M113 TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM
M113 được thấy tham chiến lần đầu vào năm 1962 cùng với Quân đội VNCH(ARVN).
Các cách sử dụng M113:
- Chỉ đổ quân khi từ APC khi các vị trí của quân giải phóng bị hoàn toàn bỏ trống.
- Khi đổ quân vào các ruộng lúa ngập nước, phần lớn ưu thế về tính di động bị mất. M113 chỉ có thể di chuyển với tốc độ 20 km/h ở địa hình này.
- Dùng súng máy .50cal để giao chiến với VC ở tầm xa nhằm ngăn cản hoả lực RPG. Khi bắn súng máy .50, xa trưởng thường để phần đuôi của dây đạn xuống bên dưới nắp vòm. Ở trong khoang xe, đồng đội sẽ nối dây đạn này với dây đạn khác để đảm bảo hoả lực liên tục. Cùng lúc, các thành viên khác sẽ hổ trợ hoả lực từ trên hách của khoang chứa hàng, đồng thời đề phòng quân giải phóng lặn dưới nước thở bằng các ống cây sậy rỗng. Khi bị phát hiện thì đối tượng sẽ bị tiêu diệt bằng lựu đạn hoặc bị xe nghiền nát.
- Mặc dù việc chiến đấu từ trên xe là khái niệm hoàn toàn khác xa so với học thuyết “xe taxi chiến trường” ban đầu và bị nhiều người phản đối, chiến đấu từ trên xe nhanh chóng lan rộng và được cả lực lượng Mĩ sử dụng.
- Các địa hình M113 không đi được: các khu trồng mía, dừa, các khu vực gần sông, kênh rạch.
- Các cánh đồng ngập lúa không ngập nước trong mùa mưa nên được tránh.
- Vào mùa khô, mặc dù có thể di chuyển trên ruông lúa tốt hơn, nhưng những con đê vẫn tiêu tốn rất nhiều thời gian của M113 để vượt qua. Các chướng ngại này chỉ có thể được xử lí bằng bộc phá hoặc xây dốc lên xuống. Trong mùa mưa, các con đê này có thể bị nghiền nát dễ dàng nhưng trong mùa khô thì chúng được mặt trời làm cứng lại.
- Các đơn vị thiết giáp Pháp nhiều năm trước đã biết cách quan sát trâu nước để biết khả năng chịu đựng của địa hình. Thường thì ở những nơi trâu nước ăn thì M113 có thể di chuyển an toàn, còn những nơi trâu bị ngập tới bụng thì M113 không thể.
Bởi vì khả năng di chuyển địa hình tốt và sự thiếu thốn vũ khí chống tăng của VC, M113 được sử dụng như một xe chiến đấu. Điều này có nghĩa là thay vì thực hiện bài bản của APC là chở lính, đổ quân và đứng im chi viện hoả lực thì M113 bây giờ được lái thẳng đến vị trí kẻ thù, bộ binh vẫn ở trên xe để giao chiến và khi đã đánh bật kẻ thù khỏi vị trí thì bộ binh mới bắt đầu xuống xe để chiếm giữ, lục soát. Ở các chiến trường khác, điều này có thể là tự sát vì một chiếc M113 chứa 13 người trên xe có thể là một miếng mồi ngon cho các loại súng máy hạng nặng hay súng chống tăng vác vai ở tầm độ vài trăm mét tở lại. Tuy nhiên, như đã nói, lúc này quân ta vẫn còn thiếu thốn các loại vũ khí chống thiết giáp như vậy. Các đơn vị Mĩ nhanh chóng phát triển khái niệm này và tăng cường cho M113 nhiều loại khí tài bao gồm tấm chắn đạn cho khẩu .50, súng máy M60 gắn ở hai bên sườn, bao cát và nhiều loại giáp tự chế khác được bố trí quanh xe như công sự để binh lính có thể chiến đấu mọi hướng từ trên xe. Điều này một phần là phản ứng sau trận Ấp Bắc tháng 1 năm 1963 khi mà có tối thiểu 14 xa trưởng/xạ thủ khẩu .50cal bị giết.
Các thay đổi như vậy thường khá tuỳ tiện và tuỳ thuộc vào các đơn vị riêng lẽ. nhưng đến khi Trung đoàn kị binh bọc thép số 11 có mặt vào năm 1966, đơn vị thiết giáp lớn nhất của Mĩ ở VN, các xe M113 của trung đoàn đã được trang bị gói nâng cấp “A” bao gồm giáp chắn đạn cho khẩu .50, giáp che 360 độ cho vị trí của xa trưởng và 2 súng máy M60 bên sườn cùng với tấm chắn đạn. Với cấu hình này, M113 trở thành Xe bọc thép tấn công kị binh(Armored Cavalry Assault Vehicle/ ACAV), một khái niệm được thiếu tá Martin D. Howell, chỉ huy của liên đội 1, Trung đoàn số 11 nêu trên. Ngoài ra còn có gói nâng cấp “B” chỉ bao gồm giáp cho súng máy và bao quanh 360 độ vị trí của xa trưởng, thường được dùng trên các xe chở cối.
So với khái niệm IFV, ACAV có phần khác biệt, tuy nhiên đây lại là sự khác biệt để phù hợp với cách đánh ở Viêt Nam. So với các loại IFV như BMP-1, ACAV không có một loại hoả lực mạnh như khẩu pháo 73mm của BMP-1. Tuy nhiên, ở Việt Nam vào thời điểm đó, VC không có nhiều giáp nào nên hoả lực như khẩu 73mm có thể không cần thiết, vả lại công việc đấu tăng có thể được giao cho các xe tăng Patton và một số phiên bản M113 có thể được trang bị súng không giật, tên lửa chống tăng. Bù lại cho hoả lực mạnh, ACAV lại có hoả lực tổ hợp bao gồm 1 súng máy .50(đôi khi là cả súng phóng lựu 40mm) và 2 súng máy 7,62mm chưa kể đến các súng cá nhân của binh sĩ. Với các tấm giáp bảo vệ trên nóc, binh sĩ trên xe M113 có thể chiến đấu với kẻ thù ở 360 độ quanh xe một cách dễ dàng, không bị hạn chế mà vẫn có một phần giá bảo vệ. BMP-1 củng có các lổ châu mai trên thân xe và 4 hách lớn ở trên nóc để bộ binh chiến đấu từ trong xe, tuy nhiên điều này khá hạn chế so với ACAV vì các lổ châu mai này hướng xéo về phía trước nên việc giao chiến với kẻ thù ở bên hông hay xéo phía sau bên hông khá khó khăn. Các hách lớn trên nóc BMP-1 lại không có giáp bảo vệ cho bộ binh khi họ lộ diện ra chiến đấu như ACAV. Có thể nói đơn giản là: BMP nói riêng vả IFV nói chung thích hợp cho những cuộc chiến quy mô lớn tăng-TG đấu với tăng-TG. Còn ACAV thích hợp với kiểu đánh mà kẻ thù chỉ bao gồm bộ binh phân án ẩn nấp ở nhiều nơi. Điều này cũng được chứng minh là đúng trong chiến dịch Just Cause ở Panama, nơi mà M113 là loại vũ khí tấn công thành phố hiệu quả do binh sĩ trong xe có thể dễ dàng giao chiến với kẻ thù từ nhiều hướng, ở các tầng khác nhau của các công trình đô thị.
Các chiếc ACAV không hề có tiêu chuẩn riêng. Có chiếc gói “A”, chiếc khác gói “B” nhưng vẫn được dùng như nhau. Khái niệm ACAV chỉ đúng với các xe được các đơn vị kị binh sử dụng. ACAV cũng trải qua nhiều thay đổi như tháo bỏ ghế ngồi trừ ghế của lái xe để lấy chổ chứa các thùng đạn ở giữa khoang xe. Cùng với đó là các balô, can đựng nước, thùng các-tông đựng khẩu phần ăn, đồ làm lạnh bia, nòng súng dự trữ, súng phóng lựu M79, vũ khí của tổ lái, bộc phá, lựu đạn, võng, thùng đựng đồ nghề và dây kéo. Điều này khiến cho không gian trong xe rất quan trọng. Các tấm chắn bùn cũng được tháo ra để tránh cho bùn đất đóng cứng vào. Ở hầu hết các đơn vị, sàn xe được lót bao cát để giảm hiệu quả của mìn. Để chống mìn tốt hơn nữa, ACAV còn được gắn giáp dưới bụng là các tấm titan.
Trong các giai đoạn của cuộc chiến, M113 tỏ ra không thể bảo vệ hoàn toàn cho binh sĩ trước các loại đạn B-40, B-41, súng không giật 57mm, 75mm. Tuy nhiên, vào thời điểm chiến tranh Việt Nam, ngay cả xe tăng chủ lực như T-54/55, M41... củng không thể bảo vệ hoàn toàn trước các loại súng chống tăng vác vai như B-40, B-41 hay M72. Các loại APC tương tự của LX như BTR-50, BTR-60, MT-LB củng không tốt hơn M113 về giáp trong khi chúng lại to xác hơn M113.
Trang bị cơ bản của một chiếc ACAV: 1 súng máy .50cal(12,7x99mm) M2HB, 2 súng máy 7,62mm M60. Tổ lái thông thường: lái xe, xa trưởng/ xạ thủ M2HB, 2 xạ thủ M60, 2 gười nạp đạn. Mọi thành viên đều có một súng M16 và dùng chung một súng phóng lựu M79 40mm. Cơ số đạn: 3500 viên .50, 8500 viên 7,62mm, 5000 viên 5,56mm, 150 viên đạn súng phóng lựu 40mm. Do đa phần các xe M113 đều bị quá tải, khả năng lội nước của xe bị giảm đi và ít khi được sử dụng.