Không nói gì xa xôi chỉ tính từ năm 1945 đến nay đã có bao nhiêu các cán bộ trung ương ,ban ngành ,đoàn thể đã sống và làm việc tại Thủ đô ,vậy sau ngần ấy năm có biết bao nhiêu F1,F2,F3 ,F...n đã lần lượt ra đời ,sống ,học tập ,và làm việc ở Thủ đô ? có trời mới biết họ mang những cái gì về hà nội .Những năm gần đây dân số Hà nội tăng lên nhanh chóng cũng góp phần làm thay đổi tất cả ,nếu ai tinh ý sẽ thấy trong mục cáo phó của đài th Hà nội thì đến 90% là quê quán không thuộc 4 khu và 4 huyện cũ của Hà nội (tên gọi trước năm 1975 ).
Trả lời câu thứ 2 của csvd :bạn làm tôi ngỡ ngàng vì không hiểu csvd là người Việt hay người nước ngoài đang tìm hiểu lịch sử Vn thời kỳ chống mỹ cứu nước .Không những bạn không hiểu gì về phố Khâm thiên mà có vẻ đang xúc phạm đến những người đã và đang sống tại đó ,ở đâu cũng vậy cái tiếng không hay đã làm mất thanh danh không chỉ một con phố mà có khi còn cả thành phố kia ,nhưng ở K T bạn lầm rồi đấy , năm 1972 là năm nào rồi mà bạn bảo nó vẫn là phố cô đầu nhà thổ ?chẳng qua năm ấy bạn còn "bé tí "nên không nhớ và không biết đấy thôi .Còn cái tên Việt gian mà có thù có oán với phố Khâm thiên thì nói thật đến tận bây giờ nó vẫn chưa ra đời đâu !!!
Người Hà Nội xưa như thế nào thì nhiều sách vở đã nói. Nhiều người đã tiếc văn hóa Hà Nội xưa không giữ được đến ngày nay.
Chuyện đó âu cũng là qui luật, không có gì phải bàn.
Rất nhiều người, tuy không phải là người gốc Tràng An nhưng cũng đều thừa nhận văn Hóa Hà Nội xưa có nhiều cái đáng quý và là nét đẹp của Hà Nội.
Tôi không thể nói hay như những nhà "Hà Nội Học" nhưng cũng xin góp một vài ý tứ của riêng tôi về Hà Nội.
Các cụ tôi là những "kẻ" này "kẻ" khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ tụ hội về đất Tràng An để buôn bán làm ăn hoặc làm nghề thủ công. Vì Tràng An là nơi thuận lợi về giao thông đường bộ cũng như đường sông, thật sự đắc lợi về giao thương. Vậy là các cụ nhà tôi cũng góp mặt vào chỗ "ba mươi sáu phố phường" xưa. Như mọi người đều biết, ba mươi sáu phố phường ấy là những phố phường bắt đầu bằng chữ "hàng". Nào thì, Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Gai, Hàng Cót, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Chĩnh, Hàng Lờ, Hàng Quạt, Hàng Giầy, Hàng Giấy, Hàng Vôi, Hàng Đồng, Hàng Thiếc, Hàng Nón, Hàng Điếu, Hàng Thùng, Hàng Phèn, Hàng Da, Hàng Cháo, Hàng Bột, Hàng Vải Thâm, Hàng Lọng, Hàng Trống, Hàng Mành, vân vân và vân vân . . .
Thăng Long thời Lê gồm hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện có 18 phường. Phường vừa là khái niệm chỉ tổ chức của những người có cùng một nghề nghiệp hay mặt hàng, đồng thời cũng có nghĩa là một đơn vị hành chính. Phố là nơi bán hàng, phố Hàng Đường là nơi có nhiều cửa hàng bán đường. Thành ra mới có cách nói "Hà nội 36 phố phường".
Vậy là các cụ nhà tôi cũng không phải gốc Tràng An. Đến đời tôi thì đã kể là mấy đời ở Hà Nội.
Do đó, thực ra, văn hóa Hà Nội là tinh hoa văn hóa của nhiều vùng thuộc đồng bằng bắc bộ, qua nhiều đời mà kết tinh thành.
Thứ nhất, nói về giọng Hà Nội chuẩn, đó là cách nói luôn luôn nói sai chính tả tiếng Việt ở một số phụ âm. Người Hà nội không phân biệt các âm "d", "gi" và "r", mấy âm này đều chỉ dùng âm "d". Người Hà Nội cũng không phân biệt âm "ch" và "tr", cả hai âm này đều dùng âm "ch". Điều đó làm cho "tiếng Hà Nội" nghe "nhẹ" hơn các vùng khác.
Hà Nội là nơi liên tục được nhập cư thêm. Nếu mới chỉ sống đến đời thứ hai ở Hà Nội thì nghe tinh vẫn thấy giọng nói vẫn pha tiếng địa phương nào đó, thậm chí là nói ngọng "nờ" "lờ".
Thứ hai, người Hà Nội có một số từ nói chệch đi để "làm điệu". Có thể ngạc nhiên khi một người Hà Nội nói "mùi cánh sen" lại là để chỉ màu sắc chứ không phải chỉ hương thơm. Bạn cũng đừng ngạc nhiên khi thấy từ "chưn" thay cho "chân", . . .
Thứ ba, văn hóa Hà Nội nằm ở chỗ "ăn - nói - gói - mở", tức là cách giao tiếp và cư xử với nhau. Người Hà Nội giữ một cách nói "lịch sự" cho dù bên trong chưa chắc đã hài lòng về người đối thoại. Cái này gọi là "bằng mặt nhưng không bằng lòng". Người đối thoại phải lựa theo ý tứ chứ không hẳn là hoàn toàn bằng từ ngữ, gọi là ý tại ngôn ngoại, để mà "liệu bề ăn nói". Cách nói của người Hà Nội có gì đó rất "khách khí" nhưng nếu quen rồi thì thấy đó là cách nói thể hiện rằng người nói luôn tôn trọng người đối thoại.
Nếu bạn giúp một người Hà Nội một chuyện gì đó thì chuyện cảm ơn bằng lời đã đành, bạn sẽ được cảm ơn bằng việc thăm hỏi và chắc chắn có vật phẩm gì đó kèm theo. Đây là một tập quán đẹp để tỏ lòng biết ơn chứ không phải chuyện "có đi có lại". Tuy nhiên, nếu bạn muốn cảm ơn và tặng vật phẩm gì đó thì nên nhớ "cách tặng còn quan trọng hơn quà tặng".
Chuyện ăn cơm, người dưới phải mời người trên theo đúng cách như thế nào. Cách gắp thức ăn, cách đưa thức ăn vào miệng, cách nhai thức ăn, . . . Nếu ăn xong trước, phải nói: "con vô phép ông bà, bố mẹ ạ !" mới được rời khỏi bàn ăn. Ăn xong, cháu phải lấy tăm, rót nước và mời ông bà, cha mẹ, . . . Mà rót nước cũng phải rót cho đúng cách, không được làm nước chảy vào chén phát ra tiếng động và cũng không được làm nước sủi bọt.
Gặp nhau, người dưới phải chào người trên như thế nào, người trên đáp lại như thế nào? Nếu bạn chào một người lớn tuổi thì bạn đừng giật mình khi thấy người đó đáp lại:"Không dám !". Câu này không có nghĩa là người đó từ chối lời chào của bạn mà chỉ là cách đối đáp bình thường của người trên.
Tôi được dạy rất nhiều thứ như vậy từ lúc còn bé. Nếu bây giờ mà nhiều nghi lễ như thế thì mọi người sẽ thấy là "nhiêu khê".
Chuyện "Người Hà Nội" thật là quá nhiều để có thể nói hết. Thay vì điều đó tôi xin kể một chuyện này.
Năm đó, mẹ tôi gần tám mưới. Cụ đã rất yếu vì bệnh. Một hôm tôi ngồi bên bà và nói:
- Mẹ ơi ! con hỏi một chuyện.
- Ừ !
- Hồi bé, con ở với bà. Lúc nào con đưa cho bà thứ gì đó cho dù là chén nước cho đến chiếc tăm. Bao giờ bà cũng ra hiệu cho con đặt xuống bàn hay xuống ghế rồi bà mới cầm lên. Sau đó, lúc nào con cũng làm đúng như thế nhưng không biết tại sao lại phải kiêng thế?
- Anh tần này tuổi đầu rồi mà vẫn không biết à ?
- Vâng !
- Chuyện các cụ kiêng nói ngắn gọn thế này: " Ngày xưa có một nàng dâu rất ngoan, rất chu đáo, lễ phép và tận tụy với bố mẹ chồng. Một hôm, cơm nước xong, bố chồng lên nằm đu trên võng. Cụ mới nhờ con dâu đưa cho cụ chiếc tăm. Khi cụ đưa tay ra lấy tăm thì đụng phải ngực con dâu. Người con dâu xấu hổ quá mà nhảy xuống sông tự vẫn. Từ đó trở đi mới có lệ kiêng như thế."