhưng mưa tiếp tục tuôn không hề giảm. Gió mạnh lên. Chúng tôi bắt đầu lạnh cóng, phải nhao vào đệm chui xuống dưới chăn. Giấc ngủ biến mất dần. Trong phòng bây giờ không còn là làn gió nhẹ nữa mà là cơn gió lùa khá mạnh. Tôi lên tiếng:

- Các chàng trai, các bạn ở đó thế nào?

- Đồng chí chỉ huy, hãy quay 180 độ, chí tuyến đã hết. Phía trước là Nam Cực, - Naghibovitch trả lời.

Tôi cũng đùa:

- Tôi sẽ lấy hướng ngược lại buổi sáng, còn đêm thì phải trú đông ở nơi ấm áp. Tôi đề nghị: cứ mặc quần ngắn theo trang phục hàng ngày, thu thập tất cả vải trải trên các giường và tập hợp tất cả dưới một cái đệm. Trong vòng tay hữu nghị siết chặt, dưới toàn bộ các tấm trải giường chúng ta sẽ sống sót, nếu không - chúng ta sẽ chết như những con ma-mút.

Dịu đi trong ba tấm đắp, chúng tôi nằm kề sát vào nhau. Dưới tiếng mưa, được sưởi ấm, chúng tôi bắt đầu giấc ngủ. Bỗng ngoài cửa sổ tiếng gầm vang lên, không phải bò rống mà thực sự là tiếng gầm, rất trầm và to. Xa hơn một chút cũng nghe như vậy, rồi tiếp tục, tiếp tục. Số lượng tiếng gầm tăng lên từng phút. Bản "hòa tấu" bắt đầu. Nó vẫn tiếp tục và trời vẫn cứ mưa. Rồi mưa chấm dứt vào nửa đêm về sáng. Cuối cùng mọi người cũng thiếp đi.  

Sáng ra chúng tôi thấy ngôi nhà của mình đúng là nổi trong nước. Nước khắp nơi bất cứ nơi nào mắt nhìn đến. Chúng tôi lên xe đi ăn sáng trên con đường ngập nước. Lúc đang ăn sáng Bác sỹ xuất hiện thông báo khu vực này đang bị thiên tai. Sông trần bờ, nước lũ từ núi đổ về cuồn cuộn, cuốn trôi đê bao, ngập tràn đồng lúa. lúa đổ rạp, tất cả chìm trong nước. Những cơn mưa nhiệt đới to như vậy đã lâu không thấy. Chỉ có những người già nhớ về chúng mà thôi.

Chúng tôi hỏi, trong lúc trời mưa, có "ai" gào rống như vậy. Bác sỹ phá lên cười, anh nói rằng ở đây có những con ễnh ương (sống trong hang). Trong thời gian các cơn mưa nhiệt đới, chúng chui ra khỏi hang và rống lên gọi nhau đi tình tự.

Chúng tôi chia tay với Bác sỹ, cám ơn vì sự nhạy cảm, ân cần và công tác xuất sắc trên cương vị người phiên dịch. Lái xe chở chúng tôi ra sân bay, đóng trên địa thế cao và vẫn khô ráo. Quyết định cho cất cánh nhận được buổi chiều. Chúng tôi sẽ bay về Hà Nội.

Sau chuyến bay chúng tôi đưa trực thăng vào trạng thái sẵn sàng và quyết định xả hơi một chút, uống "Bia Hà Nội". Chúng tôi đứng uống bia, ngắm chiếc Li-2 lăn vào sân đậu. Chúng tôi đã nhìn thấy nó ở Đồng Hới. Chúng tôi hiểu các đại biểu đã bay về. Vài chiếc xe hơi chạy ngang qua chúng tôi hướng đến chô máy bay. Khách bắt đầu từ máy theo thang đi xuống. Những người vừa đến đón họ ở chân cầu thang, siết chặt tay, họ ôm nhau nói ngắn gọn rồi tất cả tản về các xe đi đón. Đoàn xe đi về hướng chúng tôi. Khi đến ngang chỗ chúng tôi, chiếc xe đi đầu ngừng lại, những chiếc đi sau cũng dừng theo.

Từ chiếc xe đầu, một vị khách trang phục kiểu Âu và người phiên dịch của chúng tôi đi ra, anh ra hiệu cho chúng tôi lại gần. Khi chúng tôi đến gần, vị khách mỉm cười thân thiện, ông nói gì đó bằng tiếng việt và bắt tay tôi và các thành viên kíp lái. Rồi ông ra hiệu dịch lời ông sang tiếng Nga. Bác sỹ-phiên dịch viên nói:

- Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng cám ơn các bạn vì đã thực hiện thắng lợi một công tác quan trọng đối với nhân dân Việt nam.

Các thành viên cuộc họp - các hành khách cũ của chúng tôi cũng từ các xe còn lại bước xuống, đến gần và bắt tay chúng tôi. Sau nghi thức đó tất cả tỏa về xe rồi họ đi khỏi. Đó là cuộc gặp duy nhất của chúng tôi với Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng nhưng nó được ghi nhớ đậm nét bởi sự bất ngờ và nồng ấm.

Chúng tôi trở lại quầy bar nơi có những cốc bia chúng tôi đang uống dở. Bắt đầu câu chuyện sôi nổi về những gì đã xảy ra. Nhớ đến bữa ăn trưa trong sứ quán Liên Xô, chúng tôi quyết định đi đến đó một lần nữa. Chúng tôi tìm thấy xe và người lái ở sân đậu. Anh ta được lệnh ở đây từ ngày chúng tôi bay về.

Tại khu vực sứ quán đội bảo vệ cho chúng tôi qua như những người quen cũ. Từ hôm ấy chúng tôi thường xuyên ăn trưa trong sứ quán. Việc lưu lại Hà Nội là để chờ đợi những nhiệm vụ mới. Khi rãnh rỗi chúng tôi đi xem thành phố, ngắm vẻ đẹp và các danh thắng của nó, gồm cả vùng quanh Hồ Hoàn Kiếm.

Một lần người tài xế dừng xe lại cạnh một tòa nhà chỉ vào đó và nói: "Liên Xô!" Hóa ra đó là một cửa hiệu. Chúng tôi đi vào và thấy các cô bán hàng nói tiếng Nga, người mua cũng nói tiếng chúng tôi. Chúng tôi theo biển chỉ dẫn, có thể mua gì và ở đâu.

Tại gian hàng thực phẩm có những chiếc bàn nhỏ, ngồi sau bàn là các phụ nữ và trẻ em đang uống nước chanh, trò chuyện gì đó. Chúng tôi mua bia và cũng lấy bàn ngồi. Người ta nói với chúng tôi rằng đến đây không chỉ có các gia đình nhân viên sứ quán Liên Xô mà còn cả các sứ quán khác. Sau này trước khi bay về nhà người ta cũng chở chúng tôi từ Hải Phòng đến cửa hàng này, để chúng tôi mua quà cho bè bạn và người thân bằng tiền đồng Việt Nam.

Vào cuối tháng 3 có lệnh bay về Hải Phòng. Tại sân bay Cát-Bi Hải Phòng đang diễn ra các cuộc bay huấn luyện cường độ cao. Học viên bước vào giai đoạn bay đơn. Các nhân viên kỹ thuật chuẩn bị chuyển giao máy bay trực thăng cho chuyên gia Việt Nam. Chiếc trực thăng của chúng tôi cũng được các nhân viên kỹ thuật sửa soạn để bàn giao. Thành phần bay thế là hết việc làm.

Nóng nực ngày càng tăng. Ban ngày gần 40 độ. Độ ẩm không khí - gần 100%. Do mồ hôi ra không ngừng mà tôi bắt đầu bị ngứa. Bác sỹ khuyên dùng vỏ chanh lau người. Cũng có hiệu quả được một thời gian ngắn.  

Ngày 12 tháng 4 qua radio chúng tôi nghe được một tin chấn động: Yuri Gagarin của chúng ta đã bay vào vũ trụ! Tất cả "Liên Xô" (người Xô Viết) đón nhận lời chúc mừng từ các bạn Việt Nam. Chúng tôi cảm thấy niềm hứng khởi và tự hào chân chính về đất nước của mình: thực tế - Liên bang Xô Viết là quốc gia đầu tiên đi vào vũ trụ!

Cuối tháng 4 các học viên bắt đầu kỳ thi (khí động học trực thăng, tổ chức chỉ huy dẫn đường cho trực thăng, các cơ phận của trực thăng, quy tắc khai thác sử dụng trực thăng). Vào đầu tháng 5 các học viên-phi công thi bài kỹ thuật lái trực thăng. Tới giữa tháng 5 nhiệm vụ giao phó cho chúng tôi huấn luyện các chiến sĩ trực thăng Việt Nam đã thực hiện xong hoàn toàn, đội ngũ các kíp bay trực thăng đã kiện toàn, trực thăng đã bàn giao cho phía Việt Nam.

Nửa sau tháng 5 chúng tôi nồng nhiệt chia tay các chiến sĩ trực thăng Việt Nam và toàn bộ những người cùng làm việc với mình, sau đó chúng tôi lên Hà Nội.

Tại đại sứ quán Xô Viết, trong một khung cảnh trang trọng, đại diện chính phủ VNDCCH trao cho chúng tôi phần thưởng quốc gia - huy chương Hữu Nghị.

Sáng hôm sau, chúng tôi rời Việt Nam bay về nhà trên máy bay Il-14. Chúng tôi mang theo các tấm bưu ảnh, những món quà lưu niệm mà các bạn Việt Nam tặng cho chúng tôi, mang theo mình cả tình cảm thắm thiết đối với những con người xuất sắc đó. Chúng tôi nhớ lại mình đã được chụp ảnh với Chủ tịch Hồ Chí Minh như thế nào. Tôi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ quên đất nước tuyệt vời này và những con người ưu tú mà chúng tôi đã có dịp tiếp xúc tại đó.  

Sau nhiều năm, khi trên báo chí Xô Viêt xuất hiện tin tức về "đường mòn Hồ Chí Minh", tôi có thể bí mật chia sẻ với các đồng nghiệp của tôi rằng tôi đã góp phần vào sự khai sinh con đường huyền thoại: con đường mòn vòng qua giới tuyến, trải trên lãnh thổ của nước Lào đã được giải phóng khỏi lực lượng thân Mỹ.

Dưới thời Xô Viết, tất cả những việc chúng tôi làm ở Việt Nam được giữ kín trong vòng tuyệt mật. Đã nửa thế kỷ trôi qua kể từ những tháng ngày đáng ghi nhớ ấy. Tôi vẫn giữ những tình cảm nồng ấm nhất đối với các bạn Việt Nam, lòng biết ơn vì sự giúp đỡ và thái độ nồng hậu thể hiện với chúng tôi. Từng ở Việt Nam, chúng tôi khẳng định rằng người Việt là những con người dũng cảm, ngoan cường và yêu lao động. Họ nồng nhiệt yêu mến đất nước chúng ta. Tôi tự hào vì mình đã giúp đỡ họ trong cuộc đấu tranh vì độc lập.

Ekaterinburg, năm 2008.
......
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Ba, 2014, 02:00:52 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #25 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2014, 12:43:30 am »

(nhat-nam.ru)

TRÊN NHỮNG ĐƯỜNG BAY HỮU NGHỊ


Sergey Alekseevich Somov

Sergey Alekseevich Somov, Đại tá, Anh hùng nước Nga, phi công quân sự công huân Liên Xô.
Sinh ngày 15/11/1920, tại tỉnh Orenburg, trong một gia đình nông dân đông con.
Ông trải qua thời thơ ấu ở Siberia, tỉnh Kemerovo. Mồ côi cha khi 10 tuổi.
Năm 1940, đang học khóa 2 trường kỹ thuật luyện kim Novokuznetsk ông ghi danh vào trường bay Novosibirsk, tốt nghiệp trường này năm 1942 và được gửi đến trung đoàn KQ cường kích số 64 Quân khu Ngoại Baikal, nơi đào tạo lại ông làm người lái Il-2.
Tháng Tám năm 1944, trung đoàn được điều đến Phương diện quân Belorussia-3 trong thành phần tập đoàn quân không quân số 1.
Từ tháng 10 năm 1944 đến ngày 09 tháng 5 năm 1945 đã tham gia các trận đánh ở Đông Phổ. Chỉ huy một phi đội, thực hiện 118 phi vụ chiến đấu. Do thành tích tiêu diệt được một đoàn tàu bọc thép của 6 chiếc Il-2 dưới sự chỉ huy của thượng úy Somov S.A. gần Konigsberg ngày 14 tháng 4 năm 1945, ông được đề cử trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, nhưng hồ sơ bị thất lạc trong mớ giấy tờ của các bộ tham mưu và chỉ được tìm thấy trong kho lưu trữ vào năm 1996.
Khi đó, trung tá S.A.Somov đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng, nhưng bây giờ là dưới lá cờ Nga ...
Năm 1954 ông tốt nghiệp Học viện Không quân Cờ Đỏ và tiếp tục phục vụ trong ngành không quân vận tải.
Trong những năm 1960 - 1961 ông thực hiện nhiệm vụ trợ giúp quốc tế cho Việt Nam và Lào trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Năm 1970 ông nhận được danh hiệu vinh dự "Phi công quân sự công huân Liên Xô".
Năm 1976, ông chuyển ngạch dự bị trên cương vị  Trưởng phòng an toàn bay Cục vận tải hàng không quân sự. Ủy viên Ban chấp hành Câu lạc bộ các Anh hùng thành phố Moscow. Tích cực tham gia vào công tác giáo dục lòng yêu nước-yêu quân đội cho thanh thiếu niên. Ông đã được tặng thưởng ba Huân chương Cờ đỏ, huân chương Alexander Nevsky, bốn Huân chương Sao Đỏ, các huân chương "Chiến tranh Vệ quốc" hạng II,  "Phục vụ  Tổ quốc trong lực lượng vũ trang Liên Xô" bậc III  và 15 huy chương.



Ngôi Sao Anh hùng được trao cho phi công-cường kích Somov S.A. sau một nửa thế kỷ kết thúc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Bài viết của ông được đưa vào tuyển tập hồi ký, ""Liên Xô" là một từ không thể nào quên", viết về cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Lào, mà Sergey Alekseevich tham gia trong những năm 1960-1961.

Ở doanh trại không quân thành phố Ivanovo có một bảo tàng máy bay vận tải quân sự (BTA). Một lần, khi đến thăm, tôi tới gần tấm bản đồ địa lý thế giới và bật công tắc hệ thống điện chiếu sáng bản đồ. Trên bản đồ lóe lên những ngôi sao sáng giống như trên bầu trời đêm. Các ngôi sao ấy chứng kiến các kíp bay VTQS đã hạ cánh ở đâu, khi họ thực hiện nhiều nhiệm vụ đặc biệt của Chính phủ và Bộ Quốc phòng Liên bang CHXHCN Xô Viết, giúp đỡ các nước bị ảnh hưởng bởi hạn hán, động đất và các thảm họa môi trường khác, cũng như cung cấp các thiết bị cần thiết, khí tài và vũ khí để đấu tranh bảo vệ tính toàn vẹn lãnh thổ của họ.

Trong số những ngôi sao đó, tôi đặc biệt vui mừng khi thấy "Ngôi sao Việt Nam", bằng ánh sáng lấp lánh của nó, dường như đang chào đón tôi, khi tôi nhớ lại những ngày đầy biến động và khó quên mình đã trải qua giữa những con người chăm chỉ và dũng cảm của dân tộc Việt Nam. Tất cả bắt đầu vào những năm 60 của thế kỷ trước, khi tôi còn phục vụ tại Vitebsk, trên cương vị phó sư đoàn trưởng một sư đoàn không quân vận tải, mà người đứng đầu là phi công huyền thoại, sư đoàn trưởng, tướng N.F.Zaitsev.

Một ngày đầu tháng Mười Hai, tôi cùng với hoa tiêu phó của sư đoàn thiếu tá Surnov được khẩn trương triệu tập đến Moscow. Tư lệnh KQ Vận tải Nguyên soái Không quân Skripko sau cuộc trò chuyện ngắn, cho biết theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam, chúng tôi được phái đến đất nước này để tổ chức đào tạo phi công lái Li-2 và cung cấp những hàng hóa cần thiết sang nước Lào.

Tại kho quân nhu trung tâm Moscow người ta trang bị thường phục cho chúng tôi từ đầu đến chân. Các bác sĩ tiêm chủng cho chúng tôi để phòng chống các bệnh truyền nhiễm khác nhau, họ nhắc nhở sự cần thiết phải tuân thủ các quy định vệ sinh khi sử dụng một loạt các loại rau và trái cây ở miền xa lạ mà nhiều người trong chúng ta thậm chí còn chưa từng nhìn thấy.

Một tuần sau từ sân bay Shatalovo, nằm không xa Moscow, chúng tôi cất cánh trên máy bay An-12 bay tới Việt Nam. Trên sân bay Belaya gần Irkutsk, chúng tôi dừng để tiếp nhiên liệu cho máy bay, làm rõ lộ trình tiếp theo rồi tiếp tục bay. Bay qua Trung Quốc chúng tôi dừng chân ở Bắc Kinh, tại đây chúng tôi được đại diện Đại sứ quán Liên Xô đón, mời ăn trưa, vừa ăn vừa trò chuyện rất sôi động. Sau đó, chúng tôi bay đến Quảng Châu, tại đây chúng tôi phải qua đêm. Tại sân bay này chúng tôi gặp 5 đội bay của chúng tôi thuộc trung đoàn KQ 339 đã dùng AN-12 vận chuyển đến Việt Nam các máy bay trực thăng Mi-6.

Chúng tôi có mặt tại Trung Quốc trong thời kỳ, khi trên những cảnh trí sân khấu Liên Xô ta thường nghe bài hát "... Moscow, Bắc Kinh - bạn bè mãi mãi". Hợp tác kinh tế và văn hóa mở rộng, nhiều sinh viên Trung Quốc, bao gồm cả các phi công, sang học tập trong các cơ sở đào tạo của chúng ta.

Người Trung Quốc chào đón chúng tôi một cách thân thiện với sự quan tâm và chăm sóc tuyệt vời, bố trí ở những phòng khách sạn tốt nhất. Vào buổi tối, họ sắp xếp một bữa tối thịnh soạn mà các bạn trẻ đến dự cùng những bó hoa đẹp. Với sự giúp đỡ của phiên dịch viên chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện rất sôi nổi với họ, cùng bày tỏ mong muốn tình hữu nghị giữa hai dân tộc chúng ta ngày càng được củng cố và trường tồn mãi mãi.

Từ chiều cao của khách sạn 11 tầng trên bờ sông, chúng tôi ngắm cảnh hoàng hôn có mặt trời lặn trên sông, chiếu sáng mặt sông những ánh lửa đa màu sắc, những ánh lửa đó đung đưa trên những con sóng và phản chiếu trong nước, tạo ra cảnh tượng một cánh đồng hoa đẹp đến mê hồn - những chiếc ghe bầu (tàu ) của  người Trung Quốc sống trên sông rực sáng.

Buổi sáng, chúng tôi có một tour du lịch thành phố. Chúng tôi được người ta cho tham quan các di tích lịch sử, các cung điện đẹp đẽ, làm quen với cuộc sống của thành phố. Tôi nhớ đến một dòng chảy lớn những người đàn ông và đàn bà đi xe đạp, và sự buôn bán sôi động trong các cửa hàng tư nhân nhỏ.

Trong khi đó lệnh cho phép bay đến Việt Nam đã tới. Tôi cùng Surnov đặc biệt là những người đầu tiên bay trên  IL-14 tới sân bay Gia Lâm, Hà Nội. tại đây chúng tôi báo cáo mình đã có mặt và các nhiệm vụ với tùy viên quân sự Liên Xô tướng Antipov. Rồi lập tức chúng tôi bay tới sân bay Cát Bi, nằm gần thành phố Hải Phòng. Để tiếp nhận các máy bay AN-12, mà theo kế hoạch đã bay tới rồi.
.........
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Bảy, 2014, 12:51:24 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #26 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2014, 08:51:10 pm »

Đường băng sân bay phủ bằng các tấm kim loại nhẹ. Hai chiếc AN-12 của chúng tôi vì thế sau khi tiếp đất phải phanh hãm khi chạy xả đà. Những tấm đó bắt đầu dịch chuyển như kiểu đàn accordeon, điều đó khá nguy hiểm. Các phi công còn lại phải hạ cánh trên sân đất, nhưng mọi việc đều ổn. Người Việt Nam nhanh chóng giúp dỡ hàng cho máy bay và sau đó đưa chúng tôi ra bờ biển, tại đó họ bố trí một bữa ăn tối trọng thể. Họ để chúng tôi nghỉ đêm tại những ngôi nhà nhỏ rất đẹp có các phòng rất tiện nghi, tại đó trước kia bọn thực dân Pháp vẫn nghỉ ngơi, còn sau khi đuổi chúng đi - thì là người Việt Nam. Buổi tối thủy triều lên, còn buổi sáng - thủy triều rút.


Kíp bay của Denisov (trung đoàn KQ Vận tải Cận vệ 194) sau một chuyến bay đến Lào, về nghỉ tại Đồ Sơn, Hải Phòng, Việt Nam năm 1961

Mặc dù mệt mỏi vì chuyến bay dài, chúng tôi thức dậy sớm và vội vã ra biển. Mặt trời đã lên, nắng ấm và nhiều người muốn bơi. Tuy nhiên, người Việt Nam cảnh báo rằng không nên làm điều đó, bởi vì trong thời gian thủy triều rút các tàu biển đi qua cách xa đường bờ biển, đồng thời những con cá mập đói sẽ tới gần bờ, đã có nhiều trường hợp chúng tấn công những người đang bơi.

Việt Nam - đó là ký ức của chúng tôi. Ở đây chúng tôi lần đầu tiên nghe thấy từ "liênxô" - "Xô Viết", vang lên khắp mọi nơi tại Việt Nam. Khi gặp chúng tôi, người Việt Nam nở nụ cười niềm nở, họ mời ta một tách trà xanh thơm và nói với chúng tôi những lời chúc tốt đẹp nhất.

Chúng tôi không ngờ rằng người Việt Nam, một thời gian dài không có cơ hội giao lưu trực tiếp với người Xô Viết, lại biết về chúng tôi rất nhiều. Cả những người lính nhiều năm qua không rời rừng rậm, cả những người một thời gian dài buộc phải sinh sống trong vùng bọn xâm lược tạm chiếm. Họ biết rất nhiều chuyện trong biên niên sử anh hùng của cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của chúng ta.

Sự đồng cảm của họ có lẽ là một trong những ấn tượng mạnh nhất và sống động nhất trong những ngày làm việc ở đất nước xinh đẹp này.

Khi bắt tay vào đào tạo phi công trên máy bay Li-2 và chuyển hàng hóa cần thiết tới Lào, chúng tôi gặp một số khó khăn nhất định: đầu tiên là không có căn cứ huấn luyện cần thiết để đào tạo lại cho các phi công lái máy bay Li-2. Phải khẩn trương chuyển từ trung đoàn KQ 194 đến các áp phích huấn luyện, các biểu đồ, các tài liệu chuẩn bị về phương pháp dạy học. Quá trình dạy chuyển loại còn gặp phải rào cản ngôn ngữ - không đủ phiên dịch viên, hiểu biết về thuật ngữ hàng không. Tác động tiêu cực bất thường đối với chúng tôi còn có điều kiện khí hậu. Ngay cả vào cuối mùa thu trong những ngày trời quang không hiếm khi nhiệt kế chỉ trên ba mươi độ.

Khí hậu nhiệt đới ảnh hưởng đến vẻ ngoài của thành phố, đến tính độc đáo của cuộc sống thường nhật của người dân. Hiếm khi nhìn thấy người không đội đầu - hoặc một chiếc mũ cát trắng hay chiếc nón lá, chúng đều có ý nghĩa vô giá khi trời mưa rào và trong những ngày oi bức.

Việc dùng màn chống muỗi là bắt buộc, mặc dù khi nằm màn ta không có khả năng ngủ ngon do ngột ngạt, dù mỗi phòng đều có một chiếc quạt trần lớn quay vù vù. Điều rất quan trọng là giám sát việc tuân thủ yêu cầu vệ sinh-phòng dịch khi chế biến và nấu ăn.

Tiếc rằng chúng ta biết quá ít về Việt Nam, điều kiện khí hậu, văn hóa và cuộc sống hàng ngày của các cư dân đất nước này. Tôi xin trích dẫn một ví dụ. Thay mặt cho tướng Antipov tôi và Surnov cần phải gặp hai đại tá của chúng tôi - các chuyên gia pháo binh, bay chuyến thường xuyên từ Moscow tới. Tại sân bay Gia Lâm chúng tôi quyết định không kêu to tên họ mà tìm cách phát hiện đồng bào của chúng tôi theo vẻ bên ngoài. Chúng tôi đứng một bên quan sát các hành khách đang đi ra. Đầu tiên - trên các bậc thang máy bay xuất hiện người mặc quần short và áo sơ mi ngắn tay, tiếp theo - một người quần áo thể thao cầm máy ảnh trong tay. Cứ như vậy khá nhiều hành khách đã đi ra, nhưng chúng tôi không xác định được các vị đại tá của chúng tôi trong số đó. - Có thể họ bay đến trong chuyến bay kế tiếp, - Nikolai Surnov nói.

- Có lẽ thế - tôi nói, - nhưng chúng ta hãy chờ đến cùng xem sao.
Và bỗng nhiên tôi thấy hiện ra từ sau cánh cửa máy bay, ban đầu một chiếc va-li màu nâu rất lớn, các góc bịt sắt, phía sau - người chủ hành lý đầu đội chiếc mũ đen, mặc áo bành-tô nâu, đi đôi giày buộc dây màu đen, đi phía sau - một bản sao của người hành khách, như thể họ xuất hiện từ một bộ phim kinh dị Mỹ rẻ tiền.
- Kìa - người mình! - Ngay lập tức chúng tôi thốt lên, rồi vội vã đi tới chỗ anh ta.
- Chúng tôi xin chúc mừng các anh đã tới! - Surnov nói.
- Làm thế nào các anh nhận ra chúng tôi? - một trong hai người ngạc nhiên hỏi.
- Con chim hay cứ bay là thấy ngay, - tôi trả lời.


Tháng 3 năm 1961, sân bay Cát Bi - Hải Phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các chuyên gia quân sự Liên Xô trung đoàn Không quân vận tải Cận vệ 194. Ngồi cạnh Chủ tịch là đại tá trưởng đoàn I.N.Salamatin, đứng sau họ là đại úy Poluyanov phi đội 2.

Sau khi đưa họ ngồi vào chiếc "Volga" của mình, chúng tôi chở họ về giao cho tướng Antipov. Thực tế những ngày ấy là như vậy. Trong hoạt động bay của chúng tôi cũng có những thiếu sót. Ví dụ một lần buổi trưa, giữa lúc nóng nhất, chúng tôi cùng hoa tiêu Việt Nam bay theo hành trình trên máy bay Li-2. Trong mây máy bay bắt đầu có hiện tượng rung lắc. Chúng tôi đã quen với việc này, nên vẫn tiếp tục bay, đột nhiên Surnov nhận thấy người hoa tiêu lấy hai bàn tay ôm đầu và nhắc đi nhắc lại: "Khum tot", "Khum tot", có nghĩa là xấu, xấu. Chúng tôi xuyên mây lên trên. Bầu trời màu xanh lam đập ngay vào mắt, hiện tượng rung máy bay không còn, người hoa tiêu bình tĩnh lại và chúng tôi hoàn thành chuyến bay tốt đẹp. Trên mặt đất chúng tôi mới biết nguyên nhân gây ra đau đầu của người hoa tiêu - đó là kết quả của sự vi phạm chế độ nghỉ ngơi: khi trời quá nóng, họ nghỉ trưa cho đến 3:00 giờ.

Hoặc đây là một trường hợp khá lố bịch. Tại sân bay đang diễn ra công tác chuẩn bị cho chuyến bay của một máy bay IL-14. Để đưa hàng lên máy bay cần có ô tô. Kỹ thuật viên máy bay của chúng tôi đến chỗ người lái xe Việt Nam, đang nằm nghỉ trên chiếc ghế trong buồng lái mở cửa, yêu cầu chuyển số hàng hóa cần thiết lên máy bay, còn anh ta trỏ vào đồng hồ, ra hiệu rằng giờ nghỉ chưa hết. Khi đó, người kỹ thuật viên đưa tay ngang cổ, ra hiệu rằng máy bay "cực kỳ" cần hàng ngay bây giờ. Người lái xe lập tức vùng dậy, nổ máy, và hàng đã được chuyển cho máy bay.

Ngày hôm sau người chỉ huy nhóm là trung tá Ivanov, sau khi tập hợp đội hình toàn nhóm, ông hỏi ai là người đe dọa giết lái xe Việt Nam. Khi chúng tôi hiểu chuyện gì đã xảy ra, và giải thích cho người Việt Nam bản chất cử chỉ của người kỹ thuật viên của mình, thì mọi người cùng cười ồ cả lên với nhau. Một lần tôi cũng trở thành lý do để người ta cười: tôi cắt trọc đầu. Khi tôi đến sân bay, người Việt Nam vây quanh tôi và cười hỏi: "Bạn sao thế? Định đi tu à?". Điều đó chỉ ra rằng cần phải biết ngôn ngữ và phong tục của quốc gia nơi bạn làm việc.
..........
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Bảy, 2014, 02:08:01 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #27 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2014, 10:45:19 pm »

Mặc dù có những khó khăn như vậy và cả những khó khăn khác nữa, 8 phi hành đoàn của trung đoàn KQ vận tải Cờ Đỏ Cận vệ 194 có mặt tại đây, do đại tá Salomatin dẫn đầu, trong thời hạn ngắn đã đào tạo thành công các phi công Việt Nam, còn trong các năm tiếp theo họ đào tạo các phi công Lào bay máy bay Li-2.

Phân tích chặng đường đã qua từ khi công việc của chúng tôi bắt đầu, tôi luôn luôn ngưỡng mộ sức mạnh nội tâm lớn lao mà những người lính trẻ Việt Nam có được, ta có thể cảm được biết bao nhiêu sự cao thượng về tâm hồn trong mọi mặt hoạt động của họ! Chính họ là những người sáng tạo ra lịch sử của nước Việt Nam mới, những người có lòng can đảm huyền thoại, lập nên những kỳ công chưa từng có, màu sắc và niềm tự hào của một dân tộc anh hùng. Và chúng tôi tin rằng dân tộc này sẽ đạt được thành công trong sự nghiệp xây dựng một nhà nước độc lập dân chủ, thống nhất.


Một kíp bay Li-2 trung đoàn KQ vận tải Cận vệ 194 tại sân bay Viên-Chăn, Lào, năm 1962.

Ấn tượng khó quên đến với chúng tôi là trong thời gian đón Năm Mới - 1961 - năm âm lịch tại Hà Nội. Theo tiếng Việt nó được gọi là Tết.

Chúng tôi đến khu vực quảng trường gần Hồ Gươm, nằm ở trung tâm của thành phố. Hồ này là một trong những địa điểm đẹp nhất, vẻ đẹp của nó - chủ đề ưa thích cho các nhà thơ. Những cây cổ thụ lớn mọc xung quanh hồ, đến mùa hè hoa phượng nở đỏ rực, rắc xuống mặt nước xanh phẳng lặng của hồ, tạo cho nó một vẻ đẹp nên thơ. Chúng tôi thường đến đây đi dạo sau các chuyến bay, chiêm ngưỡng phong cảnh tuyệt vời, thưởng thức vẻ thanh bình và hơi mát của hồ. Tại thời điểm này khu vực hồ đầy ắp người dân Hà Nội cùng những người từ các quốc gia thân thiện đến làm việc tại Việt Nam. Người ta đến để xem rất nhiều màn trình diễn, bắn pháo hoa, tham gia các lễ hội dân gian, nghe nhạc dân tộc. Khán giả đặc biệt thích thú nghệ thuật trình diễn và âm thanh du dương của một loại nhạc cụ cổ xưa đơn giản - Đàn Bầu chỉ có một dây. Chúng tôi xem các điệu múa dân gian rất đa dạng do các cô gái vô cùng xinh đẹp và duyên dáng thể hiện, và điệu nhảy độc đáo với những cây gậy tre, đòi hỏi không chỉ tài năng âm nhạc mà còn tài nghệ thể thao tốt, và cuối cùng là cuộc chiến đấu đầy kịch tính với con rồng khổng lồ được chế tác rất khéo léo.

Trên các đường phố đặc biệt nhiều loại hoa có các màu sắc đẹp khác nhau. Người Hà Nội thường đi đền đi chùa. Tất cả những điều ấy lần đầu tiên chúng tôi mới thấy và mọi thứ với chúng tôi thật tuyệt vời và thú vị.

Và đột nhiên, tất cả bỗng im lặng như dưới sự điều khiển của một đôi đũa thần, thậm chí ta có thể nghe thấy hơi thở của người bạn đồng hành bên cạnh. Tôi hoài nghi nhìn sang phiên dịch viên Hùng, anh mỉm cười nói rằng bây giờ là lúc nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc Tết.

Một phút sau, rồi một phút nữa, trên đài phát thanh chúng tôi nghe thấy giọng nói trầm tĩnh, hơi nghẹn của ông. Chủ tịch chúc mừng Năm Mới đồng bào của ông, chúc sức khỏe tốt cho mọi người và sự thịnh vượng cho mỗi gia đình. Chúng tôi dịch sát đến gần Hùng, để không bỏ lỡ một từ nào, còn anh vẫn tiếp tục dịch. Lời nói của "Bác Hồ", như cách mà người ta yêu quý gọi ông ở Việt Nam, gieo niềm tin, hy vọng vào sự nghiệp thống nhất đất nước trong một quốc gia duy nhất. Bài phát biểu của ông là lời kêu gọi đấu tranh không ngừng cho nền tự do và độc lập của Việt Nam. Liên Xô hỗ trợ cuộc đấu tranh ấy và thể hiện sự trợ giúp trong cả lĩnh vực kinh tế cũng như quân sự. Và chúng tôi, hiện đang ở Việt Nam, sẽ cố gắng thực hiện thành công nhiệm vụ của chúng tôi, nhằm làm gần lại ngày thống nhất đất nước.


Chuyển giao máy bay Li-2 cho các kíp bay Lào, Vientiane, 1962.

Với việc chiếm được sân bay Condetium ở Cánh Đồng Chum thuộc Lào, công việc của các phi hành đoàn chúng tôi đã trở nên dồn dập và đa dạng hơn, đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân Lào giành độc lập. Và chẳng mấy chốc có lệnh đưa người đứng đầu Mặt trận Quốc gia Lào - Hoàng thân Souvanna Fuma từ Campuchia về.

Bộ tư lệnh Không quân đón ông Hoàng tại sân bay Gia Lâm Hà Nội, sau đó đưa ông sang Lào. Vì thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này phi công Sherbatykh được trao tặng Huân chương Cờ Đỏ.

Để hỗ trợ Lào trong những năm 1960-1963, theo số liệu của bộ tham mưu KQVT các đội bay đã hoàn thành hơn 19.000 phi vụ chiến đấu với 4270 giờ bay, vận chuyển hơn 1000 tấn hàng khác nhau. Chỉ tính từ tháng 9 tới 25 tháng 10 năm 1962, 20 kíp bay của trung đoàn dưới quyền đại tá Panasov trên các máy bay Li-2 và IL-14 đã thực hiện 4.000 phi vụ, trong đó thả dù hơn 17 ngàn người và vận chuyển 3.900 tấn hàng hóa các loại. Đằng sau những con số trên là biết bao sự tận tâm quên mình, lòng can đảm và sự dũng cảm của các phi hành đoàn thực hiện các nhiệm vụ này.

Chẳng hạn ngày 08 tháng 2 năm 1962, chiếc Il-14, do thiếu tá Agafonov điều khiển, bị một cặp máy bay tiêm kích Mỹ tấn công, chúng sử dụng cả đạn phản lực và súng máy. Máy bay bị thủng tới 36 lỗ, đại úy chủ nhiệm thông tin liên lạc phi đội Davydov bị thương nặng, nhưng bằng sự kiềm chế, tự chủ và tài nghệ bay cao cường, phi hành đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ rồi trở về sân bay.

Đại tá Chivkunov đã thực hiện 125 phi vụ trên máy bay Li-2. Máy bay của ông hai lần bị thương vì hỏa lực pháo phòng không. Lần đầu tiên ông vất vả lắm mới đến được sân bay Condetium tại Lào, còn lần thứ hai - đến sân bay Điện Biên Phủ Việt Nam.

Thiếu tá Agafonov và đại tá Chivkunov vì lòng dũng cảm đã được trao tặng các huân chương quân sự Cờ Đỏ và Sao Đỏ.

Tôi muốn dẫn ra thêm một ví dụ đáng quan tâm và trân trọng.

Phi công trẻ Krainov gặp phải một tình huống khó khăn. Trong chuyến bay đầu tiên, khi chở hàng tới Lào, sau khi hạ cánh trên đường chạy xả đà, gió thổi tạt sườn lùa một mớ dây thép gai vào dưới chiếc Li-2, giật rách cánh tà sau bên trái, cánh lái độ cao, làm hư hỏng cánh ổn định đuôi. Phải làm gì? Ở lại qua đêm thì nguy hiểm: bên kia núi tiếng chiến trận vang rền. Khi đó, sau khi giải phóng đường băng, anh đã tổ chức sửa chữa bằng lực lượng của kíp bay. Gắn lại cánh tà bị rách, cánh lái độ cao, gia cố cánh ổn định đuôi bằng dây thép. Người Lào đã giúp anh. Và khi Krainov trở về Hà Nội, sau khi kiểm tra máy bay của anh, ngay cả một phi công kỳ cựu cũng rất ngạc nhiên bởi điều kì diệu nào đã giúp anh bay được về sân bay. Krainov đã thực hiện tại Lào hơn một trăm phi vụ, nhưng đáng nhớ nhất đối với anh là chuyến bay ngày 12 tháng 4 năm 1961.


Lào, Vientiane, năm 1962. Một đoàn hộ tống chính quyền.

- Vào ngày đó, - Evgeny Aleksandrovich nói - tôi bay trên một chiếc Li-2 hướng sang Lào, chưa kịp lấy trần bay quy định (Flight level; Эшелон; Niveau de vol), thì đột nhiên trên radio điều chỉnh để nghe đài Moscow vang lên giọng nói có một không hai của Levitan, âm lượng rất to, "ngày 12 tháng 4 năm 1961 tại Liên bang Xô Viết, con tàu vũ trụ đầu tiên của thế giới đã được phóng lên quỹ đạo quanh Trái đất - vệ tinh "Vostok" chở một người trên tàu. Phi công - phi hành gia tàu vũ trụ - vệ tinh "Vostok" là một công dân Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết thiếu tá phi công Yuri Gagarin".

Dừng lại một lúc khá lâu, Levitan tiếp tục: "Việc phóng tên lửa vũ trụ nhiều tầng đã diễn ra thành công, và sau khi đạt vận tốc vũ trụ cấp 1 và tách tầng cuối cùng của tên lửa-mang, tàu vũ trụ-vệ tinh bắt đầu chuyến bay tự do trong quỹ đạo xung quanh Trái đất ..."

Sau một khoảng dừng ngắn, phát ngôn viên không kém xúc động cất tiếng đọc tiểu sử của con người đã dũng cảm bước vào vực thẳm bao la chưa hề biết tới của vũ trụ huyền bí.

Tôi lập tức báo tin vui này cho người chỉ huy các chuyến bay. Và khi tôi quay trở lại sân bay, thì tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, người Việt Nam đã tụ tập lại để nghe tin tức về chuyến bay của Yuri Gagarin, họ hân hoan chào đón chúng tôi và các chuyên gia Liên Xô làm việc tại Việt Nam. Họ đi theo cùng chúng tôi với những nụ cười tươi rói, họ bắt tay chúng tôi chúc mừng, và trái tim tôi tràn ngập niềm tự hào rằng tôi sinh ra từ quốc gia đầu tiên trên thế giới khai mở con đường vào không gian vũ trụ.
...........
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Bảy, 2014, 06:15:24 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #28 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2014, 12:17:35 am »

Gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tôi rất hạnh phúc vì số phận đã cho tôi cơ hội vào năm 1961 không chỉ lắng nghe lời chúc của ông trên đài phát thanh nhân dịp năm mới, mà còn được gặp gỡ và nói chuyện với ông.

Vào ngày đầu tiên của Năm Mới Tết Việt, theo truyền thống ông đến thăm các đồng chí, những người đã cùng ông traie qua con đường đấu tranh gian nan chống thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ.

Đồng thời, trong khuôn khổ chuẩn bị cho một chuyến đi của nhà lãnh đạo Việt Nam đến miền Bắc đất nước, máy bay trực thăng của ông phải thực hiện công việc bảo dưỡng định kỳ, công việc này chưa được hoàn tất trước ngày khởi hành của Chủ tịch. Và khi đó Bộ Tư lệnh Không quân Việt Nam quay sang chúng tôi đề nghị cho mượn chiếc trực thăng của chúng tôi.

Vào buổi sáng sớm ngày khởi hành của Chủ tịch Hồ Chí Minh phi hành đoàn Mi-6 đã sẵn sàng cho chuyến bay, máy bay do phi công Baranov điều khiển, đã túc trực ở sân bay Gia Lâm. Trong lúc chờ đợi Chủ tịch, chúng tôi cùng BTL Không quân Việt Nam trò chuyện về công việc chung của chúng tôi, về công tác đào tạo chuyển loại phi công trên máy bay Li-2 và tình hình đang phức tạp tại Lào, nơi chúng tôi đang chuyển hàng hóa cần thiết tới.

Vào ngày đó tôi đến sân bay trên chiếc xe hơi của nước ta hiệu "Volga", bỗng đột nhiên tôi nhìn thấy trên đường băng một chiếc xe hơi hiệu "Chiến thắng" phóng nhanh về phía chúng tôi.

- Sao thế nhỉ - tôi nói với Tư lệnh Không quân, - chúng ta thì đang chờ Chủ tịch, - vậy mà những chiếc ô tô kia lại đi lung tung trên sân bay? Tư lệnh nhìn về phía chiếc "Pobeda" và lập tức trả lời:
- Kìa Hồ Chủ tịch đang tới!


Chủ tich Hồ Chí Minh với thành phần bay của KQ Vận tải. Việt Nam, năm 1961

Tôi nhìn theo hướng của người chỉ huy lực lượng không quân và lặng lẽ đề nghị: "Xin đồng chí hãy ra lệnh không ai được giải tán và ra đón Chủ tịch".

Tính đến thời điểm này, tôi chưa bao giờ được gặp Hồ Chí Minh, nhưng tôi đã được biết con đường đầy gian khổ của nhà cách mạng. Cho dù ông phải ẩn nấp trong rừng rậm nhiệt đới, cho dù ông có bị tra tấn, mất tự do, thiếu thốn, cho dù cuộc sống của mình treo "trên sợi tóc" - trong mọi tình huống, ông vẫn trung thành tận tụy với mục tiêu đã chọn từ thời tuổi trẻ của mình.

Vì vậy, trong trí tưởng tượng của tôi, tôi mong đợi cuộc gặp gỡ với một người đàn ông cao lớn, có vẻ ngoài ấn tượng. Và tôi rất ngạc nhiên khi từ trong xe bước ra là một người đàn ông tầm thước có mái tóc bạc trắng. Ông mặc một chiếc áo khoác cổ cao màu trắng giản dị, chân đi một đôi dép thông thường. Và nếu tôi gặp ông trên đường phố Hà Nội, hầu như tôi sẽ không nhận ra ông là vị Chủ tịch Nước. Hồ Chí Minh mỉm cười với chúng tôi như thể chúng tôi đã quen biết ông từ lâu, ánh mắt ông tỏa ra sự ấm áp và chân thành. Tôi báo cáo ông phi hành đoàn đã sẵn sàng cho chuyến bay, sau đó ông hỏi tôi bằng một thứ tiếng Nga chính xác: "Đồng chí là quân nhân?". Tôi trả lời: "Vâng". Tôi biết rằng ông có thể nói chuyện bằng nhiều thứ tiếng, nhưng quả thật, khó mà tưởng tượng rằng ông giải thích bằng tiếng Nga tuyệt với như vậy.

Nhiều năm sau, tôi mới biết lần đầu tiên ông đến Liên Xô vào mùa hè năm 1923, để học tập tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông, thành lập theo chỉ thị của Lenin, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ quốc tế các nhà cách mạng. Ngày 27 tháng 1 năm 1924, giữa mùa đông, mà năm ấy ở nước Nga rất lạnh, ông mặc bộ quần áo phong phanh đứng xếp hàng trong một đoàn người dài ở lối vào hội trường Nhà Công đoàn, nói lời vĩnh biệt với Lenin.

Nhà yêu nước vĩ đại của Việt Nam Hồ Chí Minh đã đi khắp thế giới để tìm kiếm con đường giải phóng cho quê hương mình. Năm 1930 ông thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng Tám năm 1945, Việt Nam giành được độc lập và tuyên bố tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhưng quân đội Pháp đã nhanh chóng quay lại chiếm đóng đất nước. Việt Nam phải tiến hành kháng chiến quyết liệt trong 9 năm, đến ngày 07 tháng 5 năm 1954 mới giành thắng lợi tại Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, theo thỏa thuận Geneva, Việt Nam bị chia thành hai phần theo vĩ tuyến 17. Điều này, nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận, và dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (ĐCSVN bây giờ) đã diễn ra cuộc đấu tranh để thống nhất của đất nước.

Để giải quyết những vấn đề này ông lên đường đến phía Bắc Việt Nam tới chỗ các đồng nghiệp trong đảng của ông để thảo luận các vấn đề hiện tại của đảng và lập kế hoạch tiếp tục đấu tranh hơn cho Việt Nam thống nhất.


Leonid Semenovich Polynov bên máy bay Li-2. Lào, năm 1962.

Hồ Chí Minh yêu trẻ em và khi quay trở lại sân bay, phi công Baranov kể với chúng tôi cảnh các đồng chí trong đảng đón Chủ tịch và nhiều em nhỏ ôm những bó hoa ra đón ông. Và ông đưa cho tất cả các em bánh kẹo và các đồ ngọt khác. Chúng chạy đến cha mẹ để báo cáo về những món quà mà "Bác Hồ" tặng chúng.

Khi trở về Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra khỏi trực thăng, và chúng tôi ngay lập tức vây quanh ông. Tôi đến gần và đề nghị ông cho phép chụp ảnh lưu niệm với các phi công Liên Xô. Ông không ngần ngại hỏi ngay: "Tôi sẽ đứng ở đâu?". Trong gia đình chúng tôi đã có bức ảnh đáng nhớ này như vậy đấy. Khi gặp gỡ ở các trường học, tôi kể lại nguồn gốc của bức ảnh này và nó gợi cho người nghe mối quan tâm đặc biệt đến đời sống và lịch sử dân tộc Việt Nam cần cù, đến cuộc đấu tranh anh hùng vì nền độc lập của đất nước của họ.

Để kết thúc câu chuyện này, tôi muốn kể thêm một vài chi tiết về sự nhạy cảm trong tâm hồn của một con người thực sự tuyệt vời. Khi bạn tôi Nikolai Surnov chụp ảnh xong, chúng tôi chuẩn bị giải tán. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh giữ chúng tôi lại. - Chờ một chút - nhiếp ảnh gia không có mặt trong bức hình này. Để anh ấy đứng vào đây, và chúng ta sẽ chụp ảnh một lần nữa.

Và khi Surnov đứng bên cạnh Chủ tịch, cũng như những phi công khác, chúng tôi chụp thêm một bức ảnh nữa.

Trong cuộc trò chuyện ngắn gọn, ông hỏi chúng tôi cảm thấy thế nào khi ở trên mảnh đất Việt Nam và sau khi cám ơn công việc chúng tôi đã làm, ông khởi hành về Hà Nội.

Có được tình yêu và sự công nhận vô hạn của hàng triệu người Việt Nam với "Bác Hồ" của mình, ông vẫn đang sống và tồn tại vô hình trong mọi sự nghiệp và thành tựu của nhân dân Việt Nam anh hùng. Tôi nhớ đến Chủ tịch Hồ Chí Minh như vậy đấy.
...........
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Bảy, 2014, 12:31:37 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #29 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2014, 11:27:28 pm »

Trên máy bay Mỹ

Do trong giai đoạn đầu trên lãnh thổ Lào, Mặt trận Dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập không có sân bay của mình, việc giao hàng phải thực hiện bằng cách thả từ độ cao thấp trong các túi đặc biệt tại các khu vực được đánh dấu ở các thung lũng giữa các dãy núi cao. Trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt thực hiện điều đó gấy nhiều khó khăn cả cho việc tìm kiếm địa điểm và cơ động xuống độ cao thấp. Các chuyến bay diễn ra trong điều kiện có sự hoạt động của hệ thống phòng không đối phương (Hoa Kỳ), chúng tôi đã mất một phi hành đoàn Il-14, điều khiển bởi cơ trưởng Fateev, do bị trúng hỏa lực phòng không. Nhưng gần sang Năm Mới 1961, một tiểu đoàn của Mặt trận Dân tộc Lào, do đại úy Koong-le chỉ huy, đánh chiếm được sân bay Kondetgom ở Cánh Đồng Chum cùng với một máy bay Mỹ PS-84.

Tham mưu trưởng Không quân đề nghị chúng tôi đưa chiếc máy bay đó về Hà Nội, về sân bay Gia Lâm.
- Nếu không, - ông nói - phía đối lập có thể phá hủy nó.
Ngày 2 tháng 1, sau khi lấy theo các nhân viên kỹ thuật và một vài thùng xăng, tôi cùng Surnov và phiên dịch viên Hùng đến sân bay này.

Các binh sĩ Lào đón chúng tôi, cùng với Koong-le và chúng tôi hỏi:
- Phi hành đoàn của chiếc máy bay có bị bắt không?
- Không, - người ta trả lời chúng tôi - phi hành đoàn đã trốn thoát vào rừng.


Đại úy Koong-le

Toán kỹ thuật dù sao vẫn mở tất cả các cửa nắp máy bay, kiểm tra cẩn thận xem có vật nổ không và bắt đầu chuẩn bị cho chuyến bay.

Chiếc máy bay Mỹ, mà các phi công Lào bay, ở trong tình trạng bỏ hoang. Thiết bị vô tuyến không làm việc, động cơ không khởi động được. Toán bảo trì kỹ thuật của chúng tôi đã phải làm việc chăm chỉ. Sau khi tháo bu-gi ra, và đổ xăng vào mỗi xi lanh, họ đã khởi động được động cơ. Và máy bay đã nhanh chống sẵn sàng cho chuyến bay. Kỹ thuật viên hàng không trên máy bay khuyên sau khi cất cánh không nên thu càng, vì không có cơ hội kiểm tra hệ thống bung và thu càng. Trong lúc chuẩn bị cho máy bay cất cánh, trong cabin tôi đã nghiên cứu được sự bố trí các thiết bị và cần điều khiển máy bay và động cơ. Mọi thứ bố trí tương tự như trên chiếc Li-2 của chúng tôi, khác biệt duy nhất là tất cả các biển đề đều được ghi bằng tiếng Anh.

Cảm ơn người Lào đã giúp đỡ trong công tác chuẩn bị máy bay, chúc họ thành công trong cuộc đấu tranh giành độc lập, sau đó tôi mang theo toàn bộ nhóm kỹ thuật, rồi vào vị trí trong buồng lái và lăn ra đường băng. Tại đây một lần nữa tôi kiểm tra động cơ, sau khi đảm bảo rằng nó đã làm việc ổn định, tôi nhả hãm và thực hiện thao tác cất cánh.

Máy bay nhẹ nhàng rời khỏi đường băng và rất nhanh chóng, như thể nhận ra rằng mình đã thoát khỏi cảnh bị giam cầm, nó lao vút lên trời cao. Dưới cánh bay, lóe lên ánh bạc của những vạt lá chuối và rừng rậm, nơi có lẽ những phi công Lào chạy trốn đang hối hận dõi nhìn theo đám khói màu xanh phía chân trời, nơi chiếc máy bay cũ của họ chao đôi cánh, biến mất vào thunh không.

Tuy nhiên, sau khi cất cánh, trong khi lấy độ cao, một trong các động cơ bỗng làm việc thất thường và rõ ràng đến mức anh bạn Surnov của tôi bắt đầu tìm kiếm khoảng bằng phẳng phía dưới trong trường hợp phải hạ cánh. Nhưng may mắn thay cho chúng tôi, sự thất thường trong động cơ đã chấm dứt, rồi sau khi đạt đến trần bay an toàn một cách êm thấm, chúng tôi bẻ lái hướng về Hà Nội. Sau khi hạ cánh tại sân bay Gia Lâm, chúng tôi giao máy bay cho các bạn Việt Nam, còn tấm bản đồ bay của viên phi công Lào tìm thấy trong cabin của anh ta, tôi giao cho bảo tàng Không quân Vận tải.

Cứu thương binh

Vào cuối tháng 3 năm 1961, một sáng sớm phiên dịch viên Hùng đã quen thuộc với chúng tôi cùng một sĩ quan Bộ tham mưu Không quân đến khách sạn Hà Nội, nơi tôi sống cùng thiếu tá Surnov,.
- Có vấn đề gì nghiêm trọng không Hùng, - tôi hỏi, mà sao cậu rời khỏi giường sớm thế.
Viên sĩ quan đến cùng với anh nhanh chóng trải ra trên bàn tấm bản đồ nước Lào.
- Ở đây, gần điểm Sảm Neo - Hùng cho biết, - có một sân bay, tại đó tập trung gần một trăm chiến binh Lào bị thương, trong số đó có những người lính Việt Nam. BCH Không quân đề nghị các bạn giúp đỡ để di tản khẩn cấp họ về sân bay gần nhất tại Việt Nam.

Tôi ngay lập tức cùng Surnov lao ra sân bay nơi đã chuẩn bị sẵn từ trước một phi hành đoàn Việt Nam trên máy bay Li-2. Chỉ huy phi hành đoàn này tôi biết từ các chuyến bay trước cùng anh ta. Là một phi công, anh ta có kỹ thuật lái tốt, và tôi chuẩn bị cho anh với tư cách một hướng dẫn viên.


Lào, 1963.

Đi đến chỗ máy bay, tôi hỏi anh ta có biết vị trí của sân bay Sảm Neo không.
- Tôi biết - anh nói - nhưng tôi chưa từng hạ cánh trên sân bay đó.
Khi đó, tôi vào vị trí cơ trưởng, còn anh ta ngồi vào ghế bên phải và chúng tôi cất cánh.

Nhưng đám mây u ám treo trên sân bay gây ra một số lo ngại nhất định: chúng tôi bay mà không có dữ liệu radio của sân bay đó và cũng không biết tình hình mặt đất trong khu vực đó vào giờ này. Nhưng không có lối thoát nào khác. Bạn bè đang gặp nguy hiểm! Và đi cứu họ đối với chúng tôi đó là vấn đề danh dự. Lấy xong độ cao an toàn trên địa hình núi non, chúng tôi bay về hướng Lào. Ngay sau đó, hiện ra khoảng trống giữa các đám mây, được sưởi ấm bới những tia mặt trời đang mọc. Điều đó làm chúng tôi mừng rỡ: chúng tôi có thể quan sát trực quan địa hình đang trôi phía dưới.

Vượt qua đỉnh núi cao 1500 m, chúng tôi hạ độ cao.
-  Sân bay đó ở đây, trong thung lũng này, - viên phi công cho biết.
Chẳng mấy chốc lóe lên trước mặt trong ánh mặt trời một dải hẹp có dạng một con đường cao tốc, và trợ lý của tôi nói rằng đây là sân bay nơi mà thương binh tập trung.

Tôi cần trinh sát sân bay để tổ chức sơ tán nhanh chóng thương binh.
Tôi cố tình hạ cánh tại đầu đường băng và khi hết đường chạy xả đà, tôi cho máy bay rời đường băng lăn sang một bên rồi tắt động cơ.

Xuống mặt đất và nhìn xung quanh, tôi nhận ra trong cả cuộc đời bay nhiều năm của mình, tôi chưa bao giờ gặp một sân bay như vậy. Trên sân bay chỉ có thể bố trí không quá hai máy bay. Nép mình trong thung lũng, nó mắc kẹt bởi địa hình đồi núi từ mọi hướng. Và trong trường hợp tính toán không chính xác tuyến vào hạ cánh thì vòng lượn lại trở thành không thể vì những ngọn núi cao gần ngay đường băng. Nó đòi hỏi không chỉ kỹ năng bay cao cường, mà còn trạng thái tinh thần để thực hiện hạ cánh trên rẻo đất hẹp gần một con sông đang chảy.

Trở về, chúng tôi đã kể chi tiết về sân bay đó cho các phi công của trung đoàn KQVT Zaporozhye bay trên máy bay Li-2, đặc biệt chú ý đến những khó khăn trong quá trình hạ cánh và cất cánh từ sân bay này. Và sáu phi hành đoàn - Firsov, Olifirenko, Zhukov, Dubtsov, Krainev và Khatemkin - với gián cách bay xác định, cho phép phi hành đoàn bay phía trước sau khi hạ cánh, có đủ thời gian nhận thương binh, cất cánh, giải phóng không gian cho phi hành đoàn tiếp theo, bắt đầu làm công tác chuẩn bị cho chuyến bay.

Chúng tôi biết rằng phương pháp thực hiện nhiệm vụ này làm tăng thêm không chỉ thời gian di tản những người bị thương, mà cả thời gian các phi hành đoàn của chúng tôi nằm trong khu vực nguy hiểm, khi tiếng súng của phe đối lập ở trên núi ngày càng gần hơn và đang tiến gần nữa đén sân bay. Nhưng không còn cách nào khác.


Tổ kỹ thuật, Lào, Viên-chăn, năm 1962,

Một lần nữa tôi cùng Nikolai Surnov, phiên dịch viên Hùng là những người đầu tiên bay đến đó, và bây giờ sân bay đó đã thành quen thuộc với chúng tôi. Mang đến cho những người lính bị thương lệnh sơ tán và nhìn họ, chúng tôi ngưỡng mộ lòng can đảm và sự dũng cảm của họ. Họ ở trong bóng mát của rừng cây, một số tì vào những chiếc gậy tre, những người khác nằm trên mặt đất, vẫy cành cây xua những con côn trùng táo tợn, nhưng không có ai trong số đó có vẻ sợ hãi, không hề có sự hoảng loạn. Và chúng tôi hiểu một dân tộc như vậy là bất khả chiến bại.

Chiếc máy bay đầu tiên sớm xuất hiện trên đường chân trời do phi đội trưởng Firsov lái. Anh hạ cánh đúng thời gian quy định, bốc thương binh, sau đó cất cánh, bẻ hướng về Hà Nội.

Và mỗi lần sau khi máy bay bay đi, những người lính bị thương còn ở lại chăm chú nhìn vào khoảng xa xanh của đường chân trời, chờ đợi vị cứu tinh tiếp theo bay tới. Và khi họ nhìn thấy nó, nhóm thương binh tiếp theo giúp đỡ lẫn nhau, hướng về nơi máy bay hạ cánh. Vậy là, với việc hạ cánh và cất cánh của chiếc máy bay tiếp sau, nhóm thương binh chờ đợi sơ tán được giảm đi. Sau khi bốc nhóm cuối cùng, chúng tôi trở lại sân bay Hà Nội, người mệt lử, gần như khuỵu cả chân xuống, nhưng tự hào vì đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của mình về việc giải cứu những người anh em thương binh của chúng tôi.

Và khi Tham mưu trưởng Không quân thay mặt tất cả nhân dân Việt Nam bày tỏ lời cảm ơn các tổ bay, đó là phần thưởng cao nhất đối với chúng tôi.

                                                                                                                  
Moscow, tháng 4 năm 2005.
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Tám, 2014, 12:42:54 am gửi bởi qtdc » Logged
Trang: « 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM