HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #50 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2011, 11:36:06 am » |
|
Cùng với việc củng cố bộ máy ngụy quyền, thực dân Pháp và tay sai còn tập hợp và tranh thủ các đảng phái phản động; đồng thời tổ chức thêm nhiều đoàn thể tổ chức chính trị lừa bịp như "Thanh niên kháng chiến hải ngoại", "Thanh niên lao động", "Thanh niên diệt cộng", "Đoàn thanh niên kiến quốc"... để lôi kéo quần chúng, phá hoại kháng chiến. Chúng dùng bọn cha cố phản động nắm giáo dân, bắt phu, bắt lính, phá hoại việc thực hiện các chính sách của ta, nhất là ở những vùng tập trung đồng bào công giáo.
Ở vùng Tây Nguyên, thực dân Pháp nham hiểm và xảo quyệt đẩy mạnh việc thực hiện "ba chính sách lớn" (chính sách có mặt; chính sách muối, kí ninh, dụng cụ và chính sách không can thiệp) để khống chế nhân dân các dân tộc vùng Tây Nguyên. Thông qua bộ máy cai trị từ tỉnh xuống buôn làng, qua các cuộc hành quân và nhất là bằng chính sách độc quyền nắm và phân phát muối, thuốc chữa bệnh, công cụ sản xuất, thực dân Pháp ra sức kìm kẹp nhân dân, buộc họ phải theo chúng chống lại kháng chiến. Trong các vùng tạm chiếm, với việc đẩy mạnh thực hiện chính sách "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp, nhân dân ta phải đóng góp rất nặng nề. Ở Bắc Bộ, ngoài việc tăng các loại thuế, thực dân Pháp đặt ra nhiều thứ thuế mới: thuế đò, thuế bến, thuế nhà ngói dọc đường, thuế binh bị quốc phòng... Chúng còn triệt để thi hành chính sách "tam quang" (cướp sạch, đất sạch, phá sạch), hòng triệt phá nguồn cung cấp cho kháng chiến. Tháng 3-1951, ở Bắc Bộ, thực dân Pháp mở chiến dịch cướp phá thóc lúa. Chúng ra lệnh binh lính phải theo dõi từng bước việc gặt hái của nông dân, kiểm soát chặt chẽ các chợ và đường giao thông, bắt nông dân phải tập trung thóc gạo bán cho nhà chức trách. Mỗi khi càn quét, chúng ra sức cướp phá; không lấy được hết, chúng đổ thóc gạo xuống sông, ao, hồ. Ở một số nơi, chúng bắt dân tập trung thóc gạo lên đồn rồi phát ăn từng ngày, cho quân "gặt cướp" ở các vùng giáp ranh.
141 Ở vùng Bình - Trị - Thiên, thực dân Pháp liên tiếp tiến hành các "trận phá lúa", các "chiến dịch vét thóc gạo". Tại Liên khu V, địch tiến hành cuộc "chiến tranh gạo" rất gay gắt hòng bao vây lương thực vùng tự do. Tại Nam Trung Bộ, địch càn quét dữ dội vùng đồng bằng tạm chiếm ven biển, nhất là ở Ninh Thuận, Khánh Hoà để vơ vét thóc gạo. Hàng ngàn dân bị dồn vào các "khu chiêu an", "khu tập trung". Nhiều cơ sở kháng chiến bị vỡ. Hệ thống đồn lốt tháp canh của địch trước đây bố trí theo tuyến, nay chuyển sang bố từ theo diện. Phong trào kháng chiến ở Liên khu V, nhất là ở vùng tạm chiếm đứng trước nhiều khó khăn gay gắt. Lúc này ta chỉ nắm được 9.000 trên tổng số 180.000 dân ở Khánh Hoà, 10.000 trên 12.000 dân ở Ninh Thuận và 40.000 trên 950.000 dân ở Bình Thuận 1. Hầu hết thóc gạo, lương thực trong vùng tạm chiếm đều bị giặc Pháp chiếm đoạt, làm cho nạn đói trở nên trầm trọng. Ở Nam Bộ, thực dân Pháp kiểm soát được phần lớn mạng lưới giao thông, nên càng đẩy mạnh “chiến tranh kinh tế”. Chúng thường xuyên cho tàu chiến tiến sâu vào các sông và kênh rạch, bắn phá bừa bãi các làng xóm ven sông, gây cho nhân dân ta nhiều tổn thất về người và cửa.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #51 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2011, 11:36:30 am » |
|
Dựa vào viện trợ của Mĩ, thực dân Pháp đẩy nhanh việc xây dựng quân đội ngụy, hoàn chỉnh hệ thống vành đai phòng thủ bao quanh đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
Tháng 5-1951, Bộ Quốc phòng ngụy được tổ chức lại, đặt bên cạnh cơ quan cố vấn Pháp do tướng Đờ Latua (De Latour) phụ trách. Từ sau khi Bảo Đại kí đạo dụ "tổng động viên" (15-7- 1951), giặc Pháp và ngụy quyền tay sai ráo riết thực hiện dồn dân, bắt lính. Kết hợp với biện pháp vây bắt, cưỡng bức, chúng dùng nhiều thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo thanh niên vào lính. Bằng những thủ đoạn này, trong đợt tổng động viên, địch đã bắt được 6 vạn người vào lính và tốp sĩ quan người Việt đầu
1. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp…Tập 2, Sđd, tr.112 142 tiên được tập trung huấn luyện, làm nòng cốt xây dựng "quân đội quốc gia". Sau sáu tháng kể từ khi ban hành lệnh "tổng động viên", "quân dội quốc gia" đã có 45 tiểu đoàn, tăng 24 tiểu đoàn so với đầu năm 1951, trong đó có 28 tiểu đoàn được tổ chức thành 4 sư đoàn bộ binh. Các sư đoàn này đều do sĩ quan Pháp chỉ huy và chịu sự chỉ huy hành quân của các bộ chỉ huy quân sự các miền của Pháp.
Một số cơ quan và đơn vị binh chủng được tổ chức, như công binh, pháo binh, nha quân cụ, toà án quân sự, hiến binh quốc gia... Các trường huấn luyện sĩ quan cũng được chấn chỉnh lại. Trường võ bị liên quân ở Huế chuyển vào Đà Lạt. Một trường võ bị đào tạo sĩ quan trù bị được mở tại Nam Định. Các sĩ quan trù bị sau khi huấn luyện được đưa về các đơn vị tiểu đoàn Việt Nam (BVN), thay thế các sĩ quan người Pháp. Một số trường đào tạo hạ sĩ quan và chỉ huy chuyên môn cũng được mở.
Song song với việc xây dựng và phát triển lực lượng chính quy, Pháp và tay sai cũng chú ý chấn chỉnh và tăng cường tổ chức quân sự. Ở các địa phương. Ở tỉnh, thường có một đại đội bảo chính đoàn, đặt bên cạnh tiểu đội quân Liên hiệp Pháp. Ở quận, có từ một đến hai trung đội do quận trưởng chỉ huy. Ở tổng, tổng dũng nắm các đội hương dũng, các đội vũ trang ở thôn ấp. Tất cả các lực lượng này vẫn phải đặt dưới sự điều khiển của cơ quan chỉ huy quân sự của Pháp ở địa phương.
Lực lượng ngụy quân mới xây dựng chủ yếu làm nhiệm vụ chiếm đóng, thay thế cho lực lượng quân viễn chinh rút ra làm nhiệm vụ tác chiến. Nhờ đó, thực dân Pháp đã rút được một bộ phận quân tinh nhuệ tổ chức thành các binh đoàn cơ động làm nhiệm vụ tác chiến trên các chiến trường. Đến tháng 10-1951, trên toàn Đông Dương, Pháp đã tổ chức được 7 binh đoàn cơ động (GM) và 9 tiểu đoàn dù dự bị chiến lược, nâng lực lượng cơ động chiến lược lên gấp ba lần so với năm 1950. Mặc dù vậy, để đối phó với chiến tranh du kích phát triển ngày càng mạnh mẽ ở vùng sau lưng địch và giữ đất ở vùng đồng bằng đông dân,
143 nhiều của, thực dân Pháp vẫn phải dành phần lớn binh lực để làm nhiệm vụ chiếm đóng. Năm 1951, lực lượng chiếm đóng tăng từ 77 tiểu đoàn lên 109 tiểu đoàn chính quy, chiếm 67% tổng số quân toàn Đông Dương.
Coi chiến trường Bắc Bộ là "cái then cửa của vùng Đông Nam Á", thực dân Pháp bố trí ở chiến trường này một binh lực khá lớn: 54% lực lượng pháo binh và lính dù, 50% lực lượng pháo binh, 42% cơ giới thiết giáp, 71 % lực lượng công binh 1.
Tại Bắc Bộ, Pháp tiếp tục xây dựng tuyến phòng thủ mạnh gồm hệ thống công sự bằng bê tông cốt thép (boongke) gồm 800 lô cột lập thành hàng chục cứ điểm lớn, nhỏ do 25 tiểu đoàn lính Âu - Phi tinh nhuệ chiếm đóng, kéo dài từ Hòn Gai, Đông Triều, Lục Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh, qua Vĩnh Phúc, Sơn Tây, Hà Đông, đến Ninh Bình. Ở vòng ngoài, song song với phòng tuyến boongke là một "vành đai trắng" có chiều rộng từ 5 - 10 km.
Trên khắp chiến trường từ Nam đến Bắc, quân địch đẩy mạnh bình định ở những vùng chúng kiểm soát. Chúng liên tiếp mở các chiến dịch càn quét với quy mô lớn. Ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, dựa vào tổ chức ngụy quyền và lực lượng phản động trong các giáo phái, địch mở các cuộc hành quân "diệt du, quét cán, càn thanh" (diệt du kích, quét cán bộ, càn thanh niên), đồng thời đánh phá vùng du kích của ta.
Ở vùng biển Hải Phòng, Kiến An, địch khẩn trương xây dựng thêm nhiều công sự boongke kiểu mới, mở rộng sân bay Cát Bi nhằm biến khu vực Hải Phòng - Kiến An - Đồ Sơn - Quảng Yên thành "pháo đài mạnh ven biển". Chúng thay đổi chỉ huy và càn quét dữ dội, đánh phá các cơ sở của ta.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #52 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2011, 11:36:51 am » |
|
Tại Nam Sách (Hải Dương), ngụy quyền tổ chức thí điểm đội "quân thứ hành chính lưu động" (GAMO), một tổ chức hành
1. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Tập 2... Sđd, tr. 92. 144 chính - chính trị - quân sự chuyên làm nhiệm vụ bình định, thành phần gồm sĩ quan, binh lính, gián điệp, chỉ điểm, nhân viên hành chính, y tế giáo đục, văn hoá... Thông qua đội quân này, chúng truy quét cơ sở kháng chiến, lập lại ngụy quyền, dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo quần chúng.
Ở Thái Bình, Hà Nam, Hà Đông... địch ráo riết thực hiện thủ đoạn "chiêu an". Chúng thành lập các tổ chức cứu tế xã hội", "trại hồi cư”, "hội giúp đỡ đồng bào hồi cư” nhằm mua chuộc, lôi kéo cán bộ và nhân dân ở vùng tự do về vùng tạm chiếm. Chúng dồn dân vào các khu tập trung gọi là "đại xã" để dễ dàng kìm kẹp, khống chế nhân dân và cô lập lực lượng kháng chiến.
Tại vùng đồng bằng Nam Trung Bộ, Pháp phát triển đồn bốt, tháp canh, kết hợp quân ứng chiến với quân chiếm đóng; rào làng, dồn dân, tập trung lúa của dân vào đồn, phát triển tề điệp để khống chế và kiểm soát dân. Ở vùng chiếm đóng Bắc Quảng Nam, đầu năm 1950 có 125 tháp canh, đến cuối năm tăng lên 174; ở Khánh Hoà, năm 1951 địch đóng 109 đồn và 213 tháp canh, lùa dân vùng này đi gặt lúa vùng khác đưa về đồn, tối bắt dân ngủ ở đồn. Ở Ninh Thuận, địch bắt dân rào hết các làng 1.
Đối với Tây Nguyên, để nắm được địa bàn chiến lược quan trọng này, từ tháng 2-1951, thực dân Pháp đã tách Tây Nguyên khỏi Trung phần, thành lập khu độc lập trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy quân viễn chinh. Tại đây, chúng thành lập các trung đội "xung kích xuyên sơn”, các tiểu đoàn sơn chiến gồm người dân tộc ít người để tác chiến ở vùng núi. Ngoài ra, chúng còn thực hiện một thủ đoạn mới rất thâm độc là phát triển các ổ vũ trang phản động ở các địa phương, gọi là Gum để biến dần người dân bình thường thành người lính chống lại kháng chiến.
Tại Nam Bộ, cùng với chính sách kìm kẹp và cướp đoạt, thực
1. Nam Trung Bộ kháng chiến 1945 - 1975. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1995, tr. 146. 145 dân Pháp và tay sai ra sức lợi dụng các tôn giáo để mê hoặc và lôi kéo quần chúng chống lại kháng chiến. Chúng thành lập các đội quân giáo phái và chuyển giao cho Bộ tham mưu ngụy chỉ huy để sử dụng vào kế hoạch bình định, càn quét. Bằng nhiều thủ đoạn nham hiểm và tàn bạo, đến cuối năm 1951, thực dân Pháp đã bắt hàng vạn thanh niên, có cả thiếu niên 14 - 15 tuổi, vào lính. Trong các thành phố lớn, địch cũng ráo riết bình định. Ở Hà Nội, từ tháng 7-1951, tiếp theo những cuộc vây càn lớn, địch chuyển sang đánh phá sâu vào các tổ chức của ta. Chúng cài cắm tay chân vào các đoàn thể, các cơ sở kháng chiến của ta để hoạt động phá hoại. Một số đơn vị bảo chính đoàn được chúng điều động trở lại đóng bốt để làm chỗ dựa cho bọn tay sai lập hội tề, bảo an: ở thành phố Hải Phòng, ngoài hàng ngàn lính cơ động, còn có cả một hệ thống cảnh sát, mật vụ, chỉ điểm cài cắm khắp các ngõ phố, nhà máy , bến cảng . . .
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #53 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2011, 11:37:12 am » |
|
Thực dân Pháp còn huy động lực lượng cơ động mở các cuộc càn lớn để tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta, phá nát các làng chiến đấu và căn cứ du kích dập tắt phong trào chiến tranh du kích đang ngày một lan rộng ở khắp các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi đã gây cho ta nhiều khó khăn mới, nhất là ở vùng sau lưng địch. Tại một số vùng, nhiều làng xóm bị tàn phá, cơ sở kháng chiến bị tổn thất, phong trào đấu tranh của nhân dân bị giảm sút. Chỉ riêng cuộc càn quét của địch vào đầu tháng 10-1951, chúng đã chiếm lại khu vực ba huyện Tiên Hưng - Duyên Hà - Hưng Nhân, với 363 làng, gồm 280.000 dân. Căn cứ du kích liên hoàn ba huyện ở phía bắc tỉnh Thái Bình trở thành vùng tạm chiếm. Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt hoạt động của kháng chiến. III- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thử II của Đảng Cộng sản Đông Dương (2-1951)
Bước vào những năm 50 của thế kỉ XX, tình hình thế giới và 146 trong nước có nhiều chuyển biến lớn. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) - thành lập từ tháng 1-1949, với mục tiêu phối hợp hoạt động kinh tế để củng cố và phát triển sự hợp tác giữa các nước, phát triển một cách có kế hoạch nền kinh tế quốc dân và nâng cao đời sống nhân dân - ngày càng có nhiều nước tham gia. Ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, cơn bão táp cách mạng tiếp tục phát triển, từ Đông Nam Á sang Trung Đông và châu Phi. Phong trào bảo vệ hoà bình thế giới trở thành phong trào quần chúng rộng rãi. Từ ngày 16 đến ngày 22-11-1950, Đại hội hoà bình thế giới lần thứ hai được tổ chức tại Vácsava, với sự tham gia của hơn 2.000 đại biểu thuộc 81 nước. Đại hội đã thông qua Lời hiệu triệu gửi nhân dân toàn thế giới, đòi chấm dứt chiến tranh ở Triều Tiên, Việt Nam..., đòi cấm chế tạo và sử dụng bom nguyên tử, đòi giải trừ quân bị... Đại hội cũng quyết định thành lập Hội đồng hoà bình thế giới, gồm đại biểu của tất cả các dân tộc. Ở trong nước, sau gần 16 năm kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng (3-1935), tình hình đã có nhiều chuyển biến rất căn bản. Qua hơn 5 năm chiến đấu, lực lượng kháng chiến đã lớn lên nhiều về mọi mặt, nhất là về quân sự. Từ sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta phát triển sang thời kì mới. Hậu phương kháng chiến được nối liền với phe xã hội chủ nghĩa. Cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước bạn Lào và Campuchia cũng giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến của ta lúc này gặp nhiều khó khăn mới do âm mưu của đế quốc Pháp, Mĩ . Tình hình trên đòi hỏi cuộc kháng chiến phải tăng cường hơn nữa tính chất toàn diện và sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng 147 ta trở thành Đảng cầm quyền. Nhưng do hoàn cảnh vô cùng phức tạp và để giữ vững khối đoàn kết, Đảng ta tuyên bố tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Điều này ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng Yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến đòi hỏi phải có sự lãnh đạo công khai của Đảng.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #54 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2011, 11:37:48 am » |
|
Xuất phát từ những lí do trên, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang), từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 76 vạn đảng viên trong cả nước.
Sau bài Diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã thảo luận Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của Trường Chinh, báo cáo về Tổ chức và Điều lệ Đảng, các báo cáo bổ sung về mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, kinh tế tài chính... Báo cáo chính trị đã khẳng định những thắng lợi to lớn của cách mạng, bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng qua các thời kì vận động cách mạng; khẳng định đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng; cán bộ, đảng viên của Đảng là những chiến sĩ dũng cảm, tận tụy hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Báo cáo cũng nghiêm khắc vạch rõ những khuyết điểm trong cán bộ, đảng viên, đó là việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê nin còn yếu, tư tưởng chưa vững vàng, lề lối làm việc còn quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, công thần... Trên cơ sở đó Báo cáo chính trị nêu nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là "Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mĩ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới". Để thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu đó, phải động viên tinh thần yêu nước, ra sức thi đua ái quốc, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mặt trận đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, thực hiện chính sách ruộng
148 đất.
Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam trình bày toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; phân tích tính chất xã hội Việt Nam từ sau Cách mạng thảng Tám là "phức tạp và phát triển không đều, có tính chất dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến..." 1. Trong xã hội nổi lên mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc xâm lược, mâu thuẫn giữa số đông nhân dân với giai cấp địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa lao động với tư bản trong nước. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược là mâu thuẫn chính. Kẻ thù chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược (thực dân Pháp và can thiệp Mỉ và bọn bù nhìn Việt gian bán nước, đại biểu quyền lợi cho đại địa chủ phong kiến và tư sản mại bản. Do đó, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam "là tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, đánh đổ bọn bù nhìn Việt gian phản nước, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" 2. Bản báo cáo phân tích mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, khẳng định lực lượng cách mạng ở Việt Nam "là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, rồi đến giai cấp tư sản dân tộc; ngoài ra là những phần tử cá biệt xuất thân từ giai cấp địa chủ (phần nhiều là tiểu địa chủ) đang đi với nhân dân, được gọi là nhân sĩ dân chủ và thân sĩ yêu nước..."3.
Đại hội đề ra những chính sách cơ bản về công tác xây dựng
1. Bàn về cách mạng Việt Nam: Xem: Trường Chinh tuyển tập 1937 - 1954. NXB Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 456, 459, 469.
2.2. Bàn về cách mạng Việt Nam. Xem: Trường Chinh Tuyển tập 1937 - 1954. NXB Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 456, 459, 469.
149 và củng cố chính quyền, tăng cường quân đội, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, phát triển kinh tế - tài chính, văn hoá - giáo dục... nhằm đẩy mạnh kháng chiến toàn diện.
Xuất phát từ tình hình cụ thể và yêu cầu cách mạng của ba nước Đông Dương, Đại hội quyết định thành lập ở mỗi nước một Đảng Mác - Lê nin riêng biệt, có cương lĩnh thích hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #55 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2011, 11:39:22 am » |
|
Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, giúp đỡ và phối hợp với các Đảng cách mạng vào và Campuchia, đưa sự nghiệp kháng chiến của ba dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương giành thắng lợi hoàn toàn.
Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới của Đảng; quyết định xuất bản báo Nhân dân làm cơ quan ngôn luận của Đảng.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 7 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết 1. Hồ Chí Minh được bầu giữ chức Chủ tịch Đảng và Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai được tiến hành trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta có nhiều chuyển biến mới. Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm vận động cách mạng của Đảng, đồng thời nêu rõ những nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi. Đại hội được gọi là Đại hội kháng chiến thắng lợi .
1. Bộ Chính trị gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh và 1 uỷ viên dự khuyết là Lê Văn Lương. 150 IV- Xây dựng và củng cố hậu phương kháng chiến về mọi mặt
Hậu phương có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố thường xuyên có tính chất quyết định thắng lợi của chiến tranh. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hậu phương, Đảng ta sớm đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện.
Hậu phương chiến tranh nhân dân là một hệ thống căn cứ, bao gồm các cơ sở chính trị ở thành thị và nông thôn, các khu du kích và căn cứ du kích trong vùng tạm bị địch chiếm; các vùng tự do rộng lớn nằm trên khắp lãnh thổ đất nước.
Trải qua 5 năm kháng chiến, hậu phương căn cứ địa được mở rộng. Ngoài vùng tự do liên hoàn nối thông từ Liên khu Việt Bắc xuống Liên khu III vào Liên khu IV, còn có vùng tự do gồm nửa tỉnh Quảng Nam và các tỉnh Quảng Ngài, Bình Định, Phú Yên cùng với các khu căn cứ Ba Tơ, Trà Bồng, Di Lăng, Minh Long, Bắc Ái, Sơn Hà tạo thành hậu phương trực tiếp của chiến trường Liên khu V và một phần Nam Bộ. Các chiến khu Đ, Đồng Tháp, Dương Minh Châu, U Minh của Nam Bộ vẫn được giữ vững. Ở vùng tự do, nơi có những điều kiện thuận lợi, nhân dân ta đã xây dựng chế độ mới, phù hợp với bước đi của cách mạng nước ta. Chế độ mới được xây dựng trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; cả về cơ sở vật chất và ý thức tư tưởng. Đây chính là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của hậu phương kháng chiến. Về kinh tế:
Kháng chiến càng kéo dài, càng trở nên quyết liệt, nhu cầu cung cấp cho mặt trận quân sự ngày càng lớn. Những thắng lợi giành được trên lĩnh vực kinh tế trong những năm 1948 - 1950 tuy to lớn, nhưng cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến. 151 Từ năm 1950, các chiến dịch đánh vận động ngày càng nhiều; do đó nhu cầu cung cấp cho kháng chiến tăng lên gấp bội. Riêng trong chiến dịch Biên giới, để bảo đảm chiến đấu cho gần 30.000 người tham gia, ta đã phải chuẩn bị 2.250 tấn lương thực, 190 tấn súng đạn, 660 tấn các loại thực phẩm, quân trang, quân dụng và huy động hơn 120.000 dân công (tương đương với 1.700.000 ngày công). Trừ 100 tấn lương thực, thực phẩm huy động tại chỗ, còn toàn bộ phải huy động dân công kết hợp với bộ đội vận tải bằng ô tô và một số xe thô sơ vận chuyển từ hậu phương tới .
Trong khi đó, kinh tế, tài chính của chúng ta còn gặp nhiều khó khăn (năm 1950 tổng số thu chỉ bằng 23% tổng số chi). Nước ta bị chia cắt thành nhiều vùng; nền kinh tế trong căn cứ địa Việt Bắc rất thấp kém, rừng núi chiếm nhiều, đất canh tác ít, lại bị địch bao vây, phong toả, phá hoại.
Việc tổ chức và chính sách kinh tế, tài chính của ta còn mang nặng tính du kích, chưa có sự quản lí thống nhất. Do vậy, nhân dân tuy hăng hái đóng góp cho kháng chiến, nhưng tiền của còn rải rác ở các địa phương. Phần thu của Nhà nước không đảm bảo cho số chi ngày càng tăng của cuộc kháng chiến.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #56 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:50:06 am » |
|
Năm 1951, sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn nghiêm trọng. Thiên tai lũ lụt xảy ra làm cho mùa màng ở nhiều nơi bị thiệt hại nặng. Riêng tỉnh Nghệ An bị thiệt hại từ 20 đến 40% hoa màu; Hà Tĩnh hư hỏng 80% diện tích khoai lang, 40% diện tích lúa, 1.000 tấn muối bị ngập nước. Bình - Trị - Thiên gần như bị mất toàn bộ diện tích lúa và hoa màu, giặc Pháp lại ra sức tàn phá; riêng trong một trận càn ở huyện Phong Điền, chúng bắn chết một lúc 300 con trâu, bò... Ở Liên khu V, do hạn hán kéo dài và một số công trình thuỷ lợi bị địch phá hoại, nên sản lượng lương thực giảm sút. Nạn đói đe doạ cả bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên...
Vấn đề thiếu lương thực trước đây hầu như chỉ đặt ra đối với Việt Bắc, lúc này trở thành khó khăn chung của cả nước. 152 Tình hình trên đòi hỏi phải có sự chuyển hướng mạnh mẽ về kinh tế tài chính. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp mới toàn diện và có hiệu quả. Với tư tưởng chỉ đạo Tất cả để chiến thắng, Đảng đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế nhằm đảm bảo cung cấp cho nhu cầu của cuộc kháng chiến và phá tan âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch.
Để phát triển tiềm lực kháng chiến, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 1 (3-1951) xác định phương hướng cụ thể: muốn kháng chiến trường kì phải luôn luôn tăng cường tiềm lực kinh tế, tài chính; phải cơi kinh tế, tài chính là nhiệm vụ rất quan trọng; các cấp phải tăng cường lãnh đạo kinh tế, chính sách kinh tế là tăng gia sản xuất, chính sách tài chính là tăng thu giảm chi, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn tư nhân để phát triển công thương nghiệp, phát triển công thương, mở mang mậu dịch với nước bạn...
Tháng 4-1951, Hội đồng Chính phủ mở cuộc vận động Thi đua sản xuất, lập công nhằm phục vụ nhu cầu kháng chiến. Chính phủ quyết định thành lập và kiện toàn các cơ quan chỉ đạo kinh tế như Khuyến nông, Khai hoang, Tín dụng, Lâm chính, Địa chính, Thuỷ nông...
Hưởng ứng cuộc vận động Thi đua sản xuất, lập công, cả nước dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất rất sôi nổi. Diện tích trồng cây lương thực và hoa màu tăng lên nhiều so với các năm trước.
Riêng toàn Liên khu Việt Bắc đã cày cấy thêm 25.913 mẫu lúa và 12.698 mẫu hoa màu. Uỷ ban kháng chiến - hành chính Liên khu Việt Bắc lập quỹ luân chuyển có vốn 26 triệu đồng giúp các tỉnh mua sắm nông cụ. Cơ quan nông chính cấp 37 tấn thóc giống cho các địa phương làm vụ mùa.
Với khẩu hiệu Tự làm lấy ăn để đánh giặc, quân và dân Nam Bộ đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự cấp tự túc. Bộ đội miền Đông
153 trung bình mỗi năm sản xuất tự túc 4 tháng, có đơn vị dành 6 tháng cho sản xuất Bộ đội miền Tây mùa mưa sản xuất, mùa khô đi chiến đấu. Tại chiến khu Đ, nhân dân tổ chức khai hoang làm rẫy trên những vùng đất dọc sông Bé, xây dựng được 7 nông trường trồng lúa, ngô, khoai, sắn...1.
Từ năm 1952, cuộc Đại vận động sản xuất và tiết kiệm được phát động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Cuộc vận động được toàn dân hưởng ứng sôi nổi. Cán bộ các cơ quan, xí nghiệp, học sinh và các đơn vị bộ đội cũng tích cực tham gia sản xuất lương thực và thực phẩm.
Nhờ có những biện pháp tích cực trên, sản xuất lương thực không ngừng tăng lên. Tính riêng trong vùng tự do, năm 1951 sản xuất được 2.727.600 tấn lương thực, năm 1952 tăng lên 2.852.900 tấn và năm 1953 là 2.916.000 tấn.
Để tạo điều kiện cho nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp, Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng ruộng đất từng bước theo đường lối riêng biệt, phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam.
Từ năm 1949, Đảng và Chính phủ đề ra sắc lệnh giảm tô, giảm tức xoá nợ, hoãn nợ; chia lại ruộng đất công cho công bằng, hợp lí; tạm chia, tạm giao ruộng đất vắng chủ, ruộng đất tịch thu của thực dân Pháp và Việt gian... cho nông dân không có ruộng và thiếu ruộng. Việc thực hiện chính sách giảm tô đã đạt kết quả lớn. Tính từ Liên khu IV trở ra, đến năm 1953, đã có 397.000 ha ruộng đất được giảm tô 25%.
Cùng với việc thực hiện giảm tô, tháng 6-1951, Hội đồng Chính phủ quyết định về thể lệ tạm thời sử dụng công điền, công thổ; xác định nguyên tắc sử dụng công điền công thổ là phải làm lợi cho tăng gia sản xuất, củng cố đoàn kết nông thôn,
1. Viện lịch sử quân sự: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp... Tập. 2, sđd, tr. 101. 154 sát với tình hình địa phương, dân chủ và công bằng. Theo quy định của Chính phủ, công điền được chia cho tất cả nông dân nam, nữ từ 16 tuổi trở lên, trừ các phần tử Việt gian đã thành án. Những người ngụ cư mà tự nguyện trực tiếp canh tác và nếu nhân dân đều bằng lòng thì cũng được chia; thương binh, bệnh binh, gia đình tử sĩ được ưu đãi. Gia đình có con em đi lính cho Pháp cũng được chia ruộng để sản xuất.
Ngày 5-3-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh ban hành Bản điều lệ tạm thời sử dụng công điền công thổ gồm 7 chương, quy định nguyên tắc chia, đối tượng được chia, cách chia, nghĩa vụ và quyền hạn của người được lĩnh công điền công thổ...
Chính phủ chủ trương tiếp tục khuyến khích địa chủ không phải là Việt gian, nhất là địa chủ lớn ở Nam Bộ hiến ruộng cho Nhà nước. Theo quyết định của Hội nghị Hội đồng Chính phủ (từ ngày 18 đến ngày 20~8-1952), Chính phủ chỉ nhận ruộng hiến của những người có thừa ruộng. Còn đối với những người chỉ đủ hoặc thiếu ruộng nhưng đã hiến ruộng thì Chính phủ sẽ trả lại. Chính phủ cũng quyết định không nhận ruộng hoang, chỉ nhận ruộng cày cấy được và giao cho Uỷ ban kháng chiến hành chính các địa phương được quyền nhận ruộng hiến. Số ruộng hiến sẽ được chia cho dân cày thiếu ruộng trong thời hạn 10 năm.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #57 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:50:30 am » |
|
Trong kháng chiến, nhiều địa phương đã triển khai thực hiện chính sách tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian để tạm cấp cho nông dân. Tuy nhiên, trong khi xác định và thực hiện chính sách tịch thu loại ruộng đất này lại chưa có sự thống nhất giữa các địa phương về quan niệm. Để khắc phục tình trạng đó, ngày 9-10-1952, Bộ Canh nông ra Thông tư số 22 - CN - RĐ, giải thích rõ thế nào là ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian. Thông tư còn nhấn mạnh các địa phương phải tạm cấp hết số ruộng đất này cho dân cày, không được giữ lại cho chính quyền, đoàn thể. Thời hạn tạm cấp là 10 năm và chính quyền địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ dân nghèo về giống, vốn,
155 dụng cụ để họ sản xuất có kết quả trên ruộng đất được tạm cấp.
Ngày 14-12-1952, Liên bộ Canh nông - Nội vụ - Tư pháp ra thông tư giải thích thêm về thể lệ sử dụng ruộng đất "vắng chủ” để Uỷ ban kháng chiến hành chính các liên khu và Hà Nội áp dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương mình.
Từ nhiều nguồn khác nhau, số ruộng đất được tạm cấp, tạm giao cho nông dân lao động chiếm một diện tích khá lớn. Theo số liệu thống kê ở 3.035 xã ở miền Bắc, việc chia ruộng đất cho nông dân đạt được kết quả như sau:
- Số ruộng đất của thực dân Pháp đã được tịch thu chia cho nông dân là 26.800 ha.
- Số ruộng đất của địa chủ được đem chia cho nông dân là 156.600 ha.
- Số ruộng đất tịch thu của nhà chung đem chia cho nông dân là 3.200 ha.
- Số ruộng đất công và nửa công được chia là 289.300 ha.
Đến năm 1953, địa chủ chiếm 2,3% dân số và chỉ còn chiếm 18% tổng số ruộng đất. Nông dân lao động chiếm 92,5% dân số và nắm trong tay 70,7% tổng số ruộng đất.
Như vậy, từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước cải cách ruộng đất, do việc thực hiện một cách có hệ thống những cải cách dân chủ, trong nông thôn đã có những chuyển biến khá lớn về chế độ sở hữu ruộng đất cũng như về quan hệ các giai cấp. Sự chiếm hữu ruộng đất của thực dân, địa chủ đã bị thu hẹp rất nhiều. Trong khi đó quyền sở hữu ruộng đất của nông dân được mở rộng, đời sống của nông dân được cải thiện từng bước, xu hướng trung nông hoá xuất hiện ở nông thôn.
Sự chuyển biến đó khẳng định đường lối tiến hành cải cách, dần dần thu hẹp phạm vi bóc lột của địa chủ phong kiến, đồng thời sửa đổi chế độ ruộng đất trong phạm vi không có hại cho sự đoàn kết dân tộc của Đảng và Chính phủ ta là đúng đắn, sáng 156 tạo, phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Từ năm 1953, cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn cuối cùng với những tháng lợi to lớn trên.các mặt trận. Đảng và Chính phủ chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất.
Tháng 1-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 4 để kiểm điểm việc thi hành chính sách ruộng đất trong quá trình kháng chiến và đề ra 5 công tác chính trong năm 1953 là: Phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đẩy mạnh công tác chỉnh quân, tăng cường công tác kinh tế tài chính, công tác vùng sau lưng địch; trong đó công tác chính số một là phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức. Hội nghị thông qua bản Dự thảo cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất.
Tháng 11-1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban tháp hành Trung ương Đảng và Hội nghị đại biểu toàn quốc của đảng thông qua Cương lĩnh ruộng đất; đồng thời quyết định tổ chức thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do. Tháng 12-1953, tạt kì họp lần thứ 3, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất.
Từ tháng 4 đến tháng 8-1953, đợt 1 cuộc phát động quần chúng giảm tô được thực hiện trong 22 xã thuộc Liên khu Việt Bắc và Liên khu IV Đến tháng 9-1954, chúng ta đã tiến hành 5 đợt giảm tô trong 830 xã ở miền Bắc. Trong kháng chiến, nhiều địa phương đã triển khai thực hiện chính sách tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian để tạm cấp cho nông dân. Tuy nhiên, trong khi xác định và thực hiện chính sách tịch thu loại ruộng đất này lại chưa có sự thống nhất giữa các địa phương về quan niệm. Để khắc phục tình trạng đó, ngày 9-10-1952, Bộ Canh nông ra Thông tư số 22 - CN - RĐ, giải thích rõ thế nào là ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian. Thông tư còn nhấn mạnh các địa phương phải tạm cấp hết số ruộng đất này cho dân cày, không được giữ lại cho chính quyền, đoàn thể. Thời hạn tạm cấp là 10 năm và chính quyền địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ dân nghèo về giống, vốn,
155 dụng cụ để họ sản xuất có kết quả trên ruộng đất được tạm cấp.
Ngày 14-12-1952, Liên bộ Canh nông - Nội vụ - Tư pháp ra thông tư giải thích thêm về thể lệ sử dụng ruộng đất "vắng chủ” để Uỷ ban kháng chiến hành chính các liên khu và Hà Nội áp dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương mình.
Từ nhiều nguồn khác nhau, số ruộng đất được tạm cấp, tạm giao cho nông dân lao động chiếm một diện tích khá lớn. Theo số liệu thống kê ở 3.035 xã ở miền Bắc, việc chia ruộng đất cho nông dân đạt được kết quả như sau:
- Số ruộng đất của thực dân Pháp đã được tịch thu chia cho nông dân là 26.800 ha.
- Số ruộng đất của địa chủ được đem chia cho nông dân là 156.600 ha.
- Số ruộng đất tịch thu của nhà chung đem chia cho nông dân là 3.200 ha.
- Số ruộng đất công và nửa công được chia là 289.300 ha.
Đến năm 1953, địa chủ chiếm 2,3% dân số và chỉ còn chiếm 18% tổng số ruộng đất. Nông dân lao động chiếm 92,5% dân số và nắm trong tay 70,7% tổng số ruộng đất.
Như vậy, từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước cải cách ruộng đất, do việc thực hiện một cách có hệ thống những cải cách dân chủ, trong nông thôn đã có những chuyển biến khá lớn về chế độ sở hữu ruộng đất cũng như về quan hệ các giai cấp. Sự chiếm hữu ruộng đất của thực dân, địa chủ đã bị thu hẹp rất nhiều. Trong khi đó quyền sở hữu ruộng đất của nông dân được mở rộng, đời sống của nông dân được cải thiện từng bước, xu hướng trung nông hoá xuất hiện ở nông thôn.
Sự chuyển biến đó khẳng định đường lối tiến hành cải cách, dần dần thu hẹp phạm vi bóc lột của địa chủ phong kiến, đồng thời sửa đổi chế độ ruộng đất trong phạm vi không có hại cho sự đoàn kết dân tộc của Đảng và Chính phủ ta là đúng đắn, sáng 156 tạo, phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Từ năm 1953, cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn cuối cùng với những tháng lợi to lớn trên.các mặt trận. Đảng và Chính phủ chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất.
Tháng 1-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 4 để kiểm điểm việc thi hành chính sách ruộng đất trong quá trình kháng chiến và đề ra 5 công tác chính trong năm 1953 là: Phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đẩy mạnh công tác chỉnh quân, tăng cường công tác kinh tế tài chính, công tác vùng sau lưng địch; trong đó công tác chính số một là phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức. Hội nghị thông qua bản Dự thảo cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất.
Tháng 11-1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban tháp hành Trung ương Đảng và Hội nghị đại biểu toàn quốc của đảng thông qua Cương lĩnh ruộng đất; đồng thời quyết định tổ chức thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do. Tháng 12-1953, tạt kì họp lần thứ 3, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất.
Từ tháng 4 đến tháng 8-1953, đợt 1 cuộc phát động quần chúng giảm tô được thực hiện trong 22 xã thuộc Liên khu Việt Bắc và Liên khu IV Đến tháng 9-1954, chúng ta đã tiến hành 5 đợt giảm tô trong 830 xã ở miền Bắc.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #58 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:50:54 am » |
|
Cùng với giảm tô, từ 25-11-1953, cải cách ruộng đất được thực hiện thỉ điểm trong 6 xã thuộc huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Đến tháng 5-1954, đợt 1 cải cách ruộng đất được tiến hành trong 47 xã thuộc tỉnh Thái Nguyên và 6 xã thuộc tỉnh Thanh Hoá.
Cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất được tiếp tục thực hiện trên quy mô rộng lớn ở miền Bắc sau khi hoà bình lập lại. Trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm phải một số sai lầm như đấu tố cả những địa chủ kháng
157 chiến, những người thuộc tầng lớp trên có công với cách mạng; quy nhầm một số nông dân, cán bộ, bộ đội, đảng viên thành địa chủ.
Sai lầm trong cải cách ruộng đất được Đảng và Chính phủ phát hiện và có chủ trương, biện pháp sửa sai ngay khi kết thúc cải cách. Nhờ đó mà hậu quả được hạn chế và ý nghĩa của cải cách ruộng đất vẫn hết sức to lớn.
Việc thực hiện chính sách ruộng đất trong kháng chiến đã từng bước xoá bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất khỏi sự trói buộc của quan hệ sản xuất đã quá lạc hậu, đem lại niềm phấn khởi trong nông dân. Thông qua đó, nông dân càng tích cực đẩy mạnh sản xuất, hăng hái tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp kháng chiến.
Cùng với nông nghiệp, các ngành sản xuất công nghiệp vượt qua mọi khó khăn để bảo đảm nhu cầu của kháng chiến.
Công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được các loại vũ khí mới (súng SKZ, súng phóng bom, súng Badôka, súng cối...). Trong những năm 1951-1953, từ Liên khư IV trở ra, chúng ta sản xuất được 1.310 tấn vũ khí đạn dược.
Ngành công nghiệp cơ khí sản xuất máy công cụ và tư liệu sản xuất được chú trọng và phát triển, phục vụ cho nhu cầu sản xuất cũng như đời sống của nhân dân, phá tan âm mưu phong toả của địch. Bên cạnh hàng chục nhà máy cơ khí quốc doanh, còn có hàng nghìn cơ sở cơ khí nhỏ của tiểu thủ công nghiệp, sản xuất hàng vạn sản phẩm công cụ cầm tay phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, các địa phương trong cả nước đều tích cực đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho cán bộ, bộ đội và nhân dân. Các tỉnh Liên khu IV mở thêm nhiều xưởng sản xuất giấy, xà phòng, xưởng dệt, phát triển các khung dệt gia đình, khuyến khích nghề ươm tơ, dệt lụa. Liên khu V mở rộng diện tích trồng
158 bông, phát triển mạnh nghề dệt lụa, dệt vải. Các tỉnh ở Nam Bộ tiếp tục phát triển nghề dệt vải, chiếu, làm nước mắm, làm đường, xà phòng, sản xuất giấy gòn, giấy sáp và nhiều thứ thuốc chữa bệnh...
Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Chính phủ thực hiện chủ trương tăng thu giảm chi, thống nhất quản lí tài chính để tránh lạm phát, giữ giá hàng, đấu tranh kinh tế với địch, mở mang mậu dịch đối ngoại; chấn chỉnh công tác tài chính, ngân hàng và phát hành giấy bạc mới, thành lập mậu dịch quốc doanh.
Ngày 1-5-1951, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 13/SL về cải cách chế độ đảm phụ, bãi bỏ các thứ đóng góp cũ như thuế công lương, thuế điền thổ, bãi bỏ việc mua thóc định giá và đặt ra thuế nông nghiệp thu bằng thóc. Thuế nông nghiệp được đề ra theo nguyên tắc đảm bảo cung cấp cho nhu cầu kháng chiến, phù hợp với khả năng đóng góp của mỗi tầng lớp ở nông thôn, khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, thống nhất và đơn giản chế độ đảm phụ cho dân, thực hiện đóng góp công bằng. Từ năm 1951 đến năm 1954, từ Liên khu IV trở ra, Nhà nước thu được 1.322.620 tấn thóc thuế nông nghiệp. Với biểu thuế luỹ tiến, chúng ta đã giảm nhẹ phần đóng góp của nông dân lao động.
Thắng lợi của việc thực hiện thuế nông nghiệp là thắng lợi rất căn bản của ta về kinh tế. Nhờ đó, phong trào tăng gia sản xuất được thúc đẩy mạnh mẽ. Nhà nước đã tập hợp những số liệu dầu tiên về dân số, diện tích, sản lượng của từng địa phương làm cơ sở để chủ động xây dựng kế hoạch kinh tế kháng chiến. Qua chỉ đạo tổ chức thực hiện thuế nông nghiệp, bộ máy kinh tế của Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn.
Cùng với việc thống nhất các đảm phụ ở nông thôn và thuế nông nghiệp, ngày 22-7-1951, Chính phủ ra sắc lệnh bãi bỏ thúc môn bài, thuế lãi doanh nghiệp, thuế lợi tức tổng hợp và các thứ thuế gián thu hiện hành, đặt thuế công - thương nghiệp và thuế hàng hoá. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ ban hành hai bản 159 điều lệ tạm thời về thuế công thương nghiệp và thuế hàng hoá. Các bản điều lệ quy định thể thức tính và thu thuế theo các nguyên tắc: 1) Động viên đóng góp theo khả năng của các ngành công thương nghiệp: 2) Khuyến khích những hoạt động công thương có lợi cho sản xuất, cho nhân dân và cho công cuộc kháng chiến kiến quốc; 3) Thực hiện đóng góp hợp lí và giản tiện.
Chính sách thuế nhập khẩu, thuế sát sinh... cũng được ban hành.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #59 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 09:51:22 am » |
|
Ngành thuế được xây dựng để phụ trách các thứ thuế thu bằng tiền.
Các chi sở thuế được thành lập. Nhờ đó, số thuế công thương nghiệp và thuế hàng hoá thu bằng tiền trong 5 tháng cuối năm 1951 tăng gấp 6 lân so với 6 tháng đầu năm 1.
Ngày 6-5-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nhằm phát hành giấy bạc ngân hàng, điều hoà sự lưu thông tiền tệ; quản lí ngân quỹ quốc gia, quản lí ngoại tệ, quản lí kim dụng bằng các thể lệ hành chính, đấu tranh tiền tệ với địch. Đến ngày 10-6-1951, Chính phủ phát hành giấy bạc Ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng ra đời cùng với giấy bạc Ngân hàng Việt Nam đã khẳng định nền tài chính của một quốc gia độc lập. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra dời đã góp phần giải quyết những khó khăn về kinh tế, tài chính, đẩy mạnh kháng chiến. Mậu dịch Quốc doanh cũng được thành lập theo Sắc lệnh 22/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày 14-5-1951, nhằm thực hiện nhiệm vụ cung cấp hàng hoá cần thiết cho kháng chiến và đời sống nhân dân, phục vụ sản xuất, quản lí thị trường, tổ chức trao đổi hàng hoá với các nước bạn; đồng thời đấu tranh kinh tế với địch.
1. Lịch sử Chính phú Việt Nam... Sđd. tr. 210. 160 Ngày l-7-1951, những chi điếm mậu dịch đầu tiên được tổ chức ở thị xã Thái Nguyên, Tuyên Quang. Mậu dịch bán hàng nội hoá với giá rẻ hơn cho nhân dân, gây được ảnh hưởng tốt trong quần chúng. Mậu dịch đã cung cấp 35% nhu yếu phẩm cho bộ đội.
Từ sau chiến thắng Biên giới, con đường thông thương giữa nước ta với quốc tế được mở rộng, nên hoạt động ngoại thương có bước phát triển mới. Giá trị hàng xuất khẩu năm 1951 tăng 7 lần so với năm 1950.
Nhờ chính sách kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp phát triển, chính sách thuế mới công bằng, hợp lí, quản lí tài chính chặt chẽ, cho nên giá cả thị trường từng bước được ổn định, thu chi trong ngân sách dần dần cân bằng (đến năm 1953, số thu đã vượt chi 16%), nạn lạm phát được khắc phục.
Những kết quả trên mặt trận kinh tế, tài chính đã góp phần quyết định cho sự thắng lợi của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
|