HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #60 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:51:44 am » |
|
Về chính trị:
Để có hậu phương vững mạnh về mọi mặt, phải lấy xây dựng chính trị làm nhiệm vụ hàng đầu. Sự vững chắc của hậu phương phụ thuộc trước hết vào sự giác ngộ cách mạng, sự nhất trí về chính trị, tinh thần của nhân dân; ở chế độ ưu việt, uy tín và năng lực hoạt động của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Sự vững mạnh về chính trị vừa là nền tảng, vừa là đòn bẩy để nay dựng hậu phương vững mạnh.
Với quan điểm đó, trong kháng chiến, Đảng và Chính phủ rất coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng giác ngộ về mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng, nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ và quyết tâm kháng chiến.
Chính phủ có nhiều biện pháp để kiện toàn bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân các cấp theo nguyên tắc thực sự dân
161 chủ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiện toàn các cơ quan Nhà nước, trước hết là Hội đồng nhân dân, Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp các cơ quan kinh tế, công an. Các cơ quan chính quyền được tổ chức, sắp xếp lại biên chế cho phù hợp theo phương hướng tinh giản, gọn và có hiệu quả. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp xã được bầu lại. Trong năm 1952, một số nơi đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và xã khoá III, đồng thời kiện toàn Uỷ ban kháng chiến hành chính theo tinh thần các thông tư, sắc lệnh của Chính phủ.
Trên cơ sở kiện toàn Hội đồng nhân dân, Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp được củng cố, đặc biệt là cấp Liên khu. Chính quyền cấp cơ sở cũng được xây dựng gọn nhẹ, thu hút thêm những thành phần cơ bản trong nhân dân lao động tham gia.
Củng cố và tăng cường chính quyền cấp xã là công việc được Chính phủ quan tâm đặc biệt, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong quá trình xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước nói chung. Chính phủ đã có nhiều sắc lệnh, nghị định, thông tư về kiện toàn, củng cố chính quyền cấp xã.
Ngày 23-3-1951, Bộ Nội vụ ra Thông tư số 62 về "Kế hoạch củng cố chính quyền cấp xã", làm cho chính quyền cấp xã thực sự trong sạch và vững mạnh. Thông tư chỉ rõ: Mọi công dân Việt Nam đều có quyền tham dự chính quyền, tham gia ý kiến vào công việc chính quyền, song về thực tế, không thể cùng tham gia trong các cơ quan chính quyền, do đó công dân có quyền bầu một số người thay mặt mình ở những cơ quan ấy. Hội đồng nhân dân xã là cơ quan chính quyền tối cao quyết định mọi công việc của xã. Hội đồng nhân dân tự chọn một số uỷ viên vào Uỷ ban kháng chiến hành chính để thi hành những nghị quyết của mình. Do vậy, Uỷ ban kháng chiến hành chính là ban chấp hành của Hội đồng nhân dân, quyền chấp hành đều tập trung vào Uỷ ban kháng chiến hành chính xã và theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Giúp việc cho Uỷ ban kháng chiến hành
162 chính xã có văn phòng và các bộ phận chuyên môn.
Đầu tháng 11-1951, Bộ Nội vụ tổ chức Hội nghị tổng kết củng cố xã xây dựng Đề án củng cố xã và trình Hội đồng Chính phủ thông qua tháng 12-1951. Từ sau đó, công tác củng cố chính quyền cấp xã tiếp tục được đẩy mạnh. Ngày 14-6-1952, Chính phủ ra Sắc lệnh số 95/SL quy định số lượng, thể lệ bầu cử và chỉ định Uỷ ban kháng chiến hành chính xã.
Nhờ tập trung củng cố cấp xã, nhiều nơi đã có thể bỏ được cấp thôn, tạo điều kiện củng cố các đoàn thể quần chúng, cải tiến lề lối làm việc, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo điều hành mọi mặt công tác kháng chiến, kiến quốc ở cơ sở.
Việc chấn chỉnh tổ chức chính quyền các cấp đã tạo nên những chuyển biến mới cả về tổ chức và lề lối làm việc, phát huy được tinh thần làm chủ và khí thế hăng hái tham gia kháng chiến của mọi tầng lớp nhân dân.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #61 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:52:07 am » |
|
Các cơ quan chuyên môn cũng được củng cố. Ngày 10-10- 1950, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 438 về việc tổ chức trong phạm vi cả nước Ban công an xã. Ban công an xã trực thuộc hệ thống Việt Nam công an vụ dưới quyền điều khiển của Uỷ ban kháng chiến hành chính xã và chấp hành mệnh lệnh của cấp trên theo ngành dọc, có nhiệm vụ bảo vệ tài sản của nhân dân, giữ gìn an ninh và vệ sinh công cộng trong xã, ngăn ngừa và bài trừ các tệ nạn xã hội.
Ngày 3-1-1952, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 9 về việc thành lập Công an huyện trên phạm vi cả nước. Công an huyện có nhiệm vụ bảo vệ trị an, đề phòng phản gián, bảo vệ các cơ quan ở huyện, điều tra tội phạm theo yêu cầu của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh, huyện và toà án nhân dân; tổ chức và hướng dẫn công an xã phát triển công an nhân dân. Ngày 15-10-1952, Hội đồng Chính phủ đã họp bàn về việc thành lập Bộ Công an. Ngày 16-2-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 141/SL về việc đổi Nha Công an thuộc Bộ Nội vụ
163 thành Thứ Bộ Công an, đặt dưới quyền lãnh đạo của một Thứ trưởng. Thứ Bộ Công an có nhiệm vụ chống gián điệp, phản động ở trong nước để bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ quân đội nhân dân và các đoàn thể nhân dân, bảo vệ nền kinh tế, biên giới, chống đặc vụ và gián điệp... Đến tháng 8-1953, Hội đồng Chính phủ quyết định đổi Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an. Từ đây, Bộ Công an tách khỏi Bộ Nội vụ, trở thành một Bộ của Chính phủ.
Trên lĩnh vực tư pháp, chúng ta đấu tranh chống những khuynh hướng sai lầm; sửa đổi lại thành phần các cấp toà án. Do vậy, ngành Tư pháp được chấn chỉnh và củng cố, trở thành một công cụ chuyên chính sắc bén của chính quyền dân chủ nhân dân.
Khối đoàn kết toàn dân được củng cố và mở rộng. Từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951, Đại hội thống nhất hai Mặt trận Việt Minh và Liên Việt được triệu tập.
Thành công của Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt là một sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của khối đoàn kết toàn dân: "... rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân và nó có một cái tương lai "Trường xuân bất lão " 1 .
Tiếp theo Đại hội Đảng và Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt theo sáng kiến của Đảng ta, Hội nghị đoàn kết nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia được tổ chức vào ngày 11-3-1951, gồm đại biểu Mặt trận Liên - Việt, Mặt trận Khơ me Itxarắc, Mặt trận Lào Itxala. Hội nghị nhất trí khẳng định: Ba dân tộc có chung một kẻ thù là thực dân Pháp và can thiệp Mĩ. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định thành lập khối Liên minh Việt - Miền - Lào dựa trên nguyên tắc tự nguyện,
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập VI. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội 1995. tr.181. 164 bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau. Sự ra đời Liên minh Việt - Miền - Lào là một thắng lợi mới của chiến lược đại đoàn kết ba dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương, đoàn kết các lực lượng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ thế giới của Đảng và Chính phủ ta, tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết quốc tế nhằm đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #62 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:52:32 am » |
|
Về văn hoá - giáo dục - y tế.
Đảng và Chính phủ rất chú trọng xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng, khai thác vốn văn hoá, văn nghệ dân tộc; tổ chức và hướng dẫn văn nghệ sĩ đi vào thực tế sản xuất và chiến đấu, phục vụ kháng chiến. Ngày 6-6-1951, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Nha Thông tin trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Cuối năm này, Hội đồng Chính phủ chủ trương kiện toàn Ban Văn hoá xã hội, thành lập Nha Văn nghệ, đặt Quốc gia ấn Cục vào Ban Văn xã.
Ngày 24-2-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 83/SL hợp nhất Nha Thông tin và Vụ Văn học nghệ thuật thành Nha Tuyên truyền và Văn nghệ trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Ngày 15-3-1953, Chính phủ ra Sắc lệnh số 14/SL thành lập Quốc doanh Điện ảnh và Chiếu bóng Việt Nam. Cùng với sự ra đời của ngành Điện ảnh, các đội chiếu bóng được thành lập. Các bộ phim Việt Nam kháng chiến, Việt Nam trên đường thắng lợi . . . được xây dựng.
Phong trào bình dân học vụ tiếp tục được Chính phủ quan tâm chỉ đạo. Ngày 24-2-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư nhắc nhở Nha Bình dân học vụ phải làm cho tất cả đồng bào Việt Nam từ 8 tuổi trở lên đều biết đọc, biết viết và lúc đó mới là thắng lợi hoàn toàn trên mặt trận diệt dốt. Đến năm 1952, khoảng 14 triệu người đã thoát nạn mù chữ. Phong trào bổ túc văn hoá được đẩy mạnh. Khắp các cơ quan, các khu vực dân cư, các đơn vị bộ đội và dân công đều tổ chức các lớp học bổ túc văn hoá. Đến tháng 9-1953, trong các 165 vùng tự do đã có 10450 lớp bổ túc văn hoá, với 335.946 học viên. Một số trường phổ thông lao động ở Trung ương và địa phương được thành lập.
Giáo dục phổ thông phát triển mạnh theo hướng cải cách giáo dục năm 1950. Tháng 7-1951, Đại hội Giáo dục toàn quốc được tổ chức. Đại hội xác định phương châm giáo dục là phục vụ kháng chiến, chủ yếu là tiền tuyến; phục vụ nhân dân, chủ yếu là công - nông - binh.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, ngày 30-10-1951, Bộ Quốc gia Giáo dục ra Thông tư số 49/TT-TKV quy định tổ chức trường phổ thông 9 năm. Các cấp quản lí giáo dục phổ thông trung học được quy định rõ: ở Trung ương có Nha Giáo dục phổ thông (được thành lập trên cơ sở hợp nhất Nha Tiểu học và Nha Trung học); ở Liên khu là Khu Giáo dục phổ thông; ở tỉnh là Ty Giáo dục phổ thông.
Ngày 3-11-1951, Bộ Quốc gia Giáo dục ra nghị định bãi bỏ các Hội giúp việc giáo dục tỉnh và xã; tổ chức tại mỗi tỉnh một Tiểu ban giáo dục có nhiệm vụ nghiên cứu chủ trương, chính sách giáo dục của Chính phủ và tình hình giáo dục địa phương để định ra chương trình, kế hoạch giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương. Thành phần Tiểu ban giáo dục gồm đại biểu Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh, Trưởng ty giáo dục phổ thông, Trưởng ty bổ túc văn hoá.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục, Nhà nước coi trọng việc chấn chỉnh hệ thống các trường sư phạm. Theo hướng ấy, Bộ Quốc gia Giáo dục ra một loạt nghị định về củng cố, sắp xếp lại hệ thống các trường chuyên nghiệp nói chung và trường sư phạm nói riêng. Nghị định số 233/NĐ (1-10-1951) sáp nhập Trường Sư phạm sơ cấp Việt Bắc vào Trường Sư phạm trung cấp Trung ương; Nghị định số 234/NĐ (1- 10-1951) thành lập Khu học xá trung ương gồm 3 trường: Trường Khoa học cơ bản, Trường Sư phạm cao cấp, Trường Sư phạm trung cấp Trung ương; Nghị định số 166 276/NĐ (11-10-1951) bãi bỏ Ban Sư phạm Đại học Khoa học và thành lập Trường Sư phạm cao cấp để đào tạo giáo viên cấp III Cho Các trường phổ thông; Nghị định số 277/NĐ (11-10-1951) mở lớp Dự bị đại học một năm vào đầu năm học 1952 tại Liên khu IV, gồm hai ban: Ban Khoa học xã hội (các môn học: Triết học và chính trị, Văn chương Việt Nam, Sinh ngữ, Lịch sử văn học thế giới, Sử, Địa, Kinh tế) và Ban Khoa học tự nhiên (các môn học: Toán, Lí, Hoá, Vạn vật).
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #63 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:53:09 am » |
|
Tính đến năm 1953, trong các vùng tự do có 769.640 học sinh phổ thông từ cấp I đến cấp III. Năm 1954, số học sinh tăng lên 1132.196 người. Trong khoảng ba năm (1951 - 1953), Nhà nước đã đào tạo được 7.000 cán bộ kĩ thuật. Đó là không kể hàng ngàn cán bộ, sinh viên tốt nghiệp đại học và học sinh tốt nghiệp phổ thông được đưa đi đào tạo dài hạn ở nước ngoài, nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc. Trong cả nước đã hình thành 3 trung tâm đại học và cao đẳng: Việt Bắc, Khu IV và Khu học xá Trung ương (l) . Công tác chăm lo, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý. Hệ thống bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng rộng khắp. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được phát động rộng rãi trong toàn dân. Nạn đói và bệnh dịch được đẩy lùi về cơ bản. Nếp sống mới nảy nở, ngày càng lan rộng khắp các vùng tự do.
Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục đã làm tăng thêm sức mạnh của hậu phương kháng chiến. Đây chính là một nhân tố rất căn bản, có tính quyết định hắng lợi của quân đội ta trên mặt trận quân sự.
Lịch sử Chính phủ Việt Nam... Sđd, tr. 223.
V- Những Chiến dịch giữ vững và phát triển quyền chủ động đánh địch trên chiến trường
Sau chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, quân ta tiếp tục giữ
167 vững quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính, liên tục mở các chiến dịch tiến công và phản công lớn. Phưng hướng của ta mở chiến dịch là nhằm vào trung du và đồng bằng, trước mắt là đánh trung du.
Trung du và đồng bằng lúc này bao gồm 15 tỉnh, thành, rộng khoảng 21.000 km2 và 8.000.000 dân (không kể Hoà Bình, Phú Thọ), hình thành một khu tam giác với nhiều điểm tập trung đông dân cư.
Trung du là tuyến chính diện của địch đối mặt với căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc; là dải đất tiếp giáp giữa vùng tạm bị địch chiếm với vùng tự do Việt Bắc. Miền này bao gồm phần đất của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Nam Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Yên, Hòn Gai, kéo dài từ tây sang đông khoảng gần 300 km.
Sau khi ta giải phóng biên giới, mở rộng vùng tự do ở phía bắc Bắc Bộ, vùng trung du trở thành tuyến phòng thủ chủ yếu của địch, cùng với tuyến sông Đáy ở phía tây - nam tạo thành một vành đai bao quanh đồng bằng, ngăn chặn mọi sự xâm nhập của ta vào đồng bằng Bắc Bộ.
Đối với địch, trung du là bàn đạp thuận tiện để chúng tập trung lực lượng, tổ chức tiến công, uy hiếp Việt Bắc. Sau đồng bằng, trung du cũng là nơi đông dân nhiều của, có khả năng cung cấp cho nhu cầu chiến tranh. Mặt khác, trung du là nơi có phong trào kháng chiến mạnh, lực lượng vũ trang địa phương phát triển và đã từng lập nhiều thành tích trong chiến đấu. Nếu đánh vào trung du, ta sẽ thu hẹp được phạm vi chiếm đóng của địch, phá kế hoạch củng cố và bình định đồng bằng của chúng, làm thất bại âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt".
Xuất phát từ tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược về nhiều mặt trên đây, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Trung du (mang mật danh là chiến dịch Trần Hưng
168 Đạo), nhằm mục đích: Tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng khu lương thực, phát triển chiến tranh du kích, tranh thủ thời gian phá kế hoạch củng cố của địch, tạo điều kiện mới để tiêu diệt địch nhiều hơn nữa. Hướng chính của chiến dịch là vùng trung du, từ Việt Trì đến Bắc Giang, trong đó hướng tiến công chủ yếu nhằm vào khu vực Vĩnh Yên, Phúc Yên. Vùng duyên hải Đông Bắc và Liên khu III là những hướng phụ có nhiệm vụ phối hợp trực tiếp trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 2 đại đoàn (Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312), 5 trung đoàn bộ đội chủ lực, 4 đại đội pháo binh, 2 đại đội công binh, 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương. Cùng với đồng bào một số tỉnh Việt Bắc, hàng vạn dân công chuyên chở hàng trăm tấn gạo ở vùng địch hậu trung du vượt qua mạng lưới đồn bốt địch đày đặc ra phục vụ tiền tuyến. Tổng cộng toàn chiến dịch, ta đã huy động 27.658 dân công thường trực, 272.259 dân công từng đợt và chuẩn bị được 4.960 tấn lương thực, 416 tấn đạn dược, vũ khí. Trải qua 23 ngày đêm chiến đấu (từ 25-12-1950 đến 17-1-1951), quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 5.000 địch, diệt 30 vị trí và 40 tháp canh, thu nhiều vũ khí các loại.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #64 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:53:35 am » |
|
Qua chiến đấu ở trung du, bộ đội ta có bước trưởng thành mới.
Lần đầu tiên tác chiến ở một vùng đồi núi thấp nơi địch có điều kiện phát huy thế mạnh, chiến dịch Trung du là một mốc quan trọng, đánh dấu một bước tiến vững chắc của bộ đội ta về kĩ thuật. Bên cạnh những thắng lợi và ưu điểm, ta cũng có một số khuyết điểm và hạn chế. Nhiệm vụ mở rộng khu lương thực mới đạt được ở mức thấp. Việc phát động chiến tranh du kích làm chậm, chưa tận dụng được tất cả khả năng mới do thắng lợi của chủ lực tạo nên. Địch bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng, nhưng ta cũng có nhiều thương vong sau chiến dịch Trung du, thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng (26-2- 1951), Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh mở chiến dịch Đường 18
169 (mang mật danh là chiến dịch Hoàng Hoa Thám), nhằm mục đích: Tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích. Hướng chính của chiến dịch là Đường 18, hai hướng phụ là Vĩnh Yên và Liên khu III.
Trên hướng Đường 18, chúng ta sử dụng 2 đại đoàn (Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312), 2 trung đoàn bộ đội chủ lực, 4 đại đội pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công địch. Phục vụ chiến dịch có hơn 57.000 dân công, 2.280 tấn lương thực, thực phẩm; 226 tấn đạn dược. Phương châm lác chiến là đánh điểm diệt viện.
Trải qua 14 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 23-3 đến 7-4- 1951), tính chung cả mặt trận chính và mặt trận phối hợp, quân và dân ta đã tiêu diệt, làm bị thương và bắt trên 3.900 địch; diệt và bức địch rút 133 vị trí, tháp canh; bắn rơi 1 máy bay; phá huỷ 1 xe tăng, 45 xe cơ giới 1. Bộ đội ta hi sinh 600 người, bị thương trên 1700 người .
Đánh giá kết quả chiến dịch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: Trong chiến dịch này, ta đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, gây được ảnh hưởng chính trị và học tập được nhiều kinh nghiệm quý báu về tác chiến với binh lực lớn ở một chiến trường xa và đánh vào một trung tâm của địch. Tuy nhiên, ta đã không hoàn thành nhiệm vụ thật đầy đủ, địch thiệt hại nhưng ta cũng bị tiêu hao.
Sau chiến dịch Đường 18, tiếp tục kế hoạch tiến công địch ở Trung du và đồng bằng, ngày 20-4-1951, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công ở khu vực Hà - Nam - Ninh, lấy tên là chiến dịch Quang Trung, nhằm tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực địch, phá tan khối ngụy quân, thúc đẩy chiến tranh du kích phát triển, giành lại kho người, kho của ở
1. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Tập 2. Sách đã dẫn, tr. 62. 170 đồng bằng. Trung ương Đảng nhấn mạnh: Chiến dịch Quang Trung là một chiến dịch đầu tiên được mở ở đồng bằng, cách xa căn cứ địa chính; địa thế có nhiều khó khăn cho ta, thuận lợi cho địch. Trong chiến dịch này, ta không những phải thắng về quân sự, mà còn phải thắng cả về chính trị; cần phải hết sức tranh thủ dân; chú trọng việc vận động ngụy binh, vận động đồng bào công giáo, thi hành chính sách của Đảng trong các vùng có thể giải phóng.
Lực lượng sử dụng trong chiến dịch gồm 3 đại đoàn bộ binh (Đại đoàn 308, Đại đoàn 304 và Đại đoàn 320), 5 đại đội pháo binh, một số đơn vị công binh, trinh sát và lực lượng vũ trang địa phương. Nếu so với địch, về lực lượng bộ binh, ta nhiều hơn hai lần, nhưng địch có ưu thế tuyệt đối về cơ giới, máy bay, tàu chiến và do điều kiện cơ động thuận lợi, chỉ trong thời gian ngắn, chúng có thể điều thêm một số binh đoàn cơ động đến, nhanh chóng làm thay đổi lực lượng.
Với tinh thần Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, nhân dân các địa phương, từ Việt Bắc đến Liên khu III, Liên khu IV, đều hăng hái đóng góp sức người, sức của cho chiến dịch. Chỉ trong thời gian ngắn, riêng tỉnh Hà Nam đã huy động được 160 tấn gạo và 130 con trâu, bò, lợn. Nhân dân ba tỉnh huy động trên 100.000 dân công làm nhiệm vụ vận tải, dẫn đường, chuyển thương, phục vụ thương binh, bắc cầu, đào đắp công sự; huy động 4.400 thuyền, mảng chở bộ đội qua sông trong suốt chiến dịch 1.
Sau 24 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 28-5 đến 20-6-1951), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 4.000 địch, diệt và bức địch rút hơn 30 vị trí, phá huỷ hơn 30 xe lội nước, thu hơn 1.000 vũ khí và phương tiện chiến tranh. Tuy nhiên, lực lượng của ta cũng bị tổn thất nặng.
1. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Tập 2. Sđd, tr. 71. 171 Tính chung trên các chiến trường toàn quốc trong 6 tháng đầu năm 1951, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm bị thương gần 40.000 địch. Riêng ở Bắc Bộ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 32.000 tên địch (trong ba Chiến dịch Trung du, Đường 18 và Hà - Nam - Ninh, số địch bị diệt là 17.000 tên). Ta thu gần 10.000 súng các loại.
Tuy nhiên, vì địa bàn ba chiến dịch trên không lợi cho ta, mà có lợi cho địch trong việc phát huy ưu thế về binh khí kĩ thuật và cơ động, nên kết quả chiến đấu bị hạn chế. Địch bị thiệt hại nặng, nhưng ta cũng bị tiêu hao lớn; có chiến dịch không đạt được mục tiêu đề ra. Cả ba chiến dịch đã gây trở ngại cho địch trong việc thực hiện kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi, nhưng sức chiến đấu của bộ đội ta cũng bị giảm sút. Ta không phát huy được thế chủ động chiến lược giành được từ chiến dịch Biên giới; chưa phá được phòng tuyến của địch, chưa làm thay đổi được cục diện chiến trường đồng bằng Bắc Bộ.
Về phía thực dân Pháp, sau một thời gian đối phó với các cuộc tiến công của ta ở Trung du, Đường số 18 và Hà - Nam - Ninh, chúng tăng cường chiến tranh tổng lực, đánh phá dữ dội cơ sở kháng chiến trong vùng tạm chiếm, cướp đoạt tài sản, giành giật nhân lực, vật lực, chống lại chiến tranh du kích, gây cho ta nhiều khó khăn mới. Các căn cứ du kích và khu du kích của ta ở đồng bằng bị đánh phá nặng nề; nhiều vùng bị chúng chiếm đóng trở lại. Hàng ngàn vị trí, tháp canh của địch được dựng khắp nơi. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong vùng tạm bị địch chiếm gặp rất nhiều khó khăn.
Trước tình hình trên, nhằm phá tan âm mưu thâm độc của địch, đưa những hoạt động kháng chiến ở vùng sau lưng địch, nhất là chiến tranh du kích vượt qua khó khăn để phát triển đi lên, Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (từ ngày 27-9 đến 5-10-1951) tập trung bàn về "nhiệm vụ và phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích". Hội nghị nêu rõ: Công tác vùng tạm bị chiếm và vùng du
172 kích là một công tác rất quan trọng; đề ra mục đích, phương châm và nhiệm vụ của toàn bộ công tác ở vùng sau lưng địch là nhằm vào vận động quần chúng đấu tranh, vận động binh lính địch, thực hành chiến tranh du kích, phá chính sách bình định của Pháp và chính quyền tay sai.
Hội nghị chia vùng sau lưng địch thành vùng tạm chiếm và vùng du kích, hoạt động theo hai phương châm khác nhau: Vùng tạm bị địch chiếm lấy xây dựng cơ sở, đấu tranh chính trị và kinh tế làm chính; vùng du kích lấy đấu tranh vũ trang làm chính, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và kinh tế.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #65 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:54:10 am » |
|
Vùng sau lưng địch lúc này có ba công tác chính: Dân vận, vận động ngụy binh và đẩy mạnh chiến tranh du kích, trong đó dân vận là gốc của mọi công tác.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai đánh dấu bước phát triển của Đảng về công tác chỉ đạo mặt trận vùng sau lưng địch. Nghị quyết Hội nghị có tác dụng hướng dẫn kịp thời cuộc đấu tranh gay go, ác liệt của nhân dân vùng sau lưng địch chống lại chính sách "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của kẻ thù.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ hai, quân và dân trong cả nước đẩy mạnh mọi mặt hoạt động, chuyển hướng mạnh mẽ công tác trong vùng sau lưng địch, phối hợp chặt chẽ chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, giành thắng lợi mới.
Trong khi đó, từ cuối năm 1951, sức ép từ nhau phía một lần nữa lại đè nặng lên Chính phủ Pháp. Cùng với gánh nặng chiến tranh ở thuộc địa, Chính phủ Pháp phải góp 10 sư đoàn cho khối Bắc Đại Tây Dương (NATO). Điều này càng làm cho tình hình kinh tế - xã hội của nước Pháp trở nên căng thẳng. Sức ép về chính trị của nhân dân Pháp cũng như của các phe phái trong Quốc hội đã lên đến tột đỉnh.
173 Trong hoàn cảnh ấy, những người cầm đầu Chính phủ Pháp muốn có một thắng lợi quân sự vang dội để vừa xoa dịu dư luận, trấn an tinh thần binh sĩ, vừa để tranh thủ viện trợ của Mĩ. Việc vạch ra kế hoạch đánh chiếm Hoà Bình của Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương chính là nhằm mục đích ấy.
Tỉnh Hoà Bình có 15 vạn dân, nằm ở phía tây nam đồng bằng Bắc Bộ. Thị xã Hoà Bình là trung tâm chính trị của đồng bào dân tộc Mường, cách Hà Nội 75 km. Sau thất bại trên mặt trận Biên giới thu - đông 1950, quân Pháp đã phải rút khỏi Hoà Bình. Một vùng tự do rộng lớn ở phía tây, cửa ngõ nối liền vùng tự do với đồng bằng Bắc Bộ qua Chợ Bến, qua sông Đà, đã được giải phóng. Trong gần một năm sau đó, nhân lực, vật lực từ các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh vượt qua Đường 6 được chuyển ra phía bắc chi viện cho các chiến dịch lớn.
Đánh chiếm Hoà Bình, Đờ Lát hi vọng lập lại hành lang đông - tây ngăn chặn con đường giao thông của kháng chiến từ Bắc vào Nam, buộc chủ lực của đối phương phải tham chiến; qua đó giành thắng lợi quân sự để ổn định quân ngụy và dựng lại Xứ Mường tự trị.
Sau khi củng cố thế phòng ngự, tăng cường lực lượng và đẩy mạnh bình định, ngày 9-11-1951, Đờ Lát sử dụng một lực lượng cơ động chiến lược mạnh (gồm 20 tiểu đoàn bộ binh, 7 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp, 2 đại đội xe tăng và nhiều tàu thuyền) mở cuộc hành quân Tuylíp (Tulipe), tiến công Chợ Bến, cắt đường di chuyển của bộ đội ta từ Việt Bắc xuống đồng bằng. Ngày 14-11, chúng mở cuộc hành quân Lôtuýt (Lotus) đánh chiếm Hoà Bình. Trong ngày 15-11, chúng đã hoàn thành việc chiếm đóng các vị trí then chốt trong khu vực Hoà Bình - Đường 6 - Sông Đà - Ba Vì. Ngay sau khi đặt chân lên Hoà Bình, địch đã xây dựng hệ thống phòng ngự dã chiến với 28 cứ điểm lớn nhỏ bằng đất, gỗ, có hàng rào dây thép gai bao bọc. Mỗi cứ điểm có từ 1 - 2 đại đội bộ binh chốt giữ. Lần đầu tiên trên chiến trường Đông Dương, một hình thức tổ chức chiếm
174 đóng quy mô tương đối lớn xuất hiện ở khu vực Hoà Bình - Sông Đà - Đường 6.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #66 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2011, 11:01:04 pm » |
|
Ngày 24-11-1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 22 về "Nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hoà Bình của địch". Sau khi vạch rõ âm mưu của địch, Chỉ thị khẳng định: Địch đánh ra Hoà Bình là một cơ hội tốt để ta diệt địch, bởi vì lực lượng chúng bị phân tán trên một tuyến dài đi sâu vào vùng tự do của ta, vốn không lợi cho chúng về địa hình. Hơn nữa, đây cũng là một dịp rất thuận lợi cho ta đẩy mạnh chiến tranh nhân dân ở vùng sau lưng địch, khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán lực lượng của địch.
Trên cơ sở đó, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch đánh địch trên cả hai mặt trận: chính diện (Hoà Bình) và sau lưng địch (trung du và đồng bằng Bắc Bộ).
Lực lượng tham gia đánh địch ở mặt trận Hoà Bình có 3 đại đoàn (308, 312 và 304); ở mặt trận sau lưng địch có 2 đại đoàn (316 và 320). Ngoài ra, lực lượng bộ đội địa phương và dân quân, du kích cũng được điều động phối hợp.
Chỉ sau mấy ngày địch chiếm đóng, thị xã Hoà Bình bị vây chặt trong một vòng đai lửa của quân ta, khiến địch phải núp kín dưới hầm. Trên phòng tuyến sông Đà, nhiều đoàn tàu chiến của địch bị đánh đắm. Các vị trí kiên cố nhất, như Ba Vì, Đá Chông, Tu Vũ lần lượt bị quân ta tiêu diệt.
Trải qua hơn hai tháng chiến đấu (từ ngày 10-12-1951 đến 25-2-1952), trên cả hai mặt trận, quân và dân ta đã tiêu diệt và bắt khoảng 22.000 địch. Riêng mặt trận vùng sau lưng địch, tá đã tiêu diệt 15.000 tên; san phẳng, bức hàng và bức rút hơn 1.000 đồn bốt, tháp canh của địch (chiếm 2/3 tổng số đồn bốt, tháp canh). Ta đã giải phóng hoàn toàn khu vực Hoà Bình - Sông Đà rộng 2.000 km2, với 15 vạn dân; làm chủ hoàn toàn phía tây đồng bằng Bắc Bộ; bảo vệ toàn vẹn con đường giao thông chiến lược của kháng chiến từ Việt Bắc đến Nam Bộ; phá tan âm mưu thâm độc chia rẽ đồng bào các dân tộc và chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch ở Hoà Bình. Các căn cứ du kích được mở rộng và nối liền thành một thế liên hoàn từ Bắc Giang xuống Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hàm Đông. Phần lớn kết quả bình định đồng bằng Bắc Bộ trong cả năm 1951 của địch bị phá vỡ. Âm mưu phản công tiêu diệt bộ đội chủ lực ta, giành lại quyền chủ động chiến lược của địch bị đập tan.
|
|
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Mười Một, 2011, 07:01:31 am gửi bởi macbupda »
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #67 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2011, 11:04:34 pm » |
|
Chiến thắng Hoà Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường Bình - Trị - Thiên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, liên tục tiến công, phát triển lực lượng kháng chiến, mở rộng thêm nhiều vùng căn cứ, làm thay đổ cục diện chiến trường theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta. Sau khi thất bại trong chiến dịch Hoà Bình, thực dân Pháp huy động lực lượng chủ lực mở các cuộc càn quét ở vùng chúng tạm chiếm trong suốt 5 tháng liền, với hi vọng cứu vãn nguy cơ ở đồng bằng.Quy mô các cuộc càn quét lần này rất lớn. Riêng trong chiến dịch Mécquya (Mercure - Thuỷ ngân) (từ 25-3 đến 26-4-1952) đánh vào vùng tây nam Thái Bình, thực dân Pháp sử dụng tới 5 binh đoàn (tương đương 20 tiểu đoàn bộ binh), 2 tiểu đoàn cơ giới, 40 khẩu pháo, 6 tàu chiến, 40 ca nô và một số quân dù bao vây càn quét khu vực bốn huyện: Thái Ninh, Kiến Xương, Tiền Hải và một phần huyện Vũ Tiên, rộng khoảng 700 km 2, nơi đặt cơ quan của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 và Tỉnh uỷ Thái Bình. Trước âm mưu và hành động của địch, chúng ta tổ chức lực lượng chiến đấu, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống bắt thanh niên vào lính, mở rộng cơ sở kháng chiến. Tính chung, trên chiến trường cả nước, từ sau chiến dịch Hoà Bình đến hết mùa hè năm 1952, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 20.000 tên địch; san bằng, bức rút, bức hàng trên 900 vị trí; thu nhiều vũ khí, quân trang (1). Cùng với việc tổ chức chống địch càn quét, bảo vệ vùng tự do, chúng ta tiến hành chỉnh Đảng, chỉnh quân, tăng cường lực lượng kháng chiến về mọi mặt. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3, ngày 11-5-1952, Trung ương mở lớp chỉnh Đảng đầu tiên. Khai mạc lớp học, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Trung ương rất mong rằng, trong cuộc chỉnh huấn này, các đồng chí cố gắng thi đua học tập rèn, luyện để trở thành những cán bộ gương mẫu, xứng đáng với lòng trông mong tin cậy của Đảng, của Chính phủ, của quân đội và của nhân dân, trở nên những chiến sĩ đắc lực nhất trong sự nghiệp xây dựng Đảng và giúp Đảng đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công" (2). (1) Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Tập 2...Sđd, tr. 197. (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 5. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 480. sau chỉnh huấn chính trị mùa hè năm 1952, quân đội ta tiến hành chấn chỉnh tổ chức, biên chế và trang bị. Đến đây, đội quân chủ lực trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh đã có 6 đại đoàn bộ binh (308, 304, 312, 316, 320 và 325), 2 trung đoàn bộ binh (148 và 246), 1 đại đoàn công binh, pháo binh (351). Liên khu III có Trung đoàn 46. Việt Bắc có Trung đoàn 238. Liên khu V có trung đoàn 803. Nam Bộ có Tiểu đoàn 302, Tiểu đoàn 307.
|
|
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Mười Một, 2011, 07:03:09 am gửi bởi macbupda »
|
Logged
|
|
|
|
|