Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 08:04:06 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Mùa đông lạnh nhất - David Halberstam  (Đọc 91276 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #90 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 09:46:11 pm »

Chương 11

Và thế là Walker không bị thay thế vào thời điểm đó, dù rằng ông không có người đỡ lưng quan trọng ở Washington hay Tokyo, với địa phương thứ hai này thì ông thường bị bật bãi khỏi những quyết định cầm quân quan trọng và nơi đó, chính người của MacArthur sẽ họp riêng và làm thay ông. Như viên phi công cũng là bạn tâm tình thân thiết nhất của ông – Mike Lynch – nhận xét: Walker đang chiến đấu trên hai mặt trận – chống lại quân Bắc Triều Tiên và lệnh từ cấp trên ở Tokyo. Walton (Johnie) Walker biết việc gì đang diễn ra và hiểu rằng ông rất gần với hiểm họa bị huyền chức. Nhưng có một phẩm chất ngoại hạng mà Ridgway cũng nhận thấy ở ông, thứ mà Ridgway đồng thời cho là hạn chế của Walker, đó chính là sự gan lỳ cóc tía. Hai viên tướng hội đàm với nhau lúc quân của Walker bị đẩy lùi một cách có hệ thống về sau sông Naktong. Câu hỏi lớn trong những ngày u ám đó là liệu rằng họ có thể giữ vững vành đai Pusan không, hay đơn giản là cùng nhau bị đẩy bật khỏi bán đảo này. Trong buổi làm việc Ridgway hỏi Walker rằng ông ta có thể làm gì nếu phải lùi hơn nữa. Walker trả lời rằng ông không thể lùi tý nào nữa. Ridgway nói: “Ừ, thì đó là điều anh nói với binh sỹ, nhưng anh thực sự sẽ làm gì nếu anh lùi khỏi tuyến Naktong?” . Walker bướng bỉnh trả lời: “Tướng quân, tôi sẽ không lùi khỏi tuyến Naktong”.


Trung tướng Walker

Ít nhất cũng có một điều may mắn với Walter – ông không có thời gian để lo lắng về việc Washington hay Tokyo nghĩ gì về ông. Ông quá bận rộn trong những ngày đó bởi phải liều mạng di chuyển các đơn vị để cố chặn các cuộc tấn công mới nhất của quân Bắc. Và vì vậy chẳng còn mấy thời gian để ông tự thương thân mình. Khủng hoảng nối tiếp khủng hoảng. Mỗi sư đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, ngay đến đại đội trưởng đều thiếu lính. Trong những đêm tháng 7, bộ đội Bắc Triều Tiên dường như lúc nào cũng sẵn sàng chọc thủng tuyến quân Mỹ ở bốn, năm vị trí. Việc của Walker luôn là bít lỗ thủng kế tiếp – cố xác định xem những vị trí nào là quan trọng nhất. Hiếm có viên tư lệnh Mỹ nào đối diện với tình hình xấu như vậy. Việc lính của ông chuẩn bị kém phần nào có lỗi của ông, vì ông là một trong những vị chỉ huy ở Tokyo từ trước thời 25 tháng Sáu, nhưng rõ là trong những ngày đầu họ bị quân thù vượt trội về quân số và còn yếu tố sân nhà. Tuyến tiếp vận của Walker kéo dài một cách tuyệt vọng đến tận California. Thiếu đủ thứ: lính, sỹ quan, và thỉnh thoảng là thứ quan trọng nhất: đạn dược. Ông đang ở đất địch, một sỹ quan thiết giáp ở một đất nước núi non chiếm phần lớn, mà nếu nói về xe tăng, thì đối phương có loại xe tốt hơn, nhiều hơn ông có. Nhưng tệ nhất, là cả trong việc chỉ huy ông cũng ở vị trí khiêm tốn so với những người bên ngoài: MacArthur và tay tham mưu trưởng còn quyền lực hơn của ông ta, Ned Almond, họ nhìn ông với vẻ hạ cố, nếu không nói là khinh miệt rõ rệt. Đôi khi Walker còn có cảm giác rằng ông là người Mỹ cuối cùng ở vùng Viễn Đông được nghe những quyết định sống còn. Ban tham mưu dưới quyền MacArthur và Almond biết được cái nhìn không mấy tôn trọng của hai vị thượng cấp với ông ta nên thường bắt chước cái thái độ ấy.

Walker còn không có được các sỹ quan chiến đấu mà ông muốn. Những người ở Washington, và cả Ridgway khi kết thúc chuyến công tác, đều phàn nàn về chất lượng tệ hại của ban tham mưu Walker, nhưng cứ mỗi khi có một chuyến tàu chở quân cập cảng Yokohama, Nhật Bản, trước khi các sỹ quan lên bờ, thành tích của họ đều được bộ chỉ huy Viễn Đông sàng lọc. Những sỹ quan tốt nhất sẽ bị hớt về sở chỉ huy của MacArthur, những ai còn lại thì mới được đưa về Tập đoàn quân số 8. Đó là một cách làm chắc ăn nhưng tồi bại, với cách này những tài năng bị đưa đi sai chỗ. Về bản chất Walker không phải là người thích phàn nàn. Ông luôn chấp nhận những quyết định kỳ quái trong quân đội, nhưng rồi sau đó là càm ràm với những người thân thích về việc sở chỉ huy luôn  nhạo báng chất lượng sỹ quan chỉ huy và tham mưu của ông, trong khi lại từ chối gửi cho ông những vị xuất sắc mà ông yêu cầu. Ông muốn có Slim Jim Gavin, một chỉ huy quân dù nổi danh từ Thế Chiến II, một trong những sỹ quan trẻ giỏi nhất, có uy tín nhất trong quân đội, và đã rất giận dữ khi biết ông không thể có người này. Trong suốt Thế Chiến II, George Marshall làm mọi người hoảng vì vấn đề tuổi tác của đa số các trung đoàn trưởng của mình, ông đề nghị các sỹ quan trẻ hơn, sôi nổi hơn; ông không muốn có trung đoàn trưởng nào quá 45 tuổi. Nhưng ở Triều Tiên, nơi đòi hỏi cố gắng khác thường về mặt thể chất bởi thời tiết khắc nghiệt và vì bản chất của cuộc chiến; thì cũng lại giống câu chuyện cũ. Ngay trước chiến tranh, chỉ một trong số chín trung đoàn trưởng là Mike Michaelis 37 tuổi hợp cách của Marshall: còn những người khác thì một 55 tuổi, một 50, bốn người 49 và hai người 47. Michaelis là viên trung đoàn trưởng xuất sắc nhất thời đầu cuộc chiến Triều Tiên, và trung đoàn số 27 Wolfhounds của anh được dùng trong hầu hết những tình huống nguy cấp nhất, kiểu như đoàn cứu hỏa. Trong những ngày đầu ấy, khi những đơn vị Mỹ bị quân Bắc Triều Tiên hợp vây, thì Michaelis là thành công nhất (những người đương thời với anh nghĩ vậy), bởi anh là một sỹ quan dù, mà lính dù thì được dạy để không lo lắng nếu họ thấy mình bị bao vây. Đó là một thói quen cơ bản và họ luôn mong đợi được tiếp vận đường không. Trong khi các sỹ quan ở các đơn vị khác, khi bị hợp vây và cắt rời khỏi đại quân, thường có xu hướng hoảng loạn và nhanh chóng rút lui, kỷ luật đội ngũ bị tan vỡ khi rút lui và thường rơi vào phục kích của quân Bắc Triều Tiên đã chuẩn bị kỹ.  Thứ mà Michaelis và quân của anh lo đầu tiên, trước hết đó là sự toàn vẹn của đơn vị. Lính của anh phải bảo vệ được lẫn nhau và dùng vũ khí để dựng lên một vùng hỏa lực phòng thủ, điều này được xem quan trọng hơn việc họ có đang bị hợp vây hay không.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #91 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 09:49:43 pm »

Với Walker, cuộc chiến đang trở thành một đỉnh cao cay đắng trong quân nghiệp phong phú một cách đáng ngạc nhiên, ở đó, như các sỹ quan có năng khiếu khác, ông đã bất chấp nền tảng học vấn và thứ hạng trong lớp của mình. Ông lớn lên ở Belton, miền trung Texas, như một số thiếu niên trong thời đó, vốn không có quá nhiều lựa chọn, đã theo con đường binh nghiệp để có thể rời khỏi thị trấn nhỏ và có một cuộc sống với nhiều ý nghĩa hơn. Ông vào một trường quân sự địa phương, khi tốt nghiệp ông muốn theo học ở West Point. Nhưng vì còn quá nhỏ, 15 tuổi, nên thay vì WP ông vào VMI. Khó mà nói ông học giỏi ở đó – hạng thứ 52 trong lớp có sĩ số 92 – nhưng vào tháng 6 năm 1907 ông xoay sở để có giấy của nghị viện cử vào West Point học, và ông theo học ở học viện đó niên khóa 1911. Nhưng thời kỳ ấy ở Texas rất khó khăn; cha ông viết thư cho ông và kêu về nhà để hỗ trợ công việc tiệm đồ khô của nhà. Tháng 10, ông rời West Point, và rồi trở lại nhập học theo khóa 1912. Một lần nữa ông lấy cần cù bù thông minh; ông tốt nghiệp hạng 71 trong lớp có 96 người, và tham gia vào một quân đội bé tý trước khi lớn mạnh hơn bởi Thế Chiến I.  Trong những năm ngay trước thế chiến, ông tòng sự trong trung đoàn 19, đơn vị này có một công việc tốt trong thời đó là đánh nhau với Pancho Villa trong một chuỗi các cuộc xung đột nhỏ dọc biên giới Mexico.

Trong Thế chiến I, là một đại úy trẻ, Walker chỉ huy một đại đội súng máy đánh nhau với quân Đức và kiếm được hai huy chương Sao bạc (Silver Star) trong trận Meuse-Argonne. Đó là sự kiện bản lề cho một sự nghiệp khá bình thường cho đến lúc ấy. Walker là một sỹ quan mạnh mẽ, hung hăng. Thượng cấp của ông thấy rất ấn tượng; họ nghĩ ông là một người lính không bao giờ lùi bước, không thông minh nhưng là một người tốt chết tiệt, một người có thể luôn tin vào được. Có thể xây dựng nên một quân đội mạnh với những người lính như ông ta. Ở West Point, thứ hạng trong lớp dường như là quan trọng, nhưng trên chiến trường nó không có tác dụng nhiều, ở đó tất những gì cần là bản năng, lòng dũng cảm và ý thức trách nhiệm. Ông chơi tốt với anh em đồng tuế, một trong số họ là Leonard (Gee) Gerow, ông này là bạn thân nhất của ngôi sao trẻ đang lên trong thời đó: Dwight Eisenhower.  Năm 1925, Walker được chọn tham gia vào trường Sỹ quan tham mưu và chỉ huy ở Fort Leavenworth, trường này được lập sau thế chiến để giúp quân đội chọn ra những sỹ quan mai kia sẽ thành tướng; và nếu cần sẽ giúp quân đội giải quyết công việc. Trong thời ấy, không ai nói về những thứ kiểu như lối đi nhanh nhất, nhưng nếu có một trường nào nổi trội trong số những viện quân sự trong thời bình – vốn có tốc độ thăng tiến sự nghiệp kiểu rùa bò – thì nên bắt đầu ở Leavenworth. Cùng học với ông ở Leavenworth là Gee Gerow và Eisenhower – ông này thì hạng nhất trong lớp 245 người và chỉ mới bắt đầu bứt lên dẫn đầu đàn. Walker xếp thứ 117, nhưng nhận được một nhiệm vụ tốt. Ông được nhận vào Học viện Chiến tranh lục quân. Tốt nghiệp năm 1936, ông nhận một vị trí dường như rất bình thường, sỹ quan quản trị của Lữ đoàn bộ binh số 5 ở Vancouver Barrack bang Washington. Trên thực tế là ông may mắn, bởi viên tư lệnh là một lữ đoàn trưởng trẻ tên George Catlett Marshall. Marshall khắc khổ và hoạt động trí não, vẻ ngoài là một sỹ quan tham mưu tinh túy, nhưng thực chất cũng là một sỹ quan chiến đấu dũng mãnh – không ai biết vì ông đã không cho ai cơ hội, Marshall dường như đã nhận ra một Walker mạnh mẽ, hung hăng và rõ ràng là can đảm. Từ đó xây dựng nên một tình bạn chân thật, năm 1939 Marshall lúc ấy nổi lên như một sỹ quan độc thân quan trọng nhất trong lục quân, ông đến Washington để nhận công việc trưởng ban tác chiến, ông đã sống với gia đình Walker một thời gian. Điều này có cả điểm cộng lẫn điểm trừ, điểm cộng cho sự nghiệp của Walker bởi ông là người của Marshall, nhưng sau này là điểm trừ khi ông đến Nhật và Hàn quốc, bởi cảm giác lo ngại phi lý của MacArthur với Marshall vốn có từ Thế Chiến II.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #92 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 09:54:39 pm »

Mà dù Johnie Walker thế nào đi nữa thì ông cũng không có uy tín. Ông chừng 5-5, lùn và mập. “Lão ta là một tay mập bé nhỏ phải không?” vài người có lần hỏi George Patton, người Walker đã phục vụ vẻ vang dưới quyền trong thế chiến II. Patton trả lời: “Đúng tay đó, lão là một tay chiến binh chó chết nhỏ bé”. Cằm ông tròn nhẵn, mặt mũi và thân hình không có cách nào tả. Ông luôn quá cân một chút, 82 ký cho một cơ thể lùn. Như một cây bút người Anh ghi nhận, ông trông rất giống một nhân vật trong quảng cáo của hãng lốp Michelin. Nếu Hollywood có casting thì phải thêm vào vài phân chiều cao cho ông hoặc phải mỏng người bớt và vai rộng ra. Trong lục quân, đều nhìn nhận và thích các vị tướng phải cao ráo, và tin rằng điều này sẽ giúp cho công tác chỉ huy, rằng càng cao càng tốt, nhưng nếu không thì, các vị tướng ít nhất cũng phải nên hung hăng như gà chọi, ngay cả với những người mập hơn, cao hơn. Trong bộ đồ trận, Walker trông không giống một viên tư lệnh, mà trông giống như một người vừa bị lôi ra khỏi cuộc sống dân sự và đưa vào một đại đội không hợp lý.

Điều làm cho sự nghiệp của ông còn khó khăn hơn đó là ông sợ cánh báo chí, không tin tưởng và cảnh giác, ngay cả đối với những phóng viên thích ông, hiểu ông đang hoạt động trong những hoàn cảnh khó khăn bất thường. Khi có dịp với một phóng viên ông tin cậy, như Frank Gibney của tờ Time, Walker nói về những khó khăn và chất lượng tồi của lính mình – “đó là thứ họ cho tôi để chiến đấu”. Còn lại ông giữ kín sự giận dữ và thất vọng của mình. Ông hoàn toàn điều khiển được bản ngã của mình, con trai ông – Sam Wilson Walker (anh cũng nhận được một huy chương Sao bạc ở Triều Tiên khi còn là một sỹ quan trẻ), có lần ghi nhận: “là một điểm tốt chết tiệt – bởi ông phục vụ dưới quyền hai tay ích kỷ nhất mà quân đội Mỹ từng sản sinh ra, George Patton và Douglas MacArthur”. Ông chấp nhận quyền hành ông được giao, chiến trường như nó đã tồn tại. Ông không phàn nàn. Trong Thế chiến II, lúc đầu ông là sư đoàn trưởng và rồi quân đoàn trưởng trong tập đoàn quân số 3 dưới quyền Patton – “Georgie” – như trong những thư ông gửi về cho vợ, lúc duy nhất mà ông dám nhạo báng về vị thượng cấp nổi danh. Thực tế  cái vị trí sỹ quan cao cấp dưới quyền Patton nguyên là thứ Eisenhower muốn có, nhưng khi Eisenhower – thông minh, tài năng và có sức hút – được lôi vào guồng máy tham mưu, lập kế hoạch của Marshall, thì Walker được hưởng cái phần thưởng đó trong ngành thiết giáp.

Ông rất được Patton ưa thích, có phần không nhỏ bởi sự hùng hổ của mình. “Trong tất cả các quân đoàn dưới quyền tôi, quân đoàn của cậu luôn là đơn vị hăm hở tấn công nhất”. Patton, người không bao giờ biết khen ai quá mức, đã có lần viết cho Walker như vậy. Ông nghiêm khắc và không biết sợ trong việc khiển quân, chiến thuật của ông cũng táo bạo như của vị thượng cấp, nhưng không cắt quá rộng hoặc cũng không cố dựng lên một phương pháp riêng. Ông đủ thông minh để biết rằng chỉ có chỗ cho một ngôi sao duy nhất trong thế giới của George Smith Patton, Jr. Khi giới báo chí muốn thổi, xem ông như một tiểu Patton, ông phủi họ đi. Dù sao thì Eisenhower cũng đánh giá ông gần ngang mức với Matt Ridgway hay Joe Collin “sấm sét” trong cuộc chiến, và khi thế chiến kết thúc, ông trên đường nhận một vị trí chỉ huy trọng yếu ở vùng Thái Bình Dương. Ông không ảo tưởng về mình; ông là một người lính tốt với công việc của mình, và ông sẽ thể hiện nổi trội khi được dưới quyền một sỹ quan tài năng thực thụ.

Hàn Quốc thời hậu chiến, nguyên được giao cho John Hodge, nhưng ông này đã mang nó cho Lý Thừa Vãn và những người Hàn khác mà ông gần như không có tý giác quan chính trị nào về các điều kiện của họ cũng như sự chiếm đóng của Nhật Bản. Thay vào đó Walker đến Tokyo ở cương vị tư lệnh tập đoàn quân 8 vào tháng Chín năm 1948. Ngay cả trước khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra, ông tồn tại ở Tokyo trong dạng bất đắc dĩ. Bởi MacArthur và những người quanh ông, xem những viên tướng từng chiến đấu ở châu Âu là thù địch (MacArthur và đồng sự tin rằng họ đã chiếm lượng quân và khí tài lí ra sẽ chuyển cho khu vực Thái Bình Dương), Walker đến đó với những dấu hiệu vô hình làm băng đảng Battan chống lại ông. Trước hết, ông không phải là người của MacArthur. Rồi ông đã chiến đấu ở sai chiến trường. Và ông có bạn bè không hợp lý, Marshall đỡ đầu, Gerow và Eisenhower là chiến hữu. Ông là một trong số ít người trong quân đội được mời dự đám cưới của John – con trai Eisenhower vào năm 1947.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #93 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2013, 01:34:21 am »

Ở Tokyo, ông không tương thích nổi và cũng không được chấp nhận. Những con người cũ kỹ của hệ thống hiểu rằng họ không nhất thiết phải có ông. Và điều này đặc biệt đúng với tham mưu trưởng mới của MacArthur, thiếu tướng Edward Almond, ông này vừa trải qua Thế chiến II đầy thất vọng, và rõ ràng đây là lần bổ nhiệm quan trọng sau cùng của ông, Almond là tay chơi chính trong cuộc chiến Triều Tiên và sự kình địch bất hạnh giữa ông ta và Walker là một dấu vết không thể xóa mờ lưu lại trên những gì đã diễn ra ở đó. Almond cũng không phải là người của MacArthur;  chính ra ông gần gũi với Marshall hơn; nhưng vào cuối sự nghiệp vì cố để được đề bạt vào vị trí tư lệnh Thái Bình Dương, nên ông trở thành một tôi trung tột bực của MacArthur, điều này giống như việc cải đạo theo Thiên Chúa Giáo và cố thể hiện rằng ông ta còn mộ đạo hơn cả Giáo hoàng. Thêm vào đó Almond còn cố làm màu cho giai đoạn thất bát – mà ông đã trải qua, theo cái cách giới quân sự gọi là: một cuộc chiến tệ hại ở Châu Âu. Vì trong thế chiến II, ông chỉ huy sư đoàn 92, một đơn vị toàn da đen trong một quân đội vẫn còn phân biệt chủng tộc, tất cả các sỹ quan ở đó đều là người da trắng miền Nam (bởi họ được tin là biết cách – theo kiểu nói của dân miền Nam – điều khiển được bọn đen). Đó rõ ràng là một trong những thể hiện lớn sau cùng trong quân đội với quan hệ phong kiến, cổ hủ và đối lập với sự hiện đại, quân bình và thể chế dân chủ. Trong lục quân, lính thuộc sư đoàn ông ta bị gọi mỉa mai là: Lính Eleanor Roosevelt, sau khi đệ nhất phu nhân thể hiện sự quan tâm đặc biệt tới sức khỏe và biểu hiện của họ. Bị thường xuyên đối xử là công dân hạng hai bởi các sỹ quan – những người họ xem là nguyên nhân của cuộc sống khó khăn ở quê nhà – nên họ thường chiến đấu theo kiểu lính – hạng –hai.

Almond, một người miền Nam sinh vào tháng 12 năm 1892 với tất cả những định kiến truyền thống của vùng miền và thời kỳ đó, ông đã kết thúc chiến tranh với việc phân biệt chủng tộc còn cao hơn lúc ông bắt đầu. Sự chỉ huy của ông ở Triều Tiên sau này được đánh dấu với tất cả những trường hợp phân biệt chủng tộc vô cớ của cá nhân ông, như thể ông là một dạng khủng long chính trị trong một quân đội dù gì cũng vừa bắt đầu hòa nhập. Trước khi Thế Chiến 2 nổ ra, ông đủ sắt máu để Marshall cho ông vào danh sách lựa chọn, và vị trí tư lệnh sư đoàn 92 đã phản ánh niềm tin của Marshall với ông – nếu như có ai nhận cái bổ nhiệm khó khăn đó và làm được việc, thì chỉ có thể là Ned Almond. Ông bắt đầu tham chiến với địa vị – ít nhất là trong suy nghĩ của ông ta – ngang hàng với Bradley, Collins, Patton và Ridgway nhưng ông rất đau khổ với định mệnh của mình khi cuộc chiến kết thúc, lá thăm của thần may mắn đã hủy hoại ông.

Cái tôi của Almond cũng cực kỳ lớn, như bạn bè nghĩ, là cũng cỡ Patton. Thực tế là ông không bao giờ cho rằng có ai đó có thể chỉ huy giỏi hơn (ông). Một khi tin rằng mình là đỉnh của đỉnh, và rồi khi gặp phải vấn đề lớn ở một thời khắc quan trọng thì đó là một sự thất vọng tột cùng,  và ông tin chắc rằng ông bị chơi xấu. Như có lần ông nói với MacArthur rằng: bất kể thứ gì xảy ra ở Tokyo hay Triều Tiên cũng sẽ không làm ông rầu, bởi ông đã từng ở trong tình trạng tồi tệ nhất so với tất cả những tư lệnh trong quân đội từng có – ông đã chỉ huy sư đoàn 92. Những quân nhân đầy tham vọng trong quân đội, tốt nghiệp West Point, hoặc trong trường hợp của Almond – VMI, luôn so sánh họ với những người cùng thời bằng cách: ai được phong đại tá đầu tiên, ai chỉ huy tiểu đoàn trước nhất, ai có được ngôi sao tướng sớm nhất, và dĩ nhiên, ai làm tư lệnh sư đoàn trước nhất. Những người đồng tuế với ông, đã thành danh trong cuộc chiến anh hùng, họ có vị trí chỉ huy cao cấp, thể hiện được lòng mong mỏi của nhân dân, và trở thành một phần trong lịch sử đáng tự hào của đất nước, trong khi ông phải chỉ huy một đơn vị mang tính thử nghiệm xã hội, và đã thất bại thảm hại, nên ông rất đau lòng. Ông không thấy phần trách nhiệm của mình với đơn vị ông chỉ huy – trong suy nghĩ của mình, những lỗi lầm, sai sót hoàn toàn là do họ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #94 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2013, 01:36:52 am »

Almond là một con người khắc kỷ, cực kỳ tự tin, và hoàn toàn không biết sợ, một con người dường như không sợ cả thần chết, thực sự là nhiều quân nhân đã phục vụ ở Triều Tiên nghĩ rằng ông mong gặp thần chết. Bạn ông tin rằng lúc ông đến sở chỉ huy Tokyo thật sự rất thê thảm. Điều này không chỉ bởi hi vọng to lớn làm một vị chỉ huy quan trọng trong thế chiến II của ông đã tan tàn bởi bản chất của cái đơn vị ông được giao; mà còn bởi những thứ còn đau khổ hơn chôn sâu trong tâm hồn ông. Đó là những cái giá kinh khủng mà cá nhân ông phải trả trong thế chiến II. Một ngày u ám năm 1944, ông nhận được thư từ vợ, báo tin rằng con trai và con rể đã hi sinh. Ned-con, lớp 43 West Point đã hi sinh khi tòng sự trong sư đoàn 45 tại thung lũng Po ở Ý, và Thomas Galloway, lớp 42 West Point, một phi công chiến đấu, cưới người con gái duy nhất của Almond, đã mất tích ở Normandy trong cuộc tấn công, và đã có thư xác nhận rằng chết. Thông tin này đặc biệt đau lòng với Almond, bởi ông luôn ép con mình rất dữ, đầu tiên là học ở West Point và rồi phải vào bộ binh. Khi Ned-con đến chiến trường, chính Almond đã viết thư cho chỉ huy con mình, bảo không cho cậu con làm sỹ quan tham mưu và hãy giao cậu ấy một đại đội súng trường.

Vào đêm nhận được thư, Bill McCaffrey, một trong những sỹ quan tham mưu thân cận của Almond hỏi ông có cần thuốc an thần. McCaffrey đã có kinh nghiệm với một trường hợp tương tự trước đó, khi Townsend Crittenberger, con của quân đoàn trưởng, trung tướng Willis Crittenberger, hi sinh khi vượt sông Rhine. Crittenberger tự nhốt mình trong phòng hai ngày liền và để cấp dưới chỉ huy đơn vị. McCaffrey nghĩ, có lẽ Ned Almond sẽ cần nghỉ ngơi tương tự và có lẽ cần có gì đó để ông có thể ngủ. Nhưng Almond trả lời: “Không, không cần thuốc an thần. Và này, Bill, ngày mai tôi vẫn chỉ huy sư đoàn”. Và chẳng có hậu quả gì để McCaffrey phải báo với quân đoàn về vấn đề vừa xảy ra. Almond không muốn ai táy máy với sư đoàn của ông và cũng không cần ai cảm thông với ông.

Kết thúc cuộc chiến, Ned Almond có được hai ngôi sao tướng, trong khi bạn bè đồng tuế có đến ba hoặc bốn sao. Mà dù ở điểm thấp nhất trong sự nghiệp, thì không ai từng làm việc với ông dám đánh giá thấp ông. Ông, đầy sức mạnh. Mọi thứ ông làm, phải được hoàn thành nhanh chóng và hoàn hảo. Với những quân nhân làm việc dưới quyền ông, luôn có hơn một mệnh lệnh để tuân theo, một tổ phải di chuyển, một mẩu giấy phải được đánh máy, và đánh hoàn hảo, hoặc không thì phải làm lại. Mỗi người lính trong mỗi tiểu đội phải được đặt đúng chỗ một cách hoàn hảo, và mỗi viên chỉ huy phải biết tên từng người lính, bất kể là người đó mới tới. Nhưng rồi năm 1945 cách làm việc và tham vọng đó dường như vô dụng.  Cuộc chiến đã kết thúc, quân đội thu hẹp lại; số tư lệnh còn lại khá ít, và nếu có kẻ thù nào có thể đe dọa nước Mỹ, thì đó luôn là bom nguyên tử. Thế thì cần gì phải dùng một viên tướng hai sao, người vốn đã có một cơ hội to lớn? Bởi vậy nên dù là một quân nhân ở châu Âu, nhưng năm 1946, ông lại xin bổ nhiệm về sở chỉ huy của MacArthur thay vì làm tùy viên quân sự ở Moscow, vốn ít hấp dẫn hơn với ông. Vị trí ở Tokyo là G-1, sếp nhân sự, không phải là vị trí quyền lực lắm, nhưng trong cái sở chỉ huy yếu kém thảm hại đó, ông sẽ thể hiện được sự nổi bật ngay lúc vừa đến, một người có năng lực khác thường trong một ban tham mưu hạng hai. Không cần quá nhiều thời gian để MacArthur hiểu Almond, một “dân” châu Âu hay không, người của Marshall hay không, và điều có tác động hơn mọi thứ khác, đó là việc ông nóng lòng cho cú hích cuối cùng trong sự nghiệp. MacArthur tin rằng Almond là người cần có, dù không phải thuộc “băng” Bataan, trở thành người của MacArthur. Đầu năm 1949, khi tham mưu trưởng của MacArthur, tướng Paul Mueller về nước, Almond – vốn đã cho thấy ông là vô giá với sếp, được nhận vị trí này. Tư lệnh thì chưa thể, nhưng rồi sẽ đến một ngày.  Công việc thực sự của một tham mưu trưởng trong lục quân thường là một tay chó chết của tư lệnh. Mọi người nên quên đi cái cảm giác rằng tư lệnh là một người tốt, người luôn đưa ra các quyết định công bằng (và thuận lợi) cho cả những việc mang tính vĩ mô lẫn vi mô, nếu chỉ mình ông ta làm việc đó. Như vậy, một tham mưu trưởng giỏi sẽ nói không với những yêu cầu mà MacArthur không muốn làm không muốn liên đới, và làm cho mọi người cảm thấy MacArthur ôn hòa hơn để có thể chấp nhận họ, chỉ nếu họ có thể hiểu được quá khứ của con quái vật Almond.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #95 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2013, 01:39:52 am »

Almond trở thành một nhân vật quan trọng trong những tháng sắp tới. Sách lược chiến đấu rất quan trọng, nó tới tác động cuộc chiến và chiến lược sắp đến, không chỉ Tokyo chống lại Washington, mà ngay trong lòng Tokyo cũng rất dã man, tranh chấp liên miên để thành một trợ tá ưu thích; và Almond tỏ ra là một tay chơi đẳng cấp lớn ở sở chỉ huy hơn là Walker. Cuộc chiến không ngừng nghỉ giữa Almond và Walker là một mẫu hình thu nhỏ của cuộc chiến lớn hơn cũng đang diễn ra: cuộc chiến của quân đội Hoa Kỳ chống lại quân đội Douglas MacArthur. Trong số những biệt danh của Almond (A-Bự, Ned-kinh-hoàng), có lẽ cái quan trọng nhất với các sỹ quan cao cấp ở Tokyo là Ned-xức-dầu-thánh, cái tên này mang ý nghĩa rằng tay của MacArthur luôn trên vai ông và ông là người ủy nhiệm của MacArthur, không bao giờ được thách thức, và ông cũng không bao giờ thách thức thượng cấp của mình. Phải thừa nhận rằng ông luôn luôn phát ngôn cho MacArthur – hoặc ít nhất ông phát ngôn thay đủ thường xuyên để bạn không muốn là người phát hiện ra khi nào ông không nói thay cho MacArthur. Thời đó Almond trở thành một MacArthur của MacArthur, người dẫn dắt góc nhìn của MacArthur với những gì tin rằng sẽ diễn ra, và mang nó thẳng tới Triều Tiên, nơi ông sẽ triển khai, bất kể có phù hợp với tình hình thực tế của người Triều Tiên hay không.

Almond cực kỳ khôn ngoan và rõ ràng có ý thức chính trị hơn hẳn Walton Walker. Walker là một đại diện của quân đội Mỹ, chỉ huy bởi Bradley ở Washington, còn Almond ở Tokyo, rất khéo léo trở thành nhân vật số hai trong một quân đội Mỹ khác – một quân đội ít nhiều tự trị và do Douglas MacArthur điều khiển. Ngay từ đầu ông đã hiểu giữa đám tham mưu cao cấp nhưng thiếu tài năng (mà phần còn lại của lục quân Mỹ gọi là bọn ngố Humpty-Dumpty), MacArthur cần ít nhất một dân chuyên nghiệp đẳng cấp cao để sở chỉ huy còn chạy việc. Sở chỉ huy là một thứ nhà kính nuôi trồng đám bạn bè nối khố và bọn ăn bám bợ đỡ, và trung tâm của đám đó chính là vị tướng. Nhiều sỹ quan tham mưu cao cấp có quan hệ với nhau, đã dùng theo đúng với nghĩa đen của cụm từ “Close to the Throne” để nói đến một ai ở cạnh vị tướng. Trong vòng một năm sau khi tới Tokyo, Almond đã là người cận kề quyền lực nhất.

Almond đủ thông minh để không bao giờ tham gia bất kỳ một phe nhóm nào hoặc cũng không đứng về một bên nào để chống lại bên khác. Quan trọng hơn cả, ông tin rằng mối quan hệ chân thật với MacArthur chỉ có thể giành được bằng sự nhất mực tận tâm, trung thành và vâng lời. Kẻ thù của MacArthur sẽ là kẻ thù của ông. Không có biệt lệ. Không điều gì. Và mọi hành vi phải là thứ đúng đắn. Với ông, sự cao quý của MacArthur rõ ràng là không cần phải xem xét. Ông phải thành một MacArthur-mở-rộng còn hơn chính bản thân MacArthur. Ông đã sẵn sàng cho cuộc kiểm tra. J.D. Coleman – một sử gia và cũng là một sỹ quan dưới quyền – đã viết: “Ông rất có bản năng về việc lấy lòng (người khác)”. Coleman ý muốn nói rằng bên cạnh việc rỉ vào tai thượng cấp những gì người đó muốn nghe, ông ta có khả năng cực kỳ thông minh để dự đoán trước được những gì MacArthur muốn ngay cả trước khi chính vị tướng hiểu ra mình muốn gì.

Một trong những điều mà Bill McCaffrey thích ở Almond trong số những phẩm chất trước kia đó chính là sự tự tại, không biết tôn kính ai, nhưng trước MacArthur ông đã vứt bỏ nó đi. Trong thế chiến II, có lần ông đã từng nói kiểu toạc móng heo với Willis Crittenberger, quân đoàn trưởng của họ ngay trên điện thoại, làm McCaffrey hết sức lo ngại cho số phận của Almond. Gần như McCaffrey phải giật điện thoại khỏi tay Almond, bởi đơn giản là không nên nói với thượng cấp theo cách như vậy. Nhưng với điều này, một Almond mới, đã có được sự mến mộ từ ông. Và nếu có điều gì làm buồn lòng thuộc cấp của Almond trong thời gian ở Tokyo và Triều Tiên sau này, đó chính là sự quỵ lụy hoàn toàn của ông trước MacArthur, cùng với cách giả ngu, hạ mình trước bạn đồng tuế và thô bạo với anh em dưới quyền – ngoại trừ một nhúm đàn em thân cận, cũng như chính ông là đàn em của MacArthur.  Ngay cả những đàn em – mà không ai hưởng lợi từ tình cảm đó nhiều hơn Jack Chiles, được đưa từ ban S-3 sang làm tư lệnh trung đoàn dưới quyền ông – cũng biết là rất khó khăn và dễ bùng phát. “Ông ấy có thể lao vào một cơn khủng hoảng trong một đảo hoang không người xung quanh” có lần Chiles nói vậy. Khá ít nhà quan sát trung lập thích ông. “Tay đó thường thường, không khoan dung và không quá thông minh – một trong những tay khốn nạn nhất mà tôi từng gặp, kể cả trong và ngoài quân đội”, Keys Beech nói – ông là người đã thắng giải Pulitzer với bài báo về chiến tranh Triều Tiên và là một phóng viên được nhiều quân nhân thích.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #96 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2013, 01:42:50 am »

Vấn đề của việc sống với MacArthur là được tất hay mất tất khi ở trong đội của ông. Rất nhanh, Almond nhận thấy mình đã gác lại nhiều quan điểm riêng, đơn giản là để hòa hợp với băng Bataan. Trong những năm trước Thế chiến II, ông thường phàn nàn với McCaffrey  về một sỹ quan làm tùy viên quân sự ở châu Mỹ la tinh tên là Charles Willoughby, ông coi khinh ông này. Ông thường nói đó là tay đại ngôn tự cao ngốc nghếch, và mọi thứ trong báo cáo của tay đó đều sai bét, một kết luận được nhiều sỹ quan chuyên nghiệp khác đồng tình. Nhưng rồi đến nay, Almond lại bắt đầu bảo vệ Willoughby trước những người khác. McCaffrey nhìn thấy cái tiến trình phục hồi ấy và chỉ biết lắc đầu.

Hiểu rõ những điểm yếu của Walker, Almond đã sắp đặt để thu nhỏ ảnh hưởng của ông ta ở Tokyo. Dù Almond chỉ là tướng hai sao, nhưng ông đã khéo léo ngụ ý với Waker – một viên tướng ba sao – rằng trên thực tế ông là năm sao, phát ngôn cho MacArthur chứ không phải của cá nhân ông. Phôn reo ở sở chỉ huy của Walker và đó là Almond đang cao giọng chỉ đạo. Walker đã cố hết sức để giữ bình tĩnh và thỉnh thoảng lại nói: “Đây là Almond nói hay Almond nói thay cho MacArthur?”. Nhưng đó là một nỗ lực thất bại. Walker chẳng có mấy chút thời gian riêng với MacArthur. Ông luôn phải thông qua Almond. Walker hiểu rằng không điều gì có thể làm mà chưa có sự chuẩn thuận của MacArthur, và ông đã cố ôm lấy sự thất vọng này. Ông không bao giờ thách thức Almond, không bao giờ yêu cầu được lắng nghe với thiện ý hơn những ý tưởng của mình, và cũng không bao giờ phàn nàn qua các kênh bạn bè chống lưng ở Washington về tình hình khó khăn của ông.

Trong từng ngày như thế, Joe Tyner – trợ tá của Walker – tin rằng Ned Almond cố làm cho cuộc sống của Walton Walker như trong địa ngục. Đa số là Walker chịu đựng, nhưng cũng có một ít lần Walker nổi giận trước cách đối đãi đó. Tyner nhớ lại có một lần Walker đã bùng giận. Đó là một năm trước khi cuộc chiến diễn ra. Có một bữa tiệc tối ở nhà Almond. Ngay trước bữa tối, Walker nhìn liếc qua bàn tiệc và phát hiện ra cách sắp xếp chỗ ngồi mang tính nhục mạ. Theo nguyên tắc trong quân đội vị trí ngồi của Walker phải là vị trí danh dự. Nhưng thay vì thế, Almond đã xếp chỗ đó cho huân tước Alvary Gascoigne, đại sứ Anh tại Nhật, và ông này dường như được MacArthur mến. Walker nhanh chóng giật tay Tyner bảo: “Đi lấy xe đi. Chúng ta rời khỏi đây”.  Tyner hiểu rằng vị tướng của anh đang rất giận và rằng có khả năng nổ ra lớn chuyện nếu không có cách hàn gắn, cần phải có chút thời gian. Thế là anh trả lời: “Tướng quân, tôi vừa mới bảo lái xe chạy mất rồi”. Và rồi anh nhanh chóng tìm một trợ tá của Almond. Anh giải thích vấn đề với cách xếp chỗ ngồi và báo người đó biết rằng ông tướng của anh, một ông tướng đang cực kỳ giận, muốn bỏ bữa tiệc. Thế là chỗ ngồi được sắp xếp lại ngay; Walker ở lại; ông đã thắng một trận bé tý, dẫu thua một cuộc chiến.

Đó là những gì diễn ra trong thời gian mà nước Mỹ đang tăng tốc xây dựng lực lượng trong nội địa, còn Walker thì chỉ huy các đơn vị yếu ớt cố chống cự làm chậm bước tiến của một kẻ thù hùng mạnh. Lúc tháng Bảy nhảy sang tháng Tám, chiến trường đã bắt đầu chuyển biến theo hướng có lợi cho Walker. Bộ đội Bắc Triều Tiên đã dồn quân Mỹ và đồng minh Nam Hàn của họ vào một góc bé tý của quốc gia đó, và với lượng đất đai nhỏ xíu cần phòng thủ, tuyến liên lạc và tiếp vận của họ đã bắt đầu trở nên ổn định. Bằng các chiến thắng, Bắc Triều Tiên đã cho Walker một chiến trường chặt chẽ hơn, nơi ông có thể tập trung binh lực dễ dàng hơn, đồng thời phát huy được hỏa lực cũng như khả năng tình báo vượt trội của quân Mỹ. Cùng lúc đó, tuyến liên lạc và tiếp vận của Bắc Triều Tiên vì được mở rộng quá mức mong đợi, nên đã lộ ra  thêm khả năng bị không tập; đồng thời người Mỹ cũng đổ thêm chiến đấu cơ vào trận đánh. Hỏa lực không quân Mỹ trút xuống như mưa đã gây ra thiệt hại lớn. Những lính cộng sản bị bắt đã khai ra tình trạng thiếu hụt vũ khí, đạn dược, thiết bị y tế và cả quân có kinh nghiệm. Quân xanh (green troops???) được đưa vào làm đầy những vị trí mà không lâu trước đây do các cựu binh giữ trong những đơn vị ưu tú của Bắc Triều Tiên. Ngày qua ngày, Cộng sản vẫn tiến, nhưng mỗi chiến thắng lúc này dường như đều phải trả giá đắt
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #97 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2013, 08:29:36 am »

Nhiều đơn vị hàng đầu của Mỹ và Liên Hợp quốc đang trên đường đến một nơi mà giờ đây được gọi là vòng cung Pusan. Lần đầu tiên, nếu quân Mỹ trụ được, họ có thể biết được những đơn vị nào ở bên các cánh của mình. Trận đánh thực sự, như Johnie Walker đã nói với các sỹ quan và quân binh của mình trong những ngày đen tối đó, là việc mua thời gian, hi vọng làm chậm bước tiến bộ đội Bắc Triều Tiên cho đến khi thêm quân Mỹ, quân đồng minh đổ bộ đến. Câu hỏi duy nhất là: liệu cái đội quân dao động, yếu ớt và mệt mỏi của ông có trụ nổi đủ lâu ở cái chiến trường mới, hẹp bớt này để quân sinh lực Mỹ từ các đơn vị ưu tú đến, và đủ lâu – dù ông không bao giờ nói ra điều này – để đến ngày MacArthur triển khai trận công kích táo bạo, canh bạc vĩ đại của ông ta lên Inchon, mà theo lịch là vào ngày 15 tháng Chín không? Hồi cuối tháng Bảy, khi những đơn vị sau chót của ông vượt sông Naktong và thiết lập các vị trí ở đó, Walker đã nói với một số họ: “Không có rút lui, rút chạy hay điều chính tuyến phòng thủ hay cái quái gì mà các cậu gọi. Không còn tuyến nào phía sau để chúng ta rút cả. Sẽ không là một Dunkirk hay Bataan ở đây. Chạy về Pusan sẽ là một trong những cuộc tàn sát lớn nhất trong lịch sử. Chúng ta sẽ chiến đấu đến cùng. Chúng ta phải chiến đấu như một đội. Nếu có ai đó chết, thì chúng ta sẽ chết khi chiến đấu cùng nhau”.

Bản thân Walker thì chống lại việc chọn Inchon là điểm đổ bộ: ông nghĩ nó là một canh bạc quá lớn và sẽ làm kiệt quệ quá nhiều binh sỹ từ những đơn vị phòng thủ yếu ớt của ông. Sự phản đối của ông theo cách nào đó đã trói chặt số phận của ông với thượng cấp -  việc công khai chống Inchon được xem như là bất trung với MacArthur, và thêm vào là sự coi thường trước đó với Walker. Có hàng đống thứ khác làm Walker lo lắng: trong sáu tuần quyết định đó, chiến dịch [Inchon] phải rút bớt hai sư đoàn mạnh từ lực lượng đã kiệt quệ của ông vốn đã phải nỗ lực không bị bức khỏi bán đảo, thêm vào đó là rất nhiều không lực hỗ trợ cũng như hải lực. Không may cho Walker, chiến dịch Inchon không chỉ đơn thuần là một kế hoạch đổ bộ đường thủy ngoạn mục, mà nó còn là bài kiểm tra cho lòng trung thành mà những ai phục vụ dưới quyền MacArthur phải trải qua. Không có vùng đất trung lập. Vị trí của Walker – ông thì thích một cuộc đổ bộ đường thủy ở một nơi không quá xa trên bờ biển Triều Tiên – không đủ tốt. Sự bất đồng quan điểm của ông đã làm mạnh thêm ghế của Ned Almond. Almond trở thành lực lượng dẫn đầu trong việc tổ chức và chỉ huy kế hoạch Inchon, đánh bại cả việc cần những sỹ quan hải quân cao cấp, kể cả những chuyên gia trong lĩnh vực đổ bộ đường thủy – những người này cũng rất lo lắng về cuộc đổ bộ quá nguy hiểm ở một vị trí cực kỳ khó khăn.

Rất ít người qua được bài kiểm tra trung thành của MacArthur với sắc màu rực rỡ như Almond, hoặc thất bại hoàn toàn như Walton Walker. Với kế hoạch Inchon, Almond trở nên còn gần gũi hơn với MacArthur, và trên thực tế, đã làm hội đồng tham mưu liên quân ngạc nhiên (và giận dữ) khi được giao những thứ mà gần như chưa từng được nghe trong quân đội: chỉ huy lực lượng đổ bộ đường thủy lên Inchon, thứ này cho ông ta mang được hai chức – tư lệnh quân đoàn 10, lực lượng đổ bộ lên Inchon, và tham mưu trưởng của bộ tư lệnh Viễn đông. Còn Walker, bị chia bớt quyền chỉ huy mà phần lớn trong đó đã được đưa cho một kẻ thù truyền kiếp, ông hiểu rằng mình đã thất bại trong con mắt tư lệnh. Ông nói: “Tôi chỉ là một viên tướng Liên minh ly khai”.

Khi kế hoạch Inchon còn đang luống cuống ở Tokyo, thì chiến trường vòng cung Pusan cho thấy đây là một trong những chiến trường đẫm máu nhất ở Triều Tiên hay ở bất kỳ cuộc chiến nào quân Mỹ từng tham gia.  Nó cỡ ngang với những trận chiến tệ nhất trong nội chiến và chiến dịch chiếm đảo nhảy cóc trên Thái Bình Dương. Đầu tháng Tám, áp lực chiến thắng đè nặng lên cả hai phía; quân Mỹ tung những đơn vị mới vào trận giao tranh, còn Bắc Triều Tiên hiểu rằng họ đã không, như Kim Nhật Thành đã hứa với Stalin, quét sạch Pusan trong vòng ba tuần, và cảm thấy áp lực đè nặng phải đạt chiến thắng sau cùng của họ, trước khi công cuộc chuẩn bị của người Mỹ có được đầy đủ hiệu lực. Việc người Mỹ tham chiến đã làm Kim Nhật Thành kinh ngạc, nhưng ông ta vẫn tiếp tục đánh giá quá cao khả năng của quân mình trong khi lượng giá quá thấp những tiến bộ vượt trội của vũ khí người Mỹ sớm hay muộn đưa vào, và thử thách cam go đã giáng xuống quân đội của ông. Những khẩu hiện trên chiến trường do lãnh đạo Bắc Triều Tiên đưa ra cho các tư lệnh của mình đã phản ánh góc nhìn của Kim Nhật Thành với cuộc chiến và thời điểm quyết định. “Giải quyết vấn đế trước tháng Tám” và “Tháng Tám là tháng của chiến thắng” trở thành những khẩu hiệu chính trị mới nhất, chúng cũng phản ánh cho thấy nỗi sợ đang tăng lên rằng cuộc chiến sẽ trở nên bế tắc hoặc thất bại. Nhưng Kim Nhật Thành vẫn còn lạc quan. Tuy nhiên những nhân vật đồng cấp Trung Hoa lo lắng hơn nhiều. Trong mắt họ, cuộc nam tiến của bộ đội Bắc Triều Tiên sẽ kết thúc trong thất bại và ngọn triều chiến cuộc đã đổi hướng. Kim Nhật Thành vẫn tin là sẽ chiến thắng – trong khi người Trung Hoa thêm phần chắc chắn rằng ông ta sẽ bị đánh bại. Họ thạo đời với những thứ đó hơn nhiều và hoài nghi sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành ngay từ đầu. Trong đầu họ, không chỉ việc quân Bắc Triều Tiên đã bị chặn đứng, mà còn việc quân Mỹ mạnh lên, tấn công nhiều hơn và những đơn vị tốt hơn cũng đã đổ bộ vào quốc gia này cũng với lượng quân khí nhiều hơn. Họ gần như đã triển khai thế công. Và một khi điều đó xảy ra, và người Trung Hoa chắc chắn nó sẽ xảy ra, thì sẽ mắc míu tới họ theo cách nào đó.

(Hết chương 11)
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #98 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2013, 08:31:37 am »

PHẦN BỐN: CHÍNH TRỊ Ở HAI LỤC ĐỊA

Chương 12


Ngay cả trước khi cuộc chiến Triều Tiên nổ ra, chính quyền Truman đã phải hoạt động trong tình trạng khủng hoảng với hai vấn đề chính. Vấn đề đầu tiên và ít có khả năng bùng nổ về chính trị đó là việc một số lớn các quan chức cao cấp của chính quyền tin rằng ngân sách quốc phòng hiện rất không thỏa đáng, cho rằng những trách nhiệm quốc tế gần đây nước Mỹ phải gánh đã lớn hơn nhiều so với những gì đất nước sẵn lòng chi trả, và rằng cần phải tăng gấp đôi ngân sách – đó là tối thiểu – rất có khả năng là tăng gấp ba. Trong khi, tổng thống, một viên chức công khố thủ cựu, chống lại việc tăng trưởng đó. Vấn đề thứ hai, và bất ổn hơn, đó là sự sụp đổ của liên minh chính trị lưỡng đảng trong thời chiến, đi cùng với sự suy tàn của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc và câu hỏi trong thời đó với bất kỳ ai, theo cách được dùng là: ráng mất Trung quốc nếu một quốc gia có thể mất. Vấn đề Trung Hoa – dù do đảng Dân chủ làm mất hay không – kéo dài không chỉ với chính quyền Truman mà còn hai đời chính trị kế tiếp của đảng Dân chủ. 

Đó là một trong những huyền thoại trường kỳ của chính trị Mỹ trong thập niên 1950 và  1960, thứ chính trị dừng bên mép nước, như thể chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ là một vùng đất bất khả xâm phạm, nó tách biệt và được đặt lên trên mọi thứ vô nghĩa thông thường và xung đột quyền lợi của cử tri trong nước cũng như những cảm xúc mà chúng gây ra. Không quá khác xa sự thật. Đã có sự hợp tác tuyệt vời (hoặc đôi khi cũng có thể nói là miễn cưỡng) của lưỡng đảng trong những năm chiến tranh, một hợp tác theo cách nào đó là vô tình được tạo ra bởi mối đe dọa cực kỳ nghiêm trọng từ Đức và Nhật, nhưng rồi nhanh chóng tan vỡ gần như ngay khi chiến tranh kết thúc. Có lẽ là sự dồn nén hết mức trong thời chiến của một đảng, họ bị rời khỏi quyền lực cả một thế hệ, cảm thấy không có tiếng nói lẫn sức mạnh, nên đã tạo một lực lượng chính trị của mình và rốt cuộc cũng đã vươn lên dẫn đầu, dù muộn, phản ứng dữ dội lại đảng kia vốn đã nắm quyền quá lâu. Không có cách nào hiểu nổi đợt sóng mới vừa bắt đầu với chính trị Mỹ, thứ đã tạo nên cơ sở của khủng hoảng chính trị trong chiến tranh Triều Tiên – cánh đối lập đã buộc tội những kiến trúc sư chính của cả chiến thắng trong thế chiến lẫn chính sách ngoại giao hậu chiến  đối với các cựu thù – mà không thèm hiểu đến tổng thể mà Franklin Roosevelt đã làm để biến đổi toàn cảnh chính trị trong suốt bốn nhiệm kỳ tổng thống liên tục của mình, và đồng thời sự phát triển kinh tế, xã hội cũng đã làm biến đổi đất nước và, ít nhất thấy ngay dù không quan trọng, là biến đổi đảng Cộng hòa.

Thứ đã quét những người Cộng hòa ra khỏi vị trí của một đảng quan trọng chính là uy tín tuyệt đối của Roosevelt cùng với khả năng ngoại hạng của ông, hơn rất xa những chính khách lớn khác trong nước trong việc khai thác một phương tiện kỹ thuật mới nhất của thời đại đó: radio. Ông làm chủ được hệ thống phát thanh, ông có khả năng dùng nó làm phương tiện chính yếu nhất để tiếp cận với cử tri, đó chính là những hành trang chính trị tuyệt vời. Với radio, ông đã biến chuyển rất sâu sắc nhiệm kỳ tổng thống bằng cách tạo ra mối liên hệ trực tiếp đầy cảm xúc và chưa từng được biết trước đó với công chúng. Tổng thống không còn là một nhân vật đầy xa cách, trang trọng và không thể tiếp cận được, một con người cứng nhắc và không mấy thoải mái trong một bô ảnh hiếm hoi trên báo ngày; giờ đây có một cách thức thân tình mới mẻ; hiện thân mới của ông là bạn bè của dân thường, một nhân vật chính trị tình cảm và chu đáo, tiếp cận đến từng nhà qua làn sóng, hệt như bác sỹ gia đình chăm sóc những nỗi lo, những nhu cầu của từng người Mỹ. Nó cho thấy ông không cần cả diễn văn, mà chỉ theo cách dân gọi những bài nói chuyện của tổng thống là: tán gẫu (chat). Các bạn của tôi, là cách ông bắt đầu bài nói trên đài, và khi ông làm vậy, ông đã tạo ra một cách kết nối mới mẻ với hàng triệu người đi bầu. Về bản chất, ông là vị tổng thống truyền thông đại chúng đầu tiên, người sáng tạo ra thứ bắt đầu được biết đến với cụm từ “truyền thông chính trị”, và thứ này chừng vài ba chục năm sau lại tạo ra tổng thống truyền hình.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #99 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2013, 08:32:24 am »

Hiệu ứng tích lũy của ông – từ giọng nói, từ kỹ năng chính trị vô song, từ cuộc Đại khủng hoảng đã đẩy rất nhiều người dân Mỹ vào cảnh đói nghèo và đưa ông vào vị trí, từ kế hoạch kinh tế chính trị Kinh tế mới (New Deal) mang tính cách mạng của ông, và dĩ nhiên phải kể đến ảnh hưởng kích động của Thế chiến hai -  đơn giản đã làm áp đảo cánh Cộng Hòa vốn có liên quan đến các thế lực siêu giàu trong một thời đại kinh tế thê thảm. Không có bất kỳ tổng thống Mỹ nào phục vụ quá hai nhiệm kỳ, nhưng Franklin Roosevelt, đặc biệt vì có thể tập hợp được rất nhiều lực lượng khác nhau, nên đã có tới bốn nhiệm kỳ và chiến thắng. Luật  Kinh tế mới của ông đã trao quyền thêm nữa cho các hội đoàn và việc lập công đoàn dễ dàng hơn ở nơi làm việc. Với điều này ông trở thành lãnh đạo của một đảng chính trị biết đồng cảm với nhu cầu và quyền của người lao động trong một nền kinh tế vẫn còn chủ yếu là áo cổ xanh (công nhân). Ông trụ vững trong nước nhờ vào đòn bẩy chính trị của thế chiến trong suốt chiến dịch tranh cử năm 1940, đó là nhiệm kỳ thứ ba, và đến năm 1944, là một tổng thống thời chiến, ông lại tiếp tục thắng cử, dù rằng sức khỏe rất suy sụp, tình hình thể chất tàn tạ của ông được che đậy rất cẩn thận trước người dân. Sự kết hợp của hai sự kiện khổng lồ – đại suy thoái và đại chiến – mang ý nghĩ rằng ông có thể giữ sự thống trị đáng kể trong khung cảnh chính trị, kéo dài sau thời điểm mà nếu trong thời kỳ chính trị thông thường, thì vận hạn của ông chắc chắn phải thoái trào. Với những người Cộng hòa trong năm 1944, dường như ông là một tổng thống vĩnh viễn và rất có thể là tổng thống vĩnh viễn thật! Lúc nhiệm kỳ ba, một cuộc đại chiến đang đến gần không chỉ gây hại rất xấu với đảng đối lập mà còn khiến nó thành một kiểu tâm thần phân liệt. Sau rốt, Roosevelt là một người theo chủ nghĩa quốc tế, dần chuẩn bị cho đất nước bước vào một cuộc xung đột toàn cầu khốc liệt, và nhất định sẽ ở bên phía trận tuyến cùng người Anh, quốc gia đồng minh gần gụi nhất.

Trong hoàn cảnh như vậy, đảng Cộng hòa lại đang bị phân rã tệ hại, chia cắt sâu sắc nghiêm trọng về mặt địa lý. Một bộ phận lãnh đạo đảng đại diện cho cánh thượng lưu theo chủ nghĩa quốc tế truyền thống, phản ánh quan điểm của những nhà tài chính phố Wall, những người bên kia bờ Đại Tây Dương. Họ tin rằng, dù muốn hay không, nước Mỹ không thể nào đứng ngoài cuộc chiến đó, rằng cần phải chọn – và phải chọn bên phía những người dân chủ phương Tây. Việc này đã đưa nhiều nhà lãnh đạo đảng Cộng hòa đứng về vị trí đồng thuận với chủ nghĩa quốc tế của Roosevel hoặc ủng hộ nhiều hơn một tý so với bản chất thủ cựu, mà dường như trong nhiều vấn đề lớn của thời đại đã phát biểu rất giống như chính thân tổng thống. Nhưng cánh khác của đảng Cộng hòa thì rất khác: bản chất dân dã hơn; phản ánh chủ nghĩa biệt lập kiểu thị tứ cũ Mỹ, sợ bị lôi vào những cuộc cãi vã và chiến tranh liên miên của châu Âu tham nhũng; và tệ hơn là làm việc đó vì nước Anh. Những cảm giác này bắt nguồn ở vùng Trung Tây, nơi những lãnh đạo của nhiều thành phố, thị trấn nhỏ ghét cay đắng hầu hết những gì Roosevelt làm trong nước với chương trình Kinh tế mới, thứ được những nhà chỉ trích nhiệt thành tin là – theo từ họ thích dùng – đặc trưng chủ nghĩa xã hội. Trong đảng, cánh theo chủ nghĩa biệt lập này có lẽ chiếm đa số hơn so với cánh chủ nghĩa quốc tế, điều này rõ ràng có ảnh hưởng lớn ở tầm mức địa phương, nhưng đã thất bại trước giới thượng lưu miền Đông, trước cánh chủ nghĩa quốc tế trong đại hội 1940, nguyên nhân chính là bởi sự trỗi dậy của Hitler. Wendell Willkie, luật gia chân trần của phố Wall, như ông được gọi, được chính thức đề nghị bổ nhiệm tranh cử, một chiến thắng quan trọng của cánh chủ nghĩa quốc tế. Nhưng cũng chưa hết tệ với cánh thị tứ Trung tây, những người được hiểu là những tay Cộng hòa chân chính và rằng đảng là họ; rằng giá trị của họ là thứ đích thực bởi họ Mỹ hơn, họ đã thất bại lần nữa ở đại hội đảng năm 1944, lần này là bởi Tom Dewey thị trưởng New York, cũng chính Dewey thắng lần nữa ở kỳ 1948. Hạch tâm của lớp lãnh đạo đảng Cộng hòa trong đất nước, tiếng nói của các ứng viên tổng thổng của họ trong các cuộc bầu giờ nghe rất giống với những người khó có khả năng chia cách họ với cánh Dân chủ, một tiếng vọng trước là từ Roosevelt sau là Truman. “Nếu bạn có đọc tờ ChicagoTribune, bạn phải biết tôi là dòng dõi trực hệ của FDR” Dewey đã có lần nói về tờ báo vốn là công cụ truyền thông chính, phát ngôn của cánh biệt lập.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM