Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 09:03:01 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Thăm dò
Câu hỏi: Khi topic có bài mới, bạn bấm vào và:
Đọc kĩ từ đầu tới cuối - 22 (62.9%)
Đọc sơ sơ - 9 (25.7%)
Chỉ coi hình - 2 (5.7%)
Chỉ coi tên, sau này khi cần có thể quay lại - 2 (5.7%)
Tổng số phiếu: 35

Trang: « 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Vài nét về Quân đội Cộng hòa Singapore  (Đọc 45654 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #10 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 01:03:49 am »

Hỏa lực

Vì được thiết kế là một loại xe đa công năng, V-100 Commando có thể mang nhiều loại vũ khí khác nhau. Trong quá trình sản xuất V-100, các loại vũ khí tiên tiến hơn ra đời và gắn lên xe.

V-100 Commando nguyên bản được thiết kế mang 2 súng máy gắn đồng trục với nhau trên một tháp pháo xoay vận hành bằng tay. Tháp pháo này được đúc theo hình oval với xạ thủ ở ngay sau các khẩu súng. Trong các văn bản bán hàng ban đầu, ghế ngồi xạ thủ và rỗ tháp pháo không có nên xạ thủ buộc phải đứng và xoay tháp pháo bằng cơ thể mình khi tác chiến. Có lẽ vì vậy mà kiểu tháp pháo này chỉ tồn tại trong quá trình phát triển ban đầu của Commando. Các lựa chọn cho cặp đôi súng có thể là 2 súng máy .50cal(12,7mm); 2 súng máy .30cal(7,62mm) hoặc 1 súng máy .50 và 1 súng máy .30. Commando được quảng cáo có thể mang 420 viên .50cal và 1000 viên .30cal sẳn sàng trong tháp pháo. Số lượng đạn dự trữ có thể lên 8750 viên .30cal hoặc 7700 viên 7,62mm.

Đến 1964, Commando được thiết kế lại và trang bị thêm nhiều trang bị được gợi ý từ các cuộc kiểm tra quân sự. Tháp pháo cũ được thay bằng tháp pháo mới có rỗ tháp pháo cho xạ thủ ngồi. Kiểu tháp pháo đầu tiên mang nhãn T-60 mang một cặp súng máy .30cal/.50cal với điều khiển bằng tay. Các khẩu súng này đặt chếch về bên phải tháp pháo. Một tháp pháo khác mang nhãn T-90 dùng cho cảnh sát có các cửa quan sát xung quanh tháp pháo. Thay cho các súng máy là 4 ống phóng lựu đạn cay gắn vào hai bên tháp pháo. Kiểu tháp pháo cuối cùng là T-70 mang một pháo 20mm có điều khiển xoay và nâng hạ bằng điện. Tuy nhiên, cả 3 loại tháp pháo đều không được đưa vào sử dụng.

Giữa 1964 và 1967, các cuộc kiểm tra và phát triển tiếp tục trên tháp pháo của Commando. Đến 967, tháp pháo T-60 đã được thay đổi để mang 2 súng máy đồng trục với nhau và vận hành bằng tay. Cặp súng máy này được thiết kế nằm bên trái trên thiết kế ban đầu nhưng sau đó đổi lại bên phải ở các thiết kế sau để hương nạp đạn của chúng có thể thay đổi. Các kết hợp vũ khí có thể là: một cặp súng máy .30cal M1919A4E1 hay M37; một cặp MG42 hay M73 hay M219 7,62mm hoặc 1 súng máy .50cal M2. Thiết kế tháp pháo cuối cùng mang tên T-50 và trở thành tiêu chuẩn của các loại V-100 và V-150. Các kiểu tháp pháo sau này có thể mang các cặp, hoặc chỉ một súng máy M60, M73 hay FNGPMG 7,62mm hay 1 súng máy minigun XM132 của General Electric.

Tháp pháo mang 2 súng máy .30cal của V-100

Tháp pháo không phải là trang bị duy nhất của Commando, thân trên của xe có thể được thiết kế mở để mang nhiều súng máy đặt ở các vị trí xung quanh, hay thiết kế không tháp pháo cho cảnh sát, hoặc thiết kế có thân trên mở ra để mang cối 81mm.

Quảng cáo Commando trang bị súng gatling 7,62mm

Commando được đưa đến các cuộc kiểm tra và phát triển liên tục. Vì vậy nhiều thay đổi được thêm vào trong quá trình sản xuất mà không đổi tên V-100. Vì vậy có vô số các biến thể nhỏ của Commando. Cách duy nhất để tìm ra nguồn gốc của xe là số seri ở mắt buộc dây nằm phía bên trái trước xe hay tấm dữ liệu gắn cạnh vị trí lái xe. Số seri của Commando bắt đầu từ số 10.000.

- Từ xe số seri 10.075(chiếc thứ 75), lỗ lắp bánh xe có thay đổi từ dạng góc cạnh sang dạng tròn.
- Từ số seri 10457, một tấm chắn được thêm vào để bảo vệ lỗ lấy khí khỏi bom xăng.
- Từ số seri 10596, số cửa quan sát nhỏ được giảm từ 11 xuống còn 9.
- Từ số seri 10509, các hách của lái xe và xa trưởng được thay đổi để có thêm không gian phía trên cho hai người này. Điều này giúp giảm thiểu va chạm đầu vào hách khi xe đang chạy trên địa hình gồ ghề.

V-100 Commando được bán cho chính quyền các nước VNCH, Lebanon, Bolivia, Guatemala, Venezuela, Nigeria, Malaysia…
Logged

BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #11 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 01:13:37 am »

V-100 COMMANDO THỜI CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Ngay từ khi ra đời, số phận của V-100 Commando đã gắn liền với Việt Nam. Chiếc V-100 Commando seri 10.001 đã được đưa sang miền nam Việt Nam để thử nghiệm và đánh giá từ tháng 11 năm 1963.

Commando của Quân lực VNCH

Sau vụ đảo chính năm 1964, chính quyền VNCH đã kí hợp đồng với Cadillac Gage và bắt đầu nhận Commando từ tháng 10/1965. Mặc dù được một công ty Mĩ sản xuất, V-100 lại được VNCH và nhiều quốc gia khác sử dụng trước cả Mĩ.

Trong quá trình bố trí ban đầu, V-100 không có nhiều dịp tác chiến nhưng vẫn mang lại nhiều ý kiến đóng góp nâng cấp. Và những nâng cấp này được Cadillac Gage và ATAC(Bộ chỉ huy tăng ôtô quân đội Mĩ) trang bị sớm nhất có thể. Các cải tiến bao gồm lưới chắn cho cụm đèn trước xe, một hách ở sườn trái để thợ máy có thể dễ dàng tiếp cận với động cơ, lọc khí, ắc qui so với thiết kế chỉ có một hách vào động cơ trên nóc nguyên bản. Loại lốp xe 14,00x20 bình thường được thay bằng Commando Special.

Một số cải tiến, nâng cấp khác như tấm kim loại 40 inch gắn vào bánh có các cánh guồng nước ở vành ngoài giúp tăng tốc độ bơi(nhưng gặp vấn đề khi lội sình và dễ bị hư), lốp xe nhồi bọt không xẹp khi trúng đạn(nhưng mau mòn) lại không được trang bị.

Một phàn nàn lớn nữa của VNCH về V-100 là bộ đôi súng .30cal quá yếu. Sau đó, một bộ hoán cải mới mang bộ đôi súng .30cal M37/.50cal M2 với các bộ dẫn, chứa vỏ đạn, thùng tiếp đạn, giá gắn mới. Bộ hoán cải này tăng đáng kể hoả lực của xe, nhưng ATAC còn muốn hơn thế nữa, họ muốn dùng súng phóng lựu tự động 40mm. Hệ thống tháp pháo XM32 được quân đội Mĩ phát triển và kiểm tra vào cuối 1966, đầu 1967 nhưng không đạt được các yêu cầu. Thiết kế tháp pháo súng phóng lựu được tiếp tục từ 1967 đến 1971 thì kết thúc.

Mặc dù mang hộp tiếp đạn 500 viên cho mỗi khẩu .30cal và 200 viên cho mỗi khẩu .50cal, số đạn này vẫn không đủ cho những cuộc giao chiến ác liệt và xạ thủ vẫn phải dành nhiều thời gian để nạp đạn. Và để tiếp tục khai hoả khi xạ thủ đang nạp đạn, các tổ lái V-100 của VNCH đặt một súng máy M1919 trên giá 3 chân ở cuối xe. Tổ lái trong xe cũng mang theo súng carbine M1, súng ngắn M1911 và súng phóng lựu M79. tất cả những loại này đều có thể bắn được từ trong xe qua các lỗ châu mai. Tuy nhiên, chúng nhanh chóng bơm đầy xe với khói thuốc nếu động cơ đang dừng và bộ tản nhiệt của xe không mở để hút khói ra. Các yêu cầu lắp một quạt xả để hút khói ra ngoài được đưa ra nhưng yêu cầu này không được coi là cần thiết nên chưa bao giờ được trang bị.

Nhưng cũng có một số vấn đề làm bó tay hoàn toàn Cadillac Gage lẫn ATAC. Ví như cái nóng nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Để có thể chịu đựng được cuộc hành trình dài trong các hộp thép gắn bánh Commando, tổ lái của xe thường để mở một hách phía trên, bên sườn xe. Và lỗ trống này trở thành mục tiêu nguy hiểm cho các xạ thủ Việt Cộng. Chỉ cần một viên đạn lọt vào trong xe và dội lại từ thành xe này đến thành xe bên kia cũng có thể gây hậu quả thảm khốc. Một quả lựu đạn hay gói thuốc nổ ném chính xác từ tầm gần có thể tiêu diệt hoàn toàn chiếc xe. Vào thời điểm thập niên 60, máy lạnh rõ ràng là trang bị quá xa xỉ cho những chiếc xe được thiết kế với mục tiêu giá thành thấp như Commando.

Một vấn đề nan giải nữa là hoả lực B-40 của Việt Cộng. Chỉ cần một phát B-40 trúng đích là có thể loại 1 xe thiết giáp khỏi vòng chiến hay vòng đời. Các đơn vị bộ binh cơ giới và kị binh cố gắng chống lại bằng cách dựng các rào lưới B40 xung quanh xe khi đóng trại. Các rào lưới này làm kẹt quả đạn RPG lại hay làm cho quả đạn phát nổ từ khoảng cách an toàn so với xe. Tuy nhiên khi xe đang di chuyển, không có biện pháp nào hữu dụng chống lại RPG.

Một đoàn xe Commando của quân VNCH. Có thể thấy lưới che cho cụm đèn trước, súng máy M1919A đặt sau xe, tháp pháo gắn 2 súng máy .30cal và đầu xe mang các cuộn lưới để bảo vệ khi dựng trại, xa trưởng của xe đi đầu đang cầm một súng phóng lựu M79.

Mìn cũng là một mối lo tương đối cho bộ binh và xe cộ. Nhưng V-100 có thể giải quyết khá tốt vấn đề này. Thường thì khi trúng một quả mìn chống bộ binh, chỉ có bánh xe, hay một trục xe bị hỏng. tổ lái không chịu thương vong trừ khi có người lộ ra hay ngồi bên ngoài xe.

Đến cuối năm 1965, các vết nứt trên V-100 được phát hiện và người ta gửi chúng trở lại Cadillac Gage và ATAC để kiểm tra. Các báo cáo chỉ ra rằng nhiều xe Commando có các vết nứt đáng lo ngại và yêu cầu kiểm tra toàn bộ số xe Commando trong trang bị của VNCH. Trong khi đó, Cadillac Gage gấp rút xem xét lại quy trình hàn thân xe tại Fruehuaf và phát hiện các công đoạn đã không được làm theo. Nguyên nhân chính của vấn đề là do khu vực gia công thân xe của nhà máy Fruehauf đã không được sưởi ấm và các tấm giáp không được nung lại trước khi hàn. Điều cực kì quan trọng khi hàn các tấm giáp Cadaloy đó là gờ của các tấm giáp phải mài gọt cẩn thận và nhiệt độ phải được truyền đều khắp. Làm nguội các tấm giáp phải thực hiện qua từng bước để tránh nứt vỡ do sức ép từ bên trong. Cadillac Gage đã xem xét lại và đặt ra một quy trình hàn mới nghiêm ngặt hơn.

Cuộc giám sát Commando ở Việt Nam được hoàn thành và các xe có thể sửa chữa được đều được sửa lại ở Việt Nam, trong khi các xe bị nứt nghiêm trọng được đưa về Mĩ để đánh giá xem nên sửa lại hay thay thế. Cadillac Gage phát triển các quy trình sửa chữa và các phần thay thế có thể thay cho toàn bộ phần bên hông xe, mũi, các tấm đuôi, nóc và gầm xe nếu cần.

Tháng 5/1966, dòng xe V-100 đến quân VNCH dừng lại một phần vì các vấn đề nứt nêu trên, một phần khác vì đơn đặt hàng 40 chiếc V-100 đến Sudan. Tháng 2/1967, việc giao hàng cho VNCH được bắt đầu lại với các mẫu có nhiều cải tiến hơn nữa. Đầu tiên là một tấm chắn cho các xe xã để ngăn không cho nước lọt vào khi bơi. Thứ hai, tấm chắn bánh răng truyền động thứ 1 ngăn không cho vào số đầu khi dùng chế độ 4X4 được thêm vào. Một số cải tiến khác bao gồm các cải tiến trong công đoạn hàn, các lớp chống đạn dự phòng gắn vào bên trên, phía trong hai lỗ lắp bánh xe phía trước, hãm lò xo cho các hách của lái xe và xa trưởng.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Mười Một, 2011, 02:02:54 am gửi bởi BOM BI » Logged

BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #12 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 01:19:24 am »

Commando của Quân đội Mĩ

Lực lượng sử dụng Commando đông nhất của quân đội Mĩ tại Việt Nam chính là quân cảnh(MP). Ban đầu, nhiệm vụ của lực lượng MP là đảm bảo luật pháp trong quân đội. Nhưng với sự can thiệp ngày càng gia tăng của quân đội Mĩ, MP đã có thêm nhiệm vụ mới: hộ tống các đoàn công-voa tiếp viện cho các vị trí của quân Mĩ. Vũ khí hạng nặng duy nhất của các đơn vị MP cho đến khi chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 xảy ra là các xe jeep M151 có một súng máy M60 gắn trên trụ giữa xe và không có giáp. Các xe này cực kì dễ bị tổn thương và thường chỉ làm tăng thêm thương vong trong các tính huống bị mai phục.

Học thuyết về quân cảnh Mĩ không nói gì đến trang bị xe bọc giáp. Tuy nhiên, học thuyết này có từ thời WW2, khi mà các đường ranh trên chiến trường còn được biết đến. Còn ở Việt Nam, không có thứ gì tương tự vậy. Ngoài ra, quân đội Mĩ gần như có một ác cảm với các loại xe bọc giáp bánh hơi mà các đơn vị MP yêu cầu. M8 Greyhound và dòng xe M2/M3/M… half-track là những loại xe có bánh hơi từng được Mĩ dùng trong WW2 và cho rằng lỗi thời, lạc hậu. Từ đó, các đơn vị bộ binh cơ giới Mĩ đều được đặt trên xe bánh xích.

Một bộ giáp nâng cấp cho M151 được phát triển và được đưa đến Việt Nam đánh giá. Bộ giáp mới này có thể bảo vệ tương đối cho tổ lái, nhưng bù lại cũng không ít điểm yếu. Làm tăng áp lực lên hệ thống treo, hạn chế tầm nhìn và không gian cho tổ lái, cùng với nóc xe để hở, chặn lối thoát hiểm cho tổ lái và hạn chế khả năng làm nhiệm vụ khác của xe là những hạn chế bù lại của bộ giáp mới. Kết luận sau đó của Tiểu đoàn MP số 95 cho rằng V-100 nên được chọn.

Các trải nghiệm với V-100 của quân Mĩ cũng không hề thiếu. Một bài báo về loại xe thiết giáp bánh hơi mới đã xuất hiện trong tạp chí Military Police Jounal năm 1964 và một bài báo nói về sự cần thiết xe hơi bọc thép cho hộ tống khác in năm 1965. Năm 1966, tiểu đoàn MP số 716 đã lái thử V-100 của VNCH.

Đại tá Thomas F. Guidera, chỉ huy đầu tiên của Lữ MP số 18 đã chú ý đến chiếc APC bánh hơi kì lạ của các đơn vị kị binh và QC (quân cảnh) của VNCH. Guidera được biết rằng chiếc APC lạ đó tên là V-100 Commando và quân VNCH vừa nhận được số xe này chỉ mới hơn 1 năm. Ông bị ấn tượng khi nghe chiếc xe này mang 2 súng máy trong một tháp pháo kín. Có vẻ như câu hỏi của lực lượng MP đã có câu trả lời.

Guidera thu xếp mượn một chiếc V-100 của quân VNCH để một tổ quay phim 16mm làm tư liệu. Ông ra lệnh đặt chiếc V-100 trước ống kính của tổ quay và nòng súng của một xạ thủ M60. Guidera và sĩ quan điều hành của mình mang áo khoác chống đạn và chui vào xe. Một tín hiệu phát ra và xạ thủ M60 bắt đầu khai hoả vào xe. Nhóm quay phim đã thu lại cảnh tượng bạo lực 1 xạ thủ súng máy bắn chiếc xe chở 2 sĩ quan cấp lữ đoàn, bụi đất nhảy lên xung quanh xe và bề mặt chiếc Commando như có pháo nổ dưới cơn mưa đạn 7,62x51mm. Lệnh “ngừng bắn” được đưa ra và xạ thủ M60 dừng lại. Trong khi bụi đất vẫn còn lơ lửng trong không khí, 2 viên sĩ quan bước ra khỏi xe mỉm cười, không bị thương tích. Tổ quay phim đã quay lại toàn bộ và bộ phim được đưa ra để yêu cầu cho một chiếc hơi bọc giáp mới, đặc biệt là loại V-100.

Đến lúc này, các nhà kế hoạch quân đội Mĩ đã nhận ra sự cần thiết của một chiếc xe hộ tống bọc giáp. Một trong những hồi đáp ban đầu của quân đội cho lực lượng MP là so sánh V-100 với các loại xe hộ tống bánh xích thay thế khác có thể là M113.5(phiên bản của M113) và xe trinh sát M114.

So sánh cho thấy V-100 có vài điểm yếu: hệ thống truyền động ồn áo và và khó chuyển số, mất tính di động trong bùn và các đồng lúa và tháp pháo chật hẹp. Nhiều bộ phận của V-100 cũng chưa có mặt trong hệ thống hậu cần của Mĩ so với các bộ phận của M114 và M113.5 vốn sử dụng nhiều bộ phận chung với loại APC chủ lực của Mĩ là M113. tuy nhiên, V-100 có 2 ưu điểm lớn: xe bánh hơi rẻ hơn xe bánh xích, có chi phí bảo dưỡng, vận hành cũng rẻ hơn, ít phá hoại hệ thống đường xá và lính quân cảnh Mĩ chưa hề được huấn luyện hay hổ trợ đầy đủ để dùng xe bánh xích.

Năm 1967, quân VNCH đã có hơn 200 chiếc V-100 và đang đặt nhiều hơn nữa. Tháng 5/1967, Bộ chỉ huy cố vấn quân sự tại Việt Nam(MACV) nhận được cho phép trưng dụng 6 chiếc XM706 của quân VNCH để đánh giá kiểm tra. Số xe này được trang bị cho Lữ MP 18 và chia làm hai nhóm, mỗi nhóm 3 chiếc giao cho tiểu đoàn MP 720 tại Long Bình và Tiểu đoàn MP 504 tại Phu Thanh. Quân VNCH hổ trợ việc bảo đưỡng và huấn luyện cho xe và tổ lái các xe này.
Những chiếc V-100(hay còn gọi XM706) trang bị súng máy M37 trong khi chờ loại súng máy M2 .50cal đưa tới Việt Nam.

Số xe này được lực lượng MP Mĩ vừa dùng vừa học từ các ‘thầy” VNCH và trải qua nhiều tháng kiểm tra đánh giá. Đến tháng 11/1967, Lữ đoàn MP số 18 đánh giá những kết quả thu được và cho rằng cuộc kiểm nghiệm đã thành công.

Cũng trong thời gian này, lực lượng tình báo của Mĩ và VNCH khắp miền nam Việt Nam báo cáo rằng Quân đội Nhân dân Việt Nam đang chuẩn bị cho một “sự kiện lớn nào đó” nhưng có ít tiên đoán chính xác xem đó chính xác là sự kiện gì. Câu trả lời đến vào tháng 1 năm 1968 với Cuộc tấn cống Tết Mậu Thân. Lực lượng Quân giải phóng đã tấn công khắp lãnh thổ VNCH khiến Liên quân phải khó khăn đẩy lùi các đợt tấn công. Ở Sài Gòn, quân Mĩ và VNCH phải kêu gọi hổ trợ từ các khu vực xung quanh với nhiều thiết giáp hơn. Quân VNCH đáp trả với M113 và XM706. Tiểu đoàn MP 720 cũng gửi đến 2 chiếc Commando vừa mới qua cuộc kiểm tra. Các báo cáo sau đó cho thấy V-100 đã được dùng cho các nhiệm vụ tiếp đạn, giải cứu VIP và hổ trợ hoả lực trực tiếp cho lính bộ.

Sự kiện Mậu Thân 1968 càng nhấn mạnh sự cần có V-100 của MP. Lữ 18 MP đã bị hỏa lức của Quân đội Nhân dân Việt Nam áp đảo. Số xe V-100 gửi tới Sài Gòn nhanh chóng chứng tỏ giá trị của mình trong các khu vực giao tranh với lính bắn tỉa và súng máy. Chúng cũng được dùng để giải cứu các đơn vị bạn bị hoả lực địch trấn áp. Vì V-100 không thể chịu được hoả lực RPG, các xe này chỉ được dùng tại những khu vực chỉ phát hiện hoả lực nhẹ.

Tháng 2/1968, quân đội Mĩ đặt mua 72 chiếc V-100 đầu tiên với tên gọi XM706E1.

Tháng 5/1968, 30 chiếc V-100 được quân VNCH cho Sư đoàn bộ binh số 4 Mĩ mượn trong 6 tháng, và gia hạn nhiều lần cho đến khi Sư 4 nhận được các xe XM706 của mình.
Đến tháng 10/1968, các xe V-100 được đặt mua bởi lục quân Mĩ bắt đầu được giao và 94 xe khác được đặt hàng.

Một lực lượng khác thuộc quân đội Mĩ cũng có hứng thú và tự nghiên cứu V-100. Đó chính là binh chủng không quân Mĩ. Dĩ nhiên không ai nghĩ đến việc cho Commando cất cánh và và nả đạn .30cal/.50cal từ trên trời xuống đầu đối phương. Mà thay vào đó là nhằm mục đích bảo vệ các sân bay khỏi các cuộc thâm nhập của đặc công như vụ sân bay Biên hoà năm 1966 và sự kiện Tết Mậu Thân càng làm tăng thêm yêu cầu bảo vệ các sân bay quân sự. Nhưng khác với loại Commando của lục quân Mĩ hay VNCH, những chiếc Commando của không quân hay nói chính xác hơn là lực lượng bảo vệ sân bay không có tháp pháo hay nóc, thay vào đó là một gờ chắn tháp đặt nghiêng với 5 giá gắn súng ở trên nóc xe hở. 2 giá gắn súng lắp phía trước xe và 3 giá còn lại đặt ở hai bên sường và phía sau xe có thể cung cấp hoả lực áp đảo mọi hướng. những giá súng này có thể lắp nhiều loại súng .30cal; 7,62mm; .50cal.
Cuối năm 1968, các xe V-100 cho không quân, mang tên gọi XM706E2 được đưa tới Việt Nam và sau đó là tới các sân bay ở Thái Lan và Philipine.

Từ 1968 về sau, 3 kiểu xe V-100 (XM706 cho VNCH, XM706E1 cho MP và XM706E2 cho không quân) bắt đầu được giao tới Đông Nam Á. Tuy nhiên, nhận các bộ phận thay thế, dự phòng trở thành một vấn đề. Các gói hàng thay thế bị gửi nhầm đến các đơn vị không có, hoặc chưa có V-100. Các gói này có thể lại được dùng cho các loại xe khác khiến cho lực lượng V-100 ngày càng suy kiệt. Sự thiếu hụt các tài liệu hướng dẫn kĩ thuật càng gây thêm khó khăn. Các xe V-100 bị hỏng hay hư thường bị “làm thịt” để cung cấp các bộ phận cho những xe khác.

Sự thiếu hụt các bộ phận và dụng cụ chuyên môn cũng dẫn đến nhiều phiên bản “hoán cải” thú vị. Lực lượng MP của Sư đoàn không vận 101 đã tự thiết kế và chế tạo thiết bị tháo lốp Commando Special. Họ thậm chí còn cố gắng làm tải liệu về nó với hình chụp và bản vẽ và gửi gói nâng cấp lên cấp trên để giúp các đơn vị khác. Tuy nhiên, hầu hết các nâng cấp chủ yếu là gắn thêm nhiều loại vũ khí lên xe. Nâng cấp phổ biến là hàn một giá lắp súng vào đuôi phải xe và lắp lên đó một khẩu M60. Lính Mĩ cũng có thể hàn một giá súng của M113 lên nóc của tháp pháo để gắn một súng máy M2 .50cal. Ngay cả súng máy minigun 7,62mm “mượn” từ trực thăng cũng được gắn lên Commando để tăng cường hoả lực.

Nhiều đơn vị MP cũng chơi các màu sơn nổi bật lên xe của mình. Mọi thứ từ sơn ốc bu lông hay tô trắng vành bánh xe, hay “nose art” bao phủ toàn bộ phía trước xe đều được thực hiện. Hầu hết các “nose art” dựa trên các nhân vật truyện tranh, phim siêu anh hùng hay tên các nhóm rock.

Đến 1969, nhu cầu XM706 thực sự vỡ bờ. Lực lượng MP Mĩ, quân đội Thái, Hàn và các đơn vị vận tải Mĩ ở Việt Nam đều kêu gào V-100, khiến các đơn vị muốn trang bị thêm V-100 phải từ bỏ ý định. Các đơn vị vận tải Mĩ đã cố gắng hết sức để có được V-100, khi mà họ đã phải dùng đến các xe “gun truck” vốn nâng cấp từ các xe tải 2 hay 5 ton tiêu chuẩn với các tấm giáp và giá súng để bảo vệ đoàn công voa. Tuy nhiên yêu cầu 80 chiếc XM706 của họ vẫn bị từ chối. Quân đội Mĩ tính toán rằng đến cuối 1969, sẽ có tổng cộng 683 xe V-100 ở Việt Nam.

Cùng với việc Mĩ bắt đầu rút dần khỏi Việt Nam, các xe V-100 bắt đầu được trao lại cho các đơn vị khác hoặc phá để cung cấp đồ thay thế. Các đơn vị Thái Lan và Hàn Quốc ở VNCH đều nhận lại XM706 từ MP Mĩ. Ngay cả quân đội Lào cũng nhận vài chiếc XM706E2 vào năm 1970 từ các sân bay Mĩ ở Thái.

Quân VNCH tiếp tục nhận các xe V-100 mới đến tháng 5/1970, với chiếc xe mang số seri 10.921 là chiếc cuối cùng. Báo cáo sản xuất cho thấy 477 chiếc V-100 đã được bán cho VNCH, nhưng với sự rắc rối trong vay mượn và thay thế các xe bị thiệt hại trong chiến đấu, con số thực sự rất khó đoán. Một vụ điển hình là chiếc V-100 seri 10.921 đã bằng cách nào đó tìm được đường về Mĩ và được nhìn thấy lần cuối tại Crane Naval Depot ở Indiana vào đầu những năm 1990.

Các mẫu cuối cùng xe cho không quân Mĩ được nhận vào tháng 11/1970 và mẫu cuối của lục quân Mĩ được nhận vào tháng 7/1970. Đến 1972, hầu hết các xe V-100 đã về Mĩ. Đáng ngạc nhiên là gần như toàn bộ các xe V-100 đều được đưa về, ngay cả những chiếc mang thương tích lẫn những chiếc bị “làm thịt”. XM706 tiếp tục phục vụ quân VNCH cho đến khi Sài Gòn được giải phóng vào tháng 4/1975.
Logged

BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #13 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 01:35:48 am »

Commando của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Một chiếc V100 của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, Quân lực VNCH tan rã, toàn bộ số V-100 còn sót lại sau chiến tranh được chuyển giao cho QĐND Việt Nam. Những chiếc V-100 một lần nữa được đưa vào tham chiến khi chúng theo chân các đơn vị bộ đội tăng - thiết giáp Việt Nam chiến đấu chống lực lượng Khmer Đỏ tại Campuchia từ năm 1979 đến năm 1989. Cuối những năm 1980, do tình trạng thiếu phụ tùng thay thế nên cũng như nhiều trang thiết bị quân sự khác chuyển giao từ thời VNCH, V100 được cho "nghỉ hưu". Gần đây, Viện Kỹ thuật Cơ giới, thuộc Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng đã tiến hành nghiên cứu nâng cấp, khôi phục xe thiết giáp V-100. Việc nâng cấp được tiến hành tại Nhà máy Z751. Gói nâng cấp mới bao gồm :

- Thiết bị thông tin liên lạc dùng bộ đàm và máy nói P123M.
- Thay động cơ của Mĩ bằng loại GAZ-41 của Nga.
- Trang bị các loại súng của Nga thay cho súng Mĩ.
- Nâng cấp hệ thống phanh thủy lực.
- Thiết kế lại hệ thống điện.
- Lắp đặt hệ thống camera quan sát đêm.

Hiện nay, các chiếc V100 vừa được nâng cấp đang được thử nghiệm kiểm tra để sớm đưa trang bị cho các đơn vị chiến đấu trong toàn quân.

<a href="http://www.youtube.com/watch?v=d5j12VSARXk" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=d5j12VSARXk</a>
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Mười Một, 2011, 02:00:08 am gửi bởi BOM BI » Logged

BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #14 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 02:04:43 am »

V-100 THỜI HẬU CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Quân đội Mĩ tiếp tục sử dụng V-100 Commando cho đến giữa thập niên 1980. Các xe V-100 nhanh chóng bị đánh giá lỗi thời và thay thế chậm chạp bằng loại xe Peacekeeper của Cadillac Gage. Một số xe V-100 bị đưa đến các bãi thả bom. Một số khác sống sót trong các viện bảo tàn trong khi một số khác được các đơn vị SWAT sử dụng. Một số rất ít trở thành đồ sưu tầm của những người đam mê quân sự.

V-100 vẫn tiếp tục hoạt động trong các quân đội khác như Lebanon, Bolivia, Guatemala. Những nước này dùng V-100 như câu trả lời cho các phiến quân chống chính quyền. Venezuela mua 77 chiếc V-100 giữa 1971 và 1973, đa số là loại mang tháp pháo 2 súng, một số là loại chở cối 81mm. Khách hàng lớn cuối cùng của V-100 là Malaysia từ 1971-1972.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Mười Một, 2011, 02:40:31 am gửi bởi BOM BI » Logged

BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #15 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 02:34:36 am »

CÁC PHIÊN BẢN

- V-100

  + XM706 : Phiên bản mang tháp pháo T-50 gắn 2 súng máy M37 .30cal.
  + XM706E1/ M706 : Phiên bản mang tháp pháo T-50 gắn 2 súng máy M73 7,62mm và M2 .50cal. Thân xe tháo bớt 2 cửa sổ quan sát so với XM706(giảm từ 11 cửa sổ xuống 9). Xe có thêm bình xăng bọc giáp. Các xe này được sản xuất từ số seri 10.596.
  + XM706E2 : Phiên bản hở nóc với 5 giá gắn súng máy.


Từ trái qua phải: XM706, XM706E1(lưu ý bên sườn xe bỏ đi một cửa sổ so với XM706), XM706E2

- V-200/ LAV-200 : Được Cadillac Gage phát triển từ 1967-1968 cho quân đội Singapore. V-200 mang các trục bánh xe 5 ton và mang động cơ Chrysler 440 V8 xăng. Quân đội Singapore yêu cầu một loạt các trang bị vũ khí bao gồm tháp pháo 2 người mang pháo 90mm và 20mm, phiên bản mang cối 81mm và phiên bản cứu kéo.


V-200 của Quân đội Singapore

- V-150/ LAV-150 :
Phiên bản kết hợp giữa V-100 và V-200, được Cadillac Gage giới thiệu năm 1971.
 + Động cơ Chrysler 361 V8 202hp diesel
 + Hệ thống chữa cháy
 -+Có thể trang bị các thiết bị phóng lựu đang khói, đèn dò hay thiết bị nhìn đêm, thiết bị liên lạc, định hướng và chống NBC.
 + Hệ thống vũ khí có thể trang bị cho LAV-150:
  1. Tháp pháo 2 người mang pháo Cockerill Mk III 90mm + 1 súng máy 7,62mm đồng trục
  2. TP mang pháo Royal Ordnance L231 76mm + 1 súng máy động trục
  3. TP 1 người mang pháo Oerlikon 20mm + 1 súng máy 7,62mm đồng trục
  4. TP 1 người mang 2 súng máy 7,62mm hay .50cal/7,62mm
  5. TP 1 người mang 1 súng máy .50cal và 1 súng phóng lựu 40mm
  6. Tên lửa TOW

V150 của Quân đội Malayxia

- LAV-150S
Phiên bản dài hơn LAV-150 46cm và tải trọng tăng thêm 726kg với tổng tải trọng 3357kg.
 + Hệ thống treo mạnh hơn.
 + Hộp số tốt hơn cho phép leo dốc cao hơn.
 + Hệ thống phanh thuỷ lực mới
 + Hệ thống làm mát cải tiến

- V-300
  + Cơ cấu bánh 6X6
  + Tốc độ tối đa 105km/h
  + Bơi không cần chuẩn bị
  + Tất cả các bánh có phanh thuỷ lực và lốp run-flat
  + Trang bị vũ khí tương tự LAV-150

V300 của Quân đội Philippine
Logged

BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #16 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 11:44:48 am »

AMX 10P

(Tham khảo từ military-today.com, Army guide)


Dự án nghiên cứu thiết kế xe chiến đấu bộ binh AMX-10P được Tập đoàn Giat (nay là Tập đoàn Nexter) bắt đầu tiến hành vào năm 1965 nhằm thay thế cho những chiếc AMX-VCI già cỗi đang phục vụ trong Quân đội Pháp lúc đó. Nguyên mẫu đầu tiên được hoàn thành vào năm 1968 và được đưa đi thử nghiệm kiểm tra tại Rambouillet vào tháng 7 năm 1972, trong cuộc thử nghiệm này một số hạn chế của xe đã được phát hiện và được khắc phục ngay sau đó. AMX 10P được đưa vào sản xuất hàng loạt tại nhà máy Roanne de Atelier vào năm 1973. Cũng trong năm 1973, những chiếc AMX 10P đầu tiên đã được chuyển giao cho Lữ đoàn Mechanised 7 ở Rheims.  Nexter đóng cửa dây chuyền sản xuất AMX 10P vào năm 1994 sau khi hơn 2000 chiếc AMX 10P đã được xuất xưởng. Tuy đã ra đời hơn 30 năm nhưng hiện nay 650 chiếc AMX-10P vẫn còn phục vụ trong các đơn vị chiến đấu của Quân đội Pháp. Ngoải Pháp, AMX 10P còn được xuất khẩu sang các nước khác như Bosnia Herzegovina, Indonesia, Mexico, Morocco, Qatar, Ả Rập Saudi, Singapore, Iraq và UAE. Hiện nay, Quân đội Pháp đang thay thế dần các xe AMX-10p bằng xe chiến đấu bộ binh VBCI mới tiên tiến hơn.

MIÊU TẢ

Động cơ cùng với hệ thống truyền động được đặt ở bên phải phía trước thân xe. Thiết kế này giúp tăng khả năng sống sót cho tổ lái khi xe bị trúng đạn từ các hướng khoảng 2-3h và giáp không cản được đạn. Ngồi bên cạnh động cơ về bên trái là lái xe. Lái xe có một hệ thống lái thuỷ tỉnh khá đơn giản để sử dụng, vị trí lái xe được bố trí ba kính tiềm vọng, kính tiềm vọng trung tâm có thể được thay thế bằng kính tiềm vọng khuếch đại hình ảnh nhìn đêm khi tác chiến trong đêm. Trung tâm của thân xe được đặt tháp pháo và khoang chiến đấu, với vị trí của trưởng xe được bố trí ở bên phái và pháo thủ ở bên trái. Trưởng xe sử dụng kính tiềm vọng quan sát ban ngày M371 kết hợp kính ngắm khuếch đại hình ảnh quan sát ban đêm. Vị trí pháo thủ lắp một kính ngắm chính kết hợp kính tiềm vọng khuếch đại hình ảnh quan sát ban đêm/ban ngày. Trưởng xe và pháo thủ cũng có bảy kính quan sát 360° để quan sát toàn diện.

Sau tháp pháo và khoang chiến đấu là khoang lính, Các lính bộ binh có thể ngồi quay mặt vào trong khoang trên 2 băng ghế. Ghế cho 8-10 lính bộ binh cơ giới với trang bị đầy đủ được gắn bằng bulong và khung thép ngồi. Khi không chở lính, các băng ghế có thể gập lại.  Khoang lính được lắp các lỗ châu mai và các thiết bị quan sát, khi cần thiết lính bộ binh cơ giói có thể sử dụng súng cá nhân hoặc súng máy hạng nhẹ tấn công kẻ địch ngay từ bên trong. Lính bộ binh có thể ra khỏi xe bằng hai cửa ra vào trên nóc cùng một cửa lớn ở đằng sau.

TÍNH CƠ ĐỘNG

Xe AMX 10P có khả năng cơ động cao. Xe AMX 10P chạy bằng động cơ diesel Hispano - SuizaHS 115 công suất 276 mã lực. Xe có hai dải xích. Đáy của mắt xích được gắn các miếng cao su có thể tháo rời nhằm tăng khả năng bám đường và giảm tiếng ồn. Hệ thống treo trục xoắn độc lập bao gồm 5 bánh xe đi đường đôi và cácc con lăn hỗ trợ. Bánh truyền động của xe bao gồm phần đĩa bánh xe bằng nhôm và lốp bằng cao su. Trục bánh xe đầu và cuối được gắn với bộ giảm xóc thuỷ lực.  AMX 10P lội nước bằng hai ống đấy thủy lực phía sau xe. Khi chạy trên đường nhựa, đường đất cứng, AMX 10P có thể đạt tốc độ tới 65km/h; di chuyển trong nước với tốc độ 8km/h. Độ cơ động của xe được tăng cường nhờ tấm chắn sóng, khi hoạt động nó dựng lên cao hơn mực nước.

TÍNH AN TOÀN

Thân xe được hàn toàn bộ của AMX 10P là hợp kim nhôm được sản xuất bằng phương pháp cán lạnh cho khả năng chống đạn súng cá nhân nhỏ và mảnh pháo. Vòng cung trước có thể chống đạn xuyên giáp cỡ 14,5mm. Vỏ giáp có thể được tăng cường bằng các tấm vỏ gốm composite được lắp thêm vào. Các phụ kiện lắp thêm này có thể chống lại đạn xuyên giáp AP cỡ 12,7mm quanh xe và đạn xuyên giáp AP cỡ 25mm ở vòng cung trước. Tấm chắn sóng và gầu xúc cũng được sử dụng như tấm thiết giáp bảo vệ thân xe.. Để Bảo vệ kíp lái và trang thiết bị trong xe chống lại vũ khí hủy diệt lớn như hạt nhân, hóa học, sinh học, xe được trang bị thiết bị phòng hóa học và phóng xạ NBC. Ngoài ra, xe cũng được lắp đặt bốn ống phóng lựu đạn khói 80mm vận hành bằng điện ở hai bên tháp pháo.

Để chống lại khả năng xảy ra cháy nổ, xe được lắp đặt hai hệ thống chữa cháy ở khoang chính và khoang động cơ Đồng thời có bình chữa cháy cầm tay. Hệ thống chữa cháy hoạt động tự động hoặc vận hành bằng tay. Để đưa không khí vào xe, lọc không khí khỏi bụi bẩn, các chất độc phóng xạ, sinh, hóa, sấy sưởi không khí vào mùa đông, hệ thống điều hòa nhiệt độ đã tạo áp suất trong xe cao hơn môi trường không khí bên ngoài, đồng thời sử dụng quạt phin lọc không khí.

Tùy theo mỗi phiên bản, hệ thống thông tin liên lạc của xe sẽ có từ 1 đến 4 đài radio. Thành viên trong xe liên lạc với các xe khác bằng máy bộ đàm.

VŨ KHÍ TRANG BỊ

Xe được trang bị Một khẩu pháo tự động 20mm M693 F1, sử dụng đạn HE và AP. Tốc độ bắn là 700 viên/phút, phạm vi hoạt động tối đa là 1500 m. Hạn chế của khẩu pháo này là nó không ổn định. Do đó AMX 10P không thể bắn chính xác khi đang di chuyển. Khẩu pháo tự động của AMX 10P có thể bắn xuyên giáp 20mm ở khoảng cách 1 000 m. Hệ thống điều khiển hỏa lực của xe gồm máy tính đường đạn và đo xa laze. Hệ thống truyền tín hiệu cặp song song trưởng xe, pháo thủ. Ngoài ra, xe còn được trang bị một súng máy đồng trục 7,62 mm (2000 viên đạn), tốc độ bắn là 900 viên/phút, tầm hoạt động hiệu quả là 1000m. Ở phiên bản chống tăng, xe được trang bị hai bệ phóng tên lửa chống tăng MILAN (10 tên lửa) có phạm vi hoạt động 2000m.

CẢI TIẾN, NÂNG CẤP

Tháng 10/2005, Cục trang bị vũ khí thuộc Bộ quốc phòng Pháp đã đề nghị Tập đoàn Nexter nâng cấp 108 xe thiết giáp AMX 10P và cung cấp mới 258 hộp số. Với việc tăng cường giáp của xe, kế hoạch này đã cải thiện đáng kể sức phòng thủ của phương tiện. Khả năng linh hoạt của chúng cũng được nâng cao bởi được tích hợp thêm hệ thống trục mới và một hộp số tăng cường.

AMX-10P sau khi được Nexter nâng cấp

THÔNG SỐ KỸ THUẬT

- Trọng lượng : 15,3 tấn
- Dài : 5,85m.
- Rộng : 2,78 m
- Cao   : 2,57 m
- Kíp lái : 3 người+8 binh lính.
- Động cơ : Hispano - SuizaHS 115 276 mã lực.
- Tốc độ : 65km/giờ
- Tầm họat động tối đa : 600km/giờ.
- Vũ khí : 1 súng tự động 20mm M693 F1, 1 súng máy 7,62mm, 10 tên lửa ATGW MILAN.
- Khả năng lội nước : 8km/giờ.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Mười Một, 2011, 02:52:00 am gửi bởi BOM BI » Logged

BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #17 vào lúc: 30 Tháng Mười Một, 2011, 10:05:44 am »

CÁC PHIÊN BẢN

- AMX 10P 25 ICV : Nguyên mẫu của AMX-10P 25 ICV được giới thiệu lần đầu tiên vào tháng 6 năm 1983. Nó được thiết kế dựa trên AMX-10P. Xe được lắp đặt tháp pháo một người. Trưởng xe ngồi bên trái của tháp pháo, ở vị trí của trưởng xe được bố trí năm kính tiềm vọng quan sát ban ngày và một kính ngắm khuếch đại hình ảnh quan sát ban đêm.

AMX 10P 25 ICV của Quân đội Singapore

Được đặt ở trung tâm của thân xe là tháp pháo một người Dragar được trang bị một khẩu pháo tự động 25mm Model, cơ số đạn của khẩu pháo là 175 viên đạn HE và 45 viên đạn AP. Pháo  25mm có thể bắn ở nhiều chế độ khác nhau như phát một hay bắn theo loạt ngắn.  Một khẩu súng máy 7,62 mm (với cơ số 200 viên đạn nạp sẵn) được gắn đồng trục với pháo 25 mm ở phía bên phải của tháp pháo. Vũ khí được điều khiển bởi pháo thủ trong thân xe. Xe được trang bị hệ thống ngắm quang học và điều khiển bắn (FCS) và hệ thống trinh sát khí tượng có khả năng cung cấp trực tiếp cho máy tính đường đạn bên trong FCS giúp tháp pháo có khả năng vận hành hiệu quả trong mọi thời tiết.Hệ thống quay của tháp pháo hoạt động bằng động cơ điện có khả năng quay 360 độ và nâng hạ tháp pháo từ -11 độ tới 48 độ. Hai bên tháp pháo được trang bị ba ống phóng lựu đạn cỡ nòng 76 mm mỗi bên.

AMX-10P 25 ICV đã được Tập đoàn Nexter nghiên cứu phát triển theo đơn đặt hàng từ Quân đội Singapore.  Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã đặt mua một số tháp pháo Dragar của Tập đoàn Nexter để trang bị cho các xe chiến đấu bộ binh sản xuất trong nước.

- AMX-10 ambulance (xe cứu thương) : AMX-10 ambulance có thể chở 4 thương binh nằm cáng cứu thương hoặc 6 thương binh ngồi (hoặc 2 thương binh nằm và 3 thương binh ngồi) cùng với tổ lái 2 người và 2 lính quân y.  AMX-10 ambulance có thể mang được nhiều thiết bị y tế cần thiết, xe được trang bị hệ thống điều hòa không khí, bốn bộ thiết bị cứu thương, hai bộ dụng cụ phẫu thuật, máy cung cấp oxy và thiết bị truyền máu. Xe cũng có một két nước sạch và bồn rửa. Ở sau xe cũng có 1 máng để đưa bệnh nhân trên cáng cứu thương vào xe nhanh và dễ hơn. AMX-10 ambulance không được trang bị vũ khí.

- AMX-10P driver training vehicle (xe huấn luyện) : Ở phiên bản này tháp pháo loại bỏ và thay thế bằng vị trí quan sát của sĩ quan hướng dẫn.

- AMX-10 ECH repair vehicle (xe phục hồi) : Xe được thiết kế để thực hiện nhiệm vụ cứu kéo các phương tiện chiến đấu hạng nhẹ, sửa chữa các hư hỏng tại chỗ, hỗ trợ bảo trì, bảo dưỡng phương tiện ngay trên chiến trường. Xe có khoang chứa vật tư phụ tùng phục vụ cho công tác sửa chữa, thay thế. Ngoài ra, xe còn được trang bị một 1 cần cần cẩu có thể nâng hạ 6 tấn, một tời kéo  sau lưng xe , 1 bộ cung cấp năng lượng riêng và một máy hàn điện. Kíp lái 5 người (lái xe, trưởng xe và ba lính công binh).
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Mười Hai, 2011, 11:40:04 am gửi bởi BOM BI » Logged

BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #18 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 08:07:27 pm »

M728 CEV

(Tham khảo từ Inetres, FAS và vndefence.info)

M 728 của Quân đội Singapore

THÔNG SỐ

- Năm sản xuất: 1965
- Vai trò: xe công binh
- Tổ lái: 4 người
- Trọng lượng: 53,3 mt
- Chiều dài(lưỡi cày và cần trục ở vị trí đi đường): 8,91 m
- Chiều dài(cần trục duỗi ra trước): 9,3 m
- Chiều ngang: 3,71m
- Chiều cao(nóc): 3,26 m
- Chiều cao gầm: 381 mm
- Động cơ: Continetal AVDS-1790 750 hp diesel
- Truyền động: Detroit Diesel Allison CD850 2 số tiến, 1 số lùi
- Dung tích bình nhiên liệu: 1419 l
- Tầm hoạt động: 450 km
- Tốc độ(đường): 48,3 km/h
- Độ sâu lội: 1,2 m(không chuẩn bị)/ 2,4 m(có chuẩn bị)
- Dốc đi thẳng: 31 độ
- Dốc đi ngang: 22 độ
- Vượt hào: 2,5 m
- Vượt dốc thẳng đứng: 0,8 m






THIẾT KẾ


M728 là loại xe công binh được thiết kế trên khung xe tăng M60A1 cung cấp khả năng bảo vệ tối đa cho tổ lái. Nhiệm vụ của M728 là dọn đường, phá chướng ngại vật, chuyên chở đội phá huỷ,…

Mặc dù được thiết kế trên thân xe tăng và có một pháo nòng ngắn, M728 không phải là xe tăng và không nên được dùng để chống lại xe tăng kẻ thù. Nó có thể được dùng như một xe hổ trợ tấn công hạng nặng của lực lượng công binh phối hợp(tăng-thiết giáp-bộ binh).

M728 được trang bị một lưỡi cày hoạt động bằng thuỷ lực gắn ở phía trước thân xe. Một bộ tời và cần trục được gắn vào tháp pháo để nâng, mang và kéo đồ vật, xe cộ. Cần trục được vận hành bằng thuỷ lực và có công suất 8,75 t(tăng gấp 2 nếu dùng dây đôi), tời có sức kéo 12,5 t(tăng gấp 2 nếu dùng dây đôi). Cáp là loại có đường kính 19mm, dài khoảng 61m.

BẢO VỆ

Giáp của M728 là loại giáp thép đồng nhất tương tự M60A1. Xe có hệ thống lọc khí hạt và hai bộ phóng lựu đạn khói M239(phiên bản sau) 6 ống phóng lựu đạn khói 66mm L8A1. Động cơ của xe cũng có thể tạo khói.

HOẢ LỰC

1/ Pháo 165mm M135, 30 viên, tầm bắn 925m.
Đạn 165mm của pháo M135 là loại đạn có đầy đủ thành phần cố định trong một viên đạn cho phép bắn ngay lập túc. Viên đạn bao gồm một kíp điện và thuốc phóng đựng trong vỏ đạn nối với đầu đạn có ngòi nổ. Vỏ đạn được đóng dính vào viên đạn.

+ Đạn M123E1 HEP(high explosive plastic)
Chiều dài: 701mm
Trọng lượng toàn bộ: 29,8 kg
Trọng lượng đầu đạn: 28,3 kg
Kíp đạn: M73
Ngòi đầu đạn: M62A1E1 BD


+ Đạn M623 huấn luyện
Chiều dài: 701mm
Trọng lượng toàn bộ; 29,5 kg
Đạn HEP rất hiệu quả d8ối với các công sự và mục tiêu làm bằng bê tông. Sức đẩy và kéo gây ra và khối lượng thuốc nổ lớn có thể huỷ diệt các vật cản và đánh sập tường. Một viên đạn có thể tạo một lổ có đường kính 0,3m trên bức tường bê tông dày 178mm. Hiệu quả đối với bong ke và công sự cũng rất cao, thường là nghiền nát toàn bộ bức tường.

2/ Súng máy 7,62mm M73 hoặc M240 đồng trục, 3600 viên

3/ Súng máy .50 cal M85 gắn trên vòng quay của lổ ra vào, 728 viên


SỬ DỤNG

M728 bắt đầu phục vụ vào năm 1965 với tổng cộng 291 chiếc. Một đại đội công binh thuộc sự đoàn thiết giáp hạng nặng hoặc quân đoàn bộ binh cơ giới có 2 chiếc M728. Đại đội công binh thuộc các lữ đoàn thiết giáp/bộ binh riêng biệt hoặc trung đoàn kị binh thiết giáp có 3 chiếc.

M728 CEV đã tưng tham gia chiến dịch Bão táp sa mạt 1991. Trong chiến dịch này, nó cho thấy sự yếu kém trong việc di chuyển chung với các lực lượng hạng nặng khác. Nguyên nhân là do thân xe và động cơ M60 không thể cung cấp đủ tốc độ để bắt kịp với các loại tăng Abram và IFV Bradley nên thường bị bỏ lại ở hậu phương. Các xe M728 cũng gặp nhiều khó khăn trong bảo trì vì quá lỗi thời.

Ngày nay, vai trò của M728 hiện đang bị lu mờ do dòng xe tăng Abram hiện đã có nhiều phiên bản dùng cho dọn đường cũng như loại đạn M908 HE-OR-T mới của xe tăng Abram có khả năng phá vật cản tốt hơn so với đạn 165mm HEP của M728.

M728 cũng được xuất khẩu sang Oman, Singapore, Saudi Arabia và Portugal.
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 08:26:57 pm gửi bởi BOM BI » Logged

BOM BI
Thành viên
*
Bài viết: 134


Aya Kito (1962 - 1988)


« Trả lời #19 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2011, 07:15:18 pm »

M113

(Tham khảo từ Inetres và vndefence.info)


LỊCH SỬ

Tháng 1 năm 1956, một dự án chế tạo APC thách thức và mới mẻ được khởi xướng bởi ATAC(Army Ordnance Tank-Automotive Command/Bộ chỉ huy hậu cần tăng-ôtô quân đội, hiện nay là Tank-Automotive Command/TACOM/ Bộ chỉ huy tăng-ôtô). Yêu cầu đặt ra là chế tạo một loại APC nhẹ, có khả năng bơi và airdrop(thả từ máy bay bay sát mặt đất), tốc độ vượt địa hình ưu việt và khả năng được biến đổi với các gói nâng cấp/hoán cải để thực hiện nhiều công việc khác nhau cho các đơn vị thiết giáp và bộ binh.

Những bản vẽ ý tưởng ban đầu nhanh chóng được hoàn thành và 1 thân xe mẫu được làm ở ATAC chỉ trong 90 ngày. Nó được trang bị một động cơ làm mát bằng khí của ban hậu cần và giáp làm từ các tấm nhôm cán.
Việc sử dụng nhôm cho xe thiết giáp là một bước đột phá. Các cơ sở sản xuất nhôm đã hoạt động dưới công suất từ thời chiến tranh Triều tiên và các nhà sản xuất đang tìm kiếm các ứng dụng khác cho sản phẩm của họ đã gửi các mẫu giáp nhôm thử nghiệm đến quân đội để kiểm tra. Các cuộc kiểm tra cho thấy rằng để có cùng mức độ bảo vệ(với thép), thì giáp nhôm phải nặng tương đương và dày gấp 3 lần giáp thép. Tuy nhiên, vì nhôm được cho là có tính liên kết cao hơn thép ở cùng một trọng lượng nên nhiều vật nối, giằng, cột có thể được bỏ. Điều này làm giảm trọng lượng xe cũng như thời gian, công sức trong quá trình chế tạo, hàn, đồng thời làm tăng không gian bên trong xe.

Thân xe mẫu cho các kĩ sư ATAC cơ hội để giải quyết vấn để trong thiết kế như các tấm nhôm, thiết kế và công suất của động cơ, bố trí trong xe và giới hạn trọng lượng. Kết quả thuận lợi của những thí nghiệm trên dẫn đến việc dự án được đưa ra đấu thầu vào tháng 6 năm 1956. Tháng 9, người thắng thầu là bộ phận quân nhu của tập đoàn FMC được giao hợp đồng phát triển và chế tạo các mẫu đầu tiên cho dòng xe không vận đa dụng.
Trong chương trình, hai mẫu xe khác nhau đã được đưa ra. 5 nguyên mẫu giáp nhôm(T113) vận hành bằng động cơ làm mát bằng khí và 5 nguyên mẫu giáp thép(T117) vận hành bằng động cơ làm mát bằng chất lỏng.Các thân xe T113 và T117 được sản xuất và giao tới ATAC trong năm 1957.

Trong giai đoạn này, nhiều phương án thiết kế thay thế cho nhau được thử và kiểm tra sử dụng giáp thép, giáp nhôm, động cơ làm mát bằng chất lỏng, động cơ làm mát bằng khí, bộ truyền động thương mại, bộ truyền động của ban hậu cần. Mỗi khi bắt gặp vấn đề, các giải pháp khác ngay lập tức được tìm kiếm. Các thiết kế và bộ phận nhiều triển vọng nhất được phát triển và đánh giá bởi FMC và ATAC.

Làm việc với tập đoàn nhôm và hoá chất Kaiser và sử dụng những phương pháp hàn tiên tiến, FMC chế tạo T113 với sự kết hợp giữa giáp nhôm và động cơ làm mát bằng khí Continetal cung cấp kiểu xe nhẹ nhất và bảo vệ tốt nhất. Thiết kế thân xe bằng thép cũng được chế tạo với động cơ làm mát bằng nước Packard vì đây là phát triển của loại APC M59 và cũng là một phương án ít rủi ro. Bộ truyền động cho cả hai loại xe đều là loại Allison XTG-90.
Trong quá trình kiểm tra, động cơ Packard được thay bằng động cơ Ford 368 UC trong các bước phát triển đầu tiên.
Các vấn đề khác được bắt gặp vào lúc này, khó khăn trong việc làm mát được phát hiện ở động cơ làm mát bằng nước Ford đòi hỏi nhiều không gian cho khoang động cơ để làm mát. Mặt khác, động cơ làm mát bằng khí Continetal lại không thể hiện được như mong đợi. Xích 12 inch(30,48cm) được phát triển ban đầu thể hiện độ bền kém.

Sau những thử thách, người ta thấy rằng thân xe bằng nhôm cung cấp khả năng chống đạn cao hơn, bền và có giá cả hiệu quả nhất. Từ những bài học từ nhóm nguyên mẫu đầu tiên, FMC tiếp tục phát triển hai loại nguyên mẫu mới là T113E1 và T113E2. những chiếc xe này được miêu tả là “khổ hạnh” vì để sửa chữa những sai sót trong các nguyên mẫu trước, chúng được thiết kế để có chi phí ở mức thấp nhất. Điều này bao gồm quyết định sử dụng động cơ(Chrysler A710B(tên thương mại) hay còn gọi là 75M(tên quân sự)) và hệ thống truyền động(Allison TX-200) thương mại trong sản xuất đại trà. Sự khác biệt trong điều khiển xe cũng được cho là không đáng kể vì hầu hết các thành phần đều làm theo mẫu loại xe APC M59.

Mặc dù đã có giởi hạn về trọng lượng cho T113, hai kiểu thân xe khác nhau đã được phát triển. Cả hai đều có bề ngoài giống nhau nhưng có khác biệt về độ dày giáp và trọng lượng. Mục đích của việc chế tạo là để quyết định thông qua kiểm tra xem loại nào thể hiện tốt hơn và bền hơn để quân đội quyết định. Những phiên bản này đều mang xích rộng 15 inch(38,1 cm) bền hơn và thể hiện tốt hơn so với xích 12 inch.

Bốn chiếc T113E1 và bốn chiếc T113E2 cùng với một bộ thân xe bảo vệ của mỗi loại được sản xuất. Sau khi thử nghiệm thành công, phiên bản T113E2 nặng hơn được chọn để sản xuất dưới tên gọi M113. Ba nguyên mẫu M113 được chế tạo lại để để thử các thiết bị và phương pháp sản xuất.

Chiếc M113 APC đầu tiên được đưa ra khỏi dây chuyền sản xuất của FMC ở San Jose, California vào tháng 6 năm 1960, chỉ 3 năm 6 tháng kể từ ngày giao hợp đồng đầu tiên. Đơn đặt hàng đầu tiên của quân đội bao gồm 900 xe.


MIÊU TẢ

M113 là loại xe thiết giáp chở quân(armored personel carier/APC) bánh xích được thiết kế để chở một tiểu đội lính cùng với trang thiết bị của họ.
Động cơ của M113 được đặt ở góc bên phải phía trước thân xe. Chiếc M113 đầu tiên được trang bị động cơ Chrysler V8 làm mát bằng nước chạy bằng xăng tạo ra 209 mã lực ở 4000 rpm. Đến phiên bản A1, động cơ xăng được thay bằng động cơ diesel Detroit 6V53 212 mã lực có thể hiện tốt hơn, tiết kiệm nhiên liệu hơn và phù hợp với yêu cầu tiêu chuẩn hoá 1 loại nhiên liệu cho xe quân sự hạng nặng của quân đội. Bởi vì trọng lượng của động cơ diesel lớn hơn nên chính phủ ra lệnh sử dụng hệ thống truyền động Allison XTG-90 có trọng lượng nhẹ hơn so với phiên bản cũ. Tuy nhiên sau khi nghiên cứu kĩ lưỡng, FMC quyết định dùng hệ thống truyền động thương mại TX100 có độ bền cao hơn nhưng ít chi phí hơn so với XTG-90. Chính phủ vẫn giữ vững ý định chỉ chấp nhận hệ thống truyền động XTG-90 và ra lệnh chế tạo nguyên mẫu sử dụng hệ thống truyền động đó. Trái lại, FMC vẫn cho răng TX100 là giải pháp tốt nhất và đã tự bỏ chi phí sản xuất một nguyên mẫu dùng hệ thống truyền động do mình gợi ý để chính phủ thử nghiệm. Những thử nghiệm nhanh chóng phát hiện nhiều vấn đề kỉ thuật nghiêm trọng của XTG-90 có thể đòi hỏi nhiều thiết kế lại với chi phí lớn. Cuối cùng, chỉ huy quân đội Mĩ quyết định dùng hệ thống truyền động TX100 và động cơ diesel cho phiên bản M113A1 đưa vào sản xuất năm 1964. Phiên bản M113A2(1979) vẫn giữ nguyên động cơ và truyền động của đời M113A1. Đến đời M113A3(1987), động cơ được thay bằng loại Detroit 6V53T 275 mã lực chạy bằng diesel, hệ thống truyền động là loại Allison X200-4.

Xích xe rộng 15 inch(38,1 cm) và có các răng 6 inch(15,24 cm). Đáy của mắt xích được gắn các miếng cao su có thể tháo rời nhằm tăng khả năng bám đường và giảm tiếng ồn. Bởi vì các bánh đi đường được nâng hạ bởi các thanh xoắn giữ cố định và dao động ở một bên xe liên kết với bên còn lại nên hai sợi xích xe có sự khác biệt nhỏ về độ dài: xích bên phải bao gồm 64 mắt xích nhưng xích bên trái chỉ bao gồm 63 mắt xích.
Mỗi bên thân xe có 5 bánh xe đi đường đôi. Chúng có đường kính 24 inch(60,96 cm), bao gồm phần đĩa bằng nhôm và lốp bằng cao su dày 2_1/8 inch(5,3975 cm). Trục bánh xe đầu và cuối được gắn với bộ giảm xóc thuỷ lực. Tuổi thọ của xích xe thường đạt 3000 dặm(4828 km) và đôi khi đạt tới 9000 dặm(14.484 km).
Lái xe ngồi bên trái phía trước xe và có một hách ra vào mở về phía sau được gắn 4 kính quan sát. Xa trưởng có vị trí ở chính giữa thân xe và có một nắp vòm đơn giản gắn 5 kính quan sát. Ngay sau nắp vòm là một hách lơn ở trên khoang hành khách. 10 binh sĩ có thể ngồi quay mặt vào trong khoang trên 2 băng ghế. Khi không chở lính, các băng ghế có thể gập lại, cung cấp không gian khoảng 6,54 mét khối. Cuối xe có một cửa sập hoạt động bằng thuỷ lực tích hợp với một cửa ra vào riêng biệt. Cánh cửa sập được lái xe vận hành đóng mở.

M113 có thể bơi mà không cần bất cứ chuẩn bị gì ngoài việc nâng tấm “trim vane” ở phía trước xe để ổn định khi bơi. M113 bơi trong nước nhờ sự chuyển động của xích. Các miếng che xích ở hai bên thân xe giúp tăng thể hiện của xe dưới nước. Hai bơm điện được gắn vào thân trước bên trái và thân sau bên phải.

M113 có thể được chuyên chở bằng máy bay C-5, C-17, C-130, C-141 và có thể được thả dù, airdrop.

Hệ thống phòng không tầm ngắn M - 113A2 Ultra Mechanised Igla của Quân đội Singapore, đây là phiên bản kết hợp giữa xe M113A2 với bốn tên lửa đối không Igla do Nga sản xuất. (Có thể tìm hiểu thêm về tên lửa phòng không Igla tại http://www.quansuvn.net/index.php?topic=228.20)
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Mười Hai, 2011, 08:09:35 pm gửi bởi BOM BI » Logged

Trang: « 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM