Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 09:42:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Việt Nam 1945-2000  (Đọc 39781 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #10 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:49:08 pm »

Trong hai Tiểu ban Chính trị và Quân sự, các vấn đề đặt ra đều là những vấn đề chủ yếu mà quan điểm hai bên hoàn toàn đối lập nhau. Lập trường có tính nguyên tắc của ta là: Nước Việt Nam phải là một nước tự do. Liên bang Đông Dương chỉ mang tính chất kinh tế không được phương hại đến những quyền cơ bản  của  Việt  Nam.  Về  mối  quan  hệ  giữa  các  nước  trong  Liên bang  Đông  Dương  với  Pháp,  phái  đoàn  ta  tuyên  bố  chấm  dứt chế độ toàn quyền. Ta chủ trương tổ chức một liên bang thực tế chỉ có tính chất kinh tế. Đại diện của Pháp ở liên bang chỉ có tính cách một nhân viên ngoại giao. Liên bang Đông Dương sẽ phối  hợp  về  chính  sách  thuế  quan  và  tiền  tệ,  về  việc  đặt  kế hoạch kiến thiết cho các nước trong liên bang theo nguyên tắc không làm phương hại đến chủ quyền của ba nước này.

Phía Pháp chủ trương viên cao uỷ vừa là đại diện cho Liên hiệp Pháp vừa là Chủ tịch liên bang Đông Dương. Họ đòi các ngành tư pháp, ngoại thương, tài chính, hối đoái, vận tải, y tế, các cơ quan nghiên cứu và phát minh về văn hoá, khoa học, kinh tế, viện thống kê,  nhà bưu điện và vô tuyến điện, cơ quan phụ. trách di dân đều phải thuộc về liên bang. Với chủ trương này, phía Pháp muốn khôi phục lại chế độ toàn quyền trước đây.

Về ngoại giao, lập trường của phái đoàn Việt Nam là nước Việt Nam sẽ có đại sứ ở Pháp và viên cao uỷ Pháp là đại diện ngoại giao của Pháp ở Việt Nam. Nước Việt Nam tự do phải có quyền đặt đại sứ ở các nước trong Liên hiệp Pháp và ở các nước ngoài. Pháp chủ trương người đại diện Pháp ở Việt Nam là một
49
 
viên chức Pháp do viên cao uỷ Pháp cử ra và nước Việt Nam chỉ có đại diện ngoại giao với các nước khác thông qua Liên hiệp Pháp...

Sau  3  tuần  lễ  (từ  ngày  19-4  đến  11-5-1946)  nhằm  trao  đổi những  vấn  đề  sẽ  được  đưa  ra  tại  cuộc  đàm  phán  chính  thức nhưng không đi đến thoả thuận nào, Hội nghị trù bị Đà Lạt kết thúc thất bại do âm mưu phá hoại của thực dân Pháp.

Ngày 31-5-1946, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu lên đường sang Pháp đàm phán. Cùng ngày, nhận lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên  đường  sang  thăm nước  Pháp  với  tư cách là  thượng khách. Trước khi lên đường, Người gửi thư cho đồng bào Nam Bộ nêu rõ: "Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí đó không bao giờ thay đổi"1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn Việt Nam đến Biarritz (Pháp) ngày 12-6, nhưng phải dừng ở đó gần hai tuần lễ do phía Pháp đang chuẩn bị thay đổi nội các. Ngày 19-6-1946, Gioócgiơ Biđôn (Georges Bidault), một lãnh tụ của Phong trào bình dân, được  bầu làm Thủ  tướng  Chính  phủ  lâm thời  Cộng  hoà  Pháp. Từ đây, phía Pháp mới có thể bắt đầu cuộc đàm phán đã dự định trước với Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn rời Biarritz để đến Pari vào ngày 22-6. vừa đặt chân tới thủ đô nước Pháp, Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  và  phái đoàn Việt  Nam đã  nhận được  những  thông  tin  bất  lợi:  Từ  ngày  21-6,  trong  một  chiến dịch  "chớp  nhoáng",  quân  đội  Pháp  theo  lệnh  của  Đô  đốc Đácgiăngliơ  và  Tướng  Lơclec  đã  chiếm  đóng  cả  vùng  Tây Nguyên, đặc biệt là Pleicu và Kon Tum; ngày 23-6, tại Hà Nội quân Pháp chiếm đóng Phủ Toàn quyền.

Ngày  6-7-1946,  cuộc  đàm  phán  chính  thức  giữa  hai  bên
Chính phủ Việt Nam và Pháp bắt đầu khai mạc, không phải ở



1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 4... Sđd, tr. 246.
50
 
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #11 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:49:32 pm »

Pari như chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề nghị, mà là Phôngtenrlơblô (Fontaínebleau), cách Pari 60 km, "để lẩn tránh những áp lực của dư luận báo chí và của những giới khác mà Sài  Gòn,  các  cơ  quan  dân  sự  và  bạn  bè  của  họ  hết  sức  kinh
sợ”1. Đoàn Việt Nam gồm có: Phạm Văn Đồng (Trưởng đoàn) và các thành viên: Phan Anh, Trịnh Văn Bính, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Huyên, Bưu Hội, Huỳnh Thiện Lộc,  Dương  Bạch  Mai,  Chu  Bá  Phượng,  Đặng  Phúc  Thông, Phạm  Khắc  Hoè,  Hoàng  Minh  Giám.  Ngoài  ra  là  các  chuyên viên: Nguyễn Đệ, Hoàng Văn Đức, Vũ Trọng Khánh, Hồ Đắc Liên, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Đắc Khê. Đoàn  Pháp  gồm  có:  Mác  Ăngđrê  (Trưởng  đoàn),  Giuygla (Juglas),  Lôdơrây  (Lozeray),  Bôđê  (Baudet),  Xalăng,  Bácgio (Barjot),   Pinhông,   Tôren   (Torel),   Rivê   (Rivet),   Métxme, Gônông  (Gonon),  Buốcgoanh,  Đacxy  (D'Arcy),  Gaê  (Gayet),
Buxkê (Bousquet).

Ngay  trong  phiên  khai  mạc  (6-7),  Trưởng  phái  đoàn  Việt Nam Phạm Văn Đồng đã kịch liệt phản đối việc thành lập chính phủ Nam Kì tự trị và các hoạt động vi phạm Hiệp định sơ bộ của  quân  Pháp  ở  Việt  Nam,  đặc  biệt  là  việc  chiếm  vùng  Tây Nguyên  và  việc  quân  Pháp  ngang  nhiên  chiếm  đóng  ngôi  nhà nguyên là Phủ Toàn quyền, nơi viên Tổng chỉ huy quân Tưởng vừa rút đi ngay giữa thủ đô Hà Nội.
Ngày  7-7-1946,  Hội  nghị  đưa  ra  một  chương  trình  nghị  sự
gồm 5 điểm:

-  Sự  gia  nhập  của  Việt  Nam  vào  khối  Liên  hiệp  Pháp  và những mối quan hệ ngoại giao của nó với nước ngoài;

- Dự thảo thành lập Liên bang Đông Dương;

- Vấn đề thống nhất ba kì và trung cầu dân ý tại Nam Kì;

- Những vấn đề kinh tế,


1. Philippe Dcvillers: Paris - SaiGon - Ha Noi... Sđd. tr. 272.
51
 
- Soạn thảo dự án hiệp ước.

Về  tất  cả  những  vấn  đề  trên,  quan  điểm  của  hai  bên  hoàn toàn khác nhau. Quan điểm của Pháp về "khối Liên hiệp Pháp không phải là quan niệm về một đồng minh mà là quan niệm về những quốc gia đoàn kết chặt chẽ với nhau bởi những cơ quan chung" (trong đó dĩ nhiên các cơ quan của Pháp chiếm ưu thế) 1. Trái lại, quan điểm của phái đoàn Việt Nam căn cứ trên ý niệm đồng minh, hoà hợp quyền lợi; quan hệ song phương giữa các quốc gia độc lập, được nêu rõ trong bức công hàm trao cho phái đoàn Pháp ngày 12-7: "Những mối quan hệ giữa nước Pháp và nước Việt Nam trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp là những quan
hệ  hợp  đồng  được  xác  định  qua  con  đường  hiệp  ước.  Những quan hệ ấy được thiết lập trên những nền tảng sau đây:

- Tự do gia nhập,

- Quy chế bình đẳng,
- Đoàn kết bảo vệ quyền lợi chung"2

Quan điểm trên của chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung trong kì họp  báo  ngày  12-7-1946:  "Trên  phương  diện  chính  trị,  những mối quan hệ giữa nước Pháp và nước Việt Nam phải xuất phát
từ một hiệp ước. Hiệp ước này phải dựa trên nguyên tắc cơ bản: cái quyền của mỗi dân tộc được tự mình quyết định lấy số phận của mình. Trên phương diện kinh tế và văn hoá, chúng tôi tán thành hợp tác với nước Pháp trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp... Sự tồn tại của Liên bang Đông Dương được xác nhận bởi sự cần thiết  phải  phối  hợp  các  hoạt  động  của  Việt  Nam,  Lào  và Campuchia. Căn bản nó phải mang nội dung kinh tế. Về phần mình,  nước  Việt  Nam  được  thiên  nhiên  ưu  đãi  hơn  hai  nước láng  giềng,  sẵn  sàng  giúp  đỡ  họ  nếu  họ  yêu  cầu.  Nhưng  Việt Nam kiên quyết ngăn chặn không cho Liên bang trở thành một



1.2. Philippe Devillers: Paris - Sai Gon - Ha Noi... Sđd, tr. 275- 276.


52
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #12 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:50:18 pm »

thứ Chính phủ Toàn quyền giả hiệu..."1.

Từ ngày 13 đến ngày 30-7, các tiểu ban họp, đề cập lại các vấn đề đã nêu ở Hội nghị trù bị Đà Lạt. Hai phái đoàn thảo luận các vấn đề về thuế quan, tiền tệ, quân đội, ngoại giao... và hầu như vấn đề nào cũng có những bất đồng.

Về vấn đề quân đội, phái đoàn Việt Nam dứt khoát bác bỏ nguyên tắc một bộ chỉ huy duy nhất trong thời bình và mọi ý đồ "tập thể hoá" tiềm năng quân sự.

Về  vấn  đề  ngoại  giao,  cũng  như  ở  Hội  nghị  Đà  Lạt,  phái đoàn Việt Nam yêu cầu có một nền ngoại giao riêng, có quyền trao  đổi  đại  diện  ngoại  giao  với  nước  ngoài,  có  quyền  cử  đại diện riêng ở Liên hiệp quốc. Phái đoàn Pháp vẫn giữ quan niệm của  mình  về  một  nền  ngoại  giao  duy  nhất  luôn  luôn  chỉ  chấp nhận sự tham gia của người Việt Nam vào các chức vụ ngoại giao của Liên hiệp Pháp. Nhưng giờ đây, họ chấp nhận nguyên tắc tự quyết về mặt đại diện ngoại giao cấp lãnh sự.

Cũng như ở Hội nghị trù bị Đà Lạt, vấn đề Nam Kì là vấn đề
gay cấn nhất, trở thành hòn đá cản của Hội nghị. Ngay từ ngày
12-7, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố rõ trong cuộc họp báo: "Nam Bộ là đất Việt Nam. Nó là thịt của thịt chúng tới, là máu của  máu  chúng  tôi...  Trước  khi  đảo  Corse  trở  thành  đất  của Pháp, thì Nam Bộ đã là đất Việt Nam..."2. Tại phiên họp toàn thể  ngày  26-7,  Dương  Bạch  Mai  -  một  thành  viên  trong  phái đoàn Việt Nam - công khai phát biểu: "Số phận   của Hội nghị này phụ thuộc chặt chẽ vào vấn đề ba kì. Chừng nào mà Nam Kì, bằng cách này hay cách khác, còn bị tách ra khỏi Việt Nam, thì việc thoả thuận giữa nước Pháp và nước Việt Nam sẽ không bao giờ có được. Mọi sự đều tuỳ thuộc vấn đề Nam Kì: tình hữu nghị Pháp - Việt, hoà bình cũng như trật tự ở Việt Nam, tương


1. Philippe Devillers: Paris - Sai Gon - Ha Noi... Sđd, tr. 275, 276, 277, 280,
281.


53
 
lai những quan hệ của chúng ta. Phải giải quyết vấn đề này càng sớm càng hay"1.

Cuộc  đàm  phán  kéo  dài  hơn  hai  tháng  (từ  6-7  đến  10-9-
1946)2,  cuối cùng đã  không đi  đến  một  thoả  thuận  nào  do  lập trường hai bên khác xa nhau. Ngày 14-9-1946, phái đoàn Việt Nam lên tàu tại cảng Mácxây (Marseille) trở về Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ở lại Pari với hi vọng cứu vãn tình hình.

Trong khi đó, tại Việt Nam, thực dân Pháp tăng cường các hoạt  động  khiêu  khích.  Quan  hệ  Việt  -  Pháp  ngày  càng  căng thẳng. Nguy cơ một cuộc chiến tranh đến gần. Cần có một quyết định nhanh chóng nhằm kéo dài thời gian hoà hoãn để xây dựng, củng cố thêm lực lượng cách mạng; đồng thời làm cho nhân dân Pháp, nhân dân thế giới thấy rõ thiện chí hoà bình của Việt Nam và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với đại diện Chính phủ Pháp là Mutê (Moutet) - Bộ  trưởng  Bộ  Pháp  quốc  hải  ngoại,  bản  Tạm  ước  ngày  14-9-
1946.

Nội dung bản Tạm ước gồm những điểm chủ yếu như sau: Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp cam kết tiếp tục chính sách  hợp  tác  như  Hiệp  định  Sơ  bộ  đã  nêu,  tiếp  tục  cuộc  đàm phán sẽ được triển khai chậm nhất vào tháng Giêng 1947.
-  Chính  phủ  Việt  Nam  bảo  đảm  các  quyền  tự  do  dân  chủ, quyền lợi kinh tế - văn hoá của người Pháp ở Việt Nam.

-  Chính  phủ  Pháp  sẽ  đình  chỉ  xung  đột  ở  Nam  Bộ,  Nam
Trung Bộ, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.

-  Việt  Nam  và  Pháp  thả  hết  tù  chính  trị,  chấm  dứt  tuyên


1. Philippe Devillers: Paris - SaiGon - Ha Noi... Sđd, tr. 277, 280, 281.

2. Gần như trong suốt tháng 8-1946. Hội nghị ngừng họp do phía Việt Nam phản đối việc Pháp tổ chức trái phép Hội nghị Liên bang Đông Dương (ngày l/8/1946) tại Đà Lạt, gồm bọn bù nhìn Nam Kì, Nam Trung Kì, Ai Lao và Cao Miên.
54
 
truyền không thân thiện.

- Việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ do hai bên quy định thời gian và cách thức.

Tạm  ước  14-9-1946  là  sự  nhân  nhượng  cuối  cùng  của  ta nhằm cứu vãn tình thế hết sức khó khăn của đất nước lúc bấy giờ. Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Tổ quốc trong sự chờ đón đầy tin tưởng của toàn dân ta. Cuộc hành trình ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên đất Pháp tuy chưa giải quyết được  mục  tiêu  cơ  bản  của  cuộc  đàm  phán,  nhưng  đã  làm  cho nhân  dân  Pháp  và  nhân  dân  thế  giới  hiểu  rõ  hơn  vấn  đề  Việt Nam, biểu thị sự đồng tình ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.

c)  Tận  dụng  khả  năng  hoà  hoãn  chuẩn  bị  cho  cuộc  kháng chiến chống thực dân Pháp

Sau ngày kí kết  Hiệp  định  Sơ  bộ  và  Tạm ước Việt  -  Pháp, tranh thủ thời gian hoà hoãn, Chính phủ và nhân dân ta ra sức củng  cố,  xây  dựng  lực  lượng,  chuẩn  bị  cho  cuộc  kháng  chiến sắp tới.

Ở  miền Nam, cán bộ, bộ đội tiến mạnh vào các vùng tạm bị địch chiếm, tổ chức phát triển lực lượng vũ trang địa phương và chiến tranh du kích. Cùng với các cuộc bãi công, bãi thị, biểu tình, đòi tổ chức trưng cầu dân ý thống nhất đất nước, phản đối càn quét bình định, bắt lính, những cuộc nổi dậy diệt tề, trừ gian cũng diễn ra mạnh mẽ nhằm khôi phục chính quyền nhân dân và các đoàn thể quần chúng. Phong trào đấu tranh của nhân dân
Nam  Bộ  và  Nam  Trung  Bộ  từ  sau  ngày  6-3-1946  đến  cuối năm phát triển mạnh mẽ, liên tục, toàn diện và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Tại Nam Bộ, chính quyền cách mạng được xây dựng và củng cố trên 1.000 xã trong tổng số 1.234 xã. Vùng giải phóng  ở  nông  thôn  được  mở  rộng  gấp  nhiều  lần  so  với  trước ngày  6-3-1946.  Hệ  thống  căn  cứ  địa  kháng  chiến  được  hình thành, nối liền từ Xứ uỷ xuống khu, tỉnh huyện, nhất là ở Đông

55
 
Nam Bộ. Lực lượng vũ trang ba thứ quân cũng phát triển. Ở các vùng nông thôn, hầu hết các xã đều thành lập tự vệ và du kích.
Ở các đô thị, lực lượng tự vệ cũng được củng cố và hoạt động có hiệu quả, nhất là lực lượng tự vệ thành phố Sài Gòn. Các đơn vị bộ đội tập trung - các chi đội Vệ quốc đoàn, đã được xây dựng
từ cấp tỉnh đến cấp khu. Toàn Nam Bộ đã xây dựng được 25 chi
đội, tăng 25% so với lúc mới hình thành.

Ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, nhiều căn cứ du kích hình thành. Ngoài các đơn vị bộ đội tập trung ở vùng tự do Khu V, đến  tháng  7-1946,  ở  cực  Nam  Trung  Bộ  đã  xây  dựng  được  4 trung đoàn chủ lực và 1 tiểu đoàn ở Tây Nguyên - Tiểu đoàn N’ Tranglơn, gồm hầu hết các chiến sĩ là người dân tộc thiểu số.

Ở miền Bắc, quân và dân ta ra sức xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt. Khối đoàn kết toàn dân không ngừng mở rộng, nhất là từ sau khi thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (29-5-1946). Vệ quốc đoàn chính thức trở thành Quân đội quốc gia  của  nước  Việt  Nam  Dân  chủ  Cộng  hoà  (22-5-1946).  Bên cạnh  lực  lượng  vũ  trang  thường  trực  Chính  phủ  còn  quan  tâm xây dựng lực lượng bán vũ trang. Đến cuối năm 1946, Việt Nam có trên 8 vạn bộ đội thường trực và gần 1 triệu dân quân, tự vệ ở hầu  khắp  các  địa  phương,  từ  thành  thị  đến  nông  thôn.  Các trường đào tạo cán bộ chính trị, quân sự được thành lập: Tháng
3-1946,  mở  Trường  Quân  chính  Bắc  Sơn;  tháng  5-1946,  mở Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn; tháng 6-1946, mở Trường Lục quân  Quảng  Ngài.  Đến  cuối  năm  1946,  trước  khi  cuộc  kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các trường quân sự đã đào tạo được hàng vạn cán bộ, bổ sung cho các đơn vị cơ sở.

Trải  qua  hơn  một  năm  đấu  tranh  bảo  vệ  và  củng  cố  chính quyền dân chủ nhân dân, những khó khăn ban đầu đã được đẩy lùi.  Tiềm  lực  của  Nhà  nước  cách  mạng  được  tăng  cường  một bước,  tạo  nên  thế  và  lực  mới  cho  toàn  dân  ta  bước  vào  cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nước.

Có được những thắng lợi đó là do toàn dân ta đoàn kết chặt
56
 
chẽ,  thực  hiện  sự  nghiệp  vẻ  vang  "vừa  kháng  chiến,  vừa  kiến quốc"  dưới  sự  lãnh  đạo  của  Đảng.  "Đảng  ta,  đứng  đầu  là  Hồ Chủ tịch, với đường lối chính trị vô cùng sáng suất, vừa cứng rắn  về  nguyên  tắc,  đã  đưa  nước  nhà  vượt  qua  muôn  vàn  khó khăn tưởng như không sao vượt qua nổi. Lúc thì hoà hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hoà  hoãn  với  Pháp  để  đuổi  cổ  quân  Tưởng  và  quét  sạch  bọn phản động tay sai của Tưởng, giành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn  bị  toàn  quốc  chống  thực  dân  Pháp  xâm  lược,  điều  mà Đảng ta đã biết chắc là không thể nào tránh khỏi"1.
CÂU HỎI – BÀI TẬP

1- Vì sao nói tình hình nước Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám 1945 như "ngàn cân treo sợi tóc"?

2- Đảng, Chính phủ cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương và biện pháp gì nhằm phát huy thuận lợi, giải quyết khó khăn trong năm đầu sau Cách mạng tháng Tám (1945
- 1946)?

3- Nêu rõ sách lược của Đảng, Chính phủ cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quân Tưởng và 'Pháp trong năm đầu sau Cách mạng tháng Tám (1945 - 1946).

4- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở
Nam Bộ và Nam Trung Bộ diễn ra như thế nào?

5- Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946: Hoàn cảnh kí kết, nội dung và
ý nghĩa lịch sử.

6- Những hoạt động đối nội và đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhằm xây dựng và bảo vệ chính quyền đã diễn ra như thế nào trong hơn năm đầu sau Cách mạng tháng Tám 1945?




1. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập. tự do... Sđd, tr. 31.
57
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #13 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:51:05 pm »

Chương II



NHỮNG NĂM ĐẦU TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 – 1950)

Chương II nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp vào những năm đầu:

-  Âm  mưu,  hành  động  của  thực  dân  Pháp  mở  rộng  chiến tranh xâm lược cả nước ta; quyết định của Đảng, Chính phủ và Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  về  một  cuộc  kháng  chiến  toàn  quốc chống Pháp; đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng.

- Cuộc chiến đấu ở thủ đô Hà Nội và các đô thị khác phía Bắc vĩ tuyến 16 mở đầu kháng chiến toàn quốc. Đồng thời với hoạt động chiến đấu là những hoạt động di chuyển và thực hiện "tiêu thổ kháng chiến". Tiếp theo là những hoạt động đẩy mạnh chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài.

- Âm mưu, hành động của địch đánh phá căn cứ địa kháng chiến  Việt  Bắc.  Cuộc  chiến  đấu  của  quân  và  dân  ta  đánh  trả cuộc  tiến  công  Việt  Bắc  của  địch.  Sau  chiến  thắng  Việt  Bắc, cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện được đẩy mạnh.

I.   Kháng   chiến   toàn   quốc   chống   thực   dân   Pháp   bùng nổ.Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng


1. Âm mưu, hành động chiến tranh của thực dân Pháp

Hai ngày sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, trong cuộc gặp các Khu trưởng và Đại đội trưởng tự vệ thành Hà Nội tại Toà Thị chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Kí Hiệp định đình chiến này không phải là đã hết chiến tranh đâu... Trái lại, hơn bao giờ hết,
ta  phải  luôn  luôn  chuẩn  bị  để  bồi  dưỡng  lực  lượng,  nâng  cao tinh thần kháng chiến của toàn dân để đối phó với những việc

58
 
bất  ngờ  bất  cứ  lúc  nào  cũng  có  thể  xảy  ra.  Tinh  thần  kháng chiến, sự chuẩn bị chu đáo phải là thường trực tiếp tục không một giây, một phút nào ngừng..."1.

Đúng như sự phán đoán của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay sau khi kí Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm  ước  Việt  -  Pháp  (14-9-1946),  thực  dân  Pháp  đã  bội  ước. Chúng lập ra "Chính phủ Nam Kì tự trị" (l-6-1946) do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu, nhằm tách Nam Kì ra khỏi nước Việt Nam thống nhất. Các cuộc hành binh lấn chiếm của quân Pháp diễn ra liên tiếp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

Ngày 19-10-1946, Hội nghị quân sự toàn quốc được triệu tập dưới sự chủ toạ của Tổng Bí thư Trường Chinh. Hội nghị nhận định:  "Nhất  định  không  sớm  thì  muộn,  Pháp  sẽ  đánh  mình  và mình nhất định cũng phải đánh Pháp"2. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định một số vấn đề về quân sự, tư tưởng, tổ chức nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến dấu của lực lượng vũ trang trong cả nước.

Trong phiên họp thứ hai (28-10 - 9-l-1946), Quốc hội quyết định thống nhất Quân sự uỷ viên Hội với Bộ Quốc phòng thành Bộ  Quốc  phòng  -  Tổng  chỉ  huy.  Việc  phân  chia  chiến  trường được xác định (cả nước được chia thành 12 chiến khu). Các cán bộ chỉ đạo, chỉ huy chủ chốt được điều về để hoàn tất việc chuẩn
bị chiến đấu ở mặt trận Hà Nội (Chiến khu XI).

Ngày 26-10, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng:- Tổng chỉ huy quân đội ta gởi cho Valuy, đề nghị phía Pháp ngừng bắn ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ vào 0 giờ ngày 30-10 theo quy định của Tạm ước Việt - Pháp (14-9-1946). Pháp đồng ý. Nhưng chỉ 10 ngày



1.  Võ  Nguyên Giáp:  Những  chặng  đường  lịch  sử.  NXB  Văn  học.  Hà  Nội,
1977, tr. 400 - 401.

2. Văn kiện quân sự của Đảng. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1976. Tập
II, tr. 64.
59
 
sau, chúng lại bội ước tiếp tục đánh ta. Ngày 20-11-1946, chúng
đánh chiếm Hải Phòng
Và  Lạng  Sơn,  hai  cửa  ngõ  quan  trọng  đường  bộ  và  đường thuỷ ở Bắc Việt Nam. Tiếp đó, chúng đổ bộ thêm quân lên Đà Nẵng.

Sau nhiều lần tăng viện, đến cuối năm 1946, đội quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Đông Dương lên tới hơn 90.000 tên, gồm 36 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn pháo binh, 3 trung đoàn thiết giáp và cơ giới, hơn 100 máy bay và nhiều tàu chiến. Chúng đóng quân tại một số vị trí chiến lược trọng yếu trên đất nước ta.

Ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 trở ra, tổng số quân Pháp khoảng
30.000 tên, gồm có sư đoàn bộ binh thuộc địa số 9, trung đoàn bộ binh lê dương số 3; 1 tiểu đoàn thuộc bán lữ đoàn lê dương
số 13; 1 trung đoàn thiết giáp; trung đoàn chiến xa cơ động, một bộ phận quân dù, thuỷ quân, không quân, các đơn vị thông tin, vận tải, hậu cần. Dựa vào sự giúp đỡ của đế quốc Anh và Mĩ từ khi đưa quân ra miền Bắc theo quy định của Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp nuốt lời hứa, ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng chiến tranh. Chúng biến những đội quân "tiếp phòng" thành đội quân  chiếm đóng và áp dụng  lối  đánh  lấn  dần. Sau khi chiếm Tây Nguyên, một phần vùng Đông Bắc, Tây Bắc và tiến công Hải  Phòng,  Lạng  Sơn,  chúng  chuẩn  bị  gây  hấn  ở  Hà  Nội  với mục đích nắm lấy quyền quản lí thủ đô nước ta, hòng "vô hiệu hoá tức thì Chính phủ Hồ Chí Minh". Với mưu đồ ấy, 6.500 lính viễn chinh được bố trí thành những cụm quân cơ động, chiếm giữ những vị trí bịt cửa ngõ thành phố, sẵn sàng đánh úp, chiếm gọn  các  cơ  quan  đầu  não  của  ta  tại  thủ  đô  Hà  Nội.  Kế  hoạch chuẩn  bị tiến công quân sự do  Bộ chỉ  huy Pháp vạch ra được xúc tiến, chúng chờ tăng thêm viện binh vào tháng 1-1947, sẽ mở  một  đợt  hoạt  động  có  tính  chất  quyết  định,  kết  thúc  công cuộc xâm lược.

Song song với những hành động quân sự, thực dân Pháp còn

60
 
thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc về chính trị. Ở Tây Bắc, chúng tổ chức bọn tay sai phản động chống lại cách mạng. Tại một số địa phương, chúng tìm cách liên lạc, móc nối những tên tay sai trong bộ máy cai trị cũ, tập hợp những phần tử phản động cầm đầu trong các tôn giáo chống lại chính quyền dân chủ nhân  dân.  Để  chuẩn  bị  cho  việc  thực  hiện  âm  mưu  xâm  lược toàn  diện  theo  chiến  lược  đánh  nhanh  thắng  nhanh,  thực  dân Pháp ráo riết tìm cách nắm tình hình mọi mặt ở miền Bắc, nhất
là lực lượng quân sự và khả năng phòng thủ của ta.

Nguy cơ chiến tranh lan rộng ra cả nước tới gần. Tình thế vô cùng  nghiêm  trọng.  Quân  và  dân  ta  sẵn  sàng  chiến  đấu  chống quân xâm lược. Kế hoạch tác chiến ở các thành phố, thị xã được triển khai khẩn trương. Nhân dân, trước hết là các cụ già, trẻ em, những người đau yếu, tàn tật rời khỏi thành phố. Đội công tác đặc biệt được thành lập và lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ chuẩn bị căn cứ. Các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ  Nhai  (Thái  Nguyên);  Sơn  Dương,  Yên  Sơn,  Chiêm  Hoá (Tuyên Quang); Chợ Đồn (Bắc Kạn) mà trung tâm là các huyện Định Hoá, Sơn Dương, Yên Sơn, Chợ Đồn được chọn làm nơi xây dựng An toàn khu (ATK) của Trung ương. Bước vào tháng
12-1946, quân Pháp tiếp tục khiêu khích ở nhiều nơi, nhất là tại Hà Nội. Chủ trương của ta lúc này là "vẫn tranh thủ khả năng hoà  bình",  nhưng  "phải  chuẩn  bị  cấp  tốc  để  tiến  hành  chiến tranh toàn dân, toàn diện và trường kì"1.Xứ uỷ  Nam Bộ cũng nhận  được  chỉ  thị  phối  hợp  chiến  lược  với  chiến  trường  toàn quốc, "không để cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung, Bắc"2. Trong khi khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, Chính phủ ta vẫn kiên trì đấu tranh ngoại giao với Chính phủ Pháp, cố gắng đẩy lùi chiến tranh. Ngày 6-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Quốc hội và Chính phủ Pháp ra lệnh cho quân



1. Nghị quyết Hội nghị các Khu trưởng ngày 13-12-1946.

2. Văn kiện quân sự của Đảng. Tập 2... Sđd. tr. 69.
61
 
viễn  chinh  rút  về  các  vị  trí  trước  ngày  20-11-1946.  Giới  cầm quyền  Pháp  không  trả  lời.  Ngày  15-12,  sau  khi  Lêông  Bơlum (Léon Blum) lên làm Thủ tướng Chính phủ
Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thông điệp yêu cầu giải quyết các bế tắc trong mối quan hệ Việt - Pháp. Chính phủ Pháp vẫn làm ngơ, tỏ rõ thái độ tán thành chính sách duy trì sự có mặt của nước Pháp ở Đông Dương.

Được sự đồng tình của Lêông Bơlum, bọn thực dân Pháp ở Đông Dương càng hung hăng. Ngày 16-12, Đácgiăngliơ đã khôi phục lại các Hiệp ước 1883 và 1884 mà triều đình nhà Nguyễn đã kí với Pháp. Y trắng trợn tuyên bố: "Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là lãnh thổ của nước Pháp" .

Tại Hà Nội, trưa ngày 17-12, thực dân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở Lò Đúc, đồng thời gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và Yên Ninh. Trưa ngày 18-12, Pháp gửi tối hậu thư  đòi  chiếm  Sở  Tài  chính  và  nhà  viên  Giám  đốc  Sở  Giao thông; đòi ta phá bỏ công sự và vật chướng ngại trên đường phố. Chiều  ngày  18-12,  chúng  lại  gửi  tối  hậu  thư  đòi  được  quyền kiểm  soát  Thủ  đô  và  đe  doạ  đến  sáng  20-12,  những  điều  đó không được chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #14 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:17:24 pm »

2. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ trong cả nước

Những hành động khiêu khích, xâm lược trên đây của thực dân Pháp xâm phạm nghiêm trọng đến độc lập, chủ quyền nước ta, gây căm phẫn tột độ trong nhân dân ta. Toàn dân, toàn quân nóng lòng chờ đợi mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Mọi  người  đều  sẵn  sàng  đứng  lên  kháng  chiến.  Trong  hai ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Phân  tích  hành  động  khiêu  khích,  xâm  lược  của  thực  dân

62
 
Pháp  trong  những  tháng  cuối  năm 1946,  nhất  là  từ  giữa  tháng
12,  Hội  nghị  nhận  định:  âm  mưu  của  Pháp  là  mở  rộng  cuộc chiến tranh xâm lược, chuyển cuộc chiến tranh sang một bước mới; thời kì hoà hoãn đã qua, khả năng hoà bình không còn nữa. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nước và vạch ra những vấn đề rất cơ bản về đường lối kháng chiến. Đây là một quyết định sáng suốt, kịp thời của Đảng ta, đáp ứng được yêu cấu của cách mạng và nguyện vọng của toàn dân.

Sáng 19-12-1946, thực dân Pháp gửi tiếp cho Chính phủ ta một tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ, đòi đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến và để cho quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự trong thủ đô Hà Nội.

Cho  tới  lúc  này,  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  vẫn  gởi  thư  cho Xanhtơni  đề  nghị  phía  Pháp  cùng  với  Chính  phủ  ta  "tìm  một giải  pháp  cải  thiện  bầu  không  khí  hiện  tại".  Thực  dân  Pháp khước từ đề nghị đó.

Trưa ngày 19-12, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các Chiến khu và Tỉnh uỷ, chỉ thị "Tất cả hãy sẵn sàng!".

Lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam phát tín hiệu bắt đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Bộ trưởng Quốc phòng công bố mệnh lệnh chiến đấu cho tất cả các lực lượng vũ trang. Công nhân Nhà máy đèn Bờ Hồ phá máy. Đèn điện toàn thành phố Hà Nội phụt tắt. Đó là hiệu lệnh tấn công của quân ta. Cùng thời điểm ấy, các pháo đài Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo... đồng loạt nhả đạn vào nội thành. Ở các khu phố, nhân dân quẳng bàn, ghế, cánh cửa, sập gụ, hòm xiểng, bao cát... ra mặt đường. Công nhân đẩy toa tàu chặn các ngã tư, ngã năm. Cây cối, cột điện cũng được ngả xuống ngáng đường. Vật cản vài chiến luỹ dựng lên khắp nơi. Người dân Hà Nội trong tư thế sẵn sàng đứng lên kháng chiến chống quân xâm lược với tất
cả những gì có trong tay và với một ý chí quyết thắng.


63
 
Tiếng  súng  kháng  chiến  ở  thủ  đô  Hà  Nội  nhanh  chóng  lan rộng ra cả nước.

Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định thiện chí, nguyện vọng hoà bình, quyết  tâm kháng  chiến  và  niềm tin  tất  thắng  của  nhân  dân  ta; đồng  thời  nêu  lên  tư  tưởng  cơ  bản  của  đường  lối  chiến  tranh nhân dân. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời hịch tiến công, thôi thúc, giục giã toàn dân Việt Nam  đứng  dậy  cứu  nước.  Sau  khi  kêu  gọi  toàn  quốc  kháng chiến,  ngày  21-12-1946,  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  gửi  thư  cho nhân dân Việt Nam nhân dân Pháp và nhân dân các nước Đồng minh để cho thế giới biết rõ mục tiêu và quyết tâm đấu tranh vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam. Trong thư, Người khẳng định: "Cuộc kháng chiến rất lâu dài và đau khổ. Dù hi sinh bao nhiêu và thời gian kháng chiến đến bao giờ, chúng ta cũng nhất định chiến đấu đến cùng, đến bao giờ nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập và thống nhất. Chúng ta có 20 triệu chống lại 10 vạn thực dân. Cuộc thắng lợi của ta rất có bảo đảm..."1.

3. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng

Trước khi phát động cuộc kháng chiến trong cả nước, Đảng
ta đã có những văn kiện quan trọng để kịp thời chỉ đạo toàn dân tích cực chuẩn bị kháng chiến.

Những vấn đề được nêu lên trong bản Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc (25-11-1945), Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng (19-10-1946) và văn kiện Những việc khẩn cấp bây giờ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết kinh nghiệm của hơn một năm đánh Pháp, đã đặt cơ sở cho sự hình thành đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng la.

Ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản
Chỉ  thị  Toàn  dân  kháng  chiến.  Chỉ  thị  nêu  rõ  mục  đích,  tính


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 4. NXB Sự thật. Hà Nội 1984. tr. 209. 210.
64
 
chất,  chương  trình  kháng  chiến.  Những  nội  dung  cơ  bản  của đường lối kháng chiến đã được nêu cô đọng trong bản văn kiện lịch sử này. Tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng những nội dung đó là những  vấn  đề  thiết  yếu  cơ  bản  nhất  để  lãnh  đạo,  dẫn  dắt  toàn dân, toàn quân ta trong quá trình kháng chiến.

Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng (18-19 -
12-1946) tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), trên cơ sở phân tích tình hình so sánh lực lượng giữa địch và ta, xác định chính xác ý đồ chiến  lược  của  thực  dân  Pháp,  cùng  với  quyết  định  phát động kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước, cũng nêu lên một số vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến.

Tháng 3-1947, Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh đã kịp thời tổng kết cuộc chiến đấu và viết một loạt bài đăng liên tiếp trên
11 số báo Sự thật (năm 1951 đổi tên thành báo Nhân dân) nhằm giải  thích  rõ  thêm  đường  lối  kháng  chiến.  Những  bài  báo  này được tập hợp và in thành sách, lấy tên là Kháng chiến nhất định thắng  lợi  (xuất  bản  tháng  9-1947).  Đây  là  một  văn  kiện  quan trọng của Đảng ta, góp phần tổ chức, giáo dục, động viên quân và dân ta bước vào cuộc kháng chiến đến thắng lợi; đồng thời phân tích một cách khoa học đường lối kháng chiến toàn dân, toàn  diện,  trường  kì  và  tự  lực  cánh  sinh  do  Trung  ương  Đảng vạch ra từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến.
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #15 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:17:52 pm »

Xuất phát từ sự tin tưởng vào khả năng cách mạng của quần chúng, Đảng đề ra đường lối kháng chiến toàn dân. Đây là nội dung cơ bản của chiến tranh nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược, là tư tưởng xuyên suốt, chỉ đạo mọi kế hoạch tác  chiến  và  xây  dựng  lực  lượng.  Với  đường  lối  kháng  chiến toàn dân, chúng ta sẽ tạo được thế trận cả nước cùng đánh giặc, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài.

Chiến tranh là cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến. Đảng  chủ  trương  tiến  hành  kháng  chiến  toàn  diện,  nghĩa  là kháng  chiến trên  mọi  lĩnh  vực  chính  trị,  quân  sự,  kinh  tế,  văn hoá, xã hội . . . nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn để đánh
65
 
thắng cuộc chiến tranh tổng lực của thực dân Pháp.
Kháng chiến lau dài bắt nguồn từ sự phân tích, đánh giá, so sánh lực lượng giữa hai bên trong buổi đầu kháng chiến. Đánh lâu dài là bí quyết của sự thắng lợi. Kháng chiến lâu dài với tư tưởng chiến lược nhất quán là tư tưởng tiến công, là chiến lược của chiến tranh nhân dân Việt Nam nhằm đánh thắng kẻ thù có ưu thế về kinh tế và quân sự. Trong quá trình kháng chiến, Đảng
ta chủ trương vừa đánh vừa bồi dưỡng sức dân, vừa đánh vừa chuyển  hoá  so  sánh  lực  lượng  giữa  ta  và  địch,  đồng  thời  tận dụng những chuyển biến của tình hình quốc tế có lợi cho cuộc kháng chiến, giành thắng lợi từng bước, đánh bại từng kế hoạch chiến  tranh  của  thực  dân  Pháp,  tiến  lên  giành  thắng  lợi  hoàn toàn. Thời gian sẽ ủng hộ chúng ta và là thầy chiến lược của ta nếu dân tộc ta quyết tâm kháng chiến bền bỉ.

Tự  lực  cánh  sinh  là  một  trong  những  nội  dung  cơ  bản  của đường lối kháng chiến, xuất phát từ quan điểm quần chúng, tin vào khả năng cách mạng và sức mạnh to lớn của quần chúng. Đường  lối  đó  cũng  bắt  nguồn  từ  thực  tế  lịch  sử  của  đất  nước trong những năm đầu kháng chiến. Chỉ có tự lực cánh sinh mới phát huy được mọi khả năng tiềm ông trong quằn chúng; đồng thời mới tranh thủ có hiệu quả sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới.

Đường  lối  kháng  chiến  chống  thực  dân  Pháp  xâm  lược  do Đảng và Chính phủ vạch ra là sự vận dụng tài tình và sáng tạo những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sự thừa kế và phát huy ở trình độ cao  những  kinh  nghiệm  đấu  tranh  giữ  nước  của  dân  tộc  ta. Đường lối đó là nguồn gốc dẫn đến mọi thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #16 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:18:19 pm »

II- Cuộc Chiến đấu của quân và dân ta ở thủ đô và các đô thị khác phía Bắc vĩ tuyến 16

Theo  chủ  trương  của  Bộ  Tổng  chỉ  huy,  mục  tiêu  cuộc  tiến
66
 
công quân sự của quân và dân ta là Hà Nội, tiếp đó là các thành phố  Đà  Nẵng,  Huế,  Vinh,  Nam Định,  Hải  Dương...  nhằm tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân địch; chặn đánh, giam chân địch một thời gian trong thành phố, thị xã, tạo điều kiện thuận lợi cho
cả nước chuyển vào kháng chiến lâu dài.

Tiêu biểu cho cả nước là cuộc chiến đấu của quân và dân ta tại thủ đô Hà Nội, bảo vệ các cơ quan đấu não của Đảng và Nhà nước.

1- Cuộc chiến đấu ở thủ đô Hà Nội

Cuộc chiến đấu của quân và dân Hà Nội diễn ra trong điều kiện so sánh lực lượng giữa hai bên rất chênh lệch.

Về  phía  thực  dân  Pháp,  tính  đến  tháng  12-1946,  ở  Hà  Nội, chúng có 6.500 sĩ quan và binh lính được trang bị mạnh, đóng tại 45 địa điểm. Tất cả các điểm đóng quân của Pháp tạo thành một thế bao vây, chia cắt nội thành Hà Nội, khống chế những nơi đóng quân và kèm chặt các cơ quan đầu não của ta. Vũ khí của quân Pháp khá tối tân: 42 khẩu sơn pháo 75 mm, lựu pháo
100  và  pháo  37  mm  bố  trí  2  trận  địa  ở  sân  bay  Gia  Lâm  và trường Anbe Xarô, có thể bắn vào hầu hết các mục tiêu trong Hà Nội. Lực lượng xe máy bao gồm 22 xe tăng, 40 xe thiết giáp bố
trí ở trong thành là một lực lượng cơ động phản kích mạnh. Sân bay Gia Lâm có 30 máy bay sẵn sàng chi viện cho chiến trường Hà Nội và một số vùng ven đô.

Ngoài ra, ở Hà Nội lúc đó còn có 13.000 Pháp kiều sống tập trung trong hai khu vực nối tiếp nhau thành một dải rộng lớn cắt đôi thành phố. Trong số này, nhiều người được trang bị vũ khí; nhiều căn nhà đã trở thành những ổ chiến đấu bí mật.

Một số tàu chiến của thuỷ quân Pháp khống chế đường sông, sẵn sàng chi viện cho quân Pháp ở nội thành. Với lực lượng và cách bố trí như trên, chúng hi vọng chỉ trong 24 giờ sẽ nhanh chóng đánh chiếm tất cả các cơ quan đầu não của ta; bao vây, chia  cắt,  tiêu  diệt  ta  và  làm  chủ  thành  phố  Hà  Nội  trong  thời
67
 
gian ngắn; đồng thời đè bẹp cuộc kháng chiến của nhân dân ta nói  chung,  thực  hiện  âm  mưu  chiến  lược  đánh  nhanh  thắng nhanh.
Biết  rõ  âm  mưu  của  kẻ  thù,  Ban  Thường  vụ  Trung  ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo: Chiến khu Hà Nội không thể rơi vào thế bất ngờ, nếu đích đánh trước ta có thể quật lại ngay, trận đánh ở thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiêu biểu cho tinh thần kháng chiến của cả nước, Hà Nội cần giam chân địch ít nhất là một tháng, tạo điều kiện cho cả nước chuyển sang chiến tranh.

Về  phía  ta,  lực  lượng  vũ  trang  Hà  Nội  có  5  tiểu  đoàn  Vệ quốc, trang bị vũ khí thô sơ và thiếu thốn: 9 khẩu đội pháo binh gồm những khẩu sơn pháo, pháo chống tăng, pháo cao xạ cũ kĩ được bố trí ở Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo, Đào Xuyên... Ngoài ra, còn có 8 trung đội công an xung phong, 1 đại đội tự vệ chiến đấu  và  đông  đảo  nhất  là  lực  lượng  dân  quân,  tự vệ  nội,  ngoại thành  (khoảng  28.500  người),  trang  bị  chủ  yếu  bằng  lựu  đạn, dao, kiếm.

Mặc dù lực lượng rất chênh lệch, nhưng quân và dân Hà Nội vẫn ngoan cường chiến đấu. Lần đầu tiên xung trận, quân và dân
ta  khó  tránh  khỏi  lúng  túng  và  thiếu  sót.  Có  những  trận  đánh được  chuẩn  bị  khá  công  phu,  nhưng  kết  quả  thu  được  chưa tương xứng; có trận ta bị thiệt hại. Tuy nhiên, với khí thế nhất tề xông lên, quân và dân Hà Nội đã giành được quyền chủ động và phá  tan  thế  trận  bao  vây  của  quân  Pháp,  đẩy  chúng  vào  tình trạng  bị  động  đối  phó.  Chỉ  trong  vài  giờ  đầu,  các  chiến  sĩ  Vệ quốc đoàn và tự vệ, với sự giúp đỡ của nhân dân, đã tiêu diệt phần lớn các ổ chiến đấu của quân Pháp.

Trong các trận đánh của quân và dân thủ đô đêm 19-12, oanh liệt nhất là trận chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ phủ - nơi đặt trụ sở làm việc của Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, nhà làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trận chiến đấu ở Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, Cửa Nam, nhất là ở khu chợ Đồng Xuân đều là những trận đánh tiêu biểu

68
 
cho khí phách anh hùng và sự kết hợp giữa lòng dũng cảm với
trí thông minh, sáng tạo của các chiến sĩ cảm tử thủ đô, của nhân dân ta trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp.
Từ  trong  khói  lửa  chiến  đấu  ác  liệt,  ngày  6-1-1947,  Trung đoàn Thủ đô chính thức thành lập. Lực lượng của Trung đoàn gồm ba tiểu đoàn, với số quân gắn 2.000 người, có cả phụ nữ, người  nhiều  tuổi  và  thanh,  thiếu  niên  đã  từng  sống,  chiến  đấu bảo vệ thủ đô trong những ngày đầu kháng chiến.

Trải qua hai tháng (19-12-1946 - 18-2-1947), quân và dân Hà Nội đánh gần 200 trận, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực địch, giam chân chúng nhiều ngày để hậu phương kịp tổ chức, triển khai thế trận kháng chiến lâu dài; bảo vệ các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, Mặt trận di chuyển về căn cứ an toàn, bảo  vệ  hàng  vạn  đồng  bào  thủ  đô  rời  thành  phố  về  vùng  hậu phương.

Cuộc  chiến  đấu  anh  dũng  của  quân  và  dân  Hà  Nội  tượng trưng  cho  ý  chí  kiên  cường,  bất  khuất  của  dân  tộc  Việt  Nam quyết đánh thắng quân đội xâm lược nhà nghề của một đế quốc để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc.

Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #17 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:18:44 pm »

2- Cuộc chiến đấu ở các đô thị khác

Cùng  với  tiếng  súng  kháng  chiến  ở  thủ  đô Hà  Nội,  từ  đêm
19-12-1946, quân và dân các thành phố, thị xã Hải Dương, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng... cũng đồng loạt tiến công địch.

Trừ  thành  phố  Vinh  và  thị  xã  Bắc  Ninh,  còn  lại  trong  các thành phố và thị xã khác, cuộc chiến đấu kéo dài từ một đến ba tháng. Quân địch ở Vinh bị ta tiêu diệt ngay trong đêm đầu. Tại Bắc Ninh, địch rút chạy về Hà Nội sau 10 ngày chiến đấu.

Ở thành phố Nam Định - nơi được thực dân Pháp coi là quan trọng vào hàng thứ ba sau Hà Nội và Hải Phòng, quân và dân ta bao vây địch trong gần ba tháng (từ 19-12-1946 đến 12-3-1947),

69
 
diệt hơn 400 tên. Địch mở nhiều đợt tiến công phá vây nhưng đều bị quân ta đánh lui. Sau khi có quân đến ứng cứu, địch tăng cường những cuộc phản kích. Để bảo toàn lực lượng, ngày 12-3-
1947, quân ta rút khỏi thành phố.

Ở thành phố Huế, bị quân ta tiến công mạnh, địch buộc phải cố  thủ  trong các  căn  cứ chiếm đóng.  Trong  50  ngày  đêm tiến công và bao vây, quân và dân ta đã diệt hơn 200 tên địch, hạ 1 máy bay, phá 3 xe thiết giáp, nhiều xe vận tải, thu nhiều súng đạn.

Ở thành phố Đà Nẵng, quân và dân ta tiến công, bao vây, cô lập sân bay và đánh lùi nhiều đợt tiến công phá vây của địch. Đầu tháng 1-1947, được tăng viện, quân Pháp điều 2.000 quân lên giải vây sân bay, thành phố.

Tại Nam Bộ, quân và dân ta đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá bình định, "không để cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung - Bắc".

Phong  trào  kháng  chiến  ở  Nam  Trung  Bộ,  Tây  Nguyên  có bước phát triển mới. Quân và dân ta liên tiếp đánh bại các cuộc tiến công của địch, giữ vững vùng tự do.

Cuộc  chiến  đấu  vây  đánh  địch  trong  các  thành  phố,  thị  xã của quân và dân ta đã đánh bại âm mưu và kế hoạch của thực dân tháp định đánh úp cơ quan đầu não kháng chiến tại Hà Nội, tiêu diệt lực lượng vũ trang ta ở các thành phố lớn; đã tiêu diệt và  vây  hãm  quân  địch  dài  ngày  trong  các  thành  phố,  tạo  điều kiện  cho  cả  nước  chuyển  vào  kháng  chiến,  xây  dựng  thế  trận đánh địch lâu dài. Âm mưu chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của  thực  dân  Pháp  bước  đầu  bị  phá  sản.  Cuộc  chiến  đấu  của quân và dân thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã khác còn có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn dân tộc, gây thanh thế cho kháng chiến. Nó giáng một đòn mạnh vào ý chí xâm lược của kẻ thù, đặt tiền đề vững chắc cho thắng lợi trong những năm tiếp theo.

70
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #18 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:19:12 pm »

III- Tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược

1. Công tác di chuyển, thực hiện "Tiêu thổ kháng chiến”

Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, với tầm nhìn chiến  lược  về  một  cuộc  chiến  tranh  sắp  tới,  Chủ  tịch  Hồ  Chí Minh đã phân công Phạm Văn Đồng cùng một số cán bộ ở lại Việt Bắc một thời gian để củng cố căn cứ địa.

Cuối tháng 10-1946, sau chuyến đi thăm Pháp và kí Tạm ước
14- 9-1946, thấy trước nguy cơ một cuộc chiến tranh với Pháp sắp  nổ  ra,  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  giao  nhiệm  vụ  cho  Nguyễn Lương Bằng trở lại Việt Bắc chuẩn bị địa điểm xây dựng căn cứ địa kháng chiến.

Tháng 11-1946, Trung ương Đảng quyết định thành lập Đội công  tác  đặc  biệt  do  Trần  Đăng  Ninh  phụ  trách.  Đội  gồm  đại biểu các ngành quân sự, an ninh, chính quyền, đoàn thể chăm lo việc nghiên cứu di chuyển và chọn địa điểm an toàn để đặt trụ sở các cơ quan Trung ương. Từ giữa tháng 12-1946, một số cán bộ của Đội công tác đặc biệt lần lượt lên Việt Bác làm nhiệm vụ.

Sau  vụ  thực  dân  Pháp  gây  xung  đột  ở  Hải  Phòng  và  Lạng Sơn  (20-11-1946),  công  việc  chuẩn  bị  cho  các  cơ  quan  Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận rời khỏi thủ đô Hà Nội được đẩy mạnh, đợt tổng di chuyển được bắt đầu.

Cuối  tháng  12-1946,  sau  khi  cuộc  kháng  chiến  toàn  quốc bùng nổ, các cơ quan Trung ương lần lượt rời Hà Nội về phía tây nam, chuyển đến địa phận các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây (thị xã  Hà  Đông,  Thanh  Oai,  Chương  Mĩ  -  Hà  Đông;  Quốc  Oai, Thạch Thất - Sơn Tây...); sau đó (đầu năm 1947), chuyển đến địa phận các tỉnh thuộc căn cứ Việt Bắc. Các huyện Định Hoá, Đại  Từ,  Phú  Lương,  Võ  Nhai  (Thái  Nguyên);  Chợ  Đồn  (Bắc Kạn); Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang) được

71
 
chọn làm an toàn khu (ATK) của Trung ương Căn cứ địa cách mạng Việt Bắc trước đây trở thành căn cứ địa kháng chiến của
cả nước.
Từ Việt Bắc, đầu mối liên lạc dần dần được nối thông với các miền,  các  địa  phương.  Từ  đây,  căn  cứ  địa  Việt  Bắc  trở  thành Thủ  đô  kháng  chiến  của  cả  nước.  Việc  xây  dựng  ATK  Trung ương  ở  Việt  Bắc  thể  hiện  tính  chủ  động,  tầm  nhìn  chiến  lược sáng suất của Đảng và Chính phủ. Việc di chuyển kịp thời và an toàn các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, trước hết là các cơ quan Trung ương, là thắng lợi lớn có ý nghĩa chiến lược.

Để bảo đảm cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến lâu dài, việc chuyển  máy  móc,  nguyên  vật  liệu...  lên  căn  cứ  địa  được  tiến hành khẩn trương. Trong điều kiện ta không có phương tiện vận tải, lại phải đi qua nhiều chặng đường đã bị phá hoại, việc vận chuyển thực sự là một công việc đầy khó khăn, nặng nhọc. Nhờ sự tận tình của cán bộ, công nhân các ngành, sự giúp đỡ không tiếc công sức của nhân dân dọc đường di chuyển, chỉ trong vòng
3 tháng đầu kháng chiến, ta đã vận chuyển được hơn 3 vạn tấn máy móc và dụng cụ sản xuất, hàng vạn tấn nguyên vật liệu ra vùng căn cứ. Riêng ở Bắc Bộ, gần 2/3 máy móc được chuyển lên căn cứ Việt Bắc. Nhờ đó, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ta đã xây dựng được 57 cơ sở công nghiệp, chủ yếu là công nghiệp quốc phòng; sản xuất đáp ứng một phần quan trọng nhu  cầu  vũ  khí,  đạn  dược,  quân  trang,  quân  dụng  cho  các  lực lượng vũ trang và nhu cáu tối thiểu cho đời sống nhân dân.

Trong các công tác chuẩn bị vật chất cho kháng chiến lâu dài, vấn đề tích trữ muối và gạo được đặc biệt chú ý. Ngay từ mùa hè năm 1946, các cơ quan chức năng đã được chỉ thị thu mua và vận  chuyển  muối  từ  đồng  bằng  ven  biển  lên  căn  cứ.  Nhờ  có hàng vạn tấn muối được chuyển kịp thời lên Việt Bắc, Tây Bắc, nên khi miền duyên hải bị địch chiếm đóng, hậu phương kháng chiến vẫn có một lượng muối dự trữ cần thiết cho đời sống của cán bộ, bộ đội và nhân dân.

72
 
Cũng ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Chính phủ đã có nhiều biện pháp tổ chức việc thu mua, bảo vệ, bảo quản thóc, gạo chu đáo. Bộ Tài chính đặt kho dự trữ thóc, gạo phân tán ở nhiều nơi. Cục  Quân  nhu  có  hệ  thống  kho  tại  các  tỉnh  Hà  Đông,  Ninh Bình, Sơn Tây, Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên Quang...

Đồng thời với hoạt động "di chuyển" ở thời kì đầu của cuộc kháng chiến là hoạt động "tiêu thổ" để kháng chiến; vận động và
tổ chức "tản cư” nhằm đảm bảo tính mạng và tài sản của nhân dân, nhanh chóng chuyển đất nước sang thời chiến.

Bài  học  kinh  nghiệm  của  ông  cha  thực  hành  kế  thanh  dã, vườn không nhà trống trong lịch sử chống ngoại xâm được vận dụng triệt để Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ: "Phá hoại nhiều hơn bắn; triệt để làm cho địch đói, khát, què, mù, điếc, câm, tiêu hao, mệt mỏi, chán nản"1. Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (12 đến 16-1-1947) nêu rõ mức độ phá hoại đối với từng vùng, từng nơi.  Ngày  16-1-1947,  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  ra  Lời  kêu  gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến: "Đánh thì phải phá hoại... Bây giờ ta phải phá đi, để chặn bọn Pháp lại, không cho chúng tiến lên, không cho chúng lợi dụng. Ta vì nước hi sinh, chịu khổ một lúc. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, ta sẽ cùng nhau kiến thiết sửa sang lại . . . "2.

Hiểu rõ nội dung và ý nghĩa của công tác phá hoại để kháng chiến,  từ  đầu  tháng  12-1946,  các  địa  phương  đã  lập  được  kế hoạch phá hoại. Các Ban phá hoại được tổ chức và đi vào hoạt động.

Công tác phá hoại để kháng chiến diễn ra trong khí thế cách mạng sục sôi của quần chúng. Với tinh thần yêu nước cao độ và với niềm tin tất thắng, nhân dân ta tự tay mình phá sấp nhà cửa,
xí nghiệp, hầm mỏ; đào hào, đắp ụ, dựng vật cản trên các đường


1. Văn kiện quân sự của Đảng 1945 - 1950... Sđd, tr. 76.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 4. sđd, tr. 248-249.
73
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #19 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2011, 01:19:41 pm »

giao thông thuỷ, bộ. Nhiều thành phố, thị xã bên thành bình địa, biểu thị sức mạnh phi thường của ý chí quyết tâm kháng chiến và niềm tin tất thắng của nhân dân ta. Chỉ trong mấy tháng cuối năm 1946 đầu năm 1947,  quân và dân ta đã phá hoại 1.060 km đường sắt, 5.640 km đường ô tô 30.500 cầu cống 59.100 ngôi nhà, 84 đầu máy và 868 toa tàu hoả... Điều đó đã góp phần làm chậm  bước  tiến  quân  thù  và  hãm  chúng  vào  một  tình  thế  khó khăn.

Tuy nhiên, trong công tác phá hoại để kháng chiến, một số địa phương còn phá tràn lan. Ngược lại, có nơi mắc bệnh chủ quan, chưa tích cực thực hiện; Ban phá hoại tuy thành lập nhưng chưa hoạt động.

Để  chuyển  đất  nước  vào  chiến  tranh,  một  công  việc  khó khăn, phức tạp là tổ chức đưa, đón hàng chục vạn đồng bào tản cư  ra  khỏi  các  vùng  có  chiến  sự.  Lúc  đầu,  do  chưa  có  kinh nghiệm, không dự kiến hết số lượng người tản cư và tình hình chiến sự chuyển biến sau khi địch đánh rộng ra ngoài các thành phố,  nên  Uỷ  ban  tản  cư  nhiều  cấp  không  làm  chủ  được  tình hình, dẫn đến tình trạng ở một số vùng nhân dân hoang mang, chạy vòng quanh và có tâm lí tạm bợ.

Trước tình trạng trên, từ trung tuần tháng 2 và đầu tháng 3-
1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Bộ Nội vụ cử người về các địa Phương (kể cả vùng địch mới chiếm đóng) để có biện pháp khắc phục. Người chỉ thị cho Uỷ ban hành chính các cấp: "Vô luận thế nào cũng không được bỏ dân bơ vơ". Nhờ đó, từ tháng  4-1947,  công  tác  tản  cư,  di  cư  dần  dần  đi  vào  nền  nếp; đồng  bào  tản  cư  nhanh  chóng  hoà  nhập  với  nhân  dân  các  địa phương, ổn định đời sống, cùng tham gia các hoạt động kháng chiến, kiến quốc.

Sau khi việc di chuyển đã hoàn thành, chỗ ở và làm việc của các cơ quan và đồng bào tản cư ổn định, Nhà nước bắt tay xây dựng lực lượng về mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến lâu dài.
74
 
2- Xây dựng lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài

a) về chính trị

Từ khi chiến sự bắt đầu lan rộng, kháng chiến được xác định
là nhiệm vụ hàng đầu, nên hình thức tổ chức chính quyền và tên gọi  của  Uỷ  ban  hành  chính  không  còn  phù  hợp.  Vì  vậy,  một ngày sau khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ngày 20-12-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số l/SL về việc thành lập Uỷ ban bảo vệ tại  các  khu  quân  sự,  các  đơn  vị  hành  chính  từ  cấp  tỉnh  trở xuống;  quy  định  thành  phần,  chức  năng  và  quyền  hạn  của  Uỷ ban bảo vệ các cấp. Từ tháng 3-1947, Chính phủ ra các sắc lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều khoản về Uỷ ban bảo vệ các cấp từ khu xuống đến cơ sở. Theo đó, mỗi Uỷ ban bảo vệ khu và tỉnh có 1 đại biểu quân sự, 1 đại biểu hành chính và 3 đại biểu nhân dân. Uỷ ban bảo vệ huyện gồm 3 đại biểu (quân sự, hành chính và nhân dân). Uỷ ban bảo vệ xã có 1 đại biểu nhân dân và 1 đại biểu quân sự.

Uỷ  ban  bảo  vệ  là  tổ  chức  gồm  các  thành  phần  quân,  dân, chính.

Chiến sự lan tới đâu, Uỷ ban bảo vệ ở đó đổi thành Uỷ ban kháng chiến. Như vậy, từ đầu năm 1947, từ cấp khu xuống đến xã, bên cạnh Uỷ ban hành chính còn có Uỷ ban kháng chiến. Sự tồn tại cơ chế hai chính quyền ở địa phương không tránh khỏi tình trạng cồng kềnh, chồng chéo, dẫm đạp lên nhau.

Nhằm khắc phục tình trạng đó, ngày 27-8-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 91/SL về việc hợp nhất Uỷ ban kháng chiến và Uỷ ban hành chính các cấp từ tỉnh trở xuống thành Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính.

Căn cứ vào sắc lệnh trên, cơ quan hành chính các cấp tỉnh, huyện, xã được kiện toàn. Uỷ ban cấp xã có 5 uỷ viên, trong đó có 3 uỷ viên hành chính, 1 uỷ viên quân sự và 1 uỷ viên nhân dân. Uỷ ban cấp huyện, tỉnh gồm 7 uỷ viên, trong đó có 3 uỷ viên hành chính, 1 uỷ viên quân sự và 3 uỷ viên nhân dân.
75
 
Trong quá trình củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương các cấp, Trung ương Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục phẩm chất, tư cách đạo đức của cán bộ, nhân  viên  Nhà  nước.  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  khuyên  cán  bộ, nhân viên Nhà nước, trước hết là đảng viên phải thật thà, đoàn kết, thương yêu nhau, phải kiên quyết tẩy rửa đầu óc bè phái, quân phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, vô kỉ luật, ích kỉ... Nhờ đó, Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp từ xã đến Liên khu đã gánh vác được vai trò thay mặt Chính phủ tổ chức  và  điều  hành  công  cuộc  kháng  chiến,  kiến  quốc  tại  địa phương mình.

Nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cuộc kháng chiến, công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức được các cấp từ Trung  ương  xuống  các  tỉnh  đặc  biệt  coi  trọng.  Công  tác  phát triển Đảng được đẩy mạnh trong bộ đội, dân quân, trong các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước và cả trong các vùng sau lưng địch. Hàng  vạn  công  nhân,  nông  dân,  trí  thức  cách  mạng,  chiến  sĩ trong lực lượng vũ trang được kết nạp Đảng. Các tổ chức cơ sở của  Đảng  đã  ăn  sâu  bám  rễ  trong  nhân  dân.  Hầu  hết  các  địa phương đã lập được huyện uỷ, nhiều nơi lập được chi bộ liên xã. Hệ thống tổ chức của Đảng trong quân đội cũng từng bước được kiện toàn.

Song song với công tác xây dựng Đảng,  các đoàn  thể quần chúng cũng không ngừng được củng cố về tổ chức.

Tổ chức Công đoàn ngày càng thu hút được nhiều đoàn viên và phát huy được vai trò động viên, tổ chức công nhân thi đua sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật.

Các Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc có đông đảo hội  viên  tham  gia,  thường  xuyên  giáo  dục,  động  viên  các  hội viên tích cực đóng góp sức người, sức của phục vụ kháng chiến.

Công tác vận động thanh niên có bước tiến triển mới. Từ năm
1947, các tổ chức Đoàn Thanh niên cứu quốc, Liên đoàn Thanh

76
 
niên Việt Nam, Tổng hội Sinh viên Việt Nam được củng cố và lần lượt mở đại hội.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM