Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:23:22 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Việt Nam 1945-2000  (Đọc 39778 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:34:02 pm »

TS. NGUYỄN XUÂN MINH

















LỊCH SỬ VIỆT NAM
1945 - 2000























NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC - 2006

1
 




Chịu trách nhiệm xuất bản:

Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc: NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập : NGUYỄN QÚY THAO
Chịu trách nhiệm nội dung:

Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc NXBGD tại TP. Hà Nội
NGUYỄN XUÂN HÒA

Biên tập nội dung và sửa bản in : TRẦN THÁI HÀ
Trình bày bìa:

NGUYỄN MẠNH HÙNG

Chế bản:

GIA HƯNG










ĐƠN VỊ LIÊN DOANH IN VÀ PHÁT HÀNH: TRUNG TÂM SÁCH KHUYẾN HỌC TẠI TP. HÀ NỘI

2
 
LỜI NÓI ĐẦU


Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Trong hơn 60 năm qua, nhân dân ta đã đấu tranh oanh liệt giành độc lập tự do, thống  nhất  Tổ  quốc  và  xây  dựng  chủ  nghĩa  xã  hội,  tạo  nên những biến đổi rất to lớn và sâu sắc bộ mặt của đất nước.

Việc nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2000 có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc, bởi lẽ thời kì này giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển của dân  tộc  Do  vậy,  từ  trước  tới  nay,  nhiều  tập  giáo  trình  và  các sách chuyên khảo về thời kì lịch sử này đã được lần lượt công bố,  đáp  ứng  nhu  cầu  nghiên  cứu,  giảng  dạy  ở  các  trường  sư phạm và khoa học xã hội nhân văn. Tuy nhiên, trên nền chung của một chương trình thống nhất, mỗi trường đều có những yêu cầu cụ thể riêng, nhằm thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường.

Tập Giáo trình Lịch sử Việt Nam 1945 - 2000 được biên soạn nhằm phục vụ yêu cầu đào tạo của Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.

Căn  cứ  vào  phương  hướng  cơ  bản  của  chương  trình  giảng dạy Lịch sử Việt Nam trong các Khoa Lịch sử ở các trường Đạt học Sư phạm nước ta hiện nay tập Giáo trình Lịch sử Việt Nam
1945 - 2000 được biên soạn một cách hệ thống, tương đối toàn diện về các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội và
mang tính cập nhật. Những sự kiện lịch sử quan trọng diễn ra trên địa bàn miền núi phía Bắc được tác giả trình bày khá cụ
thể, giúp cho sinh viên có điều kiện thuận lợi trong học tập và nghiên cứu. Một số sự kiện lịch sử và nhận định theo quan điểm
mới cũng được thể hiện trong tập Giáo trình này.
Nội  dung  chương  trình Lịch  sử  Việt Nam từ  năm 1945  đến năm 2000 gồm 9 đơn vị học trình (135 tiết), được cấu trúc thành

3
 
3 phần:

Phần I: Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), gồm 4 đơn vị học trình (60 tiết).

Phần  II:  Việt  Nam  trong  kháng  chiến  chống  Mĩ  cứu  nước
(1954 - 1975), gồm 4 đơn vị học trình (60 tiết).

Phần III: Việt Nam trong thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1975 - 2000), gồm 1 đơn vị học trình (15 tiết). Lịch  sử  Việt  Nam  từ  năm  1945  đến  năm  2000  chứa  đựng  nội dung rất rộng lớn và phong phú, trong đó có nhiều vấn đề còn mang tính thời sự.

Trong quá trình hoàn thiện tập Giáo trình này, chúng tôi đã nhận được những ý kiến đóng góp hết sức quý báu của một số đồng  nghiệp,  đặc  biệt  là  của  PGS.TS  Trần  Bá  Đệ.  Chúng  tôi chân thành cảm ơn.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song với khả năng có hạn nên trong  quá  trình  biên  soạn,  chúng  tôi  không  tránh  khỏi  những thiếu  sót  và  hạn  chế.  Hi  vọng  sẽ  nhận  được  ý  kiến  đóng  góp chân thành của các bạn đồng nghiệp và sinh viên để có những tập giáo trình mới đạt chất lượng cao hơn.

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2006

Tác giả


« Sửa lần cuối: 28 Tháng Mười, 2011, 10:47:58 pm gửi bởi HUY_AK_47 » Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #1 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:34:47 pm »

PHẦN I




XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP GIÀNH VÀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC (1945 - 1954)



Chương I



VIỆT NAM TRONG HƠN MỘT NĂM ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (9/1945 - 12/1946)
Chương I nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản của Lịch sử Việt  Nam  từ  sau  Cách  mạng  tháng  Tám  đến  toàn  quốc  kháng chiến. Thời gian này, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, diệt giặc đói, diệt giặc dốt, khắc phục khó khăn về tài  chính  là  những  nhiệm  vụ  cấp  bách  lúc  này  cần  được  giải quyết đồng thời với đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản để bảo vệ chính quyền, giữ vững thành quả cách mạng và chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài chống thực dân Pháp về sau.

I- Tình hình Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ hai và
Cách mạng tháng Tám 1945.

Sau  Chiến  tranh  thế  giới  thứ  hai,  một  loạt  nước  ở  Trung, Đông Âu được giải phóng, lập nên chế độ dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội từ một nước là Liên Xô đã trở thành hệ thống thế giới gồm nhiều nước và là chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

5
 
Cùng với sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nhiều nước châu Á, châu  Phi  cũng  ngày  một  dâng  cao.  Nhân  dân  các  nước  Lào, Campuchia, Mianma, Inđônêxia, Philíppin, Malaixia... đứng lên đấu tranh chống thực dân Anh, Pháp, Mĩ, Hà Lan. . . giành độc lập. Lực lượng cách mạng Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã giải phóng được một phần lục địa phía Bắc với gần 100 triệu dân (trong tổng số 450 triệu), nhưng lực lượng phản cách mạng Quốc Dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu vẫn còn khá mạnh (1,6 triệu quân) và cuộc nội chiến giữa hai lực lượng bắt đầu diễn ra quyết liệt.

Ở châu Âu, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở một số nước, như Pháp, Ý. . . , giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân  lao  động  đấu  tranh  đời  các  quyền  dân  sinh,  dân  chủ,  đòi tăng lương, giảm giờ làm, ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa. Sau Chiến tranh, trong khi nền kinh tế của  các  nước  tư  bản  châu  Âu  bị  tàn  phá  nặng  nề,  thì  Mĩ  trở thành  một  nước  mạnh  nhất  về  kinh  tế  (chiếm  52%  tổng  sản phẩm xã hội của thế giới) và nắm độc quyền vũ khí hạt nhân. Với sức mạnh về kinh tế, khoa học - kĩ thuật và quân sự đế quốc Mĩ ráo riết thực hiện âm mưu làm bá chủ thế giới. Cùng với việc tăng  cường chạy  đua  vũ trang,  cuộc "chiến tranh lạnh" do Mĩ gây  ra  nhằm chống  lại  Liên  Xô  và  các  nước xã hội  chủ nghĩa diễn ra ngày càng quyết liệt.

Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mâu thuẫn chủ yếu giữa một bên là hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng các lực lượng đấu tranh cho độc lập dân tộc dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội  với  một  bên  là  phe  đế  quốc  do  Mĩ  cầm  đầu  nổi  lên  ngày càng sâu sắc. Tất cả tình hình trên đã tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập của nhân dân Việt Nam.

Sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, dân tộc Việt Nam bước  vào  kỉ nguyên  mới  -  kỉ  nguyên độc  lập  tự  do.  Nhân  dân Việt Nam trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và

6
 
bước đầu được hưởng những quyền lợi do cách mạng đem lại. Họ hiểu rõ giá trị thiêng liêng của những quyền lợi ấy, một lòng gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây chính
là  nguồn  sức  mạnh  vô  tận  giúp  cho  Nhà  nước  cách  mạng  còn
đang trong thời kì trứng nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Sau Cách mạng tháng Tám, Mặt trận Việt Minh phát triển rất nhanh  chóng.  Các  Hội  Cứu  quốc  trong  công  nhân,  nông  dân, thanh  niên,  phụ  nữ  được  tổ  chức  thống  nhất  trong  cả  nước. Nhiều Hội Cứu quốc mới ra đời, tập hợp thêm những tầng lớp yêu nước còn đứng ngoài Mặt trận, như Công thương Cứu quốc, Phật  giáo  Cứu  quốc,  Đoàn  Hướng  đạo  Cứu  quốc,  Đoàn  sinh viên Cứu quốc... Mặt trận Việt Minh thực sự trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân rộng rãi, giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.

Thực hiện chủ trương vũ trang toàn dân, nhân dân ta tích cực xây  dựng  lực  lượng.  Chỉ  trong  thời  gian  ngắn,  lực  lượng  vũ trang  bao  gồm  các  đơn  vị  Giải  phóng  quân  và  các  đội  tự  vệ chiến đấu phát triển nhanh chóng. Dù trang bị vũ khí còn rất thô sơ và thiếu thốn, lại chưa có nhiều kinh nghiệm tác chiến, nhưng cán  bộ  và  chiến  sĩ  trong  các  đơn  vị  vũ  trang  đều  có  tinh  thần chiến đấu dũng cảm, là lực lượng chủ chốt trong cuộc đấu tranh
bảo vệ chính quyền cách mạng.

Trải  qua  15  năm  đấu  tranh  cách  mạng  do  Đảng  lãnh  đạo (1930 - 1945), truyền thống đoàn kết, bất khuất của dân tộc ta càng được phát huy cao độ; Đảng ta ngày càng trưởng thành, bắt
rễ sâu vào quần chúng và thêm dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo. Sau khi đất nước được độc lập, Đảng kịp thời mở rộng đội ngũ, đạo tạo cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo trên mọi mặt hoạt động, chuẩn bị tổ chức cho toàn dân bước vào cuộc đấu tranh mới.

Đứng đầu Đảng và Nhà nước cách mạng là vị lãnh tụ thiên tài,  có uy  tín  tuyệt  đối  trong  toàn  dân.  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh tượng trưng cho linh hoa của dân tộc, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng
7
 
phong phú cùng với uy tín rộng lớn của Người là ngọn cờ tập hợp các tầng lớp nhân dân xung quanh Đảng và Chính phủ.

Bên  cạnh  những  thuận  lợi  cơ  bản  nêu  trên,  Nhà  nước  cách mạng  Việt  Nam,  ngay  sau  khi  ra  đời,  đã  phải đứng  trước  một tình thế hết sức hiểm nghèo.

Nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp với trình độ lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, thiên tai thường xuyên xảy ra. Trận lụt lớn hồi tháng 8 - 1945 làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ, khiến 1/3 diện tích canh tác bị hư hại nặng. Sự thiệt hại do trận  lụt  này  gây  ra  ước  tính  khoảng  2.000  triệu  đồng,  tương đương khoảng 3 triệu tạ gạo (theo giá lúc đó). Ba tỉnh vùng Bắc Trung  Bộ  là Thanh Hoá, Nghệ  An, Hà Tĩnh  cũng  bị  mất  mùa trên khoảng một nửa diện tích. Sau lụt là hạn hán kéo dài làm cho 50% diện tích ruộng đất ở Bắc Bộ không cày cấy được. Các ngành  kinh  tế  bị  đình  đốn  nghiêm  trọng.  Nhiều  cơ  sở  công nghiệp chưa đi vào hoạt động. Hàng vạn công nhân thất nghiệp. Riêng ngành khai mỏ than, năm 1940 có 39.500 công nhân, khai thác được 2.500.000 tấn; đến năm 1945 chỉ còn lại 4.000 công nhân với sản lượng khai thác là 231.000 tấn1. Việc buôn bán với nước ngoài hầu như bị đình trệ. Hàng hoá trên thị trường khan hiếm. Nguy cơ nạn đói mới xuất hiện trong khi hậu quả nạn đói lớn do Nhật - Pháp gây ra từ cuối năm 1944 đầu năm 1945 vẫn chưa  được  khắc  phục.  Đời  sống  nhân  dân  bị  đe  doạ  nghiêm trọng.

Nền  tài  chính  của  Nhà  nước  cách  mạng  trong  buổi  đấu  hết sức kiệt quệ. Ngân sách quốc gia lúc đó chỉ có 1.230.000 đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Các khoản thu từ thuế giảm sút. Thuế quan là một nguồn thu chính, chiếm 3/4 ngân sách Đông Dương, giờ đây sụt hẳn xuống. Một số chính sách thuế mới do

Chính phủ ban hành nhằm giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân


1. Ban chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ: Lịch sử Chính phủ Việt Nam
1945 - 1955. Hà Nội 2004, tr. 36.
8
 
(bãi bỏ thuế thân, thuế môn bài,
thuế  xe  tay,  xe đạp,  miễn  thuế  điền  thổ  cho  những  vùng  bị ngập lụt và giảm 20% trong toàn quốc...) cũng làm cho nguồn thu ngân sách giảm xuống rất nhiều. Trong khi nguồn thu quá ít
ỏi  không  thể  đáp  ứng  được  nhu  cầu  chi  lớn  thì  Nhà  nước  lại chưa nắm được Ngân hàng Đông Dương. Bên cạnh đó, khi kéo vào  nước  ta,  quân  Tưởng  lại  tung  ra  trên  thị  trường  giấy  bạc "Quan kim" và "Quốc tệ" đã mất giá trị, càng làm cho tình hình tài chính và thương mại thêm phức tạp.

Cùng với khó khăn về kinh tế, tài chính, chế độ thực dân - phong kiến để lại một di sản văn hoá hết sức lạc hậu. Thực dân Pháp chăm lo xây dựng nhà tù hơn là trường học. Vì thế, hơn
90% dân số nước ta mù chữ. Trước năm 1945, cả nước ta chỉ có
737 trường tiểu học với khoảng 623.000 học sinh, 65 trường cao đẳng tiểu học với 16.700 học sinh và chỉ có 3 trường phổ thông trung học với 652 học sinh. Bên cạnh nạn thất học là các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút... tồn tại rất phổ biến. Bệnh dịch hoành hành ở nhiều nơi...

Trong  khi  đó,  chính  quyền  cách  mạng  mới  ra  đời,  chưa  có kinh nghiệm quản lí. Ở một số nơi, chính quyền chưa nằm trong tay những người cách mạng. Quân đội thường trực đang trong quá trình xây dựng, chưa được huấn luyện bao nhiêu. Phần lớn cán  bộ  chỉ  huy  chưa  có  hiểu  biết  về  quân  sự  và  kinh  nghiệm chiến đấu. Trang bị vũ khí rất thô sơ và thiếu thốn, chủ yếu là giáo mác, dao găm, mã tấu, một ít súng trường, súng máy.

Mặt  trận  dân  tộc  thống  nhất  tuy  phát  triển  rộng  rãi,  nhưng chưa được củng cố vững chắc; kẻ thù lại đang ra sức thực hiện âm mưu chia rẽ, lôi kéo... Do đó, vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo đang là những vấn đề lớn được đặt ra rất bức thiết lúc đó.

« Sửa lần cuối: 28 Tháng Mười, 2011, 10:48:18 pm gửi bởi HUY_AK_47 » Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #2 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:37:11 pm »

Nguy cơ lớn nhất đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà  lúc  mới  thành  lập  là  nạn  ngoại  xâm.  Ở  phía  Bắc  vĩ  tuyến
160, hơn 20 vạn quân Tưởng đã ồ ạt kéo vào nước ta. Núp dưới
9
 
danh nghĩa đại diện lực lượng Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp  quân  đội  Nhật,  quân  Tưởng  nuôi  dã  tâm:  tiêu  diệt  Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và dựng lên một chính quyền tay sai. Bởi vậy, khi vào nước ta, quân Tưởng kéo theo các tổ chức phản cách mạng như Việt Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc) do Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh cầm đầu và Việt Nam cách mạng đồng minh hội  (Việt  Cách)  do  Nguyễn  Hải  Thần  cầm  đầu.  Quân  Tưởng buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thực hiện chế độ trưng  thu  lương  thực  để  mỗi  tháng  phải  cung  cấp  cho  chúng
10.000 tấn gạo, trong khi nhân dân Bắc Bộ đang phải chịu hậu quả nạn đói khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử đất nước. Dựa vào quân Tưởng, các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách ra sức chống phá chính quyền cách mạng. Chúng tiến hành nhiều hoạt động  vu  cáo,  nói  xấu  Việt  Minh,  ngang  nhiên  đòi  gạt  các  bộ trưởng là đảng viên cộng sản ra khỏi Chính phủ. Chúng còn gây
ra  các  vụ  giết  người,  cướp  của,  bắt  cóc  cán  bộ,  cướp  chính quyền ở một số địa phương (Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái...).

Ở  phía   Nam  vĩ   tuyến  16,  tình  hình  còn  nghiêm  trọng hơn.Thực dân Pháp ngày càng lộ rõ ý đồ trở lại xâm chiếm Việt Nam.

Ngày 17-8-1945, Uỷ ban Quốc phòng Pháp quyết định thành lập lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông (sau đổi là đạo quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông) đưa sang Đông Dương. Tướng Lơclec (Leclerc) được cử làm Tổng chỉ huy lực lượng lục quân Pháp ở Viễn Đông. Đô đốc Đácgiăngliơ (D' Argenlieu) được cử làm Cao uỷ kiêm Tổng Tư lệnh Hải quân Pháp ở Viễn Đông. Uỷ ban  hành  động  giải  phóng Đông  Dương  được  cải  tổ  thành Uỷ ban Đông Dương do Đờ Gôn (De Gaulle) làm Chủ tịch.

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 nhân dân Việt Nam trở thành người làm chủ đất nước. Thực dân Pháp không còn chỗ đứng ở Đông Dương nhưng vẫn không chịu từ bỏ âm mưu  đặt  lại  ách  thống  trị  thực  dân  kiểu  cũ  trên  bán  đảo  này.

10
 
Lơclec đã vạch ra kế hoạch chiếm lại Đông Dương gồm 5 điểm như sau:

1- Dựa vào quân Anh để làm chủ phía Nam vĩ tuyến 16;

2- Thả dù nhân viên dân sự và lực lượng quân sự xuống miền
Bắc Việt Nam;
3- Xác nhận với Đồng minh việc duy trì chủ quyền của Pháp
ở Đông Dương;

4-  Từng  bước  giành  lại  những  vùng  do  Trung  Quốc  kiểm soát;

5- Tiến hành các cuộc thương thuyết với người bản xứ.

Thực  hiện  kế  hoạch  trên,  từ  ngày  13  đến  ngày  22-8-1945, một số tên quan thuộc địa cũ, trong đó có Métxme (Messmer) mang danh nghĩa Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Bắc Kì, đã nhảy dù xuống  miền  Bắc  nước  ta,  liên  lạc  với  tàn  binh,  tù  binh,  Pháp kiều và bọn tay sai nhằm lập lại bộ máy cai trị. Ngày 22-8-1945, Xanhtơni (Sainteny) cùng với một số sĩ quan Pháp từ Côn Minh (Vân Nam) theo phái đoàn đầu tiên của cơ quan tình báo chiến lược  (OSS)  của  Mĩ  (do  Trung  uý  Patti  cầm  đầu)  đến  Hà  Nội. Cao  uỷ  Đácgiăngliơ  và  Tư  lệnh  tối  cao  các  lực  lượng  Pháp Lơclec  đã  được  lệnh  của  Đờ  Gôn phải  tìm cách  khôi  phục lại chủ quyền của Pháp trên các lãnh thổ liên bang Đông Dương mà không được cam kết bất cứ điều gì đối với phía Việt Minh. Vào thời điểm này, khu vực Bắc Đông Dương kể từ vĩ tuyến 16 trở
ra  có  gần 30.000 người  Pháp,  trong đó  có  20.000  người  đã bị quân  Nhật  bắt  tập  trung  tại  Hà  Nội  từ  ngày  9-3-1945.  Xêđi (Cédille), Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Nam Đông Dương, nhảy dù xuống Hớn Quản, được quân Nhật đưa về Sài Gòn. Hai chiếc tàu Pháp chạy trốn Nhật sau cuộc đảo chính 9-3-1945, từ vùng biển Quảng Đông trở lại Đông Bắc Việt Nam, đổ quân lên đảo Cô Tô và đảo Vạn Hoa. Những toán tàn binh Pháp ở Trung Lào, Hạ Lào được tập hợp lại, chiếm đóng một số cao điểm trên các trục đường số 7, 8, 9, 12 và dọc biên giới Việt - Lào, làm bàn

11
 
đạp chuẩn bị tiến sang các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chính phủ, Mặt  trận  Việt  Minh  cùng  chính  quyền  các  cấp  lãnh  đạo  nhân dân và lực lượng vũ trang đề cao cảnh giác, tích cực đánh địch, bảo vệ quê hương. Ở miền Bắc, cuối tháng 8-1945, những tên Pháp nhảy dù xuống các nơi đều bị quân và dân ta chặn đánh. Các đơn vị Giải phóng quân Hải Phòng, Quảng Yên chặn đánh các  tàu  Crayxắc  (Crayssac)  và  Phơrênôn  (Frénohls),  tiêu  diệt địch ở Vạn Hoa và Cô Tô. Ở Bắc Trung Bộ, Giải phóng quân Nghệ An và Hà Tĩnh chặn đánh địch trên biên giới Việt - Lào tại  các  vị  trí:  Mường  Xén  (Đường  số  7),  Napê  (Đường  số  8), Banaphào  (Đường  số  12).  Trên  Đường  số  9,  Giải  phóng  quân Quảng  Trị,  Thừa  Thiên  phối  hợp  với  bộ  đội  Lào  đánh  địch  ở Pha Lan, Mường Phin, Đồng Hến, không cho chúng tiến sang các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tại miền Nam, Xêđi nhân danh uỷ viên Cộng hoà Pháp ở miền Nam Đông Dương đã đàm phán với Uỷ ban nhân dân Nam Bộ trên cơ sở nội dung bản Tuyên bố ngày
24-3-1945  về  vấn  đề  Đông  Dương  của  Đờ  Gôn,  mà  không  đề cập đến nền độc lập của Việt Nam, nên đã không đạt được kết quả.

Như  vậy,  âm  mưu  của  thực  dân  Pháp  muốn  nhanh  chóng thiết  lập  lại  nền  thống  trị  ở  Đông  Dương  đã  không  thực  hiện được. Đầu tháng 9-1945, Đácgiăngliơ và Lơclec phải điều chỉnh kế hoạch: Dựa vào quân Anh gấp rút chiếm Nam Bộ, lấy đó làm bàn  đạp  đánh  chiếm phần  còn  lại  của  Đông  Dương,  lập  chính phủ "Nam Kì tự trị", thành lập Liên bang Đông Dương. Chúng vừa ráo riết chuẩn bị lực lượng, vừa khiêu khích ta để tạo cớ cho quân Đồng minh can thiệp.

Ngày 2-9-1945, trong lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng ngày Độc lập một số lính Pháp núp trong Nhà thờ Đức Bà bắn lén vào đám đông, làm 47 người  chết, nhiều người bị thương. Ngày  4-9-1945,  Grêxi  (Gracey), Tư  lệnh  sư  đoàn  20  quân  đội Hoàng  gia  Anh,  trưởng  phái  bộ  Đồng  minh,  lấy  cớ  trật  tự Sài

12
 
Gòn không đảm bảo, đã hạ lệnh cho tư lệnh quân đội Nhật Bản
ở Đông Nam Á đưa 7 tiểu đoàn từ các tỉnh Nam Bộ về Sài Gòn.

Hành động khiêu khích của quân Pháp đã gây nên làn sóng công  phẫn  trong  các  tầng  lớp  nhân  dân.  Đêm  4-9,  vào  lúc  22 giờ, công nhân Sài Gòn tổ chức cuộc mít tinh trước trụ sở Tổng Công đoàn Nam Bộ, tuyên thệ trước bàn thờ Tổ quốc: "Quyết cùng anh em lao động không nản chí trước khó khăn, không lùi bước  trước nguy hiểm để  cùng  đồng  bào  bảo vệ  Tổ  quốc, giữ
gìn non sông"1. Ngày 6-9-1945, phái bộ Anh gồm 30 sĩ quan, do một đại tá cầm đầu vừa đến Sài Gòn đã ra lệnh cho quân Nhật làm  nhiệm  vụ  cảnh  sát  trong  thành  phố,  đòi  các  lực  lượng  vũ trang cách mạng nộp vũ khí. Ngày 12-9, một lữ đoàn thuộc Sư đoàn 20 quân đội Hoang gia Anh đến nước ta với nhiệm vụ giải giáp quân Nhật và kéo theo sau là một đại đội thuộc Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 của Pháp.

Tại  Sài  Gòn,  quân  Anh  ngang  nhiên  tước  vũ  khí  của  quân
Nhật trang bị cho tù binh Pháp (bị Nhật bắt giam từ sau ngày 9-
3-1945), dùng quân Pháp thay quân Nhật canh gác một số vị trí.
. . Những đơn vị nhỏ bộ binh và xe bọc thép của Pháp được tăng thêm 1.400 lính do Nhật giam giữ được Anh thả ra và trang bị lại. Ngày 14-9, Grêxi ra thông cáo cấm nhân dân ta mang vũ khí và biểu tình. Ngày 15-9, y ra lệnh tước vũ khí của lực lượng vũ trang Việt Nam. Ngày 17-9, Grêxi lại ra lệnh giới nghiêm, đình bản tất cả báo chí ở Nam Bộ. Ngày 19-9, Xem tổ chức họp báo, tuyên bố: "Việt Minh không đại diện cho nhân dân Việt Nam và bất lực trong việc giữ gìn trật tự. Pháp có nhiệm vụ lập lại trật
tự, sau đó sẽ thành lập chính phủ phù hợp với tuyên bố 24-3"2.



1 Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp 1945 - 1954. Tập I. NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 1994, tr. 52, 53
2. Ngày 24-3, Tổng thống Đờ Gôn ra bản tuyên bố nêu rõ chính sách thực dân kiểu cũ của Pháp đối với Đông Dương:

"Đông  Dương sẽ được thành lập  theo  kiểu  liên  bang gồm năm xứ  khác
13
 
Ngày 20-9, phái bộ Anh tuyên bố giữ quyền kiểm soát Sài Gòn, đòi thả những người Pháp đang bị giam giữ, đòi đặt công an của Việt Nam dưới quyền chỉ huy của họ và buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rút hết lực lượng vũ trang ra khỏi thành phố. . .

Như vậy, có thể thấy với danh nghĩa đại diện lực lượng Đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16, quân  Anh  đã  dọn  đường  cho  thực  dân  Pháp  trở  lại  xâm  lược nước ta. Vào thời điểm này, trên đất nước ta đã có hơn 30 vạn quân các nước Anh, Pháp, Tưởng, Nhật cùng nhiều đảng phái phản  động  lăm  le  lật  đổ  Chính  phủ  Việt  Nam  Dân  chủ  Cộng hoà. Chưa bao giờ trên đất nước ta cùng một lúc có nhiều kẻ thù xâm lược như vậy.

Lợi dụng tình hình trên, các thế lực phản động ở trong nước bắt đầu nổi dậy hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Các phần tử tay sai của thực dân Pháp như Nguyễn Văn Xuân, Lê  Văn  Hoạch,  Nguyễn  Văn  Thinh,  Nguyễn  Văn  Tâm...  mưu toan  ngóc  đầu  dậy,  chuẩn  bị  đón  chủ  cũ  trở  lại.  Nguyễn  Tấn Cường  -  một  tên  mật  thám  cũ,  đứng  ra  lập  "Đảng  Nam  Kì"; Nguyễn Văn Tị lập "Đảng Đông Dương tự trị ", thực hiện âm mưu của thực dân Pháp chia cắt Nam Bộ ra khỏi nước Việt Nam thống nhất, thành lập "Nam Kì quốc". Các tổ chức chính trị phản động thân Nhật, như Đại Việt cách mạng đảng, Đại Việt quốc dân  đảng,  Đại  Việt  duy  dân  đảng...  do  Trần  Trọng  Kạn,  Trần Văn  An,  Nguyễn  Văn  Sâm,  Ngô  Đình  Diệm...  cầm  đầu,  cũng ráo  riết  hoạt  động.  Một  số  phần  tử  phản  động  trong  các  đạo


« Sửa lần cuối: 16 Tháng Ba, 2012, 10:49:29 am gửi bởi macbupda » Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #3 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:40:56 pm »

khác nhau (Nam Kì, Trung Kì, Bắc Kì, Cao Miên, Ai Lao). Liên bang Đông
Dương  sẽ  cùng  với  nước  Pháp  xây  dựng  thành  khối  liên  hiệp  Pháp  mà quyền đối ngoại sẽ do Pháp đại diện.

Đông Dương sẽ có một chính phủ liên bang đứng đầu là một viên toàn quyền và gồm những bộ trưởng chịu trách nhiệm trước viên toàn quyền đó. Chính phủ liên bang sẽ là người trọng tài gồm năm xứ. Bên cạnh viên toàn quyền có một  hội  đồng  nhà  nước  trong  đó  người  Đông  Dương  chiếm  nhiều  nhất  là
50% số ghế...".
14
 
Thiên Chúa, Cao Đài, Hoà Hảo... lợi dụng thần quyền và lòng sùng đạo của tín đồ để hoạt động chia rẽ, chống phá cách mạng. Bọn  Tơrốtxkít  -  dưới  chiêu  bài  cách  mạng  triệt  để  -  tung  ra những khẩu hiệu quá khích: đòi tăng lương ngay cho công nhân; đòi tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân; đòi đánh đổ tất cả các đế quốc cùng một lúc... Chúng hô hào liên kết thợ thuyền và dân cày, đấu tranh chống tư sản và địa chủ, nhằm phá hoại mặt trận đoàn kết dân tộc v.v...
Tất cả những khó khăn kể trên trực tiếp đe dọa đến sự tồn tại của Nhà nước cộng hoà non trẻ. Vận mệnh Tổ quốc lúc này như ngàn cân treo sợi tóc. Nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho toàn dân ta
là phải xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền cách mạng.

II-  Bước  đầu  công  cuộc  xây  dựng  và  củng  cố  chính  quyền cách mạng .

Ngay sau khi trở về thủ đô Hà Nội, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã đề ra phương hướng, biện pháp xây dựng chế độ mới và đối phó các lực lượng ngoại xâm. Ngày 28-8-1945, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Một số đảng viên cộng sản, kể cả Tổng Bí thư Trường Chinh trong Uỷ ban Dân tộc giải phóng  đã  tình  nguyện  rút  lui,  nhường  chỗ  cho  một  số  nhân  sĩ yêu nước, tiến bộ tham gia Chính phủ. Thành phần Chính phủ lâm thời gồm có 13 Bộ và 15 vị Bộ trưởng, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Về nguyên tắc, Chính phủ lâm thời tiếp thu bộ máy nhà nước cũ, đổi mới một số bộ phận, còn lại thì chuyển sang phục vụ chính quyền mới. Chính quyền các cấp từ Trung ương xuống đến huyện, xã, quân đội và cảnh  sát  được  thay  đổi  cho  phù  hợp  với  chính  thể  mới  là  nền dân chủ cộng hoà. Nhà nước ban bố Sắc lệnh (số 41/SL ngày 3-
l0-1945) bãi bỏ tất cả các cơ quan thuộc phủ Toàn quyền Đông Dương và sáp nhập vào các Bộ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bộ máy các ngành được sắp xếp lại, nhưng hầu

15
 
hết các nhân viên vẫn tiếp tục công việc như trước. Ở các địa phương,  bộ  máy  chính  quyền  cũ  bị  xoá  bỏ,  Uỷ  ban  nhân  dân cách mạng là bộ máy chính quyền mới với lãnh đạo mới. Hầu hết các cơ quan, các ngành đều giữ nguyên, hoạt động dưới sự điều hành của Uỷ ban nhân dân cách mạng.

Ngoài những cơ sở đã có sẵn của hệ thống nhà nước cũ, sau Cách  mạng  tháng  Tám,  yêu  cầu xây dựng  chế  độ  mới  đòi  hỏi phải có những tổ chức mới. Ở Trung ương có các Uỷ ban Quỹ Độc  lập,  Tuần  lễ  vàng  giải  quyết  vấn  đề  tài  chính;  Tiểu  ban Canh nông lo việc khai hoang, phục hoá; Uỷ ban Mùa đông binh
sĩ lo giải quyết vấn đề quân nhu cho bộ đội; Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch phát triển đất nước . . .

Để bảo vệ và phát huy thành quả của Cách mạng tháng Tám, một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Chính phủ xác định là mở cuộc Tổng tuyển cử, thành lập Chính phủ chính thức, xây dựng  hệ  thống  chính  quyền  hợp  pháp  từ  Trung  ương  đến  địa phương. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (3-
9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề.nghị Chính phủ tổ chức cuộc  Tổng  tuyển  cử  theo  chế  độ  phổ  thông  đầu  phiếu.  Người nói:  "Chúng  ta  phải  có  một  hiến  pháp  dân  chủ.  Tôi  đề  nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân gái trai mười tám tuổi  đều  có  quyền  ứng  cử  và  bầu  cử,  không  phân  biệt  giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống..."1.

Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (25-11-1945) của Ban Chấp hành  Trung  ương  Đảng  cũng  đề  ra  4  nhiệm  vụ  chủ  yếu  trước mắt  của  cách  mạng  là  củng  cố  chính  quyền,  chống  thực  dân Pháp  xâm lược,  bài  trừ nội  phản,  cải  thiện  đời  sống  cho  nhân dân.  Trong  bốn  nhiệm  vụ  ấy,  nhiệm  vụ  bao  trùm  là  củng  cố chính quyền dân chủ nhân dân.


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 4. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.8.
16
 
1- Về chính trị - quân sự

Ngày 8-9-1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Sắc lệnh số 14 về cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội: "Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước công  quyền  và  những  người  trí  óc  không  bình  thường"1.  Mọi công việc chuẩn bị cho Tổng tuyển cử diễn ra trong điều kiện hết sức khó khăn, phức tạp do các lực lượng đế quốc và phản động trong nước ráo riết hoạt động chống phá. Các tổ chức Việt
Quốc, Việt Cách đòi phải lập lại Chính phủ, đòi xoá bỏ chế độ
Uỷ ban nhân dân... Những kẻ cầm đầu Việt Quốc đòi giữ  1/3 số ghế trong Quốc hội và đòi giữ các Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Quốc  phòng,  Bộ  Giáo  dục,  Bộ  Thanh  niên.  Họ  yêu  cầu  Việt Minh  cũng  chỉ  được  giữ  1/3  số  ghế  trong  Quốc  hội.  Mặt  trận Việt Minh và Chính phủ lâm thời một mặt kiên quyết bác bỏ các yêu cầu phi lí của Việt Quốc, Việt Cách; mặt khác kiên trì và khôn  khéo  tiến  hành  các  cuộc  hoà  giải,  thương  lượng,  nhân nhượng nhằm tạo bầu không khí ổn định để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử thành công.

Đại diện của Mặt trận Việt Minh tiến hành nhiều cuộc tiếp xúc với đại diện của Việt Quốc, Việt Cách và đã đi tới những cam  kết  có  tính  nguyên  tắc  trên  tinh  thần  hợp  tác,  đoàn  kết nhằm thực hiện quyền độc lập, ủng hộ Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Các bên cũng thoả thuận chấm dứt sự công kích lẫn nhau, mở rộng Chính phủ lâm thời, chấp nhận để 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử cho Việt Quốc, Việt Cách2.

Ngày 1-1-1946, Chính phủ lâm thời cải tổ thành Chính phủ liên hiệp lâm thời, trong đó có thêm một số thành viên của Việt Quốc,  Việt  Cách.  Chính  phủ  liên  hiệp  lâm  thời  và  Việt  Minh



1. Việt Nam dân quốc công báo - Số 1 - 29-9-1945.

2. Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam (9/1945 - 1950), Hà Nội 2005, tr. 44.
17
 
tiếp tục triển khai công việc chuẩn bị Tổng tuyển cử với phương châm thực hiện đại đoàn kết thống nhất dân tộc.

Ngày 6-1-1946, toàn dân Việt Nam, trong tư thế người làm chủ, nô nức tham gia cuộc Tổng tuyển cử. Trong điều kiện thù trong,  giặc  ngoài  ra  sức  chống  phá,  cuộc  Tổng  tuyển  cử  bầu Quốc hội thực sự là một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt để xác lập quyền làm chủ của nhân dân.
Tại miền Nam1, trừ tỉnh Tây Ninh không tổ chức được bầu cử do chiến sự quá ác liệt, nhân dân ta phải vượt qua bom đạn địch để đi bỏ phiếu. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã phải hi sinh trong khi làm nhiệm vụ Tổng tuyển cử.
Tại miền Bắc, ở những nơi có quân Tưởng chiếm đóng, các đảng phái phản động đe doạ, khủng bố những người đi bỏ phiếu; có nơi chúng xông vào cướp hòm phiếu. Nhưng bất chấp sự đe doạ và hành động phá hoại của địch, nhân dân ta vẫn hăng hái đi làm nghĩa vụ công dân.

Tính chung trong cả nước, 89% cử tri đi bỏ phiếu, bầu được
333 đại biểu2  đại diện cho các tầng lớp nhân dân khắp ba miền Bắc - Trung - Nam tham gia vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội là một đòn giáng mạnh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của bọn đế quốc, tay sai. Thắng lợi này góp phần nâng cao uy tín và địa vị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc  tế, khơi  dậy và  phát  huy tinh thần yêu nước,  ý  thức làm chủ trong mỗi người dân đối với Nhà nước cách mạng. Thắng lợi của cuộc bầu cử còn tạo ra cơ sở pháp lí vững chắc cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.


Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #4 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:43:23 pm »

1. Ở miền Nam, do không kịp hoãn, nên vẫn bầu cử vào ngày 23-12-1945.

2. Trong số này có 57% thuộc các đảng phái, 43% không đảng phái (87% là đại biểu công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng; 10 đại biểu phụ nữ; 34 đại biểu dân tộc ít người).
18
 
Sau thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử, tình hình chính trị ở nước ta lại có những diễn biến phức tạp. Những hoạt động vũ trang xâm lược của thực dân Pháp ở miền Nam ngày càng lan rộng. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp nhiều khó khăn. Ở miền  Bắc,  quân  Pháp  từ  Vân  Nam  kéo  vào  Lai  Châu,  Tuần Giáo, Điện Biên. Lợi dụng tình hình này, các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách gây sức ép với chính quyền cách mạng, đòi giải tán Chính phủ liên hiệp lâm thời và thành lập ngay Chính phủ liên hiệp quốc gia chính thức mà không chờ Quốc hội họp. Pháp và Tưởng  đã  thoả  hiệp  với  nhau  để  quân  Pháp  thay  thế  quân Tưởng.

Trong  bối  cảnh  đó,  ngày  2-3-1946,  gần  300  đại  biểu  Quốc hội đã họp kì thứ nhất tại Nhà hát lớn Hà Nội. Do tình thế đặc biệt  cần  phải  nhân  nhượng,  Quốc  hội  biểu  quyết  tán  thành  đề nghị của Chủ tịch
Hồ  Chí  Minh  là  mở  rộng  thêm  70  đại  biểu  của  Việt  Quốc, Việt Cách không qua bầu cử, theo như sự thoả thuận giữa Việt Minh, Việt Quốc và Việt Cách ngày 23-12-1945.

Quốc hội khẳng định thành tích của Chính phủ lâm thời trong thời  gian  đầu  xây  dựng  nước  Việt  Nam  Dân  chủ  Cộng  hoà. Đồng thời, Quốc hội quyết định thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm 10 Bộ, do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch.

Kì  họp  thứ  nhất  Quốc  hội  khoá  I  đã  bầu  Ban  Thường  trực Quốc hội (gồm 15 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết), do Nguyễn Văn Tố làm Trưởng ban, Phạm Văn Đồng và Cung Đình Quỳ (Việt Quốc) làm Phó ban; Cố vấn đoàn do cố vấn tối cao Nguyễn Vĩnh Thụy đứng đầu; Kháng chiến uỷ viên Hội do Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Phó Chủ tịch. Quốc hội cũng bầu ra Ban dự thảo Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban. Bộ máy Nhà nước ở Trung ương được hoàn thiện và củng cố một bước, có đầy đủ uy tín hiệu lực để  lãnh  đạo  nhân  dân  tham  gia  kháng  chiến,  kiến  quốc,  thực

19
 
hiện mọi chức năng đối nội và đối ngoại. Tại kì họp đầu tiên (4-
3-1946), Chính phủ liên hiệp kháng chiến đã quyết định một số
chính sách đối nội và đối ngoại:

Về đối nội:

1-  Các  đảng  phái  chặt  chẽ  đoàn  kết,  ngôn  luận,  hành  động nhất trí để phụng sự quốc gia.

2- Sinh mệnh và tài sản của tất cả công dân Việt Nam và kiều dân ngoại quốc được hoàn toàn bảo đảm.

3- Hành chính và quân đội phải thống nhất về tài chính, kinh
tế tập trung.

4- Mọi lực lượng của quốc dân được huy động để dùng trong việc kháng chiến kiến quốc và toàn thể nhân dân, nhất là những người làm việc công phải tuân theo kỉ luật.
Về đối ngoại:

1-  Đối  với  các  nước  Đồng  minh,  nước  Việt  Nam  bao  giờ
cũng chủ trương thân thiện, nhất là đối với Trung Hoa.

2- Đối với các quốc gia nhược tiểu đang đấu tranh giành độc lập thì dân tộc Việt Nam rất đồng tình.

3-  Đối  với  nhân  dân  Pháp,  dân  Việt  Nam  không  thù  hằn, song  cực  lực  phản  đối  chế  độ  thực  dân  và  cương  quyết  giữ quyền  độc  lập.  Chính  phủ  Việt  Nam  chỉ  nhận  điều  đình  với Chính phủ Pháp theo nguyên tắc "Dân tộc tự quyết" của Hiến chương Đại Tây Dương1. Sau tám tháng hoạt động của Quốc hội
và Chính phủ liên hiệp kháng chiến, kể từ cuộc họp thứ nhất của Quốc hội (3-1946), dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí  Minh,  cách  mạng  Việt  Nam  đã  vượt  qua  được  nhiều  khó khăn và tiến bước vững chắc.

Trong hoàn cảnh ấy, Quốc hội họp kì thứ hai tại thủ đô Hà


1. Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội,
2000, tr. 82-83
20
 
Nội, từ ngày 28-10 đến 9-11-1946. Tham dự cuộc họp có 290 đại biểu. Một số đại biểu ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ không ra họp  được.  Hầu  hết  các  đại  biểu  của  Việt  Quốc,  Việt  Cách  đã chạy theo quân Tưởng hoặc bị cơ quan an ninh quốc gia trừng
trị vì tội phản bội Tổ quốc.

Quốc hội đã thảo luận các báo cáo của Chính phủ, thông qua các nghị quyết về nội trị, ngoại giao; thông qua Dự án Luật Lao động, Hiến pháp, lập Chính phủ mới và bầu Ban Thường trực Quốc hội.

Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  được  Quốc  hội  uỷ  nhiệm  đứng  ra thành lập Chính phủ mới theo nguyên tắc đoàn kết và tập hợp nhân tài, không phân biệt đảng phái. Người tuyên bố trước Quốc hội: “Lần này là lần thứ hai mà Quốc hội giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ một lấn nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kì Quốc hội uỷ cho tôi hay cho ai cũng phải gắng sức mà làm. Tôi xin nhận"; "Chính phủ sau đây phải
là một chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng  phái.  Tôi  xin  tuyên  bố  trước  Quốc  hội,  trước  Quốc  dân, trước thế giới: Tôi chỉ có một đảng - Đảng Việt Nam", "Chính phủ sau đây phải là một chính phủ liêm khiết,... một chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm để vào mục đích: Trong thì kiến  thiết,  ngoài  thì  tranh  thủ  độc  lập  và  thống  nhất  của  nước nhà"1.

Ngày  3-11-1946,  Quốc  hội  biểu  quyết  tán  thành  chính  phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập, gồm có 14 thành viên. Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

Ngày  9-11-1946,  Quốc  hội  thông  qua  bản  Hiến  pháp  nước Việt  Nam  Dân  chủ  Cộng  hoà.  Đó  là  "bản  hiến  pháp  đầu  tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp còn là một vết tích lịch sử  đầu  tiên  trong  cõi  Á  Đông...  Bản  hiến  pháp  đó  chưa  hoàn toàn  nhưng  nó  đã  làm  nên  theo  một  hoàn  cảnh  thực  tế.  Hiến


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 4. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 427, 440
21
 
pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập, dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do..., phụ nữ Việt Nam đã được ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền
tự do đó của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp"1.

Hệ  thống  chính  quyền  dân  chủ  nhân  dân  ở  các  địa  phương cũng được củng cố và kiện toàn từng bước. Trong một thời gian ngắn sau ngày Tổng tuyển cử, hầu hết các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ đều tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân ở cấp xã và  tỉnh. Uỷ  ban  hành  chính  các  cấp cũng  được thành lập thay cho Uỷ ban nhân dân lâm thời.

Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cuộc vận động chính trị rộng lớn, cuộc biểu dương sức mạnh và ý chí sắt đá của khối đoàn kết toàn dân, đã khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ đất nước, nghĩa vụ đối với Tổ quốc của mỗi công dân và toàn dân. Thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử đã tạo cơ sở
pháp lí vững chắc cho Nhà nước cách mạng thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời kì mới, đồng thời góp phần nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế.

Để tăng cường sức mạnh của Nhà nước cách mạng, vấn đề mở rộng khối đoàn kết toàn dân được đặt ra cấp bách. Các tổ chức Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh được xây dựng rộng khắp, tập hợp thêm nhiều tầng lớp xã hội tham gia. Tuy nhiên, lúc này vẫn có một số tầng lớp và cá nhân yêu nước còn đứng ngoài Mặt trận Việt Minh.

Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 28-5-1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập.




22
 
Hội  chủ  trương  đoàn  kết  tất  cả  các đảng  phái  yêu  nước,  đồng bào  yêu  nước,  không  phân  biệt  giai  cấp,  tôn  giáo,  xu  hướng chính  trị,  chủng  tộc  ...  để  làm  cho  nước  Việt  Nam  Độc  lập  - Thống nhất - Dân chủ - Phú cường. Một số đoàn thể quần chúng lần lượt ra đời như: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (27-5-
1946), Đảng Xã hội Việt Nam (22-7-1946), Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam (20-10-1946).

Đứng  trước  âm  mưu  và  hành  động  xâm  lược  của  bè  lũ  đế quốc, Đảng rất coi trọng nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân  dân  và  củng  cố  quốc  phòng.  Khắp  nơi  trên  đất  nước  ta, một phong trào luyện tập quân sự, tìm sắm vũ  khí diễn ra sôi nổi. Các đội tự vệ ra đời từ trong phong trào toàn dân chuẩn bị khởi nghĩa và là lực lượng xung kích của toàn dân nổi dậy giành chính quyền thời kì Tổng khởi nghĩa tháng Tám, nay được củng cố và mở rộng, đã trở thành công cụ sắc bén để bảo vệ chính quyền cách mạng ở cơ sở. Các đơn vị Việt Nam giải phóng quân thành  lập  trên  cơ  sở  thống  nhất  Việt  Nam  tuyên  truyền  giải phóng  quân  và  Cứu  quốc  quân  (5-1945),  đã  được  chấn  chỉnh, mở rộng và nay đổi thành Vệ quốc đoàn (9-1945)1. Đây là đội quân  chính  quy  của  Nhà  nước  Việt  Nam  Dân  chủ  Cộng  hoà. Các đơn vị bảo an binh bị giải thể. Ngày 15-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí
sắc lệnh thành lập Ngành Quân giới và tháng 10-1945, thành lập các  chiến  khu  IV,  III2.  Tháng  12-1945,  Uỷ  ban  Kháng  chiến miền Nam ra đời.

Tháng 1-1946, Quân uỷ Trung ương được thành lập để giúp
Trung  ương  Đảng  lãnh  đạo  công  tác  quân  sự.  Tất  cả  các  khu



1. Ngày 22/5/1946. Chính phủ ra sắc lệnh đổi Vệ quốc đoàn thành Quân đội
quốc gia Việt Nam.

2. Chiến khu III gồm: Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên,  Hải  Ninh,  Hải  Phòng.  Chiến  khu  IV  gồm:  Thanh  Hoá,  Nghệ  An,  Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
23
 
phố, thôn, xã đều thành lập các đơn vị tự vệ và tự vệ chiến đấu. Trên cơ sở đó, những chiến sĩ có giác ngộ chính trị, có tinh thần chiến đấu được tuyển chọn để bổ sung cho các đơn vị bộ đội tập trung.  Dù  vũ  khí  trang  bị  thô  sơ  và  thiếu  thốn,  kinh  nghiệm chiến đấu còn ít, nhưng đây là đội quân cách mạng của công - nông, có sức chiến đấu rất cao.
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #5 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:43:55 pm »

2- Về kinh tế - tài chính

Một  trong  những  nhiệm  vụ  cấp  bách  trước  mắt  của  chính quyền cách mạng sau khi thành lập là phải nhanh chóng đẩy lùi nạn đói, từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Giải quyết nạn đói không chỉ có ý nghĩa về kinh tế, mà còn bao hàm
ý nghĩa chính trị rất sâu sắc.

Trong  phiên  họp  đầu  tiên  (3-9-1945),  Hội  đồng  Chính  phủ lãm thời đã bàn biện pháp chống đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị nhiều biện pháp (tổ chức lạc quyên, lập hũ gạo cứu đói...) và  kêu  gọi  đồng  bào  cả  nước  nhường  cơm  sẻ  áo.  Người  nói: "Lúc chúng ta nâng bát cơm ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi đề nghị với đồng bào cả nước và tôi  xin  thực  hành  trước,  cứ  mười  ngày  nhịn  ăn  một  bữa,  mỗi tháng nhịn ăn ba bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo"1.

Hưởng  ứng  lời  kêu  gọi  của  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  và  noi gương Người, khắp cả nước, nhân dân ta lập hũ gạo cứu đói, tổ chức  ngày  đồng  tâm  để  góp  gạo  cứu  đói.  Truyền  thống  đồng cam  cộng  khổ,  thương  yêu  đùm  bọc  lẫn  nhau  trong  đồng  bào được phát huy cao độ.

Để dồn lương thực cho việc cứu đói, Chính phủ ban hành các biện  pháp  hành  chính  như  cấm  dùng  lương  thực  vào  việc  nấu rượu,  xoá  bỏ  mọi  cản  trở  trong  lưu  thông  gạo  giữa  các  vùng


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 4. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1995, tr.
31.
24
 
trong nước, cấm đầu cơ tích trữ thóc gạo, thành lập Uỷ ban tối cao tiếp tế và cứu tế của Chính phủ. Việc chuyên chở gạo từ các tỉnh  ở  Nam  Bộ  và  Trung  Bộ  ra  Bắc  Bộ  được  thực  hiện  khẩn trương. Chỉ tính trong 3 tháng cuối năm 1945, đã có khoảng 700 tấn gạo được chuyển ra Bắc Bộ, kịp đem đến các địa phương để cứu đói.

Biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc nạn đói là tăng gia sản xuất Khẩu hiệu "Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!", "Không để một tấc đất bỏ hoang", "Tấc đất tấc vàng"... trở thành hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân. Khắp nơi, từ đồng bằng đến miền núi, đều dấy lên phong trào thi đua sản xuất Chính phủ đã lập ra Uỷ ban Trung ương phụ  trách  vấn  đề  sản  xuất  Tờ  báo  Tấc  đất  ra  đời  nhằm  tuyên truyền, vận động và hướng dẫn nhân dân thực hiện tăng gia sản xuất. Diện tích ruộng đất hoang, hoá được khai khẩn và nhanh chóng đưa vào trồng trọt. Toàn bộ đê đập ở 9 tỉnh bị lụt phá vỡ (Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Bắc  Ninh,  Hải  Dương,  Thái  Bình)  được  bồi  đắp  lại.  Giai  cấp công nhân, các đơn vị bộ đội, cán bộ, viên chức Nhà nước, học sinh, trí thức, công, thương gia... tự nguyện tổ chức thành từng đoàn, từng đội đi về nông thôn giúp nông dân đắp đê phòng lụt, khai hoang, phục hoá.

Để  tạo  điều  kiện  cho  nông  dân  đẩy  mạnh  sản  xuất,  chính quyền cách mạng tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng công theo nguyên tắc công  bằng  và  dân  chủ;  ra  thông  tư  giảm  tô  25%;  miễn  thuế ruộng đất đối với các vùng bị lụt và vùng có chiến sự ở Nam Bộ, Nam  Trung  Bộ  cùng  các  loại  ruộng  đất  hoang,  hoá  mới  được khai phá gieo trồng; ra sắc lệnh bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lí khác. Ban Khuyến nông cũng được thành lập ở Trung ương và địa phương để tổ chức giúp đỡ nông dân khắc phục khó khăn về giống, vốn, nông cụ, sức kéo; hướng dẫn nông dân về kĩ thuật canh tác.


25
 
Nhờ những biện pháp tích cực trên đây, sản xuất nông nghiệp nhanh  chóng  được  khôi  phục  và  có  mặt  phát  triển  hơn  trước. Năm 1945, dù bị trận lụt lớn, nhưng diện tích lúa mùa ở Bắc Bộ vẫn  đạt  được  890.000  ha,  sản  lượng  đạt  1.155.000  tấn  (năm
1943  là  952.730  tấn  và  năm  1944  là  832.000  tấn).  Diện  tích trồng ngô năm 1946 là 212.850 ha, sản lượng đạt 217.020 tấn (năm  1939  là  119.000  ha  và  sản  lượng  đạt  140.000  tấn);  diện tích  trồng  khoai  lang  là  90.000  ha,  sản  lượng  đạt  330.000  tấn (năm 1939 mới có 68.000 ha và sản lượng là 156.000 tấn). Với
số lượng lương thực và hoa màu đó, nhân dân ta không những vượt qua được nạn đói, mà còn duy trì được sức lao động để bảo đảm sản xuất vụ chiêm năm 1946.

Chiến thắng giặc đói là một trong những thành tựu lớn đầu tiên của Nhà nước cách mạng. Nó thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, của chính quyền nhân dân, góp phần củng cố khối liên minh công nông. Uy tín của Đảng và Chính phủ ngày càng được nâng cao trong quần chúng. Nhân dân càng thêm tin tưởng, gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.

Ngoài trọng tâm là sản xuất nông nghiệp để khắc phục nạn đói trước mắt và giải quyết vấn đề lương thực một cách ổn định, Chính phủ chú trọng khôi phục sản xuất, kinh doanh trong các ngành  kinh  tế  công  thương  nghiệp,  giao  thông  vận  tải...  Một mặt,  Nhà  nước  tạo  mọi  điều  kiện  thuận  lợi  nhất  để  cho  các thương gia người Việt phát triển sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nhà nước vẫn để cho các nhà tư bản nước ngoài, trước hết là tư bản Pháp tiếp tục hoạt động kinh doanh, tránh gây cho họ những xáo trộn lớn trong công việc làm ăn ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho giới công thương Việt Nam, kêu gọi họ nỗ lực và cùng góp vốn xây dựng một nền kinh tế, tài chính vững vàng và thịnh vượng. Từ ngày 2 - 10- 1945, Chính phủ cho phép tất cả các nhà tư sản Việt Nam được quyền kinh doanh. cùng với quá  trình  xây  dựng  bộ  máy  chính  quyền  mới,  Nhà  nước  Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt tay vào việc xây dựng khu vực kinh
tế  quốc  doanh.  Các  nghị  định  của  Toàn  quyền  Pháp  về  độc
26
 
quyền tìm kiếm và khai thác mỏ bị bãi bỏ và thay bằng các sắc lệnh của Chính phủ về việc bảo đảm quyền tìm, kiếm và khai thác mỏ của Nhà nước trên cơ sở tôn trọng những quyền sở hữu sẵn có và phù hợp với luật lệ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Các  mỏ  than  ở  Hòn  Gai  (Quảng  Ninh),  Tân  Trào  (Tuyên Quang),  Làng  Cẩm  và  Phấn  Mễ  (Thái  Nguyên),  Quyết  Thắng (Ninh Bình) được phép mở lại. Mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng)
bị Nhật chiếm từ tháng 3-1945 và trước khi rút, chúng đã phá hoại, nay tiếp tục được khai thác. Nhà máy sửa chữa đầu máy và toa xe lửa Trường Thi (Vinh) bị thiệt hại nặng do bom từ tháng
2-1944 đã được khôi phục.

Trên  lĩnh  vực  thương  nghiệp,  Chính  phủ  Việt  Nam hết  sức quan tâm, nghiêm cấm các hoạt động đầu cơ tích trữ, chợ đen, mở đường cho lưu thông hàng hoá, kêu gọi các nhà buôn đứng
ra kinh doanh; thành lập Phòng Thương mại và Nha Thương vụ Việt  Nam  để  giúp  Chính  phủ  bước  dầu  nắm  các  hoạt  động thương nghiệp trên thị trường nội địa.

Về giao thông vận tải, Chính phủ từng bước quản lí và khai thác  kinh  doanh  hệ  thống  đường  bộ,  đường  thủy,  đường  hàng không, thông tin liên lạc.

Để bảo đảm một phần nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và khắc phục  khó  khăn  trước  mắt  về  tài  chính,  ngày  4-9-1945,  Chính phủ ra Sắc lệnh số 4/SL về xây dựng Quỹ Độc lập và phát động Tuần lễ vàng (từ 17 đến 24-9-1945), kêu gọi toàn dân tự nguyện đóng  góp  ủng  hộ  nền  độc  lập  của  Tổ  quốc.  Nhân  dân  ta  tự nguyện ủng hộ cho Nhà nước 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào Quỹ Độc lập và 40 triệu đồng vào Quỹ đảm phụ quốc phòng1.


1. Số tiền thu về đảm phụ quốc phòng nêu trên chỉ tính riêng ở Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ. Quỹ này được thành lập theo Sắc lệnh 48 (10/4/1946 ), quy định mỗi nam công dân, trừ người già yếu, bệnh tật, đóng cho quỹ 5 đồng và chỉ thực hiện trong năm 1946.
27
 
Nhằm đảm bảo có nguồn thu ổn định và thu chi hợp lí, Chính phủ  chủ  trương  xây  dựng  từng  bước  nền  tài  chính  quốc  gia, trước mắt là cải cách chế độ thuế khoá. Ngày 7-9-1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 11/SL về việc sửa đổi chính sách thuế, bãi  bỏ  thuế  thân.  Ngày  10-9-1945,  Chính  phủ  ra  Sắc  lệnh  số
27/SL  quy  định  việc  thành  lập  Sở thuế  quan  và  thuế gián thu. Nha thuế trực thu, Nha thuế trước bạ, thuế điền thổ... cũng được thành lập.

Việc  bán  thuốc  phiện  và  rượu  cồn  trước  Cách  mạng  tháng Tám được coi là một nguồn thu của ngân sách, thì nay bị Nhà nước nghiêm cấm. Chính phủ còn đặt thêm một số thuế mới có tính chất gián thu đánh vào các mặt hàng xa xỉ như rượu ngoại. Ngoài  các  khoản  thu  từ  thuế,  do  điều  kiện  chiến  tranh,  Chính phủ  quy  định  các  chế  độ  trưng  thu,  trưng  dụng,  trưng  tập  sẽ được thực hiện trong những trường hợp cần thiết.

Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, Nhà nước cách mạng đã chấn chỉnh và xây đựng được một hệ thống thuế khoá mới, nắm được các nguồn thu cho ngân sách, có kế hoạch hơn trong việc thu và chi ngân sách.

Thực hiện chủ trương xây dựng nền tài chính độc lập, ngày
31-1-1946, Chính phủ ta phát hành tiền Việt Nam ở phía nam vĩ
tuyến 16.

Dù mới chỉ lưu hành thí điểm ở miền Nam Trung Bộ, nhưng trước sự đòi hỏi của toàn dân, tiền Việt Nam nhanh chóng chiếm lĩnh  thị  trường  Bắc  Bộ  và  Trung  Bộ.  Ngày  23-11-1946,  Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước. Cho đến trước ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ, tiền Việt Nam đã căn bản thay thế tiền ngân hàng Đông Dương trên thị trường trong nước. Giành được chủ quyền về tiền tệ, chúng ta đã giải quyết được một phần chi tiêu của Chính phủ, phục vụ sản xuất và đời sống, bước đầu xây dựng nền tài chính độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.


28
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #6 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:45:17 pm »

3- Về văn hoá - giáo dục

Trong phiên họp đầu tiên ngày 3-9-1945, ngoài việc bàn biện pháp chống "giặc đói", Chính phủ lâm thời còn bàn biện pháp chống (giặc dốt). Chống "giặc dốt", xoá nạn mù chữ là nhiệm vụ văn hoá - giáo dục, nhưng có ý nghĩa chính trị sâu sắc, bảo đảm cho người lao động có điều kiện phát huy được vai trò làm chủ, tham gia quản lí đất nước có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ  rõ:  "Muốn  giữ vững  nền  độc  lập,  làm cho  dân  mạnh  nước giàu,  mọi  người  Việt  Nam  phải  hiểu  biết  quyền  lợi  của  mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào  công  cuộc  xây  dựng  nước  nhà,  và  trước  hết  phải  biết  đọc
biết viết chữ quốc ngữ..."1.

Chỉ một tuần lễ sau khi tuyên bố nền độc lập của nước nhà, ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ chuyên lo việc chống "giặc dốt" và Người đứng
ra phát động phong trào xoá nạn mù chữ trong toàn quốc.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, các lớp bình dân học vụ được tổ chức ở khắp nơi, lôi cuốn từ em nhỏ đến các cụ già
70, 80 tuổi Truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy. Trong vòng một năm, từ ngày 8-9-1945 đến ngày 8-9-1946, trên toàn quốc đã tổ chức được 75.805 lớp học với hơn 97.664 giáo viên  và  đã  xoá  mù  chữ  cho  2.520.673  người.  Các  trường  phổ thông  và  đại  học  cũng  được  khai  giảng  nhằm  đào  tạo  những công dân và cán bộ trung thành, có năng lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến - kiến quốc. Trong năm học 1945 - 1946, riêng Bắc Bộ và Trung Bộ đã mở được 5.654 trường tiểu học. Ở bậc đại học và cao đẳng, cùng với các trường Đại học Y khoa, Dược khoa, Cao đẳng Kĩ thuật, Cao đẳng Công chính, Cao đẳng Canh nông - Thú y, Bộ Giáo dục cho mở thêm Trường Đại học



1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. T 4. Sđd, tr. 36.


29
 
Văn khoa và Lớp Chính trị xã hội thay cho Trường Luật của chế độ  cũ  Nội  đung  và  phương  pháp  giáo  dục  bước  đầu  được  đổi mới theo tinh thần dân tộc và dân chủ.

Báo chí cách mạng và công tác xuất bản sớm trở thành vũ khí sắc bén chống ngoại xâm, nội phản, góp phần giáo dục lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần cách mạng cho đông đảo quần chúng nhân dân. Báo Cờ giải phóng, tiếp đến là các báo Sự thật, Cứu quốc, là những tờ báo được quần chúng tín nhiệm và có tác động lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và của Mặt trận Việt Minh.

Văn học, nghệ thuật cũng có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Các văn nghệ sĩ đã hướng hoạt động vào thực tế cuộc sống xây  dựng  và  chiến  đấu  của  dân  tộc.  Tháng  11-1946,  Hội  nghị văn hoá toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự khai mạc Hội nghị và vạch rõ phương hướng nền văn hoá mới của Việt Nam là phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của văn hoá nước ngoài, tạo ra nền văn hoá Việt Nam, sao cho văn hoá mới sửa được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ; phải làm cho ai cũng có lí tưởng tự chủ, độc lập. Người kêu gọi  các  nhà  hoạt  động  văn  hoá  phải  chú  ý  đến  nhi  đồng,  lãnh đạo quốc dân thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ. Một số nhà văn,  nhà  báo  theo  chân  các  đoàn  quân  Nam  tiến  đến  tận  các chiến  trường  miền  Nam  để  góp  sức  mình  vào  cuộc  chiến  đấu bảo  vệ  nền  độc  lập  vừa  mới  giành  được.  Phong  trào  văn  hoá, văn nghệ quần chúng ngày càng phát triển mạnh mẽ và rộng lớn.

Cuộc vận động Đời sống mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng, được đông đảo nhân dân cả nước hưởng ứng, nhằm xây dựng đạo đức mới với nội dung Cần - Kiệm - Liêm - Chính; bài trừ  các  tệ  nạn  của  xã  hội  cũ  (rượu,  chè,  cờ,  bạc,  mại  dâm...), những  hủ  tục  (cúng  lễ,  ma  chay,  cưới  xin  linh đình...)  ra  khỏi đời sống xã hội.

Những  thành  quả  bước  đầu  trong  một  năm  kiến  quốc,  xây dựng  chế  độ  mới  đã  đặt  nền  móng  vững  chắc  cho  Nhà  nước
30
 
cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo.

III- Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng

Trong hoàn cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn, lại phải đứng trước nhiều thế lực đế quốc và phản động nham hiểm, để bảo  vệ  chính  quyền  non  trẻ,  Đảng  ta  chủ  trương  tránh  trường hợp một mình đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc; hết sức lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh - Pháp và Mĩ - Tưởng.

Với chủ trương ấy, Đảng và Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đã thực hiện một đường lối chính trị nhạy bén và sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược.
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #7 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:46:02 pm »

1- Kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam, hoà hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc (trước ngày 6-3-1946)

a) Kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam

Đúng như dự đoán của Đảng tại Hội nghị Tân Trào (từ ngày
14 đến ngày 15-8-1945), âm mưu trở lại xâm lược của thực dân
Pháp dần dần trở thành một thực tế ở miền Nam nước ta.

Sau vụ khiêu khích của quân Pháp ngày 2-9-1945, Xứ uỷ và Uỷ  ban  nhân  dân  lâm  thời  Nam  Bộ  nhận  định:  âm  mưu  xâm lược của Pháp đã rõ ràng. Những biện pháp đối phó trước mắt và chuẩn bị kháng chiến được xúc tiến khẩn trương: cải tổ Uỷ ban nhân dân lâm thời, thành lập Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ,
tổ chức hơn 300 đội xung phong công đoàn, đưa phần lớn lực lượng  vũ  trang  ra  ngoài  thành  phố,  tổ  chức  hàng  chục  vị  trí chiến dấu ở các điểm xung yếu nội thành; tháo gỡ và di chuyển máy móc, phương tiện vật chất lên các chiến khu...

Đêm 22 rạng 23-9-1945, được sự giúp đỡ của quận Anh, thực dân Pháp cho quân đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm
31
 
lược nước ta lần thứ hai.

Trước tình hình  đó, sáng 23-9, Xứ  ủy  và  Uỷ  ban  nhân  dân Nam  Bộ  họp  tại  đường  Cây  Mai  -  Chợ  Lớn1  quyết  định  phát động nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Quyết định của Xứ uỷ và Uỷ ban nhân dân Nam Bộ đã được Trung  ương  Đảng,  Chính  phủ  và  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  tán thành và quyết tâm lãnh đạo, tổ chức lực lượng cả nước chi viện mọi mặt cho cuộc kháng chiến.

Giữ vững lời Thề Độc lập, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, với vũ khí chủ yếu là gậy tầm vông, cùng nhân dân Nam bộ đã anh dũng đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Các chiến sĩ lực lượng vũ  trang  của  ta  đột  nhập  sân  bay  Tân  Sơn  Nhất,  đốt  cháy  tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn, đánh kho tàng, phá nhà giam...

Suốt hạ tuần tháng 9-1945, các trận đánh liên tiếp diễn ra ở khu Tân Định, Cầu Muối, Cầu Lái Thiêu... Phối hợp chặt chẽ với  các  cuộc  chiến  đấu  của  lực  lượng  vũ  trang,  nhân  dân  Sài Gòn  đã  triệt  nguồn  tiếp  tế  của  địch,  dựng  chướng  ngại  vật  và chiến luỹ trên đường phố. Giường, tủ, bàn, ghế và tất cả những thứ gì có thể ngăn cản được bước tiến của quân thù đều được ném ra mặt đường. Nhiều cây to trên dọc các đường phố được đốn chặt, hình thành những vật chướng ngại.

Chỉ trong vòng một tuần lễ, cuộc chiến đấu cửa quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã đẩy địch vào tình trạng khó khăn: 138 xí nghiệp và công sở lớn, 22 kho tàng, 4 chợ, 30 tàu lớn, 51 tàu nhỏ, 200 xe hơi và một số cầu bị đốt phá. Gần 300 tên giặc bị tiêu diệt2. Sau 8 ngày gây hấn, thực dân Pháp chỉ chiếm đóng được  các  vị  trí,  công  sở  then  chết  ở  khu  vực  trung  tâm  thành phố.  Phạm.  vi  kiểm  soát  của  địch  bị  thu  hẹp.  Cả  thành  phố


1. Nay là số 627 - 629, đường Nguyễn Trãi, Quận I.

2. Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam (9/1945 - 1950)... Sđd. tr. 16.
32
 
không còn điện, nước; chợ không họp, các cửa hàng đóng cửa, lương  thực,  thực  phẩm  cạn  dần;  lực  lượng  bị  dàn  mỏng;  viện binh chưa tới kịp. Bọn Việt gian ra mặt hoạt động đã bị thanh niên ta truy bắt, nghiêm trị... Trước tình hình đó, thực dân Pháp nhờ Grêxi làm trung gian, xin thương lượng với Uỷ ban nhân dân Nam Bộ.
Mặc dù biết âm mưu của thực dân Pháp là hoà hoãn để chờ viện  binh,  nhưng  phía  ta  cũng  cần  có  thời  gian  chuẩn  bị  lực lượng  để  đối  phó  với các đợt tấn công mới  của  địch. Do vậy, chúng ta chấp nhận ngừng bắn một tuần để thương lượng. Cuộc thương  lượng  bắt  đầu  từ  ngày  2-10-1945,  với  sự  có  mặt  của Grêxi.  Lập  trường  hai  bên  trái  ngược  nhau:  Phía  ta  đòi  Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam, công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ  Cộng hoà do Chủ  tịch  Hồ Chí Minh đứng đầu; đình  chỉ  xung  đột  và  rút  quân  về  các  vị  trí  trước  ngày  23-9-
1945. Phía Pháp đòi ta chấp nhận bản Tuyên bố ngày 24-3-1945
của Đờ Gôn. Cuộc đàm phán tạm dừng và sau đó tiếp tục diễn
ra trong ngày 6 và 8-10, nhưng vẫn không đi đến kết quả. Pháp
đề nghị kéo dài thời gian ngừng bắn thêm hai ngày nữa.

Tranh thủ thời gian ngừng bắn, chúng ta tiếp tục tổ chức di chuyển  nhân  dân  cùng  các  cơ  quan,  kho  tàng,  xưởng  máy  ra ngoài, bổ sung và điều chỉnh lực lượng. Các mặt trận ở Sài Gòn được củng cố. Các Uỷ ban kháng chiến miền Đông, miền Trung và miền Tây Nam Bộ được thành lập. Đặc biệt, lực lượng lãnh đạo  Nam  Bộ  được  bổ  sung  hàng  trăm  cán  bộ  cách  mạng  mới thoát khỏi ngục tù Côn Đảo, trong số đó có Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng...

Ngày 10-10-1945, chấm dứt thời gian ngừng bắn, quân Pháp đã được tăng thêm viện binh ra sức phá vây, mở rộng phạm vi chiếm đóng. Quân Anh lấy danh nghĩa Đồng minh đi tước vũ khí quân Nhật ở các thị xã miền Đông Nam Bộ (Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh) nhằm giúp Pháp mở rộng khu vực chiếm đóng các ,tỉnh xung quanh Sài Gòn. Quân ta tiếp tục đánh địch ở

33
 
nhiều  nơi  trong  thành  phố  Sài  Gòn,  nổi  bật  là  trận  đánh  chặn địch ở cầu Thị Nghè (17-10-1945). Từ ngày 23-10, địch được tăng thêm quân tiếp viện, trong đó có binh đoàn thiết giáp, nên chúng phá vỡ được vòng vây xung quanh Sài Gòn, đánh chiếm một số thị xã miền Trung Nam Bộ, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến  của ta. Trong  điều kiện chiến đấu không cân sức,  để  bảo  toàn  lực  lượng  chuẩn  bị  cho  kháng  chiến  lâu  dài, phần lớn lực lượng vũ trang của ta rút ra khỏi thành phố, chỉ để một số đơn vị nhỏ tiếp tục ở lại bám trụ, thường xuyên ra vào thành phố tiến công địch.

Trải qua một tháng bao vây, chặn đánh địch trong thành phố, chiến  đấu  trong  điều  kiện  không  cân  sức,  lực  lượng  vũ  trang thành  phố  Sài  Gòn  -  Chợ  Lớn  -  Gia  Định  đã  tỏ  rõ  tinh  thần quyết  chiến  quyết  thắng  của  dân  tộc  Việt  Nam.  Cuộc  kháng chiến của quân và dân Sài Gòn đã kiềm chế quân địch dài ngày, làm  thất  bại  âm  mưu  đánh  nhanh  thắng  nhanh  của  thực  dân Pháp,  tạo  điều  kiện  cho  các  tỉnh  Nam  Bộ  có  thêm  thời  gian chuẩn bị kháng chiến.

Để lãnh đạo kịp thời cuộc kháng chiến đang lan rộng, ngày
25-10-1945, Hội nghị Xứ uỷ mở rộng Nam Bộ họp ở Thiên Hộ (huyện Cái Bè, Mĩ Tho). Tham dự Hội nghị, ngoài đại biểu của Nam  Bộ,  còn  có  Hoàng  Quốc  Việt,  uỷ  viên  Ban  Thường  vụ Trung  ương  Đảng.  Hội  nghị  kiểm  điểm  tình  hình,  rút  kinh nghiệm chỉ đạo cuộc kháng chiến Nam Bộ, biểu dương tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và dân Nam Bộ. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, củng cố các đơn vị vũ trang hiện có, xây dựng thêm nhiều đơn vị vũ trang mới, tổ chức các quân khu, khôi phục lại chính quyền cách mạng ở những nơi tan rã, thành lập Uỷ ban kháng chiến miền Nam, phát triển công tác
ở các đô thị... Hội nghị đã cử Tôn Đức Thắng phụ trách Uỷ ban kháng  chiến  và  chỉ  đạo  các  lực  lượng  vũ  trang  Nam  Bộ.  Hội nghị Thiên Hộ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đi lên
34
 
của cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.

Thực  hiện Nghị  quyết của  Hội  nghị,  các  cán  bộ,  đảng  viên trung kiên đã vượt mọi khó khăn, đi sâu, bám sát quần chúng; gây dựng lại phong trào, phát triển cơ sở cách mạng.

Tiếp  theo  Hội  nghị  Xứ  uỷ  mở  rộng,  ngày  20-11,  Hội  nghị quân sự được triệu tập ở An Phú (Gia Định) để bàn công tác chỉ đạo tác chiến. Hội nghị quyết định chia Nam Bộ thành các chiến khu 7, 8, 91  và bàn biện pháp củng cố lực lượng vũ trang tỉnh, thành phố, các chi đội Vệ quốc đoàn.

Từ  sau  Hội  nghị  Thiên  Hộ  và  An  Phú,  những  thiếu  sót  về lãnh đạo và chỉ huy từng bước được khắc phục. Công tác lãnh đạo kháng chiến ở Nam Bộ đi dần vào nền nếp. Cùng thời gian đó,  quân  Pháp  cũng  được  quân  Anh  lần  lượt  bàn  giao  những vùng chúng kiểm soát ở Nam Bộ.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở miền Nam được Trung ương  trực  tiếp  chỉ  đạo  và  được  cả  nước  chi  viện  về  mọi  mặt. Hưởng ứng chủ trương của Trung ương Đảng, với ý thức bảo vệ độc  lập  tự do của  Tổ  quốc  nhân  dân  ta  ở  miền  Bắc,  đi  đầu  là thanh niên, có hàng vạn người hăng hái gia nhập quân đội, xung vào các đoàn quân Nam tiến, nhanh chóng lên đường vào Nam chiến  đấu.  Chỉ  một  thời  gian  ngắn  sau  khi  tiếng  súng  kháng chiến bùng nổ, tại tiền tuyến miền Nam đã có mặt những đơn vị Giải phóng quân từ hậu phương  miền  Bắc  mới  vào.  Các đoàn quân Nam tiến từ thủ đô Hà Nội, căn cứ địa Việt Bắc, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ tấp nập lên đường vào Nam chiến đấu chống Pháp, thể hiện ý chí đoàn kết thống nhất của


1. Chiến khu 7 gồm các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Tây Ninh, Gia Định,
Chợ Lớn, Bà Rịa và thành phố Sài Gòn; Chiến khu 8 gồm Tân An, Mĩ Tho, Gò Công, Bến Tre, Sa Đéc (lúc này địch mới chiếm dược thị xã Tân An, Mĩ Tho, Gò Công); Chiến khu 9 gồm Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Vinh, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng (lúc này địch mới chiếm được thị xã Vĩnh Long và Cần Thơ).
35
 
dân tộc Việt Nam.

Hầu hết các tỉnh ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đều thành lập từ
1 đến 2 chi đội Nam tiến. Những cán bộ và chiến sĩ hăng hái, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, những vũ khí và trang bị tốt nhất của ta lúc đó đều dành cho bộ đội Nam tiến. Nhân dân Bắc Bộ và  Bắc  Trung  Bộ  còn  tổ  chức  quyên  góp  tiền  bạc,  quần  áo, thuốc men, đạn dược... ủng hộ đồng bào Nam Bộ.

Về  phía  thực  dân  Pháp,  sau  khi  nhận  thêm  quân  tiếp  viện, đồng  thời  tiếp  tục  dựa  vào  quân  Anh  và  Nhật,  chúng  vừa  mở rộng phạm vi chiếm đóng ở Nam Bộ, vừa từng bước thực hiện kế hoạch đánh ra Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, đến cuối tháng 1-
1946,  quân  Pháp  mới  chiếm được  các  tỉnh  miền  Tây  Nam Bộ (Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Trà Vinh, Hà Tiên, Sóc Trăng, Bạc Liêu), chưa ổn định được tình hình ở Sài Gòn - Chợ Lớn và một số thành phố, thị xã. Lực lượng kháng chiến của ta vẫn làm chủ một số vùng nông thôn Nam Bộ. Các tỉnh Nam Bộ củng cố lại lực lượng vũ trang, tăng cường trang bị vũ khí, xây dựng căn cứ để kháng chiến lâu dài.

Đầu  tháng  2-1946,  sau  khi  được  tăng  viện  binh,  thực  dân Pháp gấp rút chiếm đóng vùng nông thôn Nam Bộ. Chúng mở hàng  loạt  cuộc  hành  quân  "bình  định"  trên  các  khắp  các  tỉnh Nam  Bộ.  Lực  lượng  của  ta  bị  tổn  thất  nhiều,  chính  quyền  và đoàn thể Cứu quốc ở nhiều nơi bị tan vỡ. Trên các vùng chiếm được, quân địch chia thành các chiến khu, đóng đồn bốt, khống chế hoạt động chống đối của nhân dân. Vừa hành quân chiếm đóng các vùng đất của ta, thực dân Pháp vừa ráo riết xúc tiến thành lập chính phủ bù nhìn. Ngay từ tháng 10-1945, Xêđi âm mưu lập một hội đồng tư vấn gồm 80 người và giao cho Nguyễn Văn  Thinh  vận  động  các  nhà  trí  thức  tham  gia,  nhưng  không thành công. Phần đông trí thức tỏ thái độ bất hợp tác với Pháp. Đến tháng 2-1946, Xêđi mới lập được hội đồng tư vấn gồm 12 thành viên là người Pháp và người Việt mang quốc tịch Pháp. Ngoài ra, thực dân Pháp còn tiến hành tuyển quân, tập hợp bọn

36
 
tay sai để thành lập chính quyền bù nhìn ở các thị trấn, thị xã. Chúng  tìm  cách  lôi  kéo  một  số  người  trong  các  đạo  Cao  Đài, Hoà Hảo, Thiên Chúa và cả lực lượng Bình Xuyên... để chống lực lượng kháng chiến.

Ngày 5-3-1946, quân Anh bàn giao lại toàn bộ địa bàn và vũ
khí, trang bị cho quân Pháp, rút khỏi miền Nam.

Trong lúc nhân dân Nam Bộ kháng chiến thì tại Nam Trung Bộ, mọi công việc chuẩn bị để kháng chiến cũng được xúc tiến rất khẩn trương Theo quyết định của Hội nghị quân sự do Xứ uỷ và Uỷ ban nhân dân Trung Bộ triệu tập cuối tháng 9-1945, Uỷ ban quân chính Nam phần Trung Bộ được thành lập để chỉ huy
7 tỉnh mặt trận phía nam. Lực lượng quân sự các tỉnh từ Quảng Ngãi trở ra được điều động vào Nam Trung Bộ. Các cơ sở kinh tế, quốc phòng quan trọng ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ được di chuyển đến những nơi an toàn. Các xưởng sửa chữa và sản xuất vũ khí từng bước được xây dựng. Đến cuối năm 1945, đã có 10 xưởng  đặt  ở  Quảng  Nam,  Quảng  Ngãi,  Bình  Định,  Phú  Yên, Khánh Hoà, với trên 1.000 công nhân.

Từ hạ tuần tháng 10-1945, chiến sự bắt đầu lan tới các tỉnh Nam Trung Bộ. Khi địch đổ bộ lên Nha Trang (22-10), chúng đã  vấp  phải  sức  chiến  đấu  của  bộ  đội  ở  khu  nhà  ga,  nhà  máy điện, Viện Paxtơ... Sau đó, quân ta hình thành thế bao vây nhằm tiêu hao và giam chân địch trong thành phố. Với tinh thần tích cực tiến công địch, với cách đánh mưu trí, táo bạo, được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân, lực lượng vũ trang mặt trận Nha Trang đã  bao  vây  kìm  chân  địch  trong  thành  phố  hơn  ba  tháng,  góp phần làm thất bại kế hoạch của quân Pháp dùng Nha Trang làm bàn  đạp  mở  rộng  đánh  chiếm  các  tỉnh  cực  Nam  Trung  Bộ  và Tây Nguyên.

Cuối tháng 12- 1945 , đầu tháng 1-1946, địch tập trung quân giải vây cho Nha Trang và đánh chiếm tỉnh Khánh Hoà, đồng thời đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh lị của Đắc Lắc.

Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #8 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:46:42 pm »

Cuối  tháng  1-1946  ,  sau  khi  chiếm  được  Buôn  Ma  Thuột, đồng thời với các cuộc hành quân đánh chiếm các tỉnh còn lại của  miền  Tây  Nam Bộ,  địch  tập trung 10.000 quân, mở  chiến dịch Gô (Gaur) từ phía nam đánh ra, Tây Nguyên đánh xuống và  từ  biển  đánh  vào  các  tỉnh  Nam  Trung  Bộ.  Lượng  vũ  trang của ta chặn đánh nhưng cuối cùng phải rút lui. Sau khi chiếm Phan Rang, quân Pháp đánh ra Nha Trang, đánh vào Phan Thiết. Trong điều kiện chiến đấu không cân sức, sau một số trận đánh trả,  quân  ta  phải  rút  khỏi  Nha  Trang,  để  lại  một  bộ  phận  lập tuyến chặn địch ở Đèo Cả.

Sau 4 tháng chiến đấu anh dũng, với sự chi viện của nhiều đơn vị Nam tiến, bộ đội Nam Trung Bộ đã hoàn thành nhiệm vụ trong  thời  kì  đầu  của  cuộc  kháng  chiến,  tiêu  diệt  được  hàng ngàn tên địch, thu nhiều vũ khí. Tuy nhiên, trước sự tấn công mạnh gấp nhiều lần của địch, để bảo toàn lực lượng, các đơn vị bộ đội các tỉnh cực Nam Trung Bộ đã phải tạm thời rút ra khỏi các thị xã, thị trấn và một số trục đường giao thông lớn. Tại các vùng nông thôn ở Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, chính quyền cách mạng, các đoàn thể Cứu quốc và lực lượng vũ trang của ta vẫn làm chủ.

Như vậy, 5 tháng kháng chiến (từ tháng 9-1945 đến tháng 2-
1946) là 5 tháng đầy thử thách gian khổ đối với quân và dân ta ở miền Nam, đối với cả dân tộc và chế độ mới. Cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân ta ở miền Nam tuy phải trải qua gian lao và tổn thất, nhưng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm chiến đấu, gây dựng được phong trào chiến tranh du kích, xây dựng lực lượng, góp phần bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến lâu dài.

b) Hoà hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng ở miền Bắc

Trong hoàn cảnh phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở miền Nam, sự uy hiếp lật đổ chính quyền của quân Tưởng và tay sai ở miền Bắc và trên cơ sở khẳng định
38
 
thực dân Pháp là kẻ thù chính, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: "Phải tránh các trường hợp một mình đối phó  với  nhiều  lực  lượng  Đồng  minh  tràn  vào  nước  ta".  Mũi nhọn của cách mạng lúc này là tập trung đối phó với thực dân Pháp ở miền Nam, do đó chúng ta phải tạm thời hoà hoãn, tránh xung đột với quân Tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đứng trước tình hình gay go và cấp bách ấy, Đảng phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển... Đảng không thể do dự. Do dự là hỏng hết. Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng những  phương  pháp  -  dù  là  những  phương  pháp đau  đớn  -  để cứu vãn tình hình"1. chúng ta tiến hành đấu tranh chính trị với quân Tưởng một cách khôn khéo, nhưng kiên quyết, nhằm hạn chế sự phá hoại của chúng. Tháng 10-1945, khi Hà Ứng Khâm (Tổng  tư  lệnh  lục  quân  quân  đội  Tưởng  Giới  Thạch)  đến  Hà Nội,  Chính  phủ  cách  mạng  đã  tổ  chức  một  cuộc  biểu  tình  có
300.000 người tham gia, hình thức là để "đón tiếp", nhưng thực chất là nhằm biểu dương lực lượng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.  Quần  chúng  diễu  qua  Phủ  Toàn  quyền  và  hô  vang  khẩu hiệu: "Nước việt Nam của người Việt Nam", "Hoa - Việt thân thiện",  "ủng  hộ  Chính  phủ  lâm  thời  nước  Việt  Nam  Dân  chủ Cộng hoà", "ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh", "ủng hộ Việt Nam độc lập đồng minh", "Việt Nam độc lập muôn năm". Trước khí thế và sức mạnh của quần chúng, Hà Ứng Khâm không thể tự mình  thực  hiện  ý  định  lật  đổ  Chính  phủ  cách  mạng,  mà  dùng bọn  tay  sai  (Việt  Quốc  và  Việt  Cách)  phá  hoại  từ  bên  trong. Được sự ủng hộ của Tưởng, bọn tay sai đòi ta thay đổi Quốc kì, Quốc ca, đòi ta phải cải tổ Chính phủ, để cho chúng một số ghế trong Quốc hội không phải thông qua bầu cử, đòi Hồ Chí Minh
từ chức Chủ tịch, đòi những người cộng sản rút khỏi Chính phủ. Chúng  còn  tổ  chức  ám  sát,  bắt  cóc  nhân  viên  Chính  phủ.  Để giảm  bớt  sức  ép  công  kích  của  kẻ  thù,  tránh  những  hiểu  lầm



1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 6. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.162.
39
 
trong nước và ngoài nước có thể trở ngại đến tiền đồ, sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng thời xuất phát từ lợi ích tối cao của dân tộc, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán" (11-11-
1945), nhưng sự thật là tạm thời rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách mạng.

Nhằm  hạn  chế  sự  phá  hoại  của  quân  Tưởng  và  tay  sai,  tại phiên họp đầu tiên (2-3-1946), Quốc hội khoá I đồng ý cho bọn tay sai của Tưởng 70 ghế trong Quốc hội, cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước cùng 4 ghế Bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp chính thức (phụ trách các lĩnh vực  ngoại  giao,  kinh  tế,  canh  nông,  xã  hội).  Đồng  thời  nhân nhượng cho Tưởng một số quyền lợi kinh tế, như cung cấp một phần  lương  thực,  thực  phẩm,  phương  tiện  giao  thông  vận  tải, nhận tiêu tiền Quan Kạn, Quốc tệ ở Việt Nam.

Sự nhân nhượng về chính trị trên đây thể hiện một yêu cầu cơ bản là giữ vững sự tồn tại của một chính quyền của dân, do dân và vì dân, một chính quyền của sự hoà giải, đoàn kết thống nhất quốc gia dân tộc thực hiện tư tưởng độc lập tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh với khẩu hiệu hành động cấp bách là Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết. Sự nhân nhượng đó là cần thiết, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những hoạt động chống phá cách mạng của quân Tưởng và tay sai. Trong khi thực hiện hoà giải, nhân nhượng, thông qua công cụ báo chí, thông tin tuyên truyền, dựa vào  sức  mạnh  quần  chúng,  chúng  ta  kiên  quyết  vạch  trần  và ngăn chặn những hành động chia rẽ, phản dân hại nước của các lực  lượng  tay  sai  của  Tưởng.  Những  kẻ  phá  hoại  (có  đủ  bằng chứng) thì bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban hành một  số  sắc  lệnh  nhằm  trấn  áp  bọn  phản  cách  mạng:  Sắc  lệnh ngày  5-9-1945  giải  tán  Đại  Việt  quốc  gia  xã  hội  đảng  và  Đại Việt quốc dân đảng (là những đảng phản động, tay sai của phát xít Nhật); Sắc lệnh ngày 12-9-1945 cho an trí những người nguy hiểm đối với nền Cộng hoà dân chủ Việt Nam; Sắc lệnh lập toà án quân sự trừng trị bọn phản cách mạng.


40
 
Thực hiện những biện pháp sách lược nhân nhượng trên đây đã  hạn  chế  và  vô  hiệu  hoá  đến  mức  thấp  nhất  các  hoạt  động chống phá của quân Tưởng và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng. Cũng nhờ đó, chúng ta mới  có  điều  kiện  tập  trung  lực  lượng  kháng  chiến  chống  thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam.

2-  Hoà  hoãn  với  thực  dân  Pháp  nhằm  gạt  quân  Tưởng  ra khỏi nước ta, chuẩn bị kháng chiến chống Pháp (từ 6-3 đến
19-12-1946)

a) Pháp và Tưởng cấu kết với nhau chống lại cách mạng Việt
Nam.

Đầu năm 1946, về cơ bản, thực dân Pháp đã chiếm được các đô thị, các đường giao thông chiến lược quan trọng ở Nam Bộ và  Nam  Trung  Bộ,  chiếm  hầu  hết  Campuchia  và  khống  chế vùng  nông  thôn  ở  Lào.  Pháp  lại  được  Anh  và  Mĩ  thoả  thuận: Ngày 29-1-1946, quân Anh rút khỏi Sài Gòn và đến ngày 5-3-
1946,  rút  khỏi  Nam  Đông  Dương,  nhường  cho  Pháp  quyền chiếm đóng từ vĩ tuyến 16 trở vào. Công việc tiếp theo của thực dân Pháp là chuẩn bị tiến quân ra miền Bắc, thực hiện ý đồ thôn tính cả nước ta. Nhưng do lực lượng hiện tại có hạn (hơn 65.000 quân), lại chưa bình định xong miền Nam, nếu thực hiện ngay ý đồ này bằng biện pháp quân sự, Pháp sẽ gặp khó khăn. Hơn nữa, đưa quân ra miền Bắc lúc này, chúng sẽ gặp hai trở lực lớn: một
là lực lượng kháng chiến của nhân dân ta, hai là sự có mặt của quân Tưởng và bọn tay sai ở miền Bắc. Tình hình đó buộc thực dân Pháp phải dùng đến thủ đoạn chính trị: một mặt, điều đình với  Chính  phủ  Tưởng  Giới  Thạch  ở  Trùng  Khánh,  mặt  khác điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh để được đưa quân đội ra miền Bắc Việt Nam một cách "hợp pháp".

Trong khi đó, Tưởng Giới Thạch cũng đứng trước một khó khăn lớn: Phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đang phát triển mạnh mẽ, cần phải tập trung lực lượng


41
 
để đối phó. Tình hình này cũng buộc Tưởng đi đến thoả hiệp với
Pháp.

Đúng  như  dự  đoán  của  Ban  Thường  vụ  Trung  ương  Đảng: "Trước sau Trùng Khánh sẽ bằng lòng cho Đông Dương trở về tay Pháp miễn là Pháp nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng"1,  ngày  28-2-1946,  Hiệp  ước  Hoa  -  Pháp  được  kí  kết  ở Trùng Khánh. Theo Hiệp ước này, Pháp được quyền thay quân đội  Tưởng  vào  miền  Bắc  Đông  Dương  để  giải  giáp  quân  đội Nhật. Ngược lại Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị, như trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc, nhượng cho Tưởng một "khu đặc biệt" để
tự  do  buôn  bán  và  có  quyền  kiểm  soát  thuế  quan  ở  cảng  Hải Phòng,  bán  cho  Tưởng   đoạn  đường  sắt  từ  Hồ  Kiều  đến  Côn Minh (thuộc tuyến đường sắt Hà Nội - Vân Nam), những kiều dân  Trung  Quốc  ở  Đông  Dương  được  hưởng  nhiều  quyền  lợi đặc biệt.

Cùng  thời  gian  trên,  từ  cuối  năm  1945  đến  đầu  năm  1946, giữa đại diện Chính phủ Pháp và Việt Nam đã có những cuộc gặp gỡ. Tháng 11-1945, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hoàng Minh Giám đã tiếp xúc với phía Pháp và lập trường của Chính phủ Việt Nam được xác định qua bức giác thư ngày 12-11 như sau:

l- Nước Pháp sẽ thừa nhận không chậm trễ nền độc lập toàn vẹn của Việt Nam;

2- Chính phủ Việt Nam sẽ thực thi những biện pháp bảo vệ uy  tín  nước  Pháp  và  sẽ  có  những  nhượng  bộ  với  Pháp  về phương diện kinh tế và văn hoá;

3- Nhằm tạo ra được một không khí thuận lợi cho việc đàm phán,  các  nhà  chức  trách  Pháp  sẽ  cho  chấm  dứt  ngay  những



1.  Văn  kiện  Đảng  1945  -  1954.  T.1.  Ban  Nghiên  cứu  lịch  sử  Đảng  trung
ương, Hà Nội, 1978, tr. 26.
42
 
chiến sự ở Nam Bộ và trong suốt thời gian của cuộc đàm phán, ngưng  vận  chuyển  đến  Đông  Dương  quân  đội  và  vũ  khí"1. Trong  cuộc  gặp  Giăng  Xanhtơni  (Jean  Sainteny)  ngày  25-2-
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ lập trường của Việt  Nam  trong  quan  hệ  Việt  -  Pháp  là  độc  lập  và  hợp  tác. Xanhtơni nêu rõ quan điểm của Pháp là công nhận Việt Nam có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng nhưng là một nước tự trị trong khối Liên hiệp Pháp. Đây là lập trường đối lập cơ bản giữa Chính phủ ta và Chính phủ Pháp.
Logged
HUY_AK_47
Thành viên
*
Bài viết: 200



« Trả lời #9 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2011, 10:47:17 pm »

b) Hoà hoãn, nhân nhượng với thực dân Pháp nhằm gạt quân
Tưởng ra khỏi nước ta

Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con đường: Hoặc là cầm vũ khí chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc là hoà hoãn, nhân nhượng  pháp để  tránh tình trạng phải  đối phó một lúc với nhiều kẻ thù, đẩy 20 vạn quân Tưởng ra khỏi miền Bắc, tranh thủ thời gian hoà hoãn, tiếp tục củng cố và phát triển lực  lượng  cách  mạng,  chuẩn  bị  mọi  mặt  bước  vào  cuộc  chiến đấu về sau khi tình thế bắt buộc. Ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương. Bản Chỉ  thị  nhận  định:  "...  Hiệp  ước  Hoa  -  Pháp  không  phải  là chuyện  riêng  của  Tưởng  Giới  Thạch  và  Pháp.  Nó  là  chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai của chúng ở thuộc địa..."2. Phân tích về chủ trương đánh hay hoà lúc này, Chỉ thị chỉ rõ: "Nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hoà, hoà để phá tan âm mưu thâm độc của bọn Tưởng Giới Thạch, bọn phản động  Việt  Nam  và  bọn  phát  xít  Pháp  còn  sót  lại,  chúng  định



1. Philippe Devillers: Paris - SaiGon - Ha Nội. Hoàng Hữu Đàn dịch. Tài
liệu  lưu  trữ  của  cuộc  chiến  tranh  1944  -  1947.  NXB  Thành  phố  Hồ  Chí
Minh, 1993, tr. 159.

2.2.  Văn kiện quân sự của Đảng 1945 - I950. NXB QĐND. Hà Nội 1976, tr.
33.
43
 
hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta phải đánh nhiều kẻ thù một lúc..."1. Bản Chỉ thị nhấn mạnh: "Vấn đề lúc này không phải là muốn  hay  không  muốn  đánh  Vấn  đề  là  biết  mình  biết  người, nhận định một cách khách quan những điều kiện lợi hại trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng..."2.

Nếu chấp nhận cuộc chiến đấu với Pháp lúc này, chúng ta sẽ gặp nhiều bất lợi lớn. Về chính trị, ta có khó khăn vì hoạt động chia rẽ của bọn phản động. Về quân sự, Pháp có thêm lực lượng và chiếm được nhiều nơi; cuộc kháng chiến ở Nam Bộ gặp khó khăn. Về kinh tế, vấn đề tiếp tế lương thực không bảo đảm. Về quốc  tế,  Liên  Xô  và  các  lực  lượng  dân  chủ  chưa  có  điều  kiện trực tiếp giúp ta...

Chấp nhận hoà hoãn, nhân nhượng với Pháp cũng có những bất lợi khác: Thực dân Pháp lợi dụng hoà hoãn để phát triển lực lượng và sau đó bội ước đánh ta. Bọn phản động lợi dụng việc
kí kết mà vu cáo ta là "bán nước". Nhưng thực hiện giải pháp này, ta sẽ phá tan được âm mưu của Tưởng và tay sai đẩy ta vào thế bị cô lập; đồng thời giành được thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Ngày 5-3-1946, Hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương  Đảng  (tại  làng  Canh,  Hà  Đông)  nhất  trí  tán  thành  chủ trương Hoà để tiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng.

Chiều 6-3-1946, sau nhiều lần thương lượng, tại ngôi nhà 38
Lý  Thái  Tổ  (Hà  Nội),  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  thay  mặt  Chính phủ   Việt   Nam   Dân   chủ   Cộng   hoà   kí   với   G.   Xanhtơni (J.sainteny) - đại diện Chính phủ Cộng hoà Pháp bản Hiệp định Sơ bộ, đặt cơ sở cho cuộc đàm phán giữa hai bên để đi đến một hiệp định chính thức.

Theo Hiệp định Sơ bộ:






44
 
Chính  phủ  Pháp  công  nhận  nước  Việt  Nam  Dân  chủ  Cộng hoà là một quốc gia tự do trong khối Liên hiệp Pháp; có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Sự thống nhất đất nước sẽ do trưng cầu dân ý quyết định.

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào thay thế Tưởng. Số quân này phải đóng ở những nơi  do  hai  bên  thống  nhất  quy  định  và  sẽ  rút  khỏi  Việt  Nam trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 số quân.

- Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. Các cuộc đàm phán tiếp theo sẽ được tiến hành tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Pari.

Kí Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, tạm thời hoà hoãn với Pháp, ta đã tránh được một cuộc chiến đấu bất lợi phải chống lại nhiều kẻ  thù  cùng  một  lúc;  tạo  thêm  một  cơ  sở  pháp  lí  buộc  quân Tưởng phải nhanh chóng rút khỏi miền Bắc nước ta; bọn tay sai Việt  Quốc,  Việt  Cách  vì  mất  chỗ  dựa  nên  phần  lớn  bị  tan  rã hoặc  chạy  theo  quân  Tưởng;  chúng  ta  có  thêm  thời  gian  hoà bình cần thiết để củng cố chính quyền cách mạng, mở rộng mặt trận  dân  tộc  thống  nhất,  phát  triển  lực  lượng  vũ  trang  nhằm chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp về sau. Đặc biệt, đối với miền Nam - nơi mà cuộc kháng  chiến  đang  đứng  trước  những  thử  thách  gay  gắt  -  Hiệp định Sơ bộ tạo điều kiện cho lực lượng kháng chiến trở lại bám trụ  thôn,  xã,  tạo  thế  và  lực  để  cùng  cả  nước  bước  vào  cuộc kháng chiến lâu dài. Thực tế lịch sử đã chứng tỏ, việc kí Hiệp định  Sơ  bộ  -  trong  hoàn  cảnh  lúc  đó  -  là  một  chủ  trương  cứu nước  duy  nhất  đúng,  "một  mẫu  mực  tuyệt  vời  của  sách  lược Lêninít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc"1.

Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, Chính phủ và nhân dân


1. Lê Duẩn: "Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã
hội, tiến lên giành thắng lợi mới ". NXB Sự Thật, Hà Nội. 1970, tr.31.
45
 
Việt  Nam  thi  hành  nghiêm  chỉnh  mọi  điều  khoản  đã  kí  kết. Ngày 8-3- 1946, Chính phủ ban hành Nghiêm lệnh: "Chính phủ hạ lệnh cho toàn thể nhân dân và bộ đội phải giúp đỡ cho quân đội Trung Hoa, trong lúc quân đội Trung Hoa thoái triệt. Ai xâm phạm  đến  tính  mạng,  tài  sản  của  quân  đội  Trung  Hoa  sẽ  bị nghiêm trị"1. Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
ra bản Chỉ thị Hoà để tiến, vạch rõ lí do vì sao ta kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ và đề ra những việc cần làm sau khi Hiệp định được kí kết:

1- Giải thích ý nghĩa Hiệp định, chống mọi nhận thức và tư
tưởng sai lệch đối với việc kí kết.

2- Chuẩn bị kháng chiến lâu dài, đề phòng Pháp bội ước.

3- Đấu tranh với Tưởng, đề phòng chúng cố tình kéo dài thời hạn đóng quân trên miền Bắc.

4- Đề phòng các đảng phái phản động xuyên tạc và phá hoại.

5- Chỉ đạo miền Nam gây dựng lại cơ sở đã mất và cổ động phong trào đòi thống nhất Bắc - Trung - Nam.

Trong khi đó, thực dân Pháp sớm lộ rõ dã tâm phá hoại Hiệp định. Ngày 9-3-1946, quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng và đóng trái phép ở Bến Bính. Ngày 27-3-1946, quân Pháp ngang nhiên chiếm đóng trụ sở Bộ Tài chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hà Nội; đồng thời cho xe chạy khắp các phố, gây xô xát và cướp bóc tài sản của nhân dân... Ở miền Nam, thực dân Pháp không những không ngừng bắn, mà còn tiếp tục cho quân càn quét,  đánh  úp  nhiều  vị  trí  của  bộ  đội  Việt  Nam  ở  Đồng  Tháp Mười, Bình Thuận, Phan Rang... Tháng 6-1946, chúng huy động
5.000  quân  có  xe  tăng  và  máy  bay  yểm  trợ  đánh  chiếm  Tây Nguyên.  Với  ý  đồ  tách  Nam  Bộ  ra  khỏi  Việt  Nam,  thực  dân Pháp thành lập Chính phủ Nam Kì tự trị (l-6-1946) do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu.


1. Viện sử học: Lịch sử Việt Nam (9/1945 - l950)... Sđd, tr. 70.
46
 
Một trong những nội dung quan trọng đấu tranh buộc Pháp phải  tôn  trọng  Hiệp  định  Sơ  bộ  là  đòi  họ  mở  cuộc  đàm  phán chính thức tại Pari. Ngược lại, thực dân Pháp tìm mọi cách trì hoãn.  Ta  càng  thấy  rõ  lập  trường  thực  dân  xâm  lược  của  giới phản động Pháp, nhưng vẫn kiên trì đấu tranh tiến tới cuộc đàm phán chính thức.

Ngày 24-3-1946, trên tàu chân Êmin Béctanh (Emile Bertin) neo tại vịnh Hạ Long đã diễn ra cuộc hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đô đốc Đácgiăngliơ. Cùng dự hội đàm, về  phía Việt Nam còn có Hoàng Minh Giám và Nguyễn Tường Tam; về phía  Pháp  có  Tướng  Lơclec,  Xanhtơni  và  một  số  trợ  lí  của Đácgiăngliơ. Sau nhiều lần trao đổi, hai bên đã thoả thuận công bố một bản thông cáo gồm ba điểm chủ yếu:

1- Vào thột thời điểm càng gần mà các điều kiện quá cảnh cho phép, nghĩa là trong nửa đầu tháng tư, một phái đoàn hữu nghị  gồm 10  nghị  sĩ  Việt  Nam đi  Pari  mang  tới  Quốc  hội  lập hiến Pháp lời chào anh em của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;

2-  Cũng  vào  thời  điểm  đó  sẽ  tiến  hành  tại  Đà  Lạt  một  hội nghị  trù  bị  giữa  một  bên  là  một  đoàn  đại  biểu  Pháp  gồm  12 thành viên dưới sự chủ trì của cao uỷ Pháp tại Đông Dương và một bên là một đoàn đại biểu gồm 12 thành viên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hoặc người đại diện;
3- Cuộc hội nghị trù bị đó sẽ hoàn thành công việc của mình để một đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể lên  đường  trong  thời  hạn  ngắn  nhất,  nghĩa  là  trong  nửa  cuối tháng năm để các cuộc thương lượng cuối cùng chính thức có thể tiến hành tại Pari.
Ngày  16-4-1946,  phái  đoàn  Quốc  hội  nước  Việt  Nam  Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu lên đường sang thăm nước  Pháp  theo  tinh  thần  của  thông  cáo  về  nội  dung  cuộc  hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đô đốc Đácgiăngliơ.
47
 
Ngày 19-4-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt khai mạc1. Hội nghị thành  lập  4  uỷ  ban.  Trong  mỗi  uỷ  ban,  mỗi  bên  đặt  một  số người, phái biện và cố vấn; mỗi bên cử một chủ tịch để lần lượt chủ toạ các buổi thảo luận. Uỷ ban Chính trị, do Hoàng Xuân Hãn,  Métxme  (Messmer)  làm  Chủ  tịch;  Uỷ  ban  Kinh  tế  -  Tài chính,  do  Trịnh  Văn  Bính  và  Buốcgoanh  (Bourgoin)  làm  Chủ tịch; Uỷ ban Quân sự, do Võ Nguyên Giáp và Mác ăngđrê (Max André)  làm  Chủ  tịch;  Uỷ  ban  Văn  hoá,  do  Nguyễn  Mạnh Tường, Guru (Gourou) làm Chủ tịch.

Hội nghị đã tiến hành khẩn trương. Ngoài những phiên họp toàn thể, những phiên họp ở các uỷ ban, còn có nhiều cuộc trao đổi ngoài hành lang... Tuy vậy, trên tất cả các vấn đề được đặt ra, cuộc đàm phán hầu như không tiến triển. Ngoài những cuộc tranh  luận  gay  gắt   tại  Uỷ  ban  Chính  trị,  ở  tất  cả  các  Uỷ  ban Quân sự, Kinh tế, Văn hoá đều có những cuộc tranh cãi giằng co2.

Về kinh tế, ta chủ trương giữ vững những quyền lợi kinh tế cơ  bản  của  ta,  bảo  đảm  điều  kiện  cho  kinh  tế  Việt  Nam  phát triển, đồng thời có những nhân nhượng nhất định đối với quyền lợi kinh tế Pháp ở Đông Dương. Những vấn đề được đặt ra trong


1. Trưởng đoàn phía Việt Nam là Nguyễn Tường Tam, Phó trưởng đoàn là
Võ Nguyên Giáp cùng các thành viên: Trịnh Văn Bính, Cù Huy Cận, Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền, Vũ Hồng Khanh, Trần Đăng Khoa, Dương Bạch Mai,  Nguyễn  Văn  Luyện,  Phạm  Ngọc  Thạch,  Bùi  Công  Trừng,  Nguyên Mạnh Tường. Các cố vấn của Đoàn gồm có: Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Kiều Quang Cung, Đinh Văn Hớn, Phạm Khắc Hoè, Nguyên Văn Huyên, Hồ Đắc Liên, Phạm Văn Phác, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Duy Thanh, Nguyễn Tường Thụy, Hồ Hữu Tường. Trưởng đoàn phía Pháp là Mác Ăngđrê. Trong đoàn  còn  có Métxme  (Messme),  Pinhông (Pignon),  Tô  ren  (Torel),  Bútxkê (Bousquet),     Gônông     (Gonon),     Buốcgoanh     (Boulgoin),     Ghiăngtông (Guillanton),   Xalăng   (Salan),   Guru   (Gourou),   Clarắc   (Clarac),   Lơđu (Ledoux).

2. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam: Từ Đà Lạt đến Pari. NXB Hà Nội, 1996, tr. 25.
48
 
Tiểu ban này thuộc về tiền tệ, thuế quan, những doanh nghiệp hiện  tại  của  Pháp  ở  Việt  Nam;  trong  đó  những  bất  đồng  lớn xoay quanh vấn đề tiền tệ và việc kinh doanh của người Pháp tại Việt Nam.

Về văn hoá, hai bên đã đạt được một số thoả thuận. Ta chỉ không đồng ý về việc Pháp đòi đặt một số cơ quan văn hoá ở Đông  Dương  trực  thuộc  với  liên  bang  và  đề  nghị  dùng  tiếng Pháp làm thứ tiếng chính thức thứ hai sau tiếng Việt.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM