Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:41:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Việt Nam 1945-2000  (Đọc 39772 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #20 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:20:01 pm »

Công  tác  vận  động  đoàn  kết  với  giới  trí  thức,  đoàn  kết  các dân tộc và tôn giáo cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng cường khối  đoàn  kết  toàn  dân,  làm  thất  bại  chính  sách  "dùng  người Việt đánh người Việt”của thực dân Pháp.

b) về quân sự :

Khi cả nước bước vào kháng chiến, vấn đề xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang trở thành một nhiệm vụ cấp bách, không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt mà còn đảm bảo cho kháng chiến lâu dài.

Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (l-1947) nêu rõ: "Trong các khu cần phải tổ chức ngay bộ đội bổ sung, việc  tuyển  lựa  bộ  đội  này  phải  được  Bộ  Quốc  phòng  chuẩn  y trước..."1.

Ngày 12-2-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 16/SL thành lập
Phòng Dân quân, trực thuộc Cục Chính trị. Tiếp theo, ngày 19-
2, Bộ Quốc phòng ra Thông tư quy định mọi công dân từ 18 đến
45  tuổi  vào  dân  quân,  tự  vệ,  du  kích.  Hàng  chục  vạn  quần chúng, thuộc đủ các lứa tuổi, hăng hái gia nhập dân quân, tự vệ và du kích. Đến cuối năm 1947, tại nhiều địa phương, ở các xã đã có từ 1 đến 2 trung đội dân quân tự vệ; ở huyện có từ 1 đến 2 trung đội du kích thoát li, ở tỉnh có từ 1 đến 2 đại đội du kích thoát li. Với phong trào "cướp vũ khí địch đánh địch", nhiều đơn
vị dân quân, tự vệ và du kích dần dần tự trang bị được vũ khí tốt hơn.

Tháng  3-1947,  Chính  phủ  quyết  định  đổi  tên  Bộ  Tổng  chỉ huy Quân đội Quốc gia thành Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam; đồng thời quyết định thành lập các  ban  chỉ  huy  Tỉnh  đội,  Huyện  đội,  Xã  đội  thuộc  Uỷ  ban


1. Văn kiện quân sự của Đảng 1945-1950... Sđd, tr. 83.
77
 
kháng  chiến  các  cấp.  Việc  huấn  luyện  được  tổ  chức  thường xuyên và đi dần vào nền nếp. Tại Việt Bắc, Khu IV, Khu V và các căn cứ thuộc Nam Bộ có chế độ huấn luyện thường kì cho dân quân, tự vệ và du kích.

Từ mùa hè năm 1947, kháng chiến mở rộng, hàng chục vạn quần chúng thuộc mọi tầng lớp hăng hái gia nhập dân quân, tự vệ và du kích. Hàng nghìn làng kháng chiến bước đầu được xây dựng.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đặc biệt coi trọng. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị quân sự lần thứ 3 (6-1947), Bộ Tổng chỉ huy điều động cán bộ Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, Trường  Quân  chính  về  thị  xã  Bắc  Kạn  mở  các  lớp  bồi  dưỡng cán bộ cơ sở. Hàng trăm cán bộ các cấp dược bổ túc về quân sự và chính trị. Tháng  8-1947, Bộ Tổng chỉ huy mở lớp bổ túc cán bộ Đảng cấp toàn quân tại xã La Bằng (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên). Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc và huấn thị cho lớp học. Ngoài ra, nhiều khu tỉnh cũng mở các khoá đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ dân quân, tự vệ, du kích từ cấp tiểu đội đến đại đội.

Cùng với việc phát triển lực lượng dân quân du kích, phong trào  xung  phong  tòng  quân  cũng  diễn  ra  sôi  nổi  trong  thanh niên. Chỉ trong mùa hè năm 1947, đã có 35.000 thanh niên tình nguyện nhập ngũ, nâng tổng số bộ đội chủ lực từ 85.000 người (trước ngày toàn quốc kháng chiến) lên 125.000 người.
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #21 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:20:34 pm »

c) về kinh tế

Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế kháng chiến có khả năng tự cấp tự túc, phục vụ những nhu cầu thiết yếu của nhân dân vùng tự do, đồng  thời  đáp  ứng  được  những nhu cầu ngày  càng  lớn  của  chiến  trường.  Hội  nghị  cán  bộ  Trung  ương (từ ngày 3 đến ngày 6-4-1947) đề ra một chương trình kinh tế kháng chiến gồm hai mặt:

-  Phá  hoại kinh tế  địch bằng cách tẩy chay và quân sự phá

78
 
hoại;  làm  cho  địch  không  kinh  doanh,  bóc  lột  gì  được,  không thực hiện được chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".

- Xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, lập nền kinh tế tự túc.

Hội  nghị  cán  bộ  Trung  ương  còn  đề  ra  phương  châm  xây dựng  nền  kinh  tế  phù  hợp  với  điều  kiện  chiến  tranh:  Chỉ  sản xuất  những  thứ  cần  dùng  cho  mặt  trận  và  đời  sống  của  nhân dân...  Về  các  ngành  kinh  tế  chú  trọng  nhất  là  nông  nghiệp, thương mại rồi mới đến kĩ nghệ (chú ý kĩ nghệ chế tạo vũ khí và khai thác)...

Quán  triệt  phương  châm  trên,  Chính  phủ  đề  ra  nhiều  chính sách quan trọng: Chính sách tăng gia sản xuất, thực hiện khẩu hiệu "Thực túc binh cường", "ăn no đánh thắng"; chính sách tiết kiệm và đồng cam cộng khổ; chính sách tôn trọng quyền tư hữu tài  sản  hợp  pháp  của  mọi  công  dân,  mọi  thành  phần  kinh  tế; chính sách điều hoà lợi ích...
Mặc dù có sự chuẩn bị từ trước, nhưng cuộc kháng chiến nổ
ra vẫn làm cho nền kinh tế bị đảo lộn. Sản xuất công nghiệp và thương mại ở các thành phố lớn bị ngưng trệ. Nông nghiệp cũng gặp  khó  khăn,  nhất  là  những  vùng  bị  địch  chiếm.  Trước  tình trạng  đó,  Trung  ương  Đảng  và  Chính  phủ  chỉ  đạo:  Phương hướng xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất trong kháng chiến là chú trọng nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp  quốc  phòng;  khuyến  khích  hình  thức  kinh  tế  cá  nhân, kinh tế hợp tác xã và kinh tế Nhà nước.

Trong nông nghiệp, nhiều chính sách và biện pháp lớn được ban  hành,  bao  gồm:  Chính  sách  toàn  dân  tăng  gia  sản  xuất, chính sách phát triển sản xuất gắn liền với chính sách ruộng đất, chính sách nhân công, chính sách cải  tiến  kĩ  thuật, chính sách bảo vệ sản xuất. Phong trào tăng gia sản xuất rầm rộ khắp nơi, góp  phần  thiết  thực  nâng  cao  tiềm  lực  kinh  tế  kháng  chiến. Riêng các vùng tự do, trong năm 1947, nhân dân ta đã cấy được
1.893.700  ha  lúa,  thu  được  2.194.000  tấn  thóc;  trồng  được
79
 
243.000 ha hoa màu, thu được 474.000 tấn, tăng 189% so với năm 19411.

Cùng với sản xuất nông nghiệp, trong những tháng đầu của cuộc  kháng  chiến  toàn  quốc,  những  xí  nghiệp  quốc  phòng  và dân  dụng  có  quy  mô  thích  hợp  đã  lần  lượt  được  xây  dựng  ở vùng  tự  do  và  vùng  căn  cứ  kháng  chiến.  Công  nghiệp  quốc phòng  là  hệ  thống  công  nghiệp  quan  trọng  nhất  trong  thời  kì kháng  chiến.  Ngay  từ  đầu  kháng  chiến,  trong  quá  trình  di chuyển cơ sở vật chất kĩ thuật đến căn cứ, Bộ Tổng chỉ huy đã xác  định  phương  hướng  tổ  chức  các  xí  nghiệp  quốc  phòng  là: Xây dựng một hệ thống các xưởng với nhiều thiết bị máy móc, công  nhân  để  chế  tạo,  sản  xuất  lớn;  xây  dựng  một  hệ  thống chuyên môn hoá, như sửa chữa vũ khí, đúc lựu đạn, nhồi lắp lựu đạn; xây dựng một số tổ, kíp sửa chữa nhỏ đi lưu động để sửa chữa vũ khí. Tính đến cuối năm 1946, ngành Quân giới đã có 20 cơ sở lớn và nhỏ với
2.500 công nhân. Đầu tháng 2-1947, Chính phủ ra quyết định thành  lập  Cục  Quân  giới  thay  cho  Cục  Chế  tạo.  Có  thể  nói, ngành  Quốc  phòng  đã  giải  quyết  thành  công  nhiều  vấn  đề  về nguyên vật liệu, kĩ thuật sản xuất, tổ chức quản lí, đào tạo cán bộ,  công  nhân.  Nhịp  độ  sản  xuất  vũ  khí,  đạn  dược  tăng  rất nhanh.  Tính  theo  trọng  lượng  tấn  và  lấy  chỉ  số  năm  1946   là
100, thì năm 1947, từ Liên khu IV trở ra là 707; năm 1948 là
1.044. Đến giữa năm 1947, ở các khu, tỉnh từ Bắc đến Nam đã xây dựng được 168 binh công xưởng, mỗi xưởng có từ 200 đến
500 công nhân. Ngoài các xưởng quân giới do Bộ Quốc phòng
tổ chức, còn có các xưởng vũ khí dân quân do các địa phương tự xây dựng và chỉ đạo. Riêng Liên khu Việt Bắc đã có tới 8 xưởng sản xuất vũ khí.

Song song với công nghiệp quốc phòng, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà chủ trương phát triển công nghiệp dân dụng,



1. Dẫn theo Viện Sử học. Lịch sử Việt Nam 9-1945 - 1950... Sđd, tr. 181.
80
 
trong đó có một số cơ sở thuộc thành phần quốc doanh. Nhiệm vụ của các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh là cung cấp giấy bạc, giấy in, giấy viết vải xà phòng, bóng đèn... phục vụ các cơ quan dân chính và các yêu cầu dân sinh.

Ngành Thủ công nghiệp được xây dựng, phát triển với quy mô nhỏ phân tán, kết hợp công cụ sản xuất thô sơ với máy móc, dựa vào dân và nguyên liệu trong nước, địa phương tự lập, sản xuất tự cấp tự túc. Nhờ đó, ngay từ đầu ngành thủ công nghiệp đã  tập  trung  giải  quyết  những  mặt  hàng  tối  cần  thiết  như  dệt, giấy, ấn loát, xà phòng, chén, bát, chiếu, đường, nước mắm...

Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #22 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:21:00 pm »

Thương  nghiệp,  tiền  tệ,  giá  cả  đã  có  sự  chuyển  hướng  cho phù hợp với thời chiến. Đầu năm 1947, Chính phủ giao cho Nha Tiếp tế thuộc Bộ Kinh tế nhiệm vụ thu mua và dự trữ thóc gạo. Cơ  quan  Phân  phối  muối  (thuộc  Bộ  Tài  chính)  tổ  chức  vận chuyển muối của Nhà nước và muối trên thị trường tự do đưa về các khu an toàn.

Về tiền tệ, ngày 15-5-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 48/SL cho  lưu  hành  bạc  Việt  Nam  (bạc  tài  chính)  trong  toàn  quốc. Khối lượng giấy bạc Đông Dương cũ của Pháp được ta thu về làm vốn trang trải cho Ngành Ngoại thương. Tuy nhiên, do hoàn cảnh  chiến  tranh,  nên  đã  hình  thành  các  khu  vực  tiền  tệ  riêng biệt.

Vùng tự do Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ lưu hành giấy bạc tài chính do Trung ương phát hành. Các tỉnh Khu V, chủ yếu là 4 tỉnh tự do (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) lúc đầu lưu hành tiền tài chính Trung ương, đầu tháng 7-1947, theo Sắc lệnh số 231/SL-M ngày 18-7-1947, Chính phủ cho phép Uỷ ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ được phát hành tín phiếu và lưu hành song song với tiền tài chính một thời gian (từ năm
1952, Chính phủ cho thu hồi bạc tài chính chỉ còn lưu hành tín phiếu). Ở Nam Bộ, do địch đánh toả ra sớm, nên tại các căn cứ kháng chiến những năm 1947, 1948, một số nơi lưu hành bạc tài chính Trung ương do Khu V chuyển vào. Ngày 11/1947, Chính
81
 
phủ  ra  Sắc lệnh  số  102/SL cho phép Nam Bộ  được  phát  hành một số loại tín phiếu có giá trị như giấy bạc Việt Nam.

d) về văn hoá, giáo dục, y tế

Đảng và Nhà nước chủ trương không để các hoạt động thuộc những  lĩnh  vực  trên  bị  đứt  đoạn  vì  chiến  tranh,  mà  phải  được tiếp  tục  phát  triển  và  phục  vụ  tốt  cho  sự  nghiệp  kháng  chiến, kiến quốc của dân tộc. Đảng và Chính phủ đã dành sự quan tâm
to lớn cho sự phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, tạo điều kiện từng bước phát triển khoa học và kĩ thuật phục vụ kháng chiến. Nghị  quyết Hội  nghị  cán  bộ  Trung ương  lần  thứ  2  (từ  ngày  3 đến 6-4-1947) chỉ rõ: Động viên tất cả giới trí thức, văn nghệ sĩ tham  gia  kháng  chiến,  dùng  các  nhà  trí  thức  văn  hoá,  chuyên môn vào ngành công tác như quân giới, quân y, giáo dục, tuyên truyền kháng chiến, chú trọng mở mang giáo dục kháng chiến... Vừa kháng chiến, dân tộc ta vừa xây dựng một nền văn hoá mới, có tính chất hợp với tinh thần dân tộc độc lập, hợp với khoa học, tiến bộ, hợp với tình hình và trình độ của đông đảo quần chúng nhân dân. Đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ ở mọi miền đất nước đã khoác ba lô lên đường kháng chiến. Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ đều hướng vào phục vụ kháng chiến theo khẩu hiệu: “Tất  cả  để  chiến  thắng".  Nhiều  truyện  ngắn,  phóng  sự,  nhạc phẩm, thơ ca được sáng tác, đề cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, niêm tin vào thắng lợi của kháng chiến. Các tác phẩm văn nghệ, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam và báo chí ở các vùng tự do đã góp phần đắc lực vào công tác tuyên truyền chủ trương của Chính phủ, cổ vũ tinh thần kháng chiến của quân và dân ta, chống lại các luận điệu tuyên truyền phản động của địch.

Ngành  Giáo  dục  đã  có  một  bước  tiến  mới  về  nội  dung, phương hướng đào tạo trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc.  Hội  đồng  Chính  phủ  xác  định  phải  tổ  chức  lại  nền  giáo dục ngay trong thời kì chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phương châm giáo đục là học đi đôi với hành, tổ chức giáo dục chính là thực hiện kháng chiến bằng văn hoá; giáo dục là

82
 
văn  hoá  của  cuộc  kháng  chiến.  Yêu  cầu  của  sự  nghiệp  kháng chiến,  kiến  quốc  đòi  hỏi  phải  sửa  đổi  chương  trình  giáo  dục, phải biên soạn sách và sửa đổi cách dạy cho phù hợp. Nội đung chương trình và phương pháp đào tạo theo phương châm thiết thực là chính, nhưng phải đề cao chất lượng..

Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #23 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:21:48 pm »

Dù chiến tranh ngày càng ác liệt và việc tổ chức lớp học ngày càng khó khăn, nhưng chính quyền các cấp và các cơ quan giáo dục đã cố gắng duy trì hệ thống giáo dục trong vùng giải phóng. Nền  giáo  dục  kháng  chiến  được  tổ  chức  khá  đa  dạng  và  toàn diện. Ngoài báo dục hệ chính quy gồm các trường phổ thông và cao  đẳng,  đại  học  còn  có  hệ  bổ  túc  văn  hoá  và  hệ  thống  các trường chính trị, quân sự.
Phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và mở rộng. Năm  1947,  Khu  X  mở  được  153  lớp,  huấn  luyện  đào  tạo
3.745 giáo viên, động viên trên 1 30.000 học viên theo học các lớp Bình dân, gấp 5 lần so với số lượng học viên năm trước. Tại các tỉnh Liên khu V và Bình - Trị - Thiên. mặc dù bị địch bao vây bắn phá, nhưng các cấp chính quyền dân chủ nhân dân đã khắc phục khó khăn để bám đất, bám dân nhằm từng bước khôi phục  các  lớp  Bình  dân  học  vụ  theo  khẩu  hiệu  "Tay  bút,  tay súng",  "Diệt  dốt  xâm  lăng".  Đến  cuối  năm  1947,  cả  nước  đã thanh  toán  nạn  mù  chữ  cho  trên  1,2  triệu  người,  trong  đó  có nhiều làng, xã ở Hải Dương và Thái Bình được công nhận xoá xong nạn mù chữ.

Ngành  Giáo  dục  phổ  thông  phát  triển  khá  nhanh.  Tính  đến tháng 6-1947, số học sinh tiểu học ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ lên tới 147.000 em, tăng 47% so với tháng 12-1946. Nội dung giảng dạy và phương thức hoạt động trong các nhà trường phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Chế độ thi cử xác nhận bậc học của học sinh và tuyển chọn học sinh vào các  lớp  trên  được  duy  trì.  Tháng  4-1947,  Chính  phủ  ra  Nghị định mở kì thi Trung học và Tiểu học trong cả nước. Đến cuối năm 1947, đã có hàng nghìn trường tiểu học và trung học thu
83
 
hút hàng vạn con em nhân dân đến lớp học.

Việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý.

Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm đến công tác đào tạo đội  ngũ  cán  bộ  y  tế  phục  vụ  kháng  chiến,  phục  vụ  nhân  dân. Một số cơ sở đại học và trung học y - dược chuyển từ Hà Nội lên  Việt  Bắc  tiếp  tục  hoạt  động.  Mạng  lưới  y  tế  địa  phương, gồm các trạm cứu thương, trạm xá, phòng phát thuốc, bệnh xá, bệnh viện từng bước hình thành: Cuộc vận động thực hiện nếp sống vệ sinh được phát động thường xuyên.

Những  thành  tựu  về  các  mặt  nói  trên  tuy  mới  là  bước  đầu, nhưng đó là những nhân tố quan trọng đảm bảo cho quân và dân
ta  giành  thắng  lợi  trên  mặt  trận  quân  sự,  trước  mắt  là  đập  tan cuộc tấn công của giặc Pháp trong Thu - Đông 1947.

IV. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947.


1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.

Cho đến giữa năm 1947, cuộc kháng chiến toàn quốc đã trải qua 5 tháng. Về cơ bản, chúng ta đã đạt được các mục tiêu chiến lược do Trung ương Đảng đề ra: "Địch thiệt hại khá nhiều ở Bắc Bộ... Chiến sự ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ khá hơn trước. Quân du kích của ta ở đó hoạt động dữ, đã thu được nhiều kết
quả khá"1.

Về phía thực dân Pháp, ở Bắc Bộ, tuy đã được tăng viện lên
11 tiểu đoàn Âu - Phi từ Pháp sang, nhưng chúng cũng chỉ đủ sức chiếm giữ một số thành phố, thị xã (Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Hải Phòng). Trên con đường giao thông chiến lược nối liền Hà Nội với Hải Phòng, tuy địch đã sử dụng một lực lượng bảo vệ khá lớn, nhưng vẫn không ngăn chặn được hoạt động của quân  ta;  không  có  cuộc  hành  quân  nào  của  địch  trên  tuyến


1. Văn kiện quân sự của Đảng 1945 - 1954... Sđd, tr. 121.
84
 
đường này được an toàn.

Về phía ta, bộ đội chủ lực vẫn được bảo toàn và phát triển cả về số lượng và trình độ tác chiến. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo vệ an toàn. Thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố  và  mở  rộng.  Như  vậy  là  âm  mưu  chiến  lược  đánh  nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp bước đầu bị thất bại. Cuộc chiến tranh vẫn kéo dài và ngày càng mở rộng đã khiến cho thực dân Pháp lâm vào tình trạng khó khăn, quân số thiếu hụt. Số quân tăng viện nhỏ giọt từ Pháp sang không sao khắc phục được tình trạng phân tán, dàn mỏng lực lượng trên các chiến trường. Một bộ phận binh sĩ địch bắt đầu tỏ ra chán ghét chiến tranh. Những vụ phản chiến xuất hiện ở một số nơi. Trước tình hình trên, thực dân Pháp âm mưu kết hợp chặt chẽ giữa thủ đoạn chính trị và biện pháp quân sự. Về chính trị, chúng vừa cố tạo ra một chính quyền tay sai bản xứ, vừa tìm cách lôi kéo, lừa bịp quần chúng bằng  một  thứ  lí  tưởng  đối  lập  với  chủ  nghĩa  yêu  nước  chân chính.  Về  quân  sự,  chúng  vừa  bình  định  miền  Nam,  vừa  tập trung lực lượng lớn đánh đòn quyết định ở miền Bắc, hòng đè bẹp tinh thần và lực lượng kháng chiến của đối phương.

Trong phiên họp ngày 9-6-1947, Hội đồng phòng thủ Đông Dương thông qua trên nguyên tắc cuộc tiến công mùa thu 1947 với mục đích: bịt kín biên giới, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc. . . loại trừ mọi sự chi viện từ ngoài vào;  truy  lùng  Việt  Minh  đến  tận  sào  huyệt,  đánh  cho  tan  tác
mọi tiềm lực kháng chiến của họ”1. Sau một thời gian ráo riết chuẩn  bị,  đến  đầu  tháng  9-1947,  kế  hoạch  tiến  công  lớn  trên chiến trường Bắc Bộ của Bộ chỉ huy Pháp càng lộ rõ. Ngày 10-
9-1947, tại Hà Đông, trong một bài diễn văn bằng những lời lẽ lừa bịp, lắt léo Bôlaec (Bollaert) thay mặt Chính phủ Pháp tuyên bố không có lí do gì để kéo dài chiến tranh, nhưng vẫn ngoan cố



1. Xalăng: Một đế quốc cáo chung: Việt Minh - địch thủ của tôi. T 2. Bản
dịch, tr.74.
85
 
không  công  nhận  độc  lập  của  Việt  Nam,  không  công  nhận Chính phủ Hồ Chí Minh. Như vậy, thực dân Pháp có ý đồ kết thúc  cuộc  chiến  tranh  bằng  một  cuộc  tiến  công  quân  sự  chớp nhoáng.

Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #24 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:25:01 pm »

Kế  hoạch  tiến  công  Việt  Bắc  do  Xalăng  (Salan),  Tư  lệnh chiến trường Bắc Đông Dương vạch ra, đến tháng 7-1947, được Chính phủ Pháp phê chuẩn. Kế hoạch này trước hết nhằm bao vây,  tiến  tới  tiêu  diệt  cơ  quan  đầu  não  kháng  chiến,  tiêu  diệt phần  lớn  bộ  đội  chủ  lực  của  ta  để  nhanh  chóng  kết  thúc  cuộc chiến tranh; dùng thắng lợi quân sự để xúc tiến thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc Đánh lên Việt Bắc, thực dân Pháp còn nhằm  khoá  chặt  biên  giới  Việt  -  Trung,  ngăn  chặn  con  đường liên lạc giữa cách mạng Việt Nam với quốc tế.

Lực  lượng  Pháp  tung  ra  trong  cuộc  tiến  công  gồm  5  trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh và 2 tiểu đoàn công binh; tất cả là 12.000 quân.

Kế hoạch tấn công của địch lên Việt Bắc được thể hiện trên hai bước:

Bước 1 : Một cuộc hành quân mang mật danh LEA, tập trung càn quét ở vùng Chợ Đồn, Bắc Kạn, Chợ Mới (nay thuộc tỉnh Bắc Kạn) :

+ Ngày 7-10, nhảy dù xuống Bắc Kạn, Chợ Mới; ngày 8-10 xuống Chợ Đồn và càn quét các vùng xung quanh; ngày 9-10, hai  cánh  quân  ở  Bắc  Kạn  và  Chợ  Đồn  sẽ  gặp  nhau  ở  Bản  Pè (cách Bắc Kạn 20 km trên hướng Bắc Kạn - Chợ Đồn).

+ Ngày 10-10, chiếm Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng tiến xuống Bắc Kạn (dự kiến ngày 12), sau đó từ Chợ Đồn tiến ra Đài Thị (Chiêm Hoá, Tuyên Quang), liên lạc với cánh quân hướng tây (Đường số 2 - sông Lô) vào ngày 13.

+ Sau khi hoàn thành tổ chức phòng thủ ở Chợ Mới (dự kiến ngày 11) sẽ tiến hành càn quét và tuần tiễu trên Quốc lộ số 3 . . .


86
 
- Bước 2: Một cuộc hành quân mang mật danh Clo - Clo, dự
kiến:

+ Chiếm Chợ Chu (dự kiến ngày 14-10) từ nhiều hướng: Từ Bắc Kạn, Chợ Mới tiến về, nhảy dù trực tiếp xuống Chợ Chu (l đại đội) và nhảy dù xuống phía nam Chợ Chu, khoá đường Chợ Chu - Thái Nguyên.
+ Sau đó sẽ càn quét trong vùng, tuỳ theo tin tình báo... 1  .

Thực hiện kế hoạch trên, từ ngày 7-10, cuộc hành quân mang mật danh "LEA" bắt đầu được triển khai:

- Khoảng 8 giờ 15 phút sáng 7-10-1947, binh đoàn quân dù do  Trung  tá  Xôvanhắc  (Sauvagnac)  chỉ  huy  lần  lượt  đổ  quân xuống  thị  xã  Bắc  Kạn,  nơi  chúng  nghi  có  cơ  quan  đầu  não kháng chiến. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, chúng thả tiếp một bộ phận quân dù xuống thị trấn Chợ Mới nhằm khống chế tuyến đường Thái Nguyên đi Bắc Kạn và lấy đó làm nơi tập kết những đạo quân lùng sục cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Ngày hôm sau (8-10), chúng cho quân nhảy dù xuống Chợ Đồn (Bắc Kạn).

Trên đường bộ, sáng 7-10-1947, binh đoàn bộ binh thuộc địa do Trung tá Bôphơrê (Beaufré) chỉ huy, xuất phát từ Lạng Sơn theo Đường số 4 tiến lên chiếm Cao Bằng, rồi một bộ phận tiến xuống  Bắc  Kạn,  vòng  sang  Chợ  Đồn,  lên  Chiêm  Hoá  (Tuyên Quang), hình thành một gọng kìm lớn ở hướng đông bắc.

Ngày 9-10, binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa và lính thuỷ đánh bộ, do Trung tá Commuynan (Communal) chỉ huy, từ Hà Nội theo sông Hồng lên Việt Trì (ngày 11-10), rẽ sang sông Lô lên  Tuyên  Quang  (ngày  13-10)  và  đến  Khe  Lau  (nơi  hợp  lưu giữa sông Lô và sông Gâm), quân Pháp ngược dòng sông Gâm


1.  Dẫn  theo:  Lịch  sử  Bộ  Tổng  Tham  mưu  trong  kháng  chiến  chống  Pháp
(1945-1954). Ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử Bộ Tổng Tham mưu. 1991, tr.
199.
87
 
lên Chiêm Hoá. Hai cánh quân thuỷ, bộ sẽ gặp nhau tại Đài Thị
(cách Chiêm Hoá 12 km về phía đông bắc).

Như  vậy,  khu  vực  càn  quét,  đánh  phá  của  địch  nằm  trong vùng tứ giác Tuyên Quang - Đài Thị - Bắc Kạn - Thái Nguyên, rộng khoảng 3.600 km2; trong đó, khu vực trọng điểm là Bắc Kạn - Chợ Chu - Chợ Mới. Cơ quan lãnh đạo kháng chiến tập trung ở phía tây nam Chợ Chu sát trung tâm càn quét của địch, nằm trong tình thế bị uy hiếp.

Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #25 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:25:22 pm »

2- Quân và dân ta chiến đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc của địch

Ngày  15-9-1947,  Ban  Thường  vụ  Trung  ương  Đảng  ra  bản Chỉ thị: Bôlaec nói gì - Ta phải làm gì?. Sau khi vạch trần âm mưu của Bôlaec, Chỉ thị nêu những nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta. Ban Thường vụ Trung ương nhắc nhở quân và dân cả nước tích cực chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công Thu - Đông của giặc Pháp, ra sức làm vườn không nhà trống, xây dựng làng chiến đấu và mở rộng tuyên truyền, vận động binh lính địch.

Từ ngày 27 đến ngày 29-9-1947, Bộ Tổng chỉ huy triệu tập Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4 để thống nhất nhận định về hướng tiến công của địch. Hội nghị nhận định: "Bắc Bộ sẽ là chiến  trường  chính,  nếu  địch  không  mạo  hiểm  thì  đánh  đồng bằng, nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc... Tấn công lên Việt Bắc, chúng sẽ chiếm các tỉnh Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, nối liền đường Hà Nội - Lạng Sơn..." 1.Hội nghị chủ trương nắm vững bộ đội, giữ gìn chủ lực, tiêu diệt từng
bộ phận quân địch, bảo vệ căn cứ, thực hiện phối hợp giữa các khu  và  phối  hợp  chiến  lược  toàn  quốc,  phá  âm mưu  lập  ngụy
quyền của địch; kiên quyết thực hiện đánh du kích chiến và vận
động chiến, dùng đơn vị đại đội để hoạt động trên chiến trường



1. Dẫn theo: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954.
Tập 1. Sđd, tr. 313.
88
 
của mỗi địa phương, tập trung từng tiểu đoàn chủ lực cơ động đánh vận động chiến, tránh phòng ngự chính diện, bộ đội phải ở lại sau lưng địch, hoá chỉnh vi linh, hoá linh vi chỉnh, hoá trang lẫn vào dân khi cần. . .

Ngày 4-10-1947, Bộ Tổng chỉ huy ra mệnh lệnh gửi các Khu, khẳng định "thế nào địch cũng có những cuộc hành binh lớn"; có thể “quét vùng đồng bằng Bắc Bộ, đánh lên căn cứ địa Việt Bắc". Mệnh lệnh nêu rõ phương án tác chiến dối với từng tình huống và dự kiến nếu đánh Việt Bắc, hướng tiến công của địch
sẽ  là  Phúc  Yên,  Thái  Nguyên,  Phú  Thọ,  Tuyên  Quang,  Vĩnh Yên;  hướng  kiềm  chế  hay  phối  hợp  ở  phía  tây  là  vùng  Hoà Bình, Sơn La; phía Đông là Bắc Giang, Lạng .Sơn. Bộ Tổng chỉ huy giao nhiệm vụ cho các Khu I, X, XII và các đơn vị chủ lực thuộc  Bộ  sẵn  sàng  đón  đánh  địch,  đồng  thời  chỉ  thị  cho  các chiến trường toàn quốc đánh mạnh để kiềm chế địch, phối hợp với Việt Bắc.

Tối 7-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các  Khu  uỷ  và  Quân  khu  uỷ:  "Sáng  ngày  7-10,  Pháp  nhảy  dù chiếm Bắc Kạn, Chợ Mới, mưu tấn công Việt Bắc. Vậy Đoàn thể ra lệnh cho các Khu uỷ và Quân khu uỷ tích cực chỉ huy bộ đội định mạnh để chia sẻ lực lượng địch và phá kế hoạch mùa khô của chúng" 1.

Ngày  9-10-1947,  Ban  Thường  vụ  Trung  ương  Đảng  ra  Chỉ thị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh uỷ Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách  quân, chính, dân Bắc Kạn. Bản Chỉ thị nêu lên nhiệm vụ  trước  mắt  của  tỉnh  lúc  này  là  dùng  lực  lượng  bộ  đội,  dân quân  du  kích  và  toàn  dân  bao  vây  địch  chung  quanh  tỉnh  lị, "giam chân địch ở đó, không cho chúng chiếm toả ra, đặc biệt ngăn địch trên mấy đường này: Đường Bắc Kạn - Chợ Đồn, Bắc Kạn - Chợ Rã, Bắc Kạn - Cao Bằng, Bắc Kạn - Chợ Mới, Bắc



1.  Dẫn  theo:  Lịch  sử  Bộ  Tổng  Tham  mưu  trong  kháng  chiến  chống  Pháp.
Sđd, tr. 192.
89
 
Kạn  -  Na  Rì,  Bắc  Kạn  -  Chợ  Chu”  1.  Ngày  15-10-1947,  Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Phải phá tan cuộc cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp. Chỉ thị vạch rõ phương hướng  hành  động  cụ  thể  của  quân  và  dân  ta  là  bao  vây  giam chân địch tại những căn cứ chúng vừa chiếm, triệt để làm vườn không  nhà  trống  chung  quanh  chỗ  địch  chiếm  đóng;  chặt  đứt giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế.

Nghiên cứu thế và lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ Tổng chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên ba mặt trận:

- Ở mặt trận Sông Lô - Chiêm Hoá, quân và dân ta liên tục chặn  đánh  địch;  điển  hình  là  các  trận  Đoàn  Hùng,  Khoan  Bộ, Khe Lau. Nhiều tàu chiến, ca nô địch bị bắn cháy.

- Trên mặt trận Đường số 4 diễn ra nhiều trận phục kích, tiêu biểu là trận đánh tại đèo Bông Lau (30-10-1947): Phá huỷ 27 xe cơ giới, diệt và bắt 240 địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Đây là trận đánh giao thông điển hình trên chiến trường Bắc Bộ. Đường số 4 bị uy hiếp, trở thành con đường chết đối với giặc Pháp.

- Ở mặt trận Đường số 3, tại Bắc Kạn, Chớ Mới, quân và dân
ta nhanh chóng khắc phục tình trạng bị động, lúng túng ban đầu, hình thành thế trận bao vây, chia cắt địch. Sau khi Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Khu I điều thêm lực lượng về Bắc Kạn, hoạt động của quân ta tại mặt trận này tăng dần lên. Các đại đội độc lập cùng dân quân, tự vệ liên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, Bạch Thông; phục kích địch trên các  trục  đường  Bắc  Kạn  đi  Chợ  Đồn,  Phủ  Thông,  Chợ  Mới.



1. Văn kiện Đảng 1945 - 1954. T2. Q1: 1946 - 1948. Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng trung ương, Hà Nội, 1979, tr. 131.


90
 
Vừa  đánh  địch,  ta  vừa  khẩn  trương  tổ  chức  di  chuyển  các  cơ quan,  công  xưởng,  kho  tàng  đến  những  nơi  an  toàn.  Phối  hợp với  Việt  Bắc,  quân  và  dân  cả  nước  đẩy  mạnh  các  hoạt  động kiềm chế địch. Ở Hà Nội, Sài Gòn, những tên Việt gian đầu sỏ Trương  Đình  Tri,  Nguyễn  Văn  Sâm  lăm  le  đứng  ra  lập  chính phủ bù nhìn, đã bị trừng trị đích đáng.
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #26 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:25:42 pm »

Quân và dân Nam Bộ liên tiếp diệt từng tốp lính địch. Tây Nguyên phát triển công tác vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở đến tận buôn làng, thành lập căn cứ kháng chiến ở nhiều nơi. Đồng bằng sắc Bộ thực hiện tổng phá tề khu vực dọc Đường số
5.

Trước  tình  thế  bế  tắc,  Bộ  chỉ  huy  Pháp  quyết  định  vừa  tổ chức  rút  lui  vừa  huy  động  thêm  lực  lượng  cùng  với  các  lực lượng đã tham gia Kế hoạch LEA mở cuộc càn quét khu tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương, trên một  phạm  vi  rộng  hơn  8.000  km2.  Kế  hoạch  này  mang  tên Xanhtuya (Ceinture), nhằm tiếp tục "lùng bắt kì được cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt chủ lực Việt Minh, phá nát căn cứ địa".  Hướng  càn  quét  chủ  yếu  của  địch  là  Thái  Nguyên,  hai hướng khác là Sông Thương - Yên Thế và khu vực Chợ Mới - Tuyên Quang xuống đồng bằng. Ngày 20-11, đợt tiến công mới của địch bắt đầu.

Nhận thấy hiện tượng địch chuẩn bị rút quân, ngày 10 và 29-
11, Bộ Tổng chỉ huy kịp thời chỉ thị cho các mặt trận bố trí lại lực lượng, bám sát hoạt động của địch, không bỏ lỡ thời cơ diệt địch,  chống  khuynh  hướng  "ăn  to", coi  thường  trận  nhỏ;  đồng thời  phát  động  rộng  rãi  phong  trào  khắp  nơi  đánh  giặc,  khiến cho quân Pháp đi tới đâu cũng bị chặn đánh.

Trên tất cả các hướng địch hành quân, chúng đều bị quân ta chặn  đánh  quyết  liệt  Tại  các  địa  điểm:  Bình  Ca,  La  Hoàng (Tuyên  Quang),  Đèo  Giàng  (Bắc  Kạn),  Quán  ông  Già,  Phú Minh, Bản Ngoại, Yên Rã
(Đại  Từ,  Thái  Nguyên)  đều  vang  lên  tiếng  súng  diệt  địch.
91
 
Các  cánh  quân  Pháp  đều  bị  thiệt  hại  nặng  nề  trên  đường  rút chạy.

Do không đạt được mục tiêu của cuộc tấn công, lại bị thiết hại nặng nề , ngày 21-12-1947, đại bộ phận quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, đánh đấu thất bại chiến lược đầu tiên trong cuộc chiến tranh xam lược của chúng.

Trải qua 75 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, vận dụng nghệ thuật  tác  chiến  của  chiến  tranh  nhân  dân  một  cách  sáng  tạo, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 6.000 địch, bắn rơi 16 máy bay; bắn cháy, bắn chùn 11 ca nô, tàu chiến; phá huỷ hàng trăm xe quân sự; tịch thu của địch hơn 100 khẩu pháo, súng cối các loại, hàng ngàn súng bộ binh cùng với hàng chục tấn  quân  trang,  quân  dụng.  Việt  Bắc  trở  thành  mồ  chôn  giặc Pháp.

Mặc dù quân Pháp còn kiểm soát đoạn đường biên giới Lạng Sơn - Cao Bằng, tuyến Đường số 3 từ Cao Bằng về Bắc Kạn và phá hoại được một số kho tàng, thị trấn, làng bản của ta, nhưng chúng đã không thực hiện được những mục tiêu chiến lược của cuộc tiến công.

Sau thất bại trong Chiến dịch Việt Bắc, tinh thần chiến đấu của  binh  lính  Pháp  sa  sút,  giảm  lòng  tin  vào  sự  chỉ  huy  và phương tiện chiến tranh hiện đại. Giới cầm quyền thực dân lục đục, mâu thuẫn; nước Pháp đứng trước những khó khăn mới.

Chiến thắng Việt Bắc chứng minh đường lối kháng chiến do Đảng  và  Chính  phủ  đề  ra  là  đúng  đắn;  đồng  thời  cũng  khẳng định quân và dân ta hoàn toàn có khả năng đập tan một cuộc tấn công quân sự quy mô lớn của giặc Pháp.

Từ  sau  chiến  thắng  Việt  Bắc  thu  -  đông  1947,  so  sánh  lực lượng  giữa  hai  bên  trên  chiến  trường  đã  có  sự  thay  đổi  theo chiều  hướng  ngày  càng  có  lợi  cho  ta.  Chiến  lược  đánh  nhanh thắng  nhanh,  với  đòn  quyết  định đè  bẹp  đối phương,  kết  thúc chiến tranh, dựng lại nền thống trị của thực dân Pháp đã hoàn

92
 
toàn phá sản. Từ đó, thực dân Pháp buộc phải chấp nhận đánh lâu dài với ta.
Cũng qua cuộc đọ sức này, quân và dân ta càng hiểu rõ hơn
đối tượng tác chiến, tích luỹ thêm kinh nghiệm chiến đấu.

Chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 là thắng lợi chung của quân và dân cả nước, cổ vũ mạnh mẽ toàn quân và toàn dân ta tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến, giành thắng lợi ngày càng
to lớn hơn.

Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #27 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:26:04 pm »

V-  Đẩy  mạnh  kháng  chiến  toàn  dân,  toàn  diện  chống  thực dân Pháp xâm lược


1. Âm mưu của thực dân Pháp sau thất bại ở Việt Bắc

Sau  thất  bại  trong  cuộc  tấn  công  Việt  Bắc,  thực  dân  Pháp buộc phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Chúng thay đổi lại việc  bố  trí  lực  lượng,  thay  đổi  cách  đóng  quân,  thực  hiện  âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt", "Lấy chiến tranh nuôi chiến  tranh".  Trong  vùng  Pháp  chiếm đóng,  chúng  ra  sức  xây dựng chính quyền bù nhìn và thành lập một đội quân người bản xứ để làm công cụ phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược.

Ngày 23-5-1948, Pháp chấp nhận đề nghị của Bảo Đại lập ra “chính phủ trung ương lâm thời của Việt Nam", do Nguyễn Văn Xuân  làm  Thủ  tướng  kiêm  Bộ  trưởng  Ngoại  giao  và  Quốc phòng. Nhưng chỉ chưa đầy một tháng sau khi thành lập, Chính phủ Nguyễn Văn Xuân đã phải làm lễ từ chức vì quá yếu kém và thối nát. Từ năm 1949, tình hình quốc tế có nhiều thay đổi, đặc biệt là sự ra đời nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (1-10-
1949) đã làm cho đế quốc Mĩ lo sợ ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng  sản  ở  khu  vực  châu  Á,  nên  tiến  cách  ép  Pháp  phải  nới thêm quyền cho Bảo Đại; đồng thời tăng cường can thiệp sâu vào  cuộc  chiến  tranh  Đông  Dương.  Ngày  8-3-1949,  tại  điện Êlydê (Élyséc) ở Phu, Tổng thống nước Cộng hoà Pháp kí với Bảo Đại một hiệp định dưới hình thức trao đổi thư. Theo hiệp
93
 
định  này,  Pháp  khẳng  định  Việt  Nam  có  toàn  quyền  cai  trị nhưng  phải  có  cố  vấn  chính  trị  Pháp  bên  cạnh;  Việt  Nam  có quân đội riêng nhưng do người Pháp huấn luyện; quân đội Pháp có quyền đóng trên
đất việt Nam và được toàn quyền tự do hành động; chính phủ Bảo  Đại  chỉ  được  lập  Đại  sứ  quán  tại  Thái  Lan,  Trung  Hoa Quốc dân đảng và Toà thánh Vaticăng...

Ở trong  nước,  chính  phủ  bù  nhìn  có  một  số  hoạt  động  như củng cố lại Bộ Tư pháp, quy định sự hạn chế của Sở Kinh tế, đặt một số loại thuế mới, mở phòng thông tin; đồng thời mở chiến dịch tuyên truyền nhằm nâng cao uy tín cho Bảo Đại, cử phái đoàn sang Pháp để đón Bảo Đại về nước. Trong tháng 5 và 6-
1949, chính phủ bù nhìn từ cấp trung ương xuống đến xã và các "xứ tự trị" đều tập trung gây uy tín cho Bảo Đại. Ở một số nơi, chúng  tổ  chức  phát  gạo,  vải,  quần  áo  cho  dân  nghèo,  phóng thích một số phạm nhân, tổ chức mít tinh, diễn thuyết ca ngợi Bảo Đại.

Đứng trước tình hình nội bộ mâu thuẫn, các phe phái tranh giành quyền lực, ngày 1-7-1949, Bảo Đại đứng ra lập chính phủ,
tự xưng là Quốc trưởng kiêm Thủ tướng "Quốc gia Việt Nam"; Nguyễn Văn Xuân làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng. "Cái Quốc gia Việt Nam " này không có cơ sở nhân dân, không có Quốc hội, ngay một Quốc hội tư vấn cũng không có, không  có  Hiến  pháp  và  trong  nhiều  năm,  không  có  cả  ngân sách.  Một  vài  cái  gọi  là  Đảng  chính  trị  của  nó  chỉ  là  những đoàn thể, những bè phái lộng quyền, những môn khách của các nhân vật tai mắt. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào quân đội, cảnh
sát và ngân khố của nước Pháp" 1. Sau khi thành lập chính phủ, Bảo Đại đã kí một số đạo dụ, trong đó có Đạo dụ số 1 (l-7-1949)
về tổ chức và điều hành các cơ quản công quyền ở Việt Nam và
Đạo  dụ  số  2  (1-7-1949)  về  Quốc  hội  lập  hiến,  Quốc  trưởng,



1. Philippe Devillers: Paris - Sài Gòn - Hà Nội... Sđd, tr. 493.
94
 
Chính phủ và Hội đồng tư vấn. Đạo dụ số 2 còn quy định: Về phương diện hành chính, lãnh thổ Việt Nam có 3 phần: Bắc Kì, Trung, Nam Việt Tại mỗi phần có Thủ hiến đại diện cho Chính phủ Trung ương, có các cấp hành chính tỉnh, quận, tổng, xã...
Ngày 21-1-1950, trước sức ép của Mĩ, Pháp để cho Bảo Đại thành lập chính phủ mới do Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Bộ Ngoại giao và Nội vụ. Phan Huy Quát làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Bộ Quốc phòng.

Cũng giống như chính phủ Nguyễn Văn Xuân trước đây, chỉ một thời gian ngắn sau khi thành lập, chính phủ Nguyễn Phan Long đã phải giải tán do quá ngả theo Mĩ và nội bộ mâu thuẫn tranh  giành  nhau  về  địa  vị  và  quyền  lợi.  Ngày  6-5-1950,  một chính phủ mới được thành lập, do Trần Văn Hữu làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng.

Cùng với việc thành lập chính phủ bù nhìn trung ương, thực dân tháp tăng cường bộ máy chính quyền tay sai cấp cơ sở.

Tại  cấp  tỉnh,  đến  đầu  năm  1948,  tất  cả  các  tỉnh  lị  bị  Pháp chiếm  đóng  đều  đã  lập  Hội  đồng  an  dân.  Quyền  hạn  của  Hội đồng an dân được nới rộng hơn so với trước. Theo quy định của cuộc họp Hội nghị hành chính ngày 8-11-1947 của Hội đồng an dân, các chức vụ Đại lí, Chủ tịch, Tổng đốc từ nay được gọi là Tỉnh trưởng cai quản một tỉnh, quận trưởng cai quản một huyện, đồng thời có một cố ván người Pháp ở bên cạnh.

Ở  các  tỉnh  và  thành  phố  lớn  như  Hải  Phòng,  Hải  Dương, Nam Định,  Quảng  Bình,  Quảng  Trị,  Khánh  Hoà,  Ninh  Thuận, Bình thuận, Long An..., Pháp đặt Toà cố vấn chính trị bên cạnh Toà tỉnh trưởng. Giúp việc cho Toà tỉnh trưởng có các phòng và các sở chuyên môn như: Sở Đoàn (Sở thuế), Sở Ngoại kiều, Sở Địa  chính,  Sở  Kinh  tế,  Sở  Kho  bạc,  Sở  Cảnh  sát...  Ở các  tỉnh nhỏ thường không có Toà cố vấn chính trị, mà những viên quan chỉ huy quân sự người Pháp của một khu vực (secteur) hay một vùng (zone) trực tiếp ra mệnh lệnh cho Tỉnh trưởng thi hành các quyết định, chỉ thị của Pháp.
95
 
Tại cấp huyện, ở những nơi Pháp chưa lập được các hội tề thì gọi  là  Huyện  trưởng  hay  Trưởng  khu  (Chef  secteur).  Còn  ở những nơi đã lập xong hội tề thì gọi là Quận trưởng, có nơi gọi
là Tri huyện hay Tri phủ.

Ở cấp tổng, thời gian này Pháp cho đặt lại chức Chánh tổng, Phó tổng; có nơi đặt thêm chức Tuần tổng hay Chánh, Phó tổng đoàn.

Ở các xã, thực dân Pháp kết hợp các hoạt động quân sự với việc dụ dỗ, lừa phỉnh, mua chuộc nhân dân để thành lập hội tề. Hội  tề  lấy  tên  là  Hội  đồng  hương  chính,  thành  phần  gồm  có: Tiên chỉ, Thứ chỉ, Lí trưởng, Phó lí, Thư kí, Thủ quỹ, Trương tuần. Nhiệm vụ của Hội đồng hương chính chủ yếu về kinh tế và xã hội, trông nom trật tự trị an, canh phòng, kê khai số trâu bò, thóc  gạo,  nhân  khẩu  trong  xã,  thi  hành  những  mệnh  lệnh  của Pháp, tiếp tế và do thám chỉ điểm cho Pháp. Thông qua hội tề, thực dân Pháp nhằm chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, gây cơ sở và thanh thế cho chính phủ bù nhìn. Hội tề còn là tai, mắt, dò xét cơ sở kháng chiến. Ngoài ra, hội tề còn giúp Pháp tuyển mộ binh lính và làm tấm bình phong bảo vệ đồn bốt.
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #28 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:26:25 pm »

Bằng những hoạt động càn quét, khủng bố gắt gao kết hợp với những thủ đoạn mua chuộc, lừa bịp, thực dân Pháp đã lập được hội tề ở rất nhiều nơi. Tính đến tháng 2-1948, ở Hà Đông đã  có  74  làng  lập  hội  tề;  trong  tỉnh  Hải  Dương,  huyện  Cẩm Giàng có 81 xã, huyện Kim Thanh có 12 xã, huyện Bình Thanh có 5 xã, huyện Gia Lộc có 9 xã... lập hội tề. Có thể nói, hầu hết các địa phương bị thực dân Pháp chiếm đóng đã lập hội tề.

Như vậy, cho đến đầu năm 1948, cùng với việc tăng cường bình định củng cố những vùng đã chiếm đóng, thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm các vùng đồng bằng và một số tỉnh vùng trung  du  Bắc  Bộ,  vùng  ven  biển  Trung  Bộ,  Nam  Bộ  và  cao nguyên  Trung  Bộ.  Đánh  chiếm  tới  đâu,  chúng  tiến  hành  lập chính quyền bù nhìn tới đó. Nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, thực dân Pháp ráo riết thực hiện chính sách chia để trị. Từ tháng
96
 
4 đến tháng 7-1948,
chúng thành lập các "xứ tự trị " ở các vùng dân tộc thiểu số: Xứ Nùng tự trị (4-1948) ở vùng Tiên Yên, Móng Cái; Liên bang Thái (4-1948) ở Sơn La, Lai Châu; Xứ Mường tự trị (5-1948) ở Hoà Bình; Xứ Tây Kì tự trị (6-1948) ở Tây Nguyên; Liên bang Tày (7- 1948) ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Đứng đầu các "xứ tự trị"
là các thổ ty, lang đạo, nhưng quyền hành thực tế vẫn nằm trong tay những cố vấn người Pháp. Cùng với việc thành lập các "xứ
tự trị", Pháp còn cho lập các "Đội nghĩa binh áo chàm", các "đội quân tự trị", phong cấp bậc cao cho những tên cầm đầu. Chúng tìm cách lôi kéo, mua chuộc các đạo Cao Đài, Hoà Hảo và một bộ phận của Bình Xuyên, sử dụng lực lượng vũ trang tôn giáo chống  lại  kháng  chiến.  Đầu  năm  1950,  theo  lệnh  của  Pháp, chính phủ bù nhìn tiến hành cải cách hành chính từ cấp xã lên cấp quận. Tổ chức hành chính trong xã được quy định như sau: Mỗi xã gồm một Xã uỷ (trước gọi là Lí trưởng) một Phó xã uỷ (trước là Phó lí) đảm nhiệm công việc hành chính trong xã, quan hệ trực tiếp với các cấp Tổng, Bang, Quận tuỳ theo từng trường hợp công việc. Đối với những xã có nhiều thôn hay nhiều xóm thì bầu thêm Trưởng thôn và Trưởng xóm để giúp Chánh và Phó xã uỷ. Ngoài ra còn có Thư kí giúp việc văn phòng cho Xã uỷ, Hộ lại trông coi việc hộ tịch, Chưởng bạ phụ trách việc điền thổ kiến  diện. Bên cạnh Chưởng  bạ  thành lập  một  Hội  đồng  nông biểu, có Chủ tịch, Phó Chủ tịch là Hội trưởng và Hội phó, một thư kí kiêm thủ quỹ. Ở mỗi xã còn thành lập một Hội đồng quản trị hành chính. Bên cạnh Hội đồng quản trị hành chính có Ban
tư vấn xã với số nhân viên không quá 10 người. Ban tư vấn có nhiệm vụ đề xuất sáng kiến cho Hội đồng quản trị hành chính.

Mỗi tổng có một Tổng uỷ (trước gọi là Chánh tổng) và Tổng tuần do các xã bầu lên. Giúp việc có 1 thư kí văn phòng và 1 thư
kí  kế  toán  lo  việc  sổ  sách  thu  chi  và  phụ  cấp  hằng  tháng  cho tổng dũng. Ngoài ra còn có 1 Trưởng ban Bình dân giáo dục, 1
Phó  Trưởng  ban  và  4  kiểm  soát  viên  Bình  dân  giáo  dục.  Bên cạnh Tổng uỷ có một  Hội đồng tư vấn để giải quyết  mọi  việc

97
 
trong tổng và làm cố vấn cho Tổng uỷ và Tổng tuần.

Bên cạnh việc cải cách hành chính, chính quyền bù nhìn còn tiến hành nhiều biện pháp củng cố bộ máy chính quyền các cấp. Chúng  cho  quân  lính  tăng  cường  lùng  sục  bắt  bớ,  cưỡng  ép thanh niên đi lính cho Pháp; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền để  nâng  cao  uy  tín  cho  Bảo  Đại.  Mặt  khác,  thực  dân  Pháp  và chính  quyền bù nhìn  đã  thành  lập nhiều  tổ  chức  chính  trị, tôn giáo, đảng phái phản động để phá hoại kháng chiến, gây chia rẽ, mất  đoàn  kết trong nhân dân. Trong số  đó,  đáng chú ý là Đại Việt Quốc dân đảng gồm những phần tử thân Mĩ do Lê Thăng, Nguyễn  Tôn  Hoàng,  Phan  Huy  Quát...  cầm  đầu;  Phục  Quốc đồng minh do Nông Quốc Long cầm đầu; Việt Nam Quốc dân đảng  do  Vũ  Hồng  Khanh  cầm  đầu,  Việt  Nam  quốc  gia  phục hưng đảng do Ngô Đình Diệm cầm đầu, v.v...

Sau thất bại ở Việt Bắc thu - đông 1947, thấy rõ cuộc chiến tranh sẽ kéo dài, không thể sớm kết thúc, thực dân Pháp quyết định tập trung lực lượng để bình định, củng cố những vùng đã chiếm đóng. Thời kì này, quân Pháp tiếp tục đánh sâu vào vùng nông thôn của ta, mở rộng phạm vi chiếm đóng, khống chế phần lớn vùng đồng bằng Bắc Bộ, tuyến ven biển và Nam Trung Bộ. Cùng với các hoạt động ra sức đánh phá cơ sở cách mạng, lùng sục vây bắt cán bộ, du kích, đốt  phá  cướp bóc tài sản, cố  sức giành dân, chúng cho xây đựng rất nhiều đồn bốt, tháp canh.

Ở Nam Bộ,  trong  năm 1948  Pháp đã  xây  dựng  được  2.000
tháp canh. Trên các tuyến đường giao thông quan trọng, cứ từ 1
- 2 khi lại có 1 tháp canh.

Ở Bắc Bộ, Pháp xây dựng các cứ điểm nhỏ, với số quân đông hơn  trước.  Mật  độ  các  cứ  điểm  cũng  tăng  lên.  Ở  Cao  -  Bắc  - Lạng, đầu năm 1948 có 68 vị trí, đến giữa năm đã tăng lên 79 vị
trí với số quân chiếm đóng từ 2.500 lên 6.900 tên. Ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Pháp cho xây dựng thêm 100 cứ điểm. Ở Liên khu  III,  Pháp  cũng  cho  xây  dựng  thêm  53  cứ  điểm,  số  quân


98
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #29 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:26:48 pm »

chiếm đóng từ 12.000 lên 25.000 tên 1. Thực dân Pháp còn tăng cường tuyển tính người Việt Nam vào các đội hương dũng (có nơi  gọi  là  lính  dõng,  thân  binh,  bảo  an  binh...)  làm  nhiệm  vụ canh gác, tuần phòng tại các làng xã. Mỗi khi kiểm soát được vùng nào là quân Pháp tiến hành ngay việc bắt tính để tổ chức việc canh gác, dò xét, tuần tra giữ làng xã. Trên thực tế thực dân Pháp  và  chính  quyền  bù  nhìn  tay  sai  không  đạt  được  kết  quả mong muốn trong việc xây dựng lực lượng hương dũng, do ta tổ chức tốt việc tuyên truyền, vận động thanh niên bỏ trốn. Vì vậy,
số hương dũng mỗi tổng chỉ có từ 10 đến 15 người; đa số tỏ thái độ lừng chừng, chỉ trừ một số ít là hung hăng chống phá cách mạng.  Song  song  với  việc  đẩy  mạnh  chính  sách  "Dùng  người Việt đánh người Việt", thực dân Pháp tăng cường các hoạt động cướp  bóc,  vơ  vét,  thực  hiện  chính  sách  lấy  chiến  tranh  nuôi chiến tranh".

Ở miền Tây và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, quân Pháp cho lính đi gặt lúa của dân, tổ chức thu mua thóc gạo. Ở Trung Bộ, địch  làm  rất  quyết  liệt  việc  tập  trung  lúa  và  cướp  lúa  về  đồn. Bằng cách cướp bóc và tập trung lúa, chúng đã thu được một số lượng lúa khá lớn. Riêng tỉnh Khánh Hoà, năm 1949 chúng lấy
6.000 tấn, năm 1950 chúng cướp 80% mùa màng.

Thực dân Pháp đặc biệt chú trọng việc thu thuế. Chúng tiếp tục duy tự chế độ thuế trực thu và thuế gián thu; đồng thời đặt thêm nhiều thứ thuế mới hết sức nặng nề. Ngoài thuế điền thổ là các thứ thuế cư trú, thuế nước, thuế hằng tháng, thuế môn bài, thuế chứng thư, thuế thổ trạch, thuế bưu phí, thuế chợ, thuế sát sinh, thuế xe, thuế xa xỉ, thuế mạt chược, thuế nhà vệ sinh, thuế lấy rác và xử lí đổ rác thải, thuế giữ các súc vật và đồ đạc lưu kho...

Do  bị  khủng  bố,  bắt  bớ,  cướp  bóc  vơ  vét,  nhìn  chung  đời sống nhân dân trong các vùng địch tạm chiếm hết sức khó khăn.


1. Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam (9-1945 – 1950) Sđd, tr. 285.
99
 
Nếu tính trung bình so với năm 1939, giá sinh hoạt của giới thợ thuyền người Việt Nam cuối năm 1948 đắt hơn 115 lần 1.Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các phong trào đấu tranh của nhân dân ta dưới nhiều hình thức phong phú, hoặc đấu tranh công khai, hoặc bí mật cất giấu thóc gạo, tài sản đưa ra vùng tự
do  ủng  hộ  kháng  chiến,  chống  lại  chính  sách  thuế  khoá,  từng bước làm thất bại âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt", "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp.

2- Chủ trương và hoạt động đẩy mạnh kháng chiến của ta sau chiến thắng Việt Bắc

Trước âm mưu và hành động mới của thực dân Pháp, ngày
15-1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng nhằm đánh giá tình hình cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ cho giai đoạn mới.

a) về chính trị

Đảng và Nhà nước chủ trương tăng cường đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, dân nhất trí; chống âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp, phá tan chính quyền bù nhìn và tay sai; củng cố bộ máy Nhà nước theo hướng tập trung, thống nhất để điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Khẩu hiệu lúc này vẫn là Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết.

Trong  việc  củng  cố  và  mở  rộng  khối  đại  đoàn  kết  dân  tộc, điều quan trọng là phải chấn chỉnh mặt trận dân tộc thống nhất. Việt Minh và Liên Việt là hai hình thức mặt trận thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, nhưng từ năm 1948 đã xảy ra tình trạng chồng chéo, không thống nhất hoạt động giữa hai mặt trận. Vì vậy Đảng chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành một  mặt  trận duy nhất,  trong đó, Liên Việt là hình thức tổ chức Mặt trận và Việt Minh là bộ phận nòng cốt.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM