HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #20 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:20:01 pm » |
|
Công tác vận động đoàn kết với giới trí thức, đoàn kết các dân tộc và tôn giáo cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng cường khối đoàn kết toàn dân, làm thất bại chính sách "dùng người Việt đánh người Việt”của thực dân Pháp.
b) về quân sự :
Khi cả nước bước vào kháng chiến, vấn đề xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang trở thành một nhiệm vụ cấp bách, không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt mà còn đảm bảo cho kháng chiến lâu dài.
Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (l-1947) nêu rõ: "Trong các khu cần phải tổ chức ngay bộ đội bổ sung, việc tuyển lựa bộ đội này phải được Bộ Quốc phòng chuẩn y trước..."1.
Ngày 12-2-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 16/SL thành lập Phòng Dân quân, trực thuộc Cục Chính trị. Tiếp theo, ngày 19- 2, Bộ Quốc phòng ra Thông tư quy định mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân, tự vệ, du kích. Hàng chục vạn quần chúng, thuộc đủ các lứa tuổi, hăng hái gia nhập dân quân, tự vệ và du kích. Đến cuối năm 1947, tại nhiều địa phương, ở các xã đã có từ 1 đến 2 trung đội dân quân tự vệ; ở huyện có từ 1 đến 2 trung đội du kích thoát li, ở tỉnh có từ 1 đến 2 đại đội du kích thoát li. Với phong trào "cướp vũ khí địch đánh địch", nhiều đơn vị dân quân, tự vệ và du kích dần dần tự trang bị được vũ khí tốt hơn.
Tháng 3-1947, Chính phủ quyết định đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia thành Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam; đồng thời quyết định thành lập các ban chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội, Xã đội thuộc Uỷ ban
1. Văn kiện quân sự của Đảng 1945-1950... Sđd, tr. 83. 77 kháng chiến các cấp. Việc huấn luyện được tổ chức thường xuyên và đi dần vào nền nếp. Tại Việt Bắc, Khu IV, Khu V và các căn cứ thuộc Nam Bộ có chế độ huấn luyện thường kì cho dân quân, tự vệ và du kích.
Từ mùa hè năm 1947, kháng chiến mở rộng, hàng chục vạn quần chúng thuộc mọi tầng lớp hăng hái gia nhập dân quân, tự vệ và du kích. Hàng nghìn làng kháng chiến bước đầu được xây dựng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đặc biệt coi trọng. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị quân sự lần thứ 3 (6-1947), Bộ Tổng chỉ huy điều động cán bộ Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, Trường Quân chính về thị xã Bắc Kạn mở các lớp bồi dưỡng cán bộ cơ sở. Hàng trăm cán bộ các cấp dược bổ túc về quân sự và chính trị. Tháng 8-1947, Bộ Tổng chỉ huy mở lớp bổ túc cán bộ Đảng cấp toàn quân tại xã La Bằng (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên). Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc và huấn thị cho lớp học. Ngoài ra, nhiều khu tỉnh cũng mở các khoá đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ dân quân, tự vệ, du kích từ cấp tiểu đội đến đại đội.
Cùng với việc phát triển lực lượng dân quân du kích, phong trào xung phong tòng quân cũng diễn ra sôi nổi trong thanh niên. Chỉ trong mùa hè năm 1947, đã có 35.000 thanh niên tình nguyện nhập ngũ, nâng tổng số bộ đội chủ lực từ 85.000 người (trước ngày toàn quốc kháng chiến) lên 125.000 người.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #21 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:20:34 pm » |
|
c) về kinh tế
Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế kháng chiến có khả năng tự cấp tự túc, phục vụ những nhu cầu thiết yếu của nhân dân vùng tự do, đồng thời đáp ứng được những nhu cầu ngày càng lớn của chiến trường. Hội nghị cán bộ Trung ương (từ ngày 3 đến ngày 6-4-1947) đề ra một chương trình kinh tế kháng chiến gồm hai mặt:
- Phá hoại kinh tế địch bằng cách tẩy chay và quân sự phá
78 hoại; làm cho địch không kinh doanh, bóc lột gì được, không thực hiện được chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".
- Xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, lập nền kinh tế tự túc.
Hội nghị cán bộ Trung ương còn đề ra phương châm xây dựng nền kinh tế phù hợp với điều kiện chiến tranh: Chỉ sản xuất những thứ cần dùng cho mặt trận và đời sống của nhân dân... Về các ngành kinh tế chú trọng nhất là nông nghiệp, thương mại rồi mới đến kĩ nghệ (chú ý kĩ nghệ chế tạo vũ khí và khai thác)...
Quán triệt phương châm trên, Chính phủ đề ra nhiều chính sách quan trọng: Chính sách tăng gia sản xuất, thực hiện khẩu hiệu "Thực túc binh cường", "ăn no đánh thắng"; chính sách tiết kiệm và đồng cam cộng khổ; chính sách tôn trọng quyền tư hữu tài sản hợp pháp của mọi công dân, mọi thành phần kinh tế; chính sách điều hoà lợi ích... Mặc dù có sự chuẩn bị từ trước, nhưng cuộc kháng chiến nổ ra vẫn làm cho nền kinh tế bị đảo lộn. Sản xuất công nghiệp và thương mại ở các thành phố lớn bị ngưng trệ. Nông nghiệp cũng gặp khó khăn, nhất là những vùng bị địch chiếm. Trước tình trạng đó, Trung ương Đảng và Chính phủ chỉ đạo: Phương hướng xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất trong kháng chiến là chú trọng nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng; khuyến khích hình thức kinh tế cá nhân, kinh tế hợp tác xã và kinh tế Nhà nước.
Trong nông nghiệp, nhiều chính sách và biện pháp lớn được ban hành, bao gồm: Chính sách toàn dân tăng gia sản xuất, chính sách phát triển sản xuất gắn liền với chính sách ruộng đất, chính sách nhân công, chính sách cải tiến kĩ thuật, chính sách bảo vệ sản xuất. Phong trào tăng gia sản xuất rầm rộ khắp nơi, góp phần thiết thực nâng cao tiềm lực kinh tế kháng chiến. Riêng các vùng tự do, trong năm 1947, nhân dân ta đã cấy được 1.893.700 ha lúa, thu được 2.194.000 tấn thóc; trồng được 79 243.000 ha hoa màu, thu được 474.000 tấn, tăng 189% so với năm 19411.
Cùng với sản xuất nông nghiệp, trong những tháng đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, những xí nghiệp quốc phòng và dân dụng có quy mô thích hợp đã lần lượt được xây dựng ở vùng tự do và vùng căn cứ kháng chiến. Công nghiệp quốc phòng là hệ thống công nghiệp quan trọng nhất trong thời kì kháng chiến. Ngay từ đầu kháng chiến, trong quá trình di chuyển cơ sở vật chất kĩ thuật đến căn cứ, Bộ Tổng chỉ huy đã xác định phương hướng tổ chức các xí nghiệp quốc phòng là: Xây dựng một hệ thống các xưởng với nhiều thiết bị máy móc, công nhân để chế tạo, sản xuất lớn; xây dựng một hệ thống chuyên môn hoá, như sửa chữa vũ khí, đúc lựu đạn, nhồi lắp lựu đạn; xây dựng một số tổ, kíp sửa chữa nhỏ đi lưu động để sửa chữa vũ khí. Tính đến cuối năm 1946, ngành Quân giới đã có 20 cơ sở lớn và nhỏ với 2.500 công nhân. Đầu tháng 2-1947, Chính phủ ra quyết định thành lập Cục Quân giới thay cho Cục Chế tạo. Có thể nói, ngành Quốc phòng đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về nguyên vật liệu, kĩ thuật sản xuất, tổ chức quản lí, đào tạo cán bộ, công nhân. Nhịp độ sản xuất vũ khí, đạn dược tăng rất nhanh. Tính theo trọng lượng tấn và lấy chỉ số năm 1946 là 100, thì năm 1947, từ Liên khu IV trở ra là 707; năm 1948 là 1.044. Đến giữa năm 1947, ở các khu, tỉnh từ Bắc đến Nam đã xây dựng được 168 binh công xưởng, mỗi xưởng có từ 200 đến 500 công nhân. Ngoài các xưởng quân giới do Bộ Quốc phòng tổ chức, còn có các xưởng vũ khí dân quân do các địa phương tự xây dựng và chỉ đạo. Riêng Liên khu Việt Bắc đã có tới 8 xưởng sản xuất vũ khí.
Song song với công nghiệp quốc phòng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chủ trương phát triển công nghiệp dân dụng,
1. Dẫn theo Viện Sử học. Lịch sử Việt Nam 9-1945 - 1950... Sđd, tr. 181. 80 trong đó có một số cơ sở thuộc thành phần quốc doanh. Nhiệm vụ của các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh là cung cấp giấy bạc, giấy in, giấy viết vải xà phòng, bóng đèn... phục vụ các cơ quan dân chính và các yêu cầu dân sinh.
Ngành Thủ công nghiệp được xây dựng, phát triển với quy mô nhỏ phân tán, kết hợp công cụ sản xuất thô sơ với máy móc, dựa vào dân và nguyên liệu trong nước, địa phương tự lập, sản xuất tự cấp tự túc. Nhờ đó, ngay từ đầu ngành thủ công nghiệp đã tập trung giải quyết những mặt hàng tối cần thiết như dệt, giấy, ấn loát, xà phòng, chén, bát, chiếu, đường, nước mắm...
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #22 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:21:00 pm » |
|
Thương nghiệp, tiền tệ, giá cả đã có sự chuyển hướng cho phù hợp với thời chiến. Đầu năm 1947, Chính phủ giao cho Nha Tiếp tế thuộc Bộ Kinh tế nhiệm vụ thu mua và dự trữ thóc gạo. Cơ quan Phân phối muối (thuộc Bộ Tài chính) tổ chức vận chuyển muối của Nhà nước và muối trên thị trường tự do đưa về các khu an toàn.
Về tiền tệ, ngày 15-5-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 48/SL cho lưu hành bạc Việt Nam (bạc tài chính) trong toàn quốc. Khối lượng giấy bạc Đông Dương cũ của Pháp được ta thu về làm vốn trang trải cho Ngành Ngoại thương. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, nên đã hình thành các khu vực tiền tệ riêng biệt.
Vùng tự do Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ lưu hành giấy bạc tài chính do Trung ương phát hành. Các tỉnh Khu V, chủ yếu là 4 tỉnh tự do (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) lúc đầu lưu hành tiền tài chính Trung ương, đầu tháng 7-1947, theo Sắc lệnh số 231/SL-M ngày 18-7-1947, Chính phủ cho phép Uỷ ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ được phát hành tín phiếu và lưu hành song song với tiền tài chính một thời gian (từ năm 1952, Chính phủ cho thu hồi bạc tài chính chỉ còn lưu hành tín phiếu). Ở Nam Bộ, do địch đánh toả ra sớm, nên tại các căn cứ kháng chiến những năm 1947, 1948, một số nơi lưu hành bạc tài chính Trung ương do Khu V chuyển vào. Ngày 11/1947, Chính 81 phủ ra Sắc lệnh số 102/SL cho phép Nam Bộ được phát hành một số loại tín phiếu có giá trị như giấy bạc Việt Nam.
d) về văn hoá, giáo dục, y tế
Đảng và Nhà nước chủ trương không để các hoạt động thuộc những lĩnh vực trên bị đứt đoạn vì chiến tranh, mà phải được tiếp tục phát triển và phục vụ tốt cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc. Đảng và Chính phủ đã dành sự quan tâm to lớn cho sự phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, tạo điều kiện từng bước phát triển khoa học và kĩ thuật phục vụ kháng chiến. Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 2 (từ ngày 3 đến 6-4-1947) chỉ rõ: Động viên tất cả giới trí thức, văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến, dùng các nhà trí thức văn hoá, chuyên môn vào ngành công tác như quân giới, quân y, giáo dục, tuyên truyền kháng chiến, chú trọng mở mang giáo dục kháng chiến... Vừa kháng chiến, dân tộc ta vừa xây dựng một nền văn hoá mới, có tính chất hợp với tinh thần dân tộc độc lập, hợp với khoa học, tiến bộ, hợp với tình hình và trình độ của đông đảo quần chúng nhân dân. Đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ ở mọi miền đất nước đã khoác ba lô lên đường kháng chiến. Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ đều hướng vào phục vụ kháng chiến theo khẩu hiệu: “Tất cả để chiến thắng". Nhiều truyện ngắn, phóng sự, nhạc phẩm, thơ ca được sáng tác, đề cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, niêm tin vào thắng lợi của kháng chiến. Các tác phẩm văn nghệ, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam và báo chí ở các vùng tự do đã góp phần đắc lực vào công tác tuyên truyền chủ trương của Chính phủ, cổ vũ tinh thần kháng chiến của quân và dân ta, chống lại các luận điệu tuyên truyền phản động của địch.
Ngành Giáo dục đã có một bước tiến mới về nội dung, phương hướng đào tạo trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Hội đồng Chính phủ xác định phải tổ chức lại nền giáo dục ngay trong thời kì chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phương châm giáo đục là học đi đôi với hành, tổ chức giáo dục chính là thực hiện kháng chiến bằng văn hoá; giáo dục là
82 văn hoá của cuộc kháng chiến. Yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đòi hỏi phải sửa đổi chương trình giáo dục, phải biên soạn sách và sửa đổi cách dạy cho phù hợp. Nội đung chương trình và phương pháp đào tạo theo phương châm thiết thực là chính, nhưng phải đề cao chất lượng..
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #23 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:21:48 pm » |
|
Dù chiến tranh ngày càng ác liệt và việc tổ chức lớp học ngày càng khó khăn, nhưng chính quyền các cấp và các cơ quan giáo dục đã cố gắng duy trì hệ thống giáo dục trong vùng giải phóng. Nền giáo dục kháng chiến được tổ chức khá đa dạng và toàn diện. Ngoài báo dục hệ chính quy gồm các trường phổ thông và cao đẳng, đại học còn có hệ bổ túc văn hoá và hệ thống các trường chính trị, quân sự. Phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và mở rộng. Năm 1947, Khu X mở được 153 lớp, huấn luyện đào tạo 3.745 giáo viên, động viên trên 1 30.000 học viên theo học các lớp Bình dân, gấp 5 lần so với số lượng học viên năm trước. Tại các tỉnh Liên khu V và Bình - Trị - Thiên. mặc dù bị địch bao vây bắn phá, nhưng các cấp chính quyền dân chủ nhân dân đã khắc phục khó khăn để bám đất, bám dân nhằm từng bước khôi phục các lớp Bình dân học vụ theo khẩu hiệu "Tay bút, tay súng", "Diệt dốt xâm lăng". Đến cuối năm 1947, cả nước đã thanh toán nạn mù chữ cho trên 1,2 triệu người, trong đó có nhiều làng, xã ở Hải Dương và Thái Bình được công nhận xoá xong nạn mù chữ.
Ngành Giáo dục phổ thông phát triển khá nhanh. Tính đến tháng 6-1947, số học sinh tiểu học ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ lên tới 147.000 em, tăng 47% so với tháng 12-1946. Nội dung giảng dạy và phương thức hoạt động trong các nhà trường phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Chế độ thi cử xác nhận bậc học của học sinh và tuyển chọn học sinh vào các lớp trên được duy trì. Tháng 4-1947, Chính phủ ra Nghị định mở kì thi Trung học và Tiểu học trong cả nước. Đến cuối năm 1947, đã có hàng nghìn trường tiểu học và trung học thu 83 hút hàng vạn con em nhân dân đến lớp học.
Việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý.
Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ y tế phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Một số cơ sở đại học và trung học y - dược chuyển từ Hà Nội lên Việt Bắc tiếp tục hoạt động. Mạng lưới y tế địa phương, gồm các trạm cứu thương, trạm xá, phòng phát thuốc, bệnh xá, bệnh viện từng bước hình thành: Cuộc vận động thực hiện nếp sống vệ sinh được phát động thường xuyên.
Những thành tựu về các mặt nói trên tuy mới là bước đầu, nhưng đó là những nhân tố quan trọng đảm bảo cho quân và dân ta giành thắng lợi trên mặt trận quân sự, trước mắt là đập tan cuộc tấn công của giặc Pháp trong Thu - Đông 1947.
IV. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947.
1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.
Cho đến giữa năm 1947, cuộc kháng chiến toàn quốc đã trải qua 5 tháng. Về cơ bản, chúng ta đã đạt được các mục tiêu chiến lược do Trung ương Đảng đề ra: "Địch thiệt hại khá nhiều ở Bắc Bộ... Chiến sự ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ khá hơn trước. Quân du kích của ta ở đó hoạt động dữ, đã thu được nhiều kết quả khá"1.
Về phía thực dân Pháp, ở Bắc Bộ, tuy đã được tăng viện lên 11 tiểu đoàn Âu - Phi từ Pháp sang, nhưng chúng cũng chỉ đủ sức chiếm giữ một số thành phố, thị xã (Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Hải Phòng). Trên con đường giao thông chiến lược nối liền Hà Nội với Hải Phòng, tuy địch đã sử dụng một lực lượng bảo vệ khá lớn, nhưng vẫn không ngăn chặn được hoạt động của quân ta; không có cuộc hành quân nào của địch trên tuyến
1. Văn kiện quân sự của Đảng 1945 - 1954... Sđd, tr. 121. 84 đường này được an toàn.
Về phía ta, bộ đội chủ lực vẫn được bảo toàn và phát triển cả về số lượng và trình độ tác chiến. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo vệ an toàn. Thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố và mở rộng. Như vậy là âm mưu chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp bước đầu bị thất bại. Cuộc chiến tranh vẫn kéo dài và ngày càng mở rộng đã khiến cho thực dân Pháp lâm vào tình trạng khó khăn, quân số thiếu hụt. Số quân tăng viện nhỏ giọt từ Pháp sang không sao khắc phục được tình trạng phân tán, dàn mỏng lực lượng trên các chiến trường. Một bộ phận binh sĩ địch bắt đầu tỏ ra chán ghét chiến tranh. Những vụ phản chiến xuất hiện ở một số nơi. Trước tình hình trên, thực dân Pháp âm mưu kết hợp chặt chẽ giữa thủ đoạn chính trị và biện pháp quân sự. Về chính trị, chúng vừa cố tạo ra một chính quyền tay sai bản xứ, vừa tìm cách lôi kéo, lừa bịp quần chúng bằng một thứ lí tưởng đối lập với chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về quân sự, chúng vừa bình định miền Nam, vừa tập trung lực lượng lớn đánh đòn quyết định ở miền Bắc, hòng đè bẹp tinh thần và lực lượng kháng chiến của đối phương.
Trong phiên họp ngày 9-6-1947, Hội đồng phòng thủ Đông Dương thông qua trên nguyên tắc cuộc tiến công mùa thu 1947 với mục đích: bịt kín biên giới, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc. . . loại trừ mọi sự chi viện từ ngoài vào; truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ”1. Sau một thời gian ráo riết chuẩn bị, đến đầu tháng 9-1947, kế hoạch tiến công lớn trên chiến trường Bắc Bộ của Bộ chỉ huy Pháp càng lộ rõ. Ngày 10- 9-1947, tại Hà Đông, trong một bài diễn văn bằng những lời lẽ lừa bịp, lắt léo Bôlaec (Bollaert) thay mặt Chính phủ Pháp tuyên bố không có lí do gì để kéo dài chiến tranh, nhưng vẫn ngoan cố
1. Xalăng: Một đế quốc cáo chung: Việt Minh - địch thủ của tôi. T 2. Bản dịch, tr.74. 85 không công nhận độc lập của Việt Nam, không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh. Như vậy, thực dân Pháp có ý đồ kết thúc cuộc chiến tranh bằng một cuộc tiến công quân sự chớp nhoáng.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #24 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:25:01 pm » |
|
Kế hoạch tiến công Việt Bắc do Xalăng (Salan), Tư lệnh chiến trường Bắc Đông Dương vạch ra, đến tháng 7-1947, được Chính phủ Pháp phê chuẩn. Kế hoạch này trước hết nhằm bao vây, tiến tới tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh; dùng thắng lợi quân sự để xúc tiến thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc Đánh lên Việt Bắc, thực dân Pháp còn nhằm khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn con đường liên lạc giữa cách mạng Việt Nam với quốc tế.
Lực lượng Pháp tung ra trong cuộc tiến công gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh và 2 tiểu đoàn công binh; tất cả là 12.000 quân.
Kế hoạch tấn công của địch lên Việt Bắc được thể hiện trên hai bước:
Bước 1 : Một cuộc hành quân mang mật danh LEA, tập trung càn quét ở vùng Chợ Đồn, Bắc Kạn, Chợ Mới (nay thuộc tỉnh Bắc Kạn) :
+ Ngày 7-10, nhảy dù xuống Bắc Kạn, Chợ Mới; ngày 8-10 xuống Chợ Đồn và càn quét các vùng xung quanh; ngày 9-10, hai cánh quân ở Bắc Kạn và Chợ Đồn sẽ gặp nhau ở Bản Pè (cách Bắc Kạn 20 km trên hướng Bắc Kạn - Chợ Đồn).
+ Ngày 10-10, chiếm Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng tiến xuống Bắc Kạn (dự kiến ngày 12), sau đó từ Chợ Đồn tiến ra Đài Thị (Chiêm Hoá, Tuyên Quang), liên lạc với cánh quân hướng tây (Đường số 2 - sông Lô) vào ngày 13.
+ Sau khi hoàn thành tổ chức phòng thủ ở Chợ Mới (dự kiến ngày 11) sẽ tiến hành càn quét và tuần tiễu trên Quốc lộ số 3 . . .
86 - Bước 2: Một cuộc hành quân mang mật danh Clo - Clo, dự kiến:
+ Chiếm Chợ Chu (dự kiến ngày 14-10) từ nhiều hướng: Từ Bắc Kạn, Chợ Mới tiến về, nhảy dù trực tiếp xuống Chợ Chu (l đại đội) và nhảy dù xuống phía nam Chợ Chu, khoá đường Chợ Chu - Thái Nguyên. + Sau đó sẽ càn quét trong vùng, tuỳ theo tin tình báo... 1 .
Thực hiện kế hoạch trên, từ ngày 7-10, cuộc hành quân mang mật danh "LEA" bắt đầu được triển khai:
- Khoảng 8 giờ 15 phút sáng 7-10-1947, binh đoàn quân dù do Trung tá Xôvanhắc (Sauvagnac) chỉ huy lần lượt đổ quân xuống thị xã Bắc Kạn, nơi chúng nghi có cơ quan đầu não kháng chiến. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, chúng thả tiếp một bộ phận quân dù xuống thị trấn Chợ Mới nhằm khống chế tuyến đường Thái Nguyên đi Bắc Kạn và lấy đó làm nơi tập kết những đạo quân lùng sục cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Ngày hôm sau (8-10), chúng cho quân nhảy dù xuống Chợ Đồn (Bắc Kạn).
Trên đường bộ, sáng 7-10-1947, binh đoàn bộ binh thuộc địa do Trung tá Bôphơrê (Beaufré) chỉ huy, xuất phát từ Lạng Sơn theo Đường số 4 tiến lên chiếm Cao Bằng, rồi một bộ phận tiến xuống Bắc Kạn, vòng sang Chợ Đồn, lên Chiêm Hoá (Tuyên Quang), hình thành một gọng kìm lớn ở hướng đông bắc.
Ngày 9-10, binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa và lính thuỷ đánh bộ, do Trung tá Commuynan (Communal) chỉ huy, từ Hà Nội theo sông Hồng lên Việt Trì (ngày 11-10), rẽ sang sông Lô lên Tuyên Quang (ngày 13-10) và đến Khe Lau (nơi hợp lưu giữa sông Lô và sông Gâm), quân Pháp ngược dòng sông Gâm
1. Dẫn theo: Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử Bộ Tổng Tham mưu. 1991, tr. 199. 87 lên Chiêm Hoá. Hai cánh quân thuỷ, bộ sẽ gặp nhau tại Đài Thị (cách Chiêm Hoá 12 km về phía đông bắc).
Như vậy, khu vực càn quét, đánh phá của địch nằm trong vùng tứ giác Tuyên Quang - Đài Thị - Bắc Kạn - Thái Nguyên, rộng khoảng 3.600 km2; trong đó, khu vực trọng điểm là Bắc Kạn - Chợ Chu - Chợ Mới. Cơ quan lãnh đạo kháng chiến tập trung ở phía tây nam Chợ Chu sát trung tâm càn quét của địch, nằm trong tình thế bị uy hiếp.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #25 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:25:22 pm » |
|
2- Quân và dân ta chiến đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc của địch
Ngày 15-9-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị: Bôlaec nói gì - Ta phải làm gì?. Sau khi vạch trần âm mưu của Bôlaec, Chỉ thị nêu những nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta. Ban Thường vụ Trung ương nhắc nhở quân và dân cả nước tích cực chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công Thu - Đông của giặc Pháp, ra sức làm vườn không nhà trống, xây dựng làng chiến đấu và mở rộng tuyên truyền, vận động binh lính địch.
Từ ngày 27 đến ngày 29-9-1947, Bộ Tổng chỉ huy triệu tập Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4 để thống nhất nhận định về hướng tiến công của địch. Hội nghị nhận định: "Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính, nếu địch không mạo hiểm thì đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc... Tấn công lên Việt Bắc, chúng sẽ chiếm các tỉnh Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, nối liền đường Hà Nội - Lạng Sơn..." 1.Hội nghị chủ trương nắm vững bộ đội, giữ gìn chủ lực, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, bảo vệ căn cứ, thực hiện phối hợp giữa các khu và phối hợp chiến lược toàn quốc, phá âm mưu lập ngụy quyền của địch; kiên quyết thực hiện đánh du kích chiến và vận động chiến, dùng đơn vị đại đội để hoạt động trên chiến trường
1. Dẫn theo: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Tập 1. Sđd, tr. 313. 88 của mỗi địa phương, tập trung từng tiểu đoàn chủ lực cơ động đánh vận động chiến, tránh phòng ngự chính diện, bộ đội phải ở lại sau lưng địch, hoá chỉnh vi linh, hoá linh vi chỉnh, hoá trang lẫn vào dân khi cần. . .
Ngày 4-10-1947, Bộ Tổng chỉ huy ra mệnh lệnh gửi các Khu, khẳng định "thế nào địch cũng có những cuộc hành binh lớn"; có thể “quét vùng đồng bằng Bắc Bộ, đánh lên căn cứ địa Việt Bắc". Mệnh lệnh nêu rõ phương án tác chiến dối với từng tình huống và dự kiến nếu đánh Việt Bắc, hướng tiến công của địch sẽ là Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên; hướng kiềm chế hay phối hợp ở phía tây là vùng Hoà Bình, Sơn La; phía Đông là Bắc Giang, Lạng .Sơn. Bộ Tổng chỉ huy giao nhiệm vụ cho các Khu I, X, XII và các đơn vị chủ lực thuộc Bộ sẵn sàng đón đánh địch, đồng thời chỉ thị cho các chiến trường toàn quốc đánh mạnh để kiềm chế địch, phối hợp với Việt Bắc.
Tối 7-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các Khu uỷ và Quân khu uỷ: "Sáng ngày 7-10, Pháp nhảy dù chiếm Bắc Kạn, Chợ Mới, mưu tấn công Việt Bắc. Vậy Đoàn thể ra lệnh cho các Khu uỷ và Quân khu uỷ tích cực chỉ huy bộ đội định mạnh để chia sẻ lực lượng địch và phá kế hoạch mùa khô của chúng" 1.
Ngày 9-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh uỷ Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn. Bản Chỉ thị nêu lên nhiệm vụ trước mắt của tỉnh lúc này là dùng lực lượng bộ đội, dân quân du kích và toàn dân bao vây địch chung quanh tỉnh lị, "giam chân địch ở đó, không cho chúng chiếm toả ra, đặc biệt ngăn địch trên mấy đường này: Đường Bắc Kạn - Chợ Đồn, Bắc Kạn - Chợ Rã, Bắc Kạn - Cao Bằng, Bắc Kạn - Chợ Mới, Bắc
1. Dẫn theo: Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp. Sđd, tr. 192. 89 Kạn - Na Rì, Bắc Kạn - Chợ Chu” 1. Ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Phải phá tan cuộc cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp. Chỉ thị vạch rõ phương hướng hành động cụ thể của quân và dân ta là bao vây giam chân địch tại những căn cứ chúng vừa chiếm, triệt để làm vườn không nhà trống chung quanh chỗ địch chiếm đóng; chặt đứt giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế.
Nghiên cứu thế và lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ Tổng chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên ba mặt trận:
- Ở mặt trận Sông Lô - Chiêm Hoá, quân và dân ta liên tục chặn đánh địch; điển hình là các trận Đoàn Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau. Nhiều tàu chiến, ca nô địch bị bắn cháy.
- Trên mặt trận Đường số 4 diễn ra nhiều trận phục kích, tiêu biểu là trận đánh tại đèo Bông Lau (30-10-1947): Phá huỷ 27 xe cơ giới, diệt và bắt 240 địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Đây là trận đánh giao thông điển hình trên chiến trường Bắc Bộ. Đường số 4 bị uy hiếp, trở thành con đường chết đối với giặc Pháp.
- Ở mặt trận Đường số 3, tại Bắc Kạn, Chớ Mới, quân và dân ta nhanh chóng khắc phục tình trạng bị động, lúng túng ban đầu, hình thành thế trận bao vây, chia cắt địch. Sau khi Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Khu I điều thêm lực lượng về Bắc Kạn, hoạt động của quân ta tại mặt trận này tăng dần lên. Các đại đội độc lập cùng dân quân, tự vệ liên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, Bạch Thông; phục kích địch trên các trục đường Bắc Kạn đi Chợ Đồn, Phủ Thông, Chợ Mới.
1. Văn kiện Đảng 1945 - 1954. T2. Q1: 1946 - 1948. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương, Hà Nội, 1979, tr. 131.
90 Vừa đánh địch, ta vừa khẩn trương tổ chức di chuyển các cơ quan, công xưởng, kho tàng đến những nơi an toàn. Phối hợp với Việt Bắc, quân và dân cả nước đẩy mạnh các hoạt động kiềm chế địch. Ở Hà Nội, Sài Gòn, những tên Việt gian đầu sỏ Trương Đình Tri, Nguyễn Văn Sâm lăm le đứng ra lập chính phủ bù nhìn, đã bị trừng trị đích đáng.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #26 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:25:42 pm » |
|
Quân và dân Nam Bộ liên tiếp diệt từng tốp lính địch. Tây Nguyên phát triển công tác vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở đến tận buôn làng, thành lập căn cứ kháng chiến ở nhiều nơi. Đồng bằng sắc Bộ thực hiện tổng phá tề khu vực dọc Đường số 5.
Trước tình thế bế tắc, Bộ chỉ huy Pháp quyết định vừa tổ chức rút lui vừa huy động thêm lực lượng cùng với các lực lượng đã tham gia Kế hoạch LEA mở cuộc càn quét khu tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương, trên một phạm vi rộng hơn 8.000 km2. Kế hoạch này mang tên Xanhtuya (Ceinture), nhằm tiếp tục "lùng bắt kì được cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt chủ lực Việt Minh, phá nát căn cứ địa". Hướng càn quét chủ yếu của địch là Thái Nguyên, hai hướng khác là Sông Thương - Yên Thế và khu vực Chợ Mới - Tuyên Quang xuống đồng bằng. Ngày 20-11, đợt tiến công mới của địch bắt đầu.
Nhận thấy hiện tượng địch chuẩn bị rút quân, ngày 10 và 29- 11, Bộ Tổng chỉ huy kịp thời chỉ thị cho các mặt trận bố trí lại lực lượng, bám sát hoạt động của địch, không bỏ lỡ thời cơ diệt địch, chống khuynh hướng "ăn to", coi thường trận nhỏ; đồng thời phát động rộng rãi phong trào khắp nơi đánh giặc, khiến cho quân Pháp đi tới đâu cũng bị chặn đánh.
Trên tất cả các hướng địch hành quân, chúng đều bị quân ta chặn đánh quyết liệt Tại các địa điểm: Bình Ca, La Hoàng (Tuyên Quang), Đèo Giàng (Bắc Kạn), Quán ông Già, Phú Minh, Bản Ngoại, Yên Rã (Đại Từ, Thái Nguyên) đều vang lên tiếng súng diệt địch. 91 Các cánh quân Pháp đều bị thiệt hại nặng nề trên đường rút chạy.
Do không đạt được mục tiêu của cuộc tấn công, lại bị thiết hại nặng nề , ngày 21-12-1947, đại bộ phận quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, đánh đấu thất bại chiến lược đầu tiên trong cuộc chiến tranh xam lược của chúng.
Trải qua 75 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, vận dụng nghệ thuật tác chiến của chiến tranh nhân dân một cách sáng tạo, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 6.000 địch, bắn rơi 16 máy bay; bắn cháy, bắn chùn 11 ca nô, tàu chiến; phá huỷ hàng trăm xe quân sự; tịch thu của địch hơn 100 khẩu pháo, súng cối các loại, hàng ngàn súng bộ binh cùng với hàng chục tấn quân trang, quân dụng. Việt Bắc trở thành mồ chôn giặc Pháp.
Mặc dù quân Pháp còn kiểm soát đoạn đường biên giới Lạng Sơn - Cao Bằng, tuyến Đường số 3 từ Cao Bằng về Bắc Kạn và phá hoại được một số kho tàng, thị trấn, làng bản của ta, nhưng chúng đã không thực hiện được những mục tiêu chiến lược của cuộc tiến công.
Sau thất bại trong Chiến dịch Việt Bắc, tinh thần chiến đấu của binh lính Pháp sa sút, giảm lòng tin vào sự chỉ huy và phương tiện chiến tranh hiện đại. Giới cầm quyền thực dân lục đục, mâu thuẫn; nước Pháp đứng trước những khó khăn mới.
Chiến thắng Việt Bắc chứng minh đường lối kháng chiến do Đảng và Chính phủ đề ra là đúng đắn; đồng thời cũng khẳng định quân và dân ta hoàn toàn có khả năng đập tan một cuộc tấn công quân sự quy mô lớn của giặc Pháp.
Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947, so sánh lực lượng giữa hai bên trên chiến trường đã có sự thay đổi theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta. Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, với đòn quyết định đè bẹp đối phương, kết thúc chiến tranh, dựng lại nền thống trị của thực dân Pháp đã hoàn
92 toàn phá sản. Từ đó, thực dân Pháp buộc phải chấp nhận đánh lâu dài với ta. Cũng qua cuộc đọ sức này, quân và dân ta càng hiểu rõ hơn đối tượng tác chiến, tích luỹ thêm kinh nghiệm chiến đấu.
Chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 là thắng lợi chung của quân và dân cả nước, cổ vũ mạnh mẽ toàn quân và toàn dân ta tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến, giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #27 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:26:04 pm » |
|
V- Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược
1. Âm mưu của thực dân Pháp sau thất bại ở Việt Bắc
Sau thất bại trong cuộc tấn công Việt Bắc, thực dân Pháp buộc phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Chúng thay đổi lại việc bố trí lực lượng, thay đổi cách đóng quân, thực hiện âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt", "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Trong vùng Pháp chiếm đóng, chúng ra sức xây dựng chính quyền bù nhìn và thành lập một đội quân người bản xứ để làm công cụ phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược.
Ngày 23-5-1948, Pháp chấp nhận đề nghị của Bảo Đại lập ra “chính phủ trung ương lâm thời của Việt Nam", do Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng. Nhưng chỉ chưa đầy một tháng sau khi thành lập, Chính phủ Nguyễn Văn Xuân đã phải làm lễ từ chức vì quá yếu kém và thối nát. Từ năm 1949, tình hình quốc tế có nhiều thay đổi, đặc biệt là sự ra đời nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (1-10- 1949) đã làm cho đế quốc Mĩ lo sợ ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ở khu vực châu Á, nên tiến cách ép Pháp phải nới thêm quyền cho Bảo Đại; đồng thời tăng cường can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Ngày 8-3-1949, tại điện Êlydê (Élyséc) ở Phu, Tổng thống nước Cộng hoà Pháp kí với Bảo Đại một hiệp định dưới hình thức trao đổi thư. Theo hiệp 93 định này, Pháp khẳng định Việt Nam có toàn quyền cai trị nhưng phải có cố vấn chính trị Pháp bên cạnh; Việt Nam có quân đội riêng nhưng do người Pháp huấn luyện; quân đội Pháp có quyền đóng trên đất việt Nam và được toàn quyền tự do hành động; chính phủ Bảo Đại chỉ được lập Đại sứ quán tại Thái Lan, Trung Hoa Quốc dân đảng và Toà thánh Vaticăng...
Ở trong nước, chính phủ bù nhìn có một số hoạt động như củng cố lại Bộ Tư pháp, quy định sự hạn chế của Sở Kinh tế, đặt một số loại thuế mới, mở phòng thông tin; đồng thời mở chiến dịch tuyên truyền nhằm nâng cao uy tín cho Bảo Đại, cử phái đoàn sang Pháp để đón Bảo Đại về nước. Trong tháng 5 và 6- 1949, chính phủ bù nhìn từ cấp trung ương xuống đến xã và các "xứ tự trị" đều tập trung gây uy tín cho Bảo Đại. Ở một số nơi, chúng tổ chức phát gạo, vải, quần áo cho dân nghèo, phóng thích một số phạm nhân, tổ chức mít tinh, diễn thuyết ca ngợi Bảo Đại.
Đứng trước tình hình nội bộ mâu thuẫn, các phe phái tranh giành quyền lực, ngày 1-7-1949, Bảo Đại đứng ra lập chính phủ, tự xưng là Quốc trưởng kiêm Thủ tướng "Quốc gia Việt Nam"; Nguyễn Văn Xuân làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng. "Cái Quốc gia Việt Nam " này không có cơ sở nhân dân, không có Quốc hội, ngay một Quốc hội tư vấn cũng không có, không có Hiến pháp và trong nhiều năm, không có cả ngân sách. Một vài cái gọi là Đảng chính trị của nó chỉ là những đoàn thể, những bè phái lộng quyền, những môn khách của các nhân vật tai mắt. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào quân đội, cảnh sát và ngân khố của nước Pháp" 1. Sau khi thành lập chính phủ, Bảo Đại đã kí một số đạo dụ, trong đó có Đạo dụ số 1 (l-7-1949) về tổ chức và điều hành các cơ quản công quyền ở Việt Nam và Đạo dụ số 2 (1-7-1949) về Quốc hội lập hiến, Quốc trưởng,
1. Philippe Devillers: Paris - Sài Gòn - Hà Nội... Sđd, tr. 493. 94 Chính phủ và Hội đồng tư vấn. Đạo dụ số 2 còn quy định: Về phương diện hành chính, lãnh thổ Việt Nam có 3 phần: Bắc Kì, Trung, Nam Việt Tại mỗi phần có Thủ hiến đại diện cho Chính phủ Trung ương, có các cấp hành chính tỉnh, quận, tổng, xã... Ngày 21-1-1950, trước sức ép của Mĩ, Pháp để cho Bảo Đại thành lập chính phủ mới do Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Bộ Ngoại giao và Nội vụ. Phan Huy Quát làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Bộ Quốc phòng.
Cũng giống như chính phủ Nguyễn Văn Xuân trước đây, chỉ một thời gian ngắn sau khi thành lập, chính phủ Nguyễn Phan Long đã phải giải tán do quá ngả theo Mĩ và nội bộ mâu thuẫn tranh giành nhau về địa vị và quyền lợi. Ngày 6-5-1950, một chính phủ mới được thành lập, do Trần Văn Hữu làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng.
Cùng với việc thành lập chính phủ bù nhìn trung ương, thực dân tháp tăng cường bộ máy chính quyền tay sai cấp cơ sở.
Tại cấp tỉnh, đến đầu năm 1948, tất cả các tỉnh lị bị Pháp chiếm đóng đều đã lập Hội đồng an dân. Quyền hạn của Hội đồng an dân được nới rộng hơn so với trước. Theo quy định của cuộc họp Hội nghị hành chính ngày 8-11-1947 của Hội đồng an dân, các chức vụ Đại lí, Chủ tịch, Tổng đốc từ nay được gọi là Tỉnh trưởng cai quản một tỉnh, quận trưởng cai quản một huyện, đồng thời có một cố ván người Pháp ở bên cạnh.
Ở các tỉnh và thành phố lớn như Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Quảng Bình, Quảng Trị, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình thuận, Long An..., Pháp đặt Toà cố vấn chính trị bên cạnh Toà tỉnh trưởng. Giúp việc cho Toà tỉnh trưởng có các phòng và các sở chuyên môn như: Sở Đoàn (Sở thuế), Sở Ngoại kiều, Sở Địa chính, Sở Kinh tế, Sở Kho bạc, Sở Cảnh sát... Ở các tỉnh nhỏ thường không có Toà cố vấn chính trị, mà những viên quan chỉ huy quân sự người Pháp của một khu vực (secteur) hay một vùng (zone) trực tiếp ra mệnh lệnh cho Tỉnh trưởng thi hành các quyết định, chỉ thị của Pháp. 95 Tại cấp huyện, ở những nơi Pháp chưa lập được các hội tề thì gọi là Huyện trưởng hay Trưởng khu (Chef secteur). Còn ở những nơi đã lập xong hội tề thì gọi là Quận trưởng, có nơi gọi là Tri huyện hay Tri phủ.
Ở cấp tổng, thời gian này Pháp cho đặt lại chức Chánh tổng, Phó tổng; có nơi đặt thêm chức Tuần tổng hay Chánh, Phó tổng đoàn.
Ở các xã, thực dân Pháp kết hợp các hoạt động quân sự với việc dụ dỗ, lừa phỉnh, mua chuộc nhân dân để thành lập hội tề. Hội tề lấy tên là Hội đồng hương chính, thành phần gồm có: Tiên chỉ, Thứ chỉ, Lí trưởng, Phó lí, Thư kí, Thủ quỹ, Trương tuần. Nhiệm vụ của Hội đồng hương chính chủ yếu về kinh tế và xã hội, trông nom trật tự trị an, canh phòng, kê khai số trâu bò, thóc gạo, nhân khẩu trong xã, thi hành những mệnh lệnh của Pháp, tiếp tế và do thám chỉ điểm cho Pháp. Thông qua hội tề, thực dân Pháp nhằm chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, gây cơ sở và thanh thế cho chính phủ bù nhìn. Hội tề còn là tai, mắt, dò xét cơ sở kháng chiến. Ngoài ra, hội tề còn giúp Pháp tuyển mộ binh lính và làm tấm bình phong bảo vệ đồn bốt.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #28 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:26:25 pm » |
|
Bằng những hoạt động càn quét, khủng bố gắt gao kết hợp với những thủ đoạn mua chuộc, lừa bịp, thực dân Pháp đã lập được hội tề ở rất nhiều nơi. Tính đến tháng 2-1948, ở Hà Đông đã có 74 làng lập hội tề; trong tỉnh Hải Dương, huyện Cẩm Giàng có 81 xã, huyện Kim Thanh có 12 xã, huyện Bình Thanh có 5 xã, huyện Gia Lộc có 9 xã... lập hội tề. Có thể nói, hầu hết các địa phương bị thực dân Pháp chiếm đóng đã lập hội tề.
Như vậy, cho đến đầu năm 1948, cùng với việc tăng cường bình định củng cố những vùng đã chiếm đóng, thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm các vùng đồng bằng và một số tỉnh vùng trung du Bắc Bộ, vùng ven biển Trung Bộ, Nam Bộ và cao nguyên Trung Bộ. Đánh chiếm tới đâu, chúng tiến hành lập chính quyền bù nhìn tới đó. Nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, thực dân Pháp ráo riết thực hiện chính sách chia để trị. Từ tháng 96 4 đến tháng 7-1948, chúng thành lập các "xứ tự trị " ở các vùng dân tộc thiểu số: Xứ Nùng tự trị (4-1948) ở vùng Tiên Yên, Móng Cái; Liên bang Thái (4-1948) ở Sơn La, Lai Châu; Xứ Mường tự trị (5-1948) ở Hoà Bình; Xứ Tây Kì tự trị (6-1948) ở Tây Nguyên; Liên bang Tày (7- 1948) ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Đứng đầu các "xứ tự trị" là các thổ ty, lang đạo, nhưng quyền hành thực tế vẫn nằm trong tay những cố vấn người Pháp. Cùng với việc thành lập các "xứ tự trị", Pháp còn cho lập các "Đội nghĩa binh áo chàm", các "đội quân tự trị", phong cấp bậc cao cho những tên cầm đầu. Chúng tìm cách lôi kéo, mua chuộc các đạo Cao Đài, Hoà Hảo và một bộ phận của Bình Xuyên, sử dụng lực lượng vũ trang tôn giáo chống lại kháng chiến. Đầu năm 1950, theo lệnh của Pháp, chính phủ bù nhìn tiến hành cải cách hành chính từ cấp xã lên cấp quận. Tổ chức hành chính trong xã được quy định như sau: Mỗi xã gồm một Xã uỷ (trước gọi là Lí trưởng) một Phó xã uỷ (trước là Phó lí) đảm nhiệm công việc hành chính trong xã, quan hệ trực tiếp với các cấp Tổng, Bang, Quận tuỳ theo từng trường hợp công việc. Đối với những xã có nhiều thôn hay nhiều xóm thì bầu thêm Trưởng thôn và Trưởng xóm để giúp Chánh và Phó xã uỷ. Ngoài ra còn có Thư kí giúp việc văn phòng cho Xã uỷ, Hộ lại trông coi việc hộ tịch, Chưởng bạ phụ trách việc điền thổ kiến diện. Bên cạnh Chưởng bạ thành lập một Hội đồng nông biểu, có Chủ tịch, Phó Chủ tịch là Hội trưởng và Hội phó, một thư kí kiêm thủ quỹ. Ở mỗi xã còn thành lập một Hội đồng quản trị hành chính. Bên cạnh Hội đồng quản trị hành chính có Ban tư vấn xã với số nhân viên không quá 10 người. Ban tư vấn có nhiệm vụ đề xuất sáng kiến cho Hội đồng quản trị hành chính.
Mỗi tổng có một Tổng uỷ (trước gọi là Chánh tổng) và Tổng tuần do các xã bầu lên. Giúp việc có 1 thư kí văn phòng và 1 thư kí kế toán lo việc sổ sách thu chi và phụ cấp hằng tháng cho tổng dũng. Ngoài ra còn có 1 Trưởng ban Bình dân giáo dục, 1 Phó Trưởng ban và 4 kiểm soát viên Bình dân giáo dục. Bên cạnh Tổng uỷ có một Hội đồng tư vấn để giải quyết mọi việc
97 trong tổng và làm cố vấn cho Tổng uỷ và Tổng tuần.
Bên cạnh việc cải cách hành chính, chính quyền bù nhìn còn tiến hành nhiều biện pháp củng cố bộ máy chính quyền các cấp. Chúng cho quân lính tăng cường lùng sục bắt bớ, cưỡng ép thanh niên đi lính cho Pháp; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền để nâng cao uy tín cho Bảo Đại. Mặt khác, thực dân Pháp và chính quyền bù nhìn đã thành lập nhiều tổ chức chính trị, tôn giáo, đảng phái phản động để phá hoại kháng chiến, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nhân dân. Trong số đó, đáng chú ý là Đại Việt Quốc dân đảng gồm những phần tử thân Mĩ do Lê Thăng, Nguyễn Tôn Hoàng, Phan Huy Quát... cầm đầu; Phục Quốc đồng minh do Nông Quốc Long cầm đầu; Việt Nam Quốc dân đảng do Vũ Hồng Khanh cầm đầu, Việt Nam quốc gia phục hưng đảng do Ngô Đình Diệm cầm đầu, v.v...
Sau thất bại ở Việt Bắc thu - đông 1947, thấy rõ cuộc chiến tranh sẽ kéo dài, không thể sớm kết thúc, thực dân Pháp quyết định tập trung lực lượng để bình định, củng cố những vùng đã chiếm đóng. Thời kì này, quân Pháp tiếp tục đánh sâu vào vùng nông thôn của ta, mở rộng phạm vi chiếm đóng, khống chế phần lớn vùng đồng bằng Bắc Bộ, tuyến ven biển và Nam Trung Bộ. Cùng với các hoạt động ra sức đánh phá cơ sở cách mạng, lùng sục vây bắt cán bộ, du kích, đốt phá cướp bóc tài sản, cố sức giành dân, chúng cho xây đựng rất nhiều đồn bốt, tháp canh.
Ở Nam Bộ, trong năm 1948 Pháp đã xây dựng được 2.000 tháp canh. Trên các tuyến đường giao thông quan trọng, cứ từ 1 - 2 khi lại có 1 tháp canh.
Ở Bắc Bộ, Pháp xây dựng các cứ điểm nhỏ, với số quân đông hơn trước. Mật độ các cứ điểm cũng tăng lên. Ở Cao - Bắc - Lạng, đầu năm 1948 có 68 vị trí, đến giữa năm đã tăng lên 79 vị trí với số quân chiếm đóng từ 2.500 lên 6.900 tên. Ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Pháp cho xây dựng thêm 100 cứ điểm. Ở Liên khu III, Pháp cũng cho xây dựng thêm 53 cứ điểm, số quân
98
|
|
|
Logged
|
|
|
|
HUY_AK_47
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #29 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:26:48 pm » |
|
chiếm đóng từ 12.000 lên 25.000 tên 1. Thực dân Pháp còn tăng cường tuyển tính người Việt Nam vào các đội hương dũng (có nơi gọi là lính dõng, thân binh, bảo an binh...) làm nhiệm vụ canh gác, tuần phòng tại các làng xã. Mỗi khi kiểm soát được vùng nào là quân Pháp tiến hành ngay việc bắt tính để tổ chức việc canh gác, dò xét, tuần tra giữ làng xã. Trên thực tế thực dân Pháp và chính quyền bù nhìn tay sai không đạt được kết quả mong muốn trong việc xây dựng lực lượng hương dũng, do ta tổ chức tốt việc tuyên truyền, vận động thanh niên bỏ trốn. Vì vậy, số hương dũng mỗi tổng chỉ có từ 10 đến 15 người; đa số tỏ thái độ lừng chừng, chỉ trừ một số ít là hung hăng chống phá cách mạng. Song song với việc đẩy mạnh chính sách "Dùng người Việt đánh người Việt", thực dân Pháp tăng cường các hoạt động cướp bóc, vơ vét, thực hiện chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".
Ở miền Tây và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, quân Pháp cho lính đi gặt lúa của dân, tổ chức thu mua thóc gạo. Ở Trung Bộ, địch làm rất quyết liệt việc tập trung lúa và cướp lúa về đồn. Bằng cách cướp bóc và tập trung lúa, chúng đã thu được một số lượng lúa khá lớn. Riêng tỉnh Khánh Hoà, năm 1949 chúng lấy 6.000 tấn, năm 1950 chúng cướp 80% mùa màng.
Thực dân Pháp đặc biệt chú trọng việc thu thuế. Chúng tiếp tục duy tự chế độ thuế trực thu và thuế gián thu; đồng thời đặt thêm nhiều thứ thuế mới hết sức nặng nề. Ngoài thuế điền thổ là các thứ thuế cư trú, thuế nước, thuế hằng tháng, thuế môn bài, thuế chứng thư, thuế thổ trạch, thuế bưu phí, thuế chợ, thuế sát sinh, thuế xe, thuế xa xỉ, thuế mạt chược, thuế nhà vệ sinh, thuế lấy rác và xử lí đổ rác thải, thuế giữ các súc vật và đồ đạc lưu kho...
Do bị khủng bố, bắt bớ, cướp bóc vơ vét, nhìn chung đời sống nhân dân trong các vùng địch tạm chiếm hết sức khó khăn.
1. Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam (9-1945 – 1950) Sđd, tr. 285. 99 Nếu tính trung bình so với năm 1939, giá sinh hoạt của giới thợ thuyền người Việt Nam cuối năm 1948 đắt hơn 115 lần 1.Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các phong trào đấu tranh của nhân dân ta dưới nhiều hình thức phong phú, hoặc đấu tranh công khai, hoặc bí mật cất giấu thóc gạo, tài sản đưa ra vùng tự do ủng hộ kháng chiến, chống lại chính sách thuế khoá, từng bước làm thất bại âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt", "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp.
2- Chủ trương và hoạt động đẩy mạnh kháng chiến của ta sau chiến thắng Việt Bắc
Trước âm mưu và hành động mới của thực dân Pháp, ngày 15-1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng nhằm đánh giá tình hình cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ cho giai đoạn mới.
a) về chính trị
Đảng và Nhà nước chủ trương tăng cường đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, dân nhất trí; chống âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp, phá tan chính quyền bù nhìn và tay sai; củng cố bộ máy Nhà nước theo hướng tập trung, thống nhất để điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Khẩu hiệu lúc này vẫn là Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết.
Trong việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, điều quan trọng là phải chấn chỉnh mặt trận dân tộc thống nhất. Việt Minh và Liên Việt là hai hình thức mặt trận thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, nhưng từ năm 1948 đã xảy ra tình trạng chồng chéo, không thống nhất hoạt động giữa hai mặt trận. Vì vậy Đảng chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành một mặt trận duy nhất, trong đó, Liên Việt là hình thức tổ chức Mặt trận và Việt Minh là bộ phận nòng cốt.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
|