Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:55:33 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975  (Đọc 77677 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #100 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:13:20 pm »

Tiếp tục tiến công đợt 2 mùa khô năm 1974-1975 giải phóng huyện Hoài Đức và 2 tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức

Đầu năm 1975, lực lượng địch ở chiến trường Khu VI, sau đợt một tăng thêm 5 tiểu đoàn nhưng về số lượng chung có bị giảm 3.000 tên (tổng số 69.543 tên). Riêng ở hướng trọng điểm, địch bổ sung quân số, điều chỉnh lại lực lượng nhằm giải tỏa thế bị bao vây, cô lập đối với chi khu Hoài Đức và cố đánh chiếm lại Tánh Linh, giữ cửa ngõ phía đông Sài Gòn. Xung quanh chi khu Hoài Đức, chúng bố trí 3 tiểu đoàn dự phòng: Tiểu đoàn 3 (Chiến đoàn 43 sư đoàn 18) giữ đồn Sơn và đồi bảo Đại. Tiểu đoàn 344 bảo an giữ cầu Nín Thở, Trà Tân 3, tiểu đoàn 369 bảo an giữ Sùng Nhơn, Võ Xu. Lực lượng chiếm giữ chi khu gồm: 1 đại đội bản an, 2 trung đội thám báo và cảnh sát dã chiến, 1 chi đội thiết giáp, 2 khẩu pháo 105 ly. Ngoài ra các đồn bót lẻ, dân vệ trong các thôn thuộc thị trấn Võ Đắc bao bọc chi khu, sau tiến công đợt 1 của ta, chúng đã khôi phục lại nguyên vẹn. Đặc biệt chúng dùng máy bay và pháo binh đánh liên tục có tính chất hủy diệt cao điểm núi Dinh do đại đội 5 trinh sát chiếm giữ, chúng kết hợp với bộ binh phản kích quyết liệt nhiều lần trong ngày, hòng đánh bật lực lượng ta ra khỏi cao điểm khống chế này. Nhưng đại đội 5 đã kiên cường bám trụ và đánh trả, làm thất bại mọi cuộc tiến công của địch, giữ vững cao điểm suốt 58 ngày đêm, liên tục quan sát theo dõi địch trong chiến dịch, cho đến khi ta tiến công đợt 2 đánh dứt điểm chi khu Hoài Đức (Núi Dinh trơ trọi chỉ còn lại sỏi đá, nhưng chiến sĩ trinh sát ta vẫn kiên cường bám trụ).

Lúc 11 giờ ngày 9 tháng 2 năm 1975 (đúng ngày 29 tết âm lịch) dưới sự yểm trợ của nhiều loại máy bay oanh kích, địch bất ngờ dùng trực thăng đổ 1 đại đội thám kích xuống chi khu Tánh Linh, đánh chiếm bàn đạp để tiếp tục đổ quân tái chiếm chi khu. Lập tức chúng bị tiểu đoàn 15 và một bộ phận hỏa lực của Tiểu đoàn 130 đánh tiêu diệt, bắn rơi 3 trực thăng và 1 chiếc khác bị thương, bẻ gãy hoàn toàn ý đồ tái chiếm Tánh Linh. Nhân dân Tánh Linh hân hoan phấn khởi càng tin ở ta, càng hết lòng ủng hộ bộ đội, quyết tâm bảo vệ vùng giải phóng và ùng với bộ đội hưởng một cái tết chiến thắng đầu tiên thấm đậm tình quân dân.

Đợt 2: lực lượng ta chưa được bổ sung quân số kịp sau chiến đấu đợt 1 (tân binh của trên bổ sung chưa kịp); bộ đội địa phương của các tỉnh cũng chưa được củng cố (Bình Thuận còn giữ được tiểu đoàn 482 nhưng quân số thiếu nhiều, các tỉnh khác quân số chiến đấu của mỗi đại đội chỉ còn trên dưới 25 người, một số huyện còn giữ được trung đội nhưng quân số nhiều nhất cũng chỉ có 15 người).

Tình hình miền Nam lúc này đang chuyển biến rất nhanh, ngày 8 tháng 1 năm 1975 Bộ Chính trị họp (mở rộng). Sau khi xem xét tình hình các mặt về địch, ta ở miền Nam, nhất là sau chiến thắng Phước Long, Bộ Chính trị hạ quyết tâm tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam”.

Ngoài kế hoạch chiến lược 2 năm 1975-1976, Bộ Chính trị còn dự kiến “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam năm 1975”. Bộ Chính trị đã thông qua quyết định chọn Buôn Ma Thuột là mục tiêu chủ yếu của chiến dịch Tây Nguyên, vì đánh chiếm Buôn Ma Thuột sẽ gây rụng động mạnh về chiến lược, tạo sự chấn động lớn và nhanh, ảnh hưởng đến toàn cục.

Căn cứ vào quyết tâm của Bộ Chính trị, phát huy thắng lợi trong đợt 1, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền (B2) đề ra kế hoạch cụ thể cho đợt 2 với quyết tâm chung là hoàn thành trong mùa khô này những chỉ tiêu còn lại của năm 1975. Đồng thời Miền cũng có dự kiến: nếu ở hướng Tây Nguyên thắng lợi, tình hình chung có đột biến sự thực hiện kế hoạch một cách khẩn trương tích cực, sẵn sàng đón thời cơ chiến lược mới.

Bộ Tư lệnh Miền giao nhiệm vụ cho Quân khu VII, Quân khu VI và chủ lực Miền ra sức tiêu diệt sinh lực địch, hoàn chỉnh khu giải phóng, mở thông hành lang xuống phía đông Sài Gòn, tạo bàn đạp áp sát lộ 26, Đồng Dù, Củ Chi. Quân đoàn 4 cùng lực lượng địa phương tổ chức chiến dịch binh chủng hợp thành trên 2 hướng Dầu Tiếng và lộ 20 Lâm Đồng.

Hướng lộ 20: tiêu diệt chi khu Định Quán, giải phóng lộ 20 từ Túc Trưng đến Phương Lâm, phát triển lên thị xã Bảo Lộc (tỉnh lỵ Lâm Đồng). Sư đoàn 6 (Quân khu VII) hợp đồng đánh tiêu diệt địch ở lộ 3 từ Gia Huynh đến lộ 1, phát triển từ ngã ba Ông Đồn đến căn cứ 4 lộ 1. Quân khu VI sử dụng Trung đoàn 812 hợp đồng đánh quân giải phóng huyện Hoài Đức, phát triển hoạt động trên hướng Di Linh, lộ 20 Lâm Đồng.

Sau khi đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên (quyền Tư lệnh Quân khu) nhận nhiệm vụ đợt 2 ở Miền về, Thường vụ Khu ủy, Quân khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu họp soát xét lại tình hình và hạ quyết tâm của đợt 2 mua khô 1974-1975 như sau: dùng lực lượng Trung đoàn 812 cùng với lực lượng tỉnh Bình Tuy, nhanh chóng đánh tiêu diệt chi khu Hoài Đức trong thời gian ngắn nhất, sau đó chuyển hướng Di Linh đường 20 để phối hợp với lực lượng chủ lực Miền, giải phóng tỉnh Lâm Đồng, phát triển tiếp theo là Đức Trọng và toàn bộ tỉnh Tuyên Đức khi thời cơ thuận lợi.

Các tỉnh tiếp tục đánh mở rộng địa bàn, nhằm vào các khu đông dân, các khu lấn chiếm bình định của địch, mở rộng vùng tranh chấp và vùng giải phóng, khẩn trương đưa phong trào lên với nhiều mức độ. Đối với đặc công, đánh chiếm Ma Lâm, chi khu Thiện Giáo, giải phóng các ấp trên đường số 8, chuẩn bị đánh sâu vào thị xã Phan Thiết. Ninh Thuận chủ yếu đánh phá khu vực lấn chiếm Quảng Thuận, Sông Mỹ trên đường 11, giành lại khu vực Trà Co - Sông Cái, đánh phá mạnh căn cứ không quân Thành Sơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #101 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:16:17 pm »

Quyết tâm đối với hướng trọng điểm Hoài Đức, Quân khu phân tích rõ: tuy địch tăng cường phòng thủ và lực lượng ta chỉ có Trung đoàn 812 là chủ công nhưng ta đánh trong thế hợp đồng chung với Quân đoàn 4 và Sư đoàn 6 (Quân khu VII), đánh mạnh trên hướng đường 20, đường số 1 và số 3 (Bình Tuy) căng địch ra, nên khả năng địch chi viện cho nhau bị hạn chế. Ta vẫn giữ vững cao điểm Núi Dinh 1 đài quan sát lợi hại cho khu vực Hoài Đức và có nhiều kinh nghiệm qua lần đánh trước… nên ta có thuận lợi hơn. Quân khu quyết định cách đánh “bóc vỏ” với tư tưởng tiến công tích cực, mãnh liệt, và phương châm “vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt”. Trong 3 ngày đầu, ta bóc gỡ tất cả các điểm ngoại vi và thọc sâu thị trấn Võ Đắc, đưa lực lượng áp sát vào chi khu, tổ chức đột phá đánh dứt điểm chi khu rồi chuyển qua quét sạch bọn địch còn chốt giữ các cao điểm xung quanh.

Đồng thời triển khai một bộ phận lực lượng trinh sát chuẩn bị hướng Di Linh và một bộ phận cán bộ Quân khu lên cùng Lâm Đồng chuẩn bị các mặt sẵn sàng phối hợp với chủ lực Miền tiến công giải phóng Bảo Lộc, Lâm Đồng. Quân khu tăng cường lực lượng công binh cho Bình Thuận, tích cực sửa chữa đường 8, sẵn sàng cho Trung đoàn 812 nhanh chóng cơ động lên hướng Di Linh sau giải phóng Hoài Đức.

Thống nhất ngày N do Miền quy định: 23 giờ ngày 16 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn 812 bắt đầu nổ súng tiến công. Theo đúng kế hoạch, sau 3 ngày chiến đấu quyết liệt (tiểu đoàn 15 (thiếu) và 186 đã hoàn thành nhiệm vụ đánh “bóc vỏ”, diệt phần lớn các đồn bốt xung quanh chi khu, làm chủ thị trấn Võ Đắc. Tiểu đoàn đặc công 200c, đại đội 5 anh hùng của Tiểu đoàn 840 đã đẩy lùi được Tiểu đoàn 344 bảo an từ Trà Tân kéo lên chi viện cho chi khu. Ở hướng bắc, tiểu đoàn 369 bảo an từ Võ Xu kéo về giải tỏa chi khu cũng bị đại đội 88 của tỉnh, bộ đội địa phương huyện và du kích ngăn chặn. Phối hợp với bộ binh, Tiểu đoàn 130 pháo binh cũng đánh trả tiêu hao địch trong chi khu và đánh kìm có hiệu quả trận địa pháo của Tiểu đoàn 3.43 địch trên đồi Sơn.

Tối ngày 19 tháng 3 nắm vững thời cơ, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh tiến công chi khu, 2 giờ 40 phút đến 4 giờ 20 phút ngày 20 tháng 3 pháo bắn chuẩn bị và các mũi bắt đầu tiến công đánh chiếm đầu cầu, phát triển vào trung tâm. 6 giờ ta làm chủ đại bộ phận chi khu, nhưng bọn còn sống sót co cụm lại ngoan cố chống trả; ta tung đội dự bị vào đánh chiếm và dứt điểm chi khu, thu nhiều chiến lợi phẩm, có 2 khẩu pháo 105 ly còn nguyên vẹn. Trong ngày, ta tiếp tục truy đánh bọn còn lại bên ngoài và đến chiều ta hoàn toàn kiểm soát thị trấn Võ Đắc, giải phóng hầu hết nông thôn Hoài Đức. Tiểu đoàn 840 (thiếu) đã truy quét địch đến Trà Tân 3 và bắt liên lạc được với trinh sát của Sư đoàn 6 (Quân khu VII) từ Gia Huynh lên. Như vậy là đường số 3 đã hoàn toàn giải phóng.

Địch chỉ còn lại Tiểu đoàn 3/43 cụm ở đồi Sơn, nhưng bị ta vây hãm và dùng 2 khẩu pháo thu được bắn mạnh. Đêm 21 tháng 3, Trung đoàn 812 (thiếu) cùng với một bộ phận đặc công tập kích tiêu diệt. 6 giờ sáng ngày 22 tháng 3 năm 1975 ta chiếm lĩnh toàn bộ trận địa đồi Sơn và thu thêm 2 khẩu pháo 105 ly.

Cùng với tiếng súng tiến công chi khu và đồi Sơn… đông đảo nhân dân và lực lượng chính trị trong các ấp nổi dậy phá ranh rào, bắt tù binh, truy lùng ác ôn, thu dọn vũ khí, thành lập chính quyền cách mạng. Riêng xã Võ Xu chỉ trong một ngày, đồng bào đã thu trên 300 khẩu súng các loại, hàng trăm thanh niên tham gia du kích và thoát ly theo cách mạng. Chiều ngày 22 tháng 3 năm 1975 huyện Hoài Đức được hoàn toàn giải phóng.

Cùng với chiến thắng Hoài Đức của Quân khu VI, đêm 18 tháng 3 năm 1975 trên hướng lộ 20 Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4 chủ lực Miền), đánh diệt chi khu Định Quán và phối hợp với lực lượng địa phương tỉnh Long Khánh, quét sạch hệ thống đồn bót từ Túc Trưng đến Phương Lâm - Phú Lâm. Đường 20 bị cắt, ta làm chủ gần 50 ki-lô-mét. Ở đường số 1, chủ lực (của Quân khu VII) diệt yếu khu Gia Ray và làm chủ quốc lộ 1 từ ngã ba Ông Đồn ra đến Bình Tuy.

Hoài Đức - Tánh Linh được hoàn toàn giải phóng, phía đông bắc nối liền với căn cứ Nam Sơn (tây Bình Thuận), với vùng 3, K1 căn cứ của Lâm Đồng; phía tây nam nối với miền Đông Nam Bộ thành một địa bàn chiến lược hoàn chỉnh rộng lớn, mở rộng với đường hành lang phía đông Sài Gòn, chia cắt một phần Quân khu II với Quân khu III của địch, tạo áp lực nặng nề lên Sư đoàn 18 Quân khu III ngụy; cửa ngõ phía đông - đông bắc Sài Gòn bị trực tiếp uy hiếp.

Cùng thời gian này, sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột, Trung đoàn 271 chủ lực Bộ đánh chiếm các huyện Đức Lập, Kiến Đức, thị xã Gia Nghĩa và ngày 23 tháng 3 năm 1975 đánh diệt tiểu khu Gia Nghĩa; tỉnh Quảng Đức hoàn toàn giải phóng, tàn binh địch theo đường số 8 kéo dài, rút chạy về hướng Lâm Đồng đến Kin Đạ bị du kích huyện K1, K6 chặn đánh, diệt và bắt sống 40 tên(1), thu nhiều xe pháo vũ khí, đạn dược, số còn lại chạy tản lạc vào rừng.

Buôn Ma Thuột bị thất thủ và tiếp theo đó, ngụy quyền Sài Gòn rút bỏ Tây Nguyên, tỉnh Quảng Đức bị mất, đường chiến lược 20 bị cắt đứt; địch ở 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức rơi vào thế bị cô lập và uy hiếp, lo sợ bị tiến công tiêu diệt, mặc dù lực lượng chúng còn nhiều.


(1) Theo lịch sử tỉnh Lâm Đồng thì địch ra hàng 200 tên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #102 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:16:58 pm »

Sau khi giải phóng Tánh Linh - Hoài Đức và diệt chi khu Định Quán, để phối hợp với chiến dịch Tây Nguyên và đồng bằng Khu V, thực hiện chia cắt chiến lược giữa Quân khu II và Quân khu III địch, đảm bảo và mở rộng hành lang chiến lược tiến công Sài Gòn trên hướng đông bắc, Bộ Tư lệnh Miền chủ trương nhanh chóng đánh giải phóng tỉnh lâm Đồng và nếu thuận lợi thì phát triển lên Tuyên Đức.

Lực lượng sử dụng là Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) (được phối thuộc một Tiểu đoàn xe tăng, pháo 130 ly, cối 106 ly, Tiểu đoàn cao xạ và 2 tiểu đoàn công binh) đánh chiếm tiểu khu, tỉnh lỵ Lâm Đồng. Trung đoàn 812 (Quân khu VI) sau khi dứt điểm chi khu Hoài Đức, nhanh chóng hành quân đánh chiếm chi khu Di Linh, cắt đường 20 phối hợp với Sư đoàn 7 giải phóng hoàn toàn tỉnh Lâm Đồng.

Về tổ chức chỉ đạo, chỉ huy:

Ngày 22 tháng 2 năm 1975 đồng chí Trần Lê (Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu) từ Hà Nội về đến Lộc Ninh, được Bộ Tư lệnh Miền triệu tập họp phổ biến tình hình nhiệm vụ mới và nhận ý đồ giải phóng tỉnh Lâm Đồng (chưa nói đến Tuyên Đức).

Sau đó đồng chí Trần Lê đã điện mời một số đồng chí trong Thường vụ Khu ủy và Quân khu lên vàm sông Đa Oai để bàn kế hoạch triển khai, đồng thời cùng với đồng chí Thiếu tướng Hoàng Cầm (Tư lệnh Quân đoàn 4) bàn xúc tiến việc chuẩn bị theo quyết định của trên. Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận giải phóng Lâm Đồng gồm có:

- Đồng chí Hoàng Cầm: Tư lệnh

- Đồng chí Trần Lê: Chính ủy

- Đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên: Phó Tư lệnh

- Đồng chí Bùi Cát Vũ: Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng

- Đồng chí Lê Thanh: Chủ nhiệm chính trị

Cơ quan Bộ Tư lệnh mặt trận còn có đồng chí Nguyễn Thông (Phó tham mưu trưởng) và đồng chí Võ Đức Nhi (Phó chủ nhiệm chính trị Quân khu) và một số cán bộ Lâm Đồng.

Lúc này lực lượng địch ở Lâm Đồng có 5 tiểu đoàn bảo an, 17 đại đội biệt lập, 80 trung đội dân vệ - biệt kích, 8 pháo đội, gồm có 4.000 tên được trang bị đầy đủ. Địa hình ở đây hiểm trở, đường độc đạo, nhiều đèo dốc, đồn bót và công sự kiên cố và phức tạp.

Để có đường hành quân tiếp cận cho cánh vu hồi đánh từ bắc và tây bắc tiểu khu lâm Đồng, 2.500 dân công các xã vùng căn cứ, suốt 15 ngày đêm mở đường dài hơn 30 ki-lô-mét qua đồi núi cho xe pháo và bộ đội hành quân chiếm lĩnh bàn đạp tiến công, tạo thế bất ngờ cho mũi tiến công chủ yếu đánh ngay vào các mục tiêu then chốt của địch ở trung tâm thị xã Bảo Lộc.

Toàn bộ Sư đoàn 7 chia làm 2 cánh tiến về hướng thị xã Bảo Lộc. Cánh vu hồi: trước ngày 25 - 26 tháng 3 năm 1975 các phân đội pháo lớn và xe tăng cùng bộ binh vượt bến Tà Lài (sông Đồng Nai) tiến vào các vị trí chờ đợt xuất phát tiến công từ bắc và tây bắc tiểu khu và các mục tiêu then chốt ở trung tâm thị xã.

Cánh 2: Ở hướng chính diện ta dùng 1 trung đoàn cơ giới tiến công trong hành tiến đánh chiếm chi khu Đa Oai, tiểu khu và thọc lên hướng bắc hợp điểm tại Tòa Hành chính tỉnh, có sự chi viện của pháo binh, cao xạ; và 1 trung đoàn cơ giới (thiếu) làm dự bị.

Chiều ngày 27 tháng 3, ta sử dụng một tiểu đoàn bộ binh đánh chiếm chi khu Đa Oai, tiểu đoàn công binh 272, Đại đội 10 bao vây giữ chặt các chốt, bảo đảm cho trung đoàn bộ binh cơ giới hành tiến theo đường 20, đánh chiếm đèo Ba Cô. 0 giờ ngày 28 tháng 3 đánh chiếm cầu Đạ Lào (là vị trí chờ đợi), cách Bảo Lộc 7 ki-lô-mét; từ đó phối hợp với cánh vu hồi triển khai đội hình tiến công.

Ngày 28 tháng 3, khi trời vừa hửng sáng từ vị trí xuất phát, dưới sự yểm trợ của pháo binh, xe tăng, các cánh, các mũi trong hành tiến đồng loạt tiến công thị xã và tiểu khu. Trước sự tiến công bất ngờ của xe tăng, bộ binh và hỏa lực mạnh của ta, địch lớp bị diệt, lớp tháo chạy hoảng loạn về hướng Di Linh (có tên tỉnh trưởng Lâm Đồng, kéo theo 3 khẩu pháo), một số chạy tản mát vào rừng và lẩn trốn trong dân. Tiểu khu Lâm Đồng bị chiếm, thị xã Bảo Lộc được giải phóng vào lúc 9 giờ sáng ngày 28 tháng 3 năm 1975. Cơ sở cách mạng và nhân dân thị xã nổi dậy diệt ác ôn, chiếm giữ một số công sở và bảo vệ kho tàng.

Tàn quân địch tháo chạy về hướng Di Linh, gây hốt hoảng dây chuyền. Trưa ngày 28 tháng 3, bọn địch ở Di Linh cũng bắt đầu tháo chạy. Cướp thời cơ, bộ phận chuẩn bị chiến trường của Quân khu do đồng chí Thiếu tá Phạm Ty phụ trách, liền cho đại đội 5 trinh sát Quân khu phối hợp với bộ đội địa phương huyện và đội công tác nổ súng tiến công diệt địch, làm chủ chi khu và thị trấn Di Linh, thu nhiều vũ khí, đạn dược và phương tiện trang bị của địch.

Trung đoàn 812 (sau giải phóng Hoài Đức) hành quân về hướng Di Linh quá chậm so với kế hoạch hợp đồng. Sư đoàn 7, do yêu cầu nhiệm vụ mới nên chỉ để lại 3 xe tăng phối hợp với lực lượng địa phương giải phóng Di Linh, còn toàn bộ lực lượng phải quay về mặt trận đông bắc Sài Gòn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #103 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:18:26 pm »

Địch phát hiện lực lượng ta chiếm giữ Di Linh ít, nên chiều ngày 29 tháng 3 chúng tập hợp lực lượng phản kích, đổ 12 lần chiếc trực thăng và 5 khẩu pháo xuống Đồng Lạc phía đông Di Linh. Sáng 20 tháng 3, ngoài bọn tàn quân của Lâm Đồng, chúng điều 2 tiểu đoàn 204, 261, 2 chi đội xe bọc thép và đại đội pháo 105 ly chi viện theo trục lộ 20, chia thành nhiều mũi đánh chiếm lại Di Linh.

Suốt trong ngày 30 tháng 3, Đại đội 5 trinh sát và lực lượng địa phương ta nằm trong thế bị bao vây nhưng đã chiến đấu ngoan cường, giữ vững các điểm xung yếu ở chi khu và trong thị trấn.

Chiều 30 tháng 3 đồng chí Bùi Văn Mỳ (Phó Tư lệnh Quân khu) cùng đi với Trung đoàn 812 (thiếu) mới đến Di Linh, gặp Bộ Tư lệnh mặt trận báo cáo tình hình và thống nhất kế hoạch hợp đồng chiến đấu. Tối 30 tháng 3 triển khai lực lượng và rạng sáng ngày 31 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn 812 (thiếu) có xe tăng hỗ trợ, nổ súng tiến công, đánh tan ngày cuộc phản kích của địch. Chúng rút chạy theo đường 20. Đến Đồng Lạc bị bộ phận chốt chặn của Trung đoàn 812 chặn đánh, phải bỏ lại 3 khẩu pháo, 3 xe và vũ khí đạn dược. Đến 11 giờ 30 phút Trung đoàn 812 truy đánh lần 2, diệt 30 tên, thu thêm 2 khẩu pháo, 2 xe. Đến 15 giờ cùng ngày, địch còn lại hoang mang tìm đường tháo chạy. Nắm vững tình hình, Trung đoàn 812 xuất kích, diệt gần 100 tên, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện, một số tháo chạy tán loạn vào rừng và về Đà Lạt. Tỉnh Lâm Đồng hoàn toàn giải phóng.

Cũng trong ngày 31 tháng 3 năm 1975, tại chỉ huy sở cơ bản ở thị xã Bảo Lộc, Thường vụ Khu ủy họp (có đồng chí Lê Văn Hiền)… để bàn công việc tiếp theo, nhân khí thế thừa thắng quyết định cho Trung đoàn 812 phát triển lên Tuyên Đức trước mắt là giành nông thôn Đức Trọng. Nhưng tình hình đã thay đổi nhanh chóng, đêm 31 rạng ngày 1 tháng 4 năm 1975, qua theo dõi đài kỹ thuật, ta biết địch ở Đà Lạt đã hoảng loạn chuẩn bị rút chạy, nên đã kịp thời chuyển hướng không phải giành nông thôn Đức Trọng, mà là nhanh chóng tiến quân để phối hợp với lực lượng địa phương, đánh chiếm Đà Lạt, đi theo đường 20 bằng phương tiện cơ giới thu của địch và huy động trong dân. Chiều ngày 2 tháng 4 năm 1975 lực lượng ta đến cầu Đa Ninh; trước khi rút chạy (đêm 31 tháng 3 năm 1975) địch đã đánh sập cầu để chặn ta. Nhưng nhờ nhân dân đã hết lòng giúp đỡ thuyền bè để vượt sông và huy động hàng chục xe ô tô để chở bộ đội nhanh chóng hành quân, đến 20 giờ thì Trung đoàn 812 (thiếu) chiếm lĩnh chi khu quận lỵ Đức Trọng.

Trong đêm 2 tháng 4, Trung đoàn 812 chia làm 2 cánh nhanh chóng phát triển lên Đạt Lạt: một cánh gồm Tiểu đoàn 186, Sở Chỉ huy tiền phương Quân khu theo đường 20 tiến thẳng lên Đà Lạt, một cánh gồm Tiểu đoàn 840, Sở chỉ huy Trung đoàn 812 theo đường 21 kép, thọc xuống chiếm chi khu Đơn Dương, quận lỵ Đran, chặn đánh địch từ Đà Lạt theo đường 11 chạy về Phan Rang, và bắt liên lạc với tỉnh Ninh Thuận tại Krongpha(1).

8 giờ ngày 3 tháng 4, Tiểu đoàn 186 và Bộ chỉ huy tiền phương đến Đà Lạt, lúc này Đại đội 810 của tỉnh cũng vào tiếp quản. Ở đây, trong ngày 2 tháng 4 khi bọn địch rút chạy hỗn loạn thì đảng viên cơ sở bên trong đã kịp thời huy động quần chúng đứng ra tổ chức việc tự quản, tự vệ, giữ gìn trật tự, bảo vệ các cơ sở quan trọng trong thành phố, đồng thời cử người đi tìm bộ đội và cán bộ, nhưng vẫn chưa ngăn chặn được bọn tàn quân, lưu manh, côn đồ cướp phá hoành hành, nổ súng bừa bãi.

Khi Tiểu đoàn 186 và Đại đội 810 vào thành phố, hàng ngàn người tụ tập reo hò chào đón, hăng hái giúp đỡ bộ đội, nhanh chóng triển khai chiếm lĩnh các khu vực then chốt (Tiểu khu, Tòa Hành chánh quốc gia, khu chợ Hòa Bình, Chi Lăng, Trung tâm nguyên tử lực, Sở Địa dư, Trường võ bị quốc gia, v.v…) tổ chức bảo vệ các kho tàng, điện nước, truy bắt và kêu gọi tàn quân ra trình diện, nộp vũ khí (chiều ngày 3 tháng 4, trong nội ô đã thu trên 2.000 súng các loại); tập hợp nghe nói chuyện tại Quảng trường Hòa Bình và ban bố một số mệnh lệnh.

Đến 15 giờ, trong thành phố im tiếng súng. Trật tự được thiết lập cùng ngày ở các ấp ngoại ô, tây - tây bắc, đông - đông nam. Các đội biệt động, đội công tác cũng vào tiếp quản.

11 giờ 00 Tiểu đoàn 840 và Sở chỉ huy Trung đoàn 812 đến Chi khu Đơn Dương thị trấn Đran. Bọn chỉ huy địch ở đây đã bỏ chạy. Ngày 3 tháng 4 lực lượng địa phương đã vào tiếp quản. Tiểu đoàn 840 cho 1 đại đội chốt ở Phú Thuận (điểm giáp ranh giữa Tuyên Đức và Ninh Thuận trên đường 11) và cho một lực lượng thọc xuống Krongpha bắt liên lạc với Ninh Thuận; lực lượng còn lại phối hợp với đội công tác và cán bộ địa phương, truy quét tàn quân, tề điệp, phát động, tổ chức quần chúng, chính quyền ở các ấp. Trong hành tiến, ta đã cho một bộ phận lực lượng vừa truy quét, vừa vận động kêu gọi binh sĩ và nhân viên ngụy quyền các ấp ven trục lộ 21 kéo ra trình diện, nộp vũ khí các loại. Ra trình diện trên 400 tên, có 1 trung tá, 1 thiếu tá, 1 cảnh sát, 30 tên thuộc Tiểu đoàn 204 bảo an. Tại thị trấn Đran, lực lượng địa phương đã thu 300 súng. Như vậy, toàn bộ tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt trong ngày 3 tháng 4 năm 1975 đã hoàn toàn giải phóng.

Tối ngày 3 tháng 4 năm 1975, tại căn nhà số 15 đường Trần Hưng Đạo thành phố Đà Lạt, đồng chí Trần Lê (Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu) cùng các đồng chí trong Bộ Chỉ huy tiền phương Quân khu và một số đồng chí địa phương họp bàn kế hoạch đảm bảo an ninh trật tự, khôi phục điện, nước, giải quyết đời sống nhân dân để sớm ổn định tình hình. Cuộc họp cũng phân công cán bộ lập Ban Quân quản thành phố, thảo ra một số mệnh lệnh, quy định liên quan đến việc giữ gìn trật tự của thành phố.

Vậy là, trong vòng 1 tuần (27 tháng 3 - 3 tháng 4) cuộc tiến công và nổi dậy giải phóng 2 tỉnh Lâm Đồng - Tuyên Đức đã kết thúc thắng lợi. Và từ đây, Lâm Đồng - Tuyên Đức kết liền với vùng giải phóng Quảng Đức - Phước Long thành một mảng rộng lớn tiếp nối Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ, tạo nên thế chiến lược rất tốt để triển khai lực lượng lớn tiến công vây ép Sài Gòn từ phía đông và đông bắc.


(1) Trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 186 có đồng chí Nguyễn Thông, Phó Tham mưu trưởng Quân khu.
Trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 840 có đồng chí Võ Đức Nhi, Phó chủ nhiệm chính trị Quân khu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #104 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:20:35 pm »

Giải phóng các tỉnh đồng bằng còn lại, hoàn thành giải phóng Khu VI (đầu tháng 4 năm 1975 - 23 tháng 4 năm 1975)

Trong đợt 2 mùa khô 1974-1975, từ tháng 3 năm 1975 đến đầu tháng 4 năm 1975 trên toàn Miền, ta đã giành thắng lợi to lớn dồn dập, giải phóng Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, toàn bộ Khu V và các một số tỉnh, huyện trên chiến trường B2. Từ Khu VI đến khu IX; Quân đoàn 1 và gần hết Quân đoàn 2 của địch bị diệt và tan rã nhanh chóng.

Ngày 18 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp và quyết định: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt địch đã chín muồi. Từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của toàn quân ta bắt đầu”. Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược “với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng có quyết tâm lớn, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa, trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4, không thể để chậm”(1).

Chấp hành quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền chuẩn bị phương án đánh vào Sài Gòn. Thường vụ Trung ương Cục ra Nghị quyết đặc biệt số 15 chỉ đạo các địa phương nắm thơi cơ, thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, theo phương châm tự lực tự cường “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”. Đài phát thanh giải phóng miền Nam phát đi nhiều lần lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc giải phóng, thúc giục mọi người tranh thủ thời cơ đứng lên hành động.

Quán triệt tình hình và nhiệm vụ lịch sử, Khu ủy và Quân khu ủy đã chỉ đạo các địa phương và đơn vị khẩn trương tận dụng thời cơ, nỗ lực hoạt động để tự giải phóng quê hương. Điện số 152 của Khu ủy gởi các tỉnh ủy đã nêu rõ: Tình hình diễn biến hết sức thuận lợi cho ta, các tỉnh trong Quân khu không được trông chờ ỷ lại vào chủ lực, mà phải nỗ lực, khắc phục mọi khó khăn, khẩn trương với mức cao nhất, bám chắc tình hình, mạnh bạo xốc tới tiêu diệt địch, gự giải phóng địa phương mình…”.

Lúc này, tình hình trong Khu chuyển biến hết sức nhanh chóng và sôi động. Những ngày đầu tháng 4 năm 1975, khi địch ở Đà lạt - Tuyên Đức rút chạy về Phan Rang và địch ở Cam Ranh cũng rút chạy theo đường số 1, thì bọn đầu sỏ ngụy quân, ngụy quyền ở Ninh Thuận - Bình Thuận cũng hoảng hốt kéo chạy ra biển, bỏ ngỏ thị xã Phan Rang - Phan Thiết trong những ngày 2 và 3 tháng 4 năm 1975. Đến ngày 4 và 5, chúng phát hiện lực lượng ta chưa đến và cũng do bọn bên trên thúc ép nên chúng phải quay trở lại. Đồng thời để ngăn chặn cuộc tiến quân của ta, cứu vãn tinh hình nguy ngập, theo kế hoạch của tên tướng Mỹ Weyand(2), ngụy quyền Sài Gòn cho lập tuyến phòng thủ bảo vệ Sài Gòn từ xa, lấy Phan Rang làm vị trí tiều tiêu quan trọng.

Địch nhập 2 tỉnh Ninh Thuận - Bình Thuận của Quân khu II và Quân khu III, thành lập Bộ Tư lệnh tiền phương của Quân đoàn 3 (do tên Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư lệnh), chốt tại căn cứ không quân Thành Sơn - Phan Rang. Chúng tăng cường cho ở đây Lữ đoàn 2 dù (Trung đoàn 4 Sư đoàn 2) (mới khôi phục lại), Liên đoàn 31 biệt động quân, Sư đoàn không quân 6 (có khoảng 100 máy bay các loại), 1 tiểu đoàn pháo. Chúng đưa đến Phan Thiết Liên đoàn 24 biệt động quân, Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 2, Tiểu đoàn 330 bảo an và 1 tiểu đoàn pháo binh tập hợp bọn tàn quân của Sư đoàn 23 về Bình Tuy để giữ đường số 1 và trục lộ Hàm Tân - Lagi.

Trung đoàn 812 sau khi chiếm tỉnh Đà Lạt - Tuyên Đức, để lại Tiểu đoàn 186 tiếp tục truy quét tàn binh địch, còn đại bộ phận nhanh chóng chuyển về Bình Thuận để tiến công địch trên tục lộ số 6, đường số 1 (đông bắc) và vây ép thị xã Phan Thiết, sẵn sàng phối hợp với chủ lực của trên giải phóng các tỉnh còn lại của Khu VI. Điều 1 đại đội bộ binh, 1 đại đội trinh sát tăng cường cho Bình Thuận.

Lúc này, các cánh quân của Bộ và của Quân khu V đang rầm rập tiến vào phía Nam với khí thế thần tốc để kịp thời bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn. Trong khu, các địa phương và đơn vị cũng tranh thủ thời gian đẩy mạnh tiến công địch, mở rộng vùng giải phóng, chuẩn bị sẵn sàng phối hợp với quân chủ lực đánh giải phóng hoàn toàn Quân khu.

Các đồng chí Trần Lê, Nguyễn Trọng Xuyên cùng một bộ phận cơ quan chỉ huy đã có mặt ở Ninh Thuận để chỉ đạo các hoạt động của địa phương. Chấp hành lệnh của Bộ, Quân khu cử đồng chí Bùi Văn Mỳ (Phó Tư lệnh quân khu) ra Suối Dầu (Khánh Hòa) gặp đồng chí Lê Trọng Tấn (Tư lệnh cánh quân Duyên Hải) báo cáo tình hình và bàn kế hoạch tiến quân giải phóng Phan Rang.

Ở Ninh Thuận, từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 năm 1975, lực lượng của tỉnh, bộ đội huyện và du kích Bác Ái - Anh Dũng đã tích cực bám địch trên đường 11 từ cầu Tân Mỹ đến Krongpha. Nhiều lần tập kích địch trong các khu tập trung Quảng Thuận - Sông Mỹ - Tà Giang và trụ lại đánh địch phản kích, diệt nhiều tên, thu vũ khí. Đêm 31 tháng 3 rạng ngày 1 tháng 4 năm 1975, phát hiện đoàn xe địch từ Đà Lạt rút chạy xuống (Phan Rang) ta đã chặn đánh diệt 3 xe. Lực lượng vũ trang đã kết hợp với quần chúng nổi dậy phá ấp, phá kìm. Từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 4 năm 1975, ta đã giải phóng gần hết các khu ấp dọc đường 11, từ thị trấn Krongpha đến Đồng Mề… Huyện Krongpha được hoàn toàn giải phóng (nhà máy thủy điện Đa Nhim được bảo vệ an toàn) mở ra thế uy hiếp và bao vây căn cứ không quân Thành Sơn về phía Tây Nam, nối liền đường 11 với vùng giải phóng 2 tỉnh Tuyên Đức - Lâm Đồng. Hằng ngày dân quân du kích và nhân dân Bác Ái bất kẻ bom, pháo của địch, ngày đêm hăng hái dọn phá chông, mìn, bạt núi, lấp khe, gấp rút mở đường (từ Trại Cá trên đường số 1 Cam Ranh - Khánh Hòa) xuyên qua vùng núi Bác Ái đến Tân Mỹ (trên đường 11) để Sư đoàn 10 cơ động theo đường 11 lên Tuyên Đức, theo đường 20 xuống Lâm Đồng, và từ đó đi vào vị trí tập kết của Quân đoàn 3 ở Tây Bắc Sài Gòn, kịp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh(3). Trong lúc đó Nguyễn Văn Thiệu đang gáo thét “Tử thủ” ở phòng tuyến Phan Rang.

Ở phía nam của Ninh Thuận, ngày 3 tháng 4 năm 1975, 1 bộ phận lực lượng tỉnh cùng các đội công tác An Phước đã đánh chiếm ấp Hậu Sanh, kiểm soát các ấp La Chữ, Mông Nhuận Đức, thị trấn Phú Quý trên đường số 1, phát động quần chúng nổi dậy làm chủ các ấp Thương Diêm, Lạc Nghiệp, tổ chức chính quyền tự quản, thu vũ khí địch (cả súng cối 60 ly và đại liên) trang bị cho 2 trung đội. Lực lượng này đã 3 lần đánh lui bọn địch từ ngoài biển vào, giữ vững vùng giải phóng Cà Ná cho đến ngày toàn tỉnh được giải phóng. Trước các ngày 3, 4, 5 tháng 4 năm 1975, các ấp Sơn Hải, Từ Tâm ở phía nam và các ấp Phương Cựu, Mỹ Tường, Mỹ Phong ở phía bắc cũng được giải phóng, quận Du Long rút chạy, du kích Bác Ái đã kịp thời vào tiếp quản.

Tính đến ngày 7 tháng 4 năm 1975, quân và dân Ninh Thuận, mặc dù lực lượng ít ỏi, đã tranh thủ thời cơ tự mình giải phóng được 1 huyên và 14 xã, làm chủ gần hết các vùng nông thôn ven biển.


(1) Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (Những sự kiện quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, trang 302).
(2) Weyand - tham mưu trưởng lục quân Mỹ, ngày 28 tháng 3 năm 1975 đã đến Sài Gòn trực tiếp vạch kế hoạch phòng thủ từ xa để cứu nguy cho bọn ngụy quyền.
(3) Sư đoàn 10 thuộc Quân đoàn 3, ở hưởng chủ yếu tây bắc Sài Gòn được giao đảm nhiệm vai trò mũi nhọn đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất và phối hợp với Quân đoàn 1 đánh vào cơ quan Bộ Tổng Tham mưu ngụy nên phải mở đường đi về vị trí tập kết cho kịp, không thể đợi Phan Rang, Phan Thiết giải phóng xong để đi theo đường số 1.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #105 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:22:14 pm »

Để có thêm sức phối hợp với chủ lực đánh giải phóng tỉnh nhà, tỉnh đã rút cá đơn vị bộ đội địa phương các huyện Bác Ái, Anh Dũng và các đơn vị lẻ của tỉnh, cùng với Đại đội 610 tổ chức thành Tiểu đoàn 610 chốt giữ khu vực Đèo Cậu trên đường 11, đánh địch từ Thành Sơn - Phan Rang lên phản kích hòng chiếm lại quận Krongpha. Du kích Bác Ái Đông cũng tổ chức thành từng đại đội bám vành đai sân Bay Thành Sơn, đánh tiêu hao và nắm chắc tình hình địch, sẵn sàng phục vụ cho chủ lực phát triển tiến công.

Ở thị xã, ta sử dụng Đại đội 311 đặc công (20 người ) cùng 15 đồng chí cán bộ chính trị do đồng chí Tỉnh ủy viên, Bí thư Thị ủy Phan Rang - Tháp Chàm phụ trách. Đêm 7 tháng 4 thọc sâu vào thị trấn Tháp Chàm, mờ sáng bất ngờ nổ súng đánh chiếm trại lính Nguyễn Hoàng, nhà ga Tháp Chàm, Cầu Móng, ngã ba đường 11 cửa ngõ vào sân bay Thành Sơn; và trụ lại suốt ngày 8 tháng 4. Đại đội 311 được du kích mật và nhân dân phối hợp đã chiến đấu ngoan cường, đánh lui 16 đợt phản kích của địch từ sân bay Thành Sơn ra, từ tiểu khu Phan Rang lên và từ Cầu Móng sang, có cả xe tăng và phi pháo yểm trợ.

Nhân dân Tháp Chàm, đặc biệt là đồng bào xóm Dừa, phường Đô Vinh đã nổi dậy động viên con em tham gia cùng bộ đội chiến đấu, l tiếp tế cơm nước, cứu chữa thương binh, thu chiến lợi phẩm. Qua một ngày đêm chiến đấu, ta đã đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn bộ binh địch, diệt tại chỗ 120 tên, bắt sống 11 tên (có 1 đại úy, 1 trung úy), bắn cháy 3 xe bọc thép, thu 2 xe GMC, 150 súng, 10 máy PRC25. Nhưng do lực lượng địch đông, sức ta có hạn, một số bị thương vong nên trong đêm 8 tháng 4, lực lượng ta phải chuyển ra ngoài để giải quyết thương vong và củng cố.

Ngày 12 tháng 4 năm 1975, tại vị trí cách thị xã Phan Rang 40 ki-lô-mét về phía đông bắc, Bộ Tư lệnh cánh quân Duyên Hải họp cùng các đồng chí đại diện của Bộ Tư lệnh Quân khu V, Quân khu VI(1), Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, Sư đoàn 3 (Quân khu V) (do đồng chí Lê Trọng Tấn chủ trì) bàn kế hoạch tiến công đập tan lá chắn Phan Rang - Tháp Chàm. Sau khi nghe đại diện Bộ Tư lệnh Quân khu VI báo cáo tình hình và đề đạt ý kiến, đồng chí lê Trọng Tấn quyết định sử dụng Sư đoàn 3 (của Quân khu V), tăng cường thêm Trung đoàn bộ binh 25 từ Tây Nguyên xuống (đang có mặt trong đội hình cánh quân Duyên Hải) hình thành 3 mũi nhằm vào 3 mục tiêu: thị xã Phan Rang, sân bay Thành Sơn và cảnh Ninh Chữ. Các lực lượng vũ trang của Ninh Thuận tích cực phục vụ tình hình, trinh sát dẫn đường và hợp đồng đánh địch, truy quét tàn binh.

Ngày 14 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn 3 bộ binh và Trung đoàn 25 được du kích đội công tác và nhân dân Bác Ái phối hợp dẫn đường, tiến công vào các cụm tiền tiêu tại Du Long của toản phòng thủ Phan Rang - Thành Sơn do Quân đoàn 3 ngụy chiếm giữ. Địch dùng phi pháo tối đa đánh trả ngăn chặn ta quyết liệt. Nhưng chiều tối ngày 14, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 3) đã đánh tan tuyến phòng ngự của liên đoàn 31 quân biệt động tại Du Long; Trung đoàn 25 đánh chiếm một số điểm ở ngoại vi sân bay Thành Sơn.

Ngày 15 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 2 tiếp tục tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ thứ 2 của địch ở Kiền-Kiền. Trung đoàn 141 vượt đường số 1 đánh về hướng cảng Ninh Chữ; Trung đoàn 25 được tăng cường Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 12) tiếp tục tiến công tuyến phòng thủ ngoại vi sân bay Thành Sơn.

Để tạo đòn tiến công bất ngờ và quyết định, Tư lệnh cánh quân Duyên Hải tăng cường thêm Trung đoàn 101 (thuộc Sư đoàn 325) và một tiểu đoàn xe tăng, cùng với Sư đoàn 3 và Trung đoàn 25 nhanh chóng tiến công đánh chiếm trung tâm thị xã Phan Thiết, sân bay Thành Sơn và cảnh Ninh Chữ, chặn đường tháo chạy ra biển của địch.

Trước những đòn sấm sét của pháo binh và lối đánh thọc sâu, táo bạo của các đơn vị thiết giáp kết hợp với xe tăng thọc sâu có cán bộ và chiến sĩ trinh sát Quân khu VI dẫn đường, chỉ mục tiêu, đã mở hết tốc độ lao nhanh về phía trước trong khói bụi của hỏa pháo chuẩn bị của ta. Đến 8 giờ ngày 16 tháng 4 năm 1975, lực lượng ta bất ngờ xuất hiện trước tiểu khu, Tòa hành chánh tỉnh và chiếm lĩnh thị xã Phan Rang - cảng Ninh Chữ, 9 giờ 30 cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc dinh tỉnh trưởng.

Từ đây, xe tăng ta ngược đường 11, tiến lên Tháp Chàm hợp đồng với Trung đoàn 25 tiến công vào sân bay Thành Sơn. Bị thêm một đòn tiến công mạnh, táo bạo, bắt ngờ của ta, địch không kịp chống cự, hoảng hốt bỏ lại tất cả máy bay, xe pháo và toàn bộ trang bị kho tàng. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang cùng toàn bộ cơ quan tiền phương không kịp lên máy bay đã chuẩn bị sẵn, phải lủi trốn ra các xóm nhà dân. 10 giờ ngày 16 tháng 4 năm 1975 ta kiểm soát và làm chủ toàn bộ sân bay Thành Sơn.

Phối hợp kịp thời với quân chủ lực, đại đội 311 ở núi Cà Đú đã nổ súng đánh vào sườn bọn địch tháo chạy trên đường số 1 và dẫn đường cho các đơn vị chủ lực tiến công vào Phan Rang - Tháp Chàm - Thành Sơn. Tiểu đoàn 610 chặn đánh địch phía tây đường 11 giải phóng mảng nông thôn còn lại, đến 17 giờ cùng ngày hợp điểm với chủ lực tại Tháp Chàm và 18 giờ cùng với địa phương vào tiếp quản thị xã Phan Rang - Tháp Chàm. 20 giờ đồng chí Trần Lê và đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên đã cùng với các đồng chí Thường vụ tỉnh ủy vào thị xã họp bàn kế hoạch thiết lập trật tự, ổn định tình hình tại thị xã và trong toàn tỉnh.

Trong ngày 16 - 17 tháng 4, d các ấp còn lại cùng các lực lượng vũ trang, đội công tác, truy bắt tàn binh, tước vũ khí dân vệ, thành lập chính quyền tự quản, giữ gìn an ninh trật tự. Đặc biệt trong đêm 16 tháng 4, nhân dân Xóm Dừa - Đô Vinh phát hiện rồi cùng với bộ đội lùng bắt được hai tên tướng ngụy: Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang và các sĩ quan tùy tùng cùng 3 xe bọc thép còn nguyên vẹn. Ngày 17 du kích các ấp Sơn Hải, Thương Diêm, Cà Ná… chặn đánh bọn tàn quân tháo chạy ra biển, bắt sống 550 tên, thu nhiều vũ khí…

Tính chung trong mấy ngày qua, ta đã bắt sống 1.665 tên, thu 11 xe tăng và thiết giáp, 51 máy bay còn nguyên vẹn, 1 hải thuyền, 13 khẩu pháo 105 và 155 ly, toàn bộ kho tàng và cơ sở vật chất của địch. Tuyến phòng thủ bảo vệ Sài Gòn từ xa, trên hướng chủ yếu của địch đã bị đập tan. 23 giờ ngày 16 tháng 4 năm 1975 tỉnh Ninh Thuận hoàn toàn giải phóng. Chiến thắng Phan Rang ghi tiếp một tiến bộ mới của quân đội ta về sức mạnh và nghệ thuật tiến công tập đoàn phòng ngự địch bằng lực lượng binh chủng hợp thành.

Trưa ngày 17 tháng 4, theo điện mời của Bộ Tư lệnh cánh quân Duyên Hải, đồng chí Trần Lê ra Suối Dầu (Khánh Hòa) gặp đồng chí Lê Trọng Tấn và Lê Quang Hòa trao đổi kế hoạch phối hợp phát triển tiến công vào Bình Thuận - Bình Tuy.


(1) Bộ Tư lệnh Quân khu do đồng chí Phó Tư lệnh Bùi Văn Mỳ, cùng đi có một số cán bộ, chiến sĩ tham mưu, trinh sát, các đồng chí này về sau đã ngồi xe tăng dẫn đường chỉ mục tiêu tiến công vào Phan Rang - Phan Thiết.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #106 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:23:36 pm »

Tiến công giải phóng tỉnh Bình Thuận - Bình Tuy, tỉnh cuối cùng của Khu VI

Ngày 17 tháng 4 năm 1975 chủ lực của Bộ tiếp tục cơ động theo đường số 1 vào Phan Thiết. Để kịp nhận lệnh chuẩn bị bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh, riêng cơ quan Bộ Tư lệnh cánh quân Duyên Hải đã rẽ theo đường 11 lên Tuyên Đức, xuống Di Linh theo đường 8 xuyên qua vùng giải phóng của Bình Thuận, Bình Tuy vào trước ở Rừng lá Long Khánh.

Ở Bình Thuận, Trung đoàn 812 từ Đà Lạt cấp tốc hành quân chiều 7 tháng 4 về đến khu vực Ma Lâm. Nhờ phương án tác chiến đã được chuẩn bị trước và quen thạo chiến trường, nên đêm 7 rạng 8 tháng 4 Trung đoàn đã cùng với Tiểu đoàn 200c đặc công tiến công ngay chi khu quận lỵ Thiện Giáo (Ma Lâm) và các ấp xung quanh. Đêm 7 ta chưa đè bẹp được sức đề kháng của địch nên ngày 8 tháng 4 phải chuyển sang vây lấn và đánh phản kích. Tối đến ta tiếp tục tiến công; sau 30 phút chiến đấu đã làm chủ hoàn toàn chi khu và quận lỵ Thiện Giáo.

Mất chi khu Ma Lâm, vị trí then chốt bảo vệ phía bắc Phan Thiết (cách 15 ki-lô-mét), bọn địch trên đường số 8 và đường số 1 đều rung động. Bộ đội địa phương và du kích thừa thắng bám đánh địch, kết hợp với phát động quần chúng nổi dậy giải phóng các xã, ấp… và đồn bót lẻ trên đường số 8 từ Tầm Hưng, An Phú, Bình Lâm, Bình An… cho đến Tân Điền (cách thị xã 3 ki-lô-mét). Địch cố tăng cường lực lượng chặn ta tại Cầu Trắng, giữa Tân Điền và Tân An.

Ngày 9 tháng 4 Trung đoàn 812 (thiếu) cùng với bộ đội địa phương đánh chiếm ấp Xara và vây ép đồn Tuy Hòa. Ngày 10 - 11 tháng 4 đánh dứt điểm đồn Gộp, giải phóng đồn Tuy Hòa và các ấp ở vùng này. Thừa thắng, đêm 11 rạng 12 tháng 4 Trung đoàn 812 (thiếu) cùng với đại đội 5 của tỉnh và du kích xốc tới đánh chiếm thị trấn Phú Long và chốt giữ cầu Xóm Lụa (Phú Long) đẩy địch về phía Nam cầu (ấp Kim Ngọc). Phú Long là một thị trấn nằm trên đường số 1 cách Phan Thiết 7 ki-lô-mét, có cầu dài trên 50 mét qua sông Hội Nhơn, địch dùng đây làm phòng tuyến để ngăn chặn ta. Vậy là đến ngày 14 tháng 4 thị trấn Phú Long hoàn toàn giải phóng, cửa ngõ vào Phan Thiết đã mở.

Trong cơn nguy ngập, bọn địch ở tiểu khu Phan Thiết đã dốc hết lực lượng để chống đỡ. Các loại máy bay, pháo biển, pháo ở các trận địa Ngã Hai, Camp Êsépic, Lầu Ông Hoàng,… đánh phá điên cuồng, có tính chất hủy diệt vào vùng vành đai Phan Thiết. Tên tiểu khu trưởng Bình Thuận đích thân tập hợp các đơn vị, đốc thúc liên đoàn biệt động số 21, Trung đoàn 5 (Sư đoàn 2), Tiểu đoàn 330 bảo an pháo kích quyết liệt. Các tiểu đoàn 840, 15 của Trung đoàn 812 và bộ đội địa phương từ ngày 14 - 18 tháng 4 đã chiến đấu và trụ vững dưới phi pháo ác liệt, đánh bại các cuộc phản kích của địch, giữ vững cầu Phú Long. Trên hướng đường 8, Tiểu đoàn 200c cũng anh dũng chiến đấu, đánh lui tất cả các đợt phản kích của địch, giữ bàn đạp Cầu Trắng, Tân Điền, đêm 17 rạng ngày 18 tháng 4 đã tiến công chiếm đồn và ấp Tân An cách thị xã Phan Thiết 3 ki-lô-mét. Trong đêm 17 tháng 4 ở hướng đông bắc, ta cũng tiêu diệt cao điểm Tà Đôn, cứ điểm cuối cùng của địch còn lại ở phía sau, thu 2 khẩu pháo 105 ly và toàn bộ vũ khí đạn dược.

Hướng bắc thị xã Phan thiết, từ ngày 11 tháng 4 trở đi Tiểu đoàn 130 đã dùng pháo 105 ly và cối 120 ly nhiều lần đánh vào Tiểu khu và đánh kìm chế các cụm pháo địch ở Camp Êsépic, Lầu Ông Hoàng, ngã ba Kim Ngọc… ở tây bắc Phan Thiết, lực lượng của thị xã và huyện Hàm Thuận đã san bằng đồn Bàu Gia; cùng quần chúng nổi dậy đánh chiếm các ấp Phú Hội, Đại Nẫm, Xuân Phong, dồn địch đến sát Trinh Tường, áp sát thị xã. Cơ sở trong nội thị khẩn trương vận động quần chúng sẵn sàng nổi dậy, phối hợp với lực lượng bên ngoài giải phóng thị xã. Nhưng bọn tàn quân ở đây, trong những ngày cuối cùng trước sự sống còn và với bản chất tàn bạo, chúng đã thẳng tay đốt phá, cướp bóc, gây nhiều đau thương mất mát cho nhân dân.

Hướng bắc Bình Thuận từ ngày 4 đến 14 tháng 4, lực lượng bộ đội địa phương và đội công tác đã bám sát các khu vực trọng điểm, vừa tiêu hao địch và làm công tác binh vận. Phần lớn đồn bót địch ở đây co lại chờ đợi. Ngày 13 tháng 4 ta tiến công vào Tuy Tịnh; địch bỏ chạy về đồn Long Hương. Ba ấp ở Tuy Tịnh: Kinh, Chăm, Thượng được giải phóng. Nhân dân các ấp dọc 2 bên đường số 1 sôi nổi chờ đón quân chủ lực tiến vào và sẵn sàng nổi dậy giải phóng ấp, xã.

Cánh quân Duyên Hải, sau khi giải phóng Phan Rang, đã tức tốc tiến vào phía Nam, vừa đi vừa chiến đấu đánh trả các cuộc đánh chặn của không quân, tàu thủy và biệt kích địch. Chúng dùng mìn phá sập các cầu để chặn bước tiến của quân ta. Nhưng công binh đã kết hợp với du kích và nhân dân địa phương kịp thời sửa chữa, bảo đảm cho cuộc hành quân được liên tục. 19 giờ ngày 18 tháng 4 năm 1975, bộ phận đi đầu đã đến Xara (cách Phan Thiết 12 ki-lô-mét) gặp Bộ chỉ huy tiền phương Quân khu(1) và Trung đoàn 812, kế hoạch tiến công giải phóng thị xã Phan Thiết lập tức được triển khai.


(1) Cuối tháng 3 năm 1975, Quân khu thành lập Bộ Chỉ huy Tiền phương giải phóng Bình Thuận do đồng chí Đỗ Phú Đáp - Tham mưu trưởng Quân khu làm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Quý Đôn (Bí thư tỉnh ủy Bình Thuận làm chính ủy, các đồng chí Phạm Hoài Chương, Vũ Ngọc Đài, Lê Văn Nhất làm chỉ huy phó. Sau giải phóng Bình Thuận, Quân khu cử đồng chí Đỗ Phú Đáp, Phạm Hoài Chương vào phối hợp với Tiền phương Bình Tuy giải phóng Bình Tuy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #107 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:24:08 pm »

20 giờ, Lữ đoàn xe tăng của Quân đoàn 2, có cán bộ tác chiến và chiến sĩ trinh sát của Quân khu VI cùng ngồi trên xe dẫn đường cùng với bộ binh chia thành 3 mũi tiến công thị xã: mũi chủ yếu theo đường quốc lộ số 1 đánh thẳng vào tiểu khu - tòa tỉnh trưởng, một bộ phận thọc xuống chặn cửa biển Thượng Chánh; một mũi vu hồi theo đường Phú Long đi Phước Thiện Xuân - Phú Hải, đánh chiếm cao điểm Lầu Ông Hoàng, chặn đường địch chạy ra Mũi Né, một mũi vượt cầu Trần Hưng Đạo thọc thẳng vào phía nam Phan Thiết chặn đường địch chạy vào Bình Tuy.

Hướng bắc, các Tiểu đoàn 482, 200c đặc công từ Tân An đường số 8 đánh thẳng vào Trinh Tường.

Trong lúc pháo địch từ Camp Êsépic, Ngã Hai, Lầu Ông Hoàng và từ hạm tàu địch điên cuồng bắn chặn đường tiến của ta, pháo ta cũng dồn dập trút bão lửa lên đầu quân địch. Bầu trời Phan Thiết rung chuyển vì tiếng nổ của đạn pháo hai bên, vì các kho xăng, kho đạn địch nổ tung và bốc cháy, ngọn lửa rực sáng một góc trời. Quân ta tiến đến đâu, địch rút chạy và tan rã đến đó. Các hướng, các mũi tiến công hợp đồng binh chủng chọc thẳng vào các mục tiêu đã định. Khi xe tăng ta xuất hiện trước cổng tiểu khu, Tòa Hành chánh tỉnh, bọn chỉ huy chỉ kịp hốt hoảng kêu lên “xe tăng Cộng sản” rồi nháo nhào bỏ chạy tán loạn. Tên chuẩn tướng tỉnh trưởng - tiểu khu trưởng Ngô Tấn Nghĩa không kịp lên trực thăng mà phải lủi xuống sông Cà Ty theo một thuyền con trốn ra biển.

22 giờ 30 ngày 18 tháng 4 năm 1975, ta làm chủ hoàn toàn thị xã Phan Thiết, chiếm lĩnh Tòa Tỉnh trưởng, tiểu khu, Camp Êsépic, Lầu Ông Hoàng và các mục tiêu khác, mở cửa nhà lao giải thoát cho 400 đồng bào, đồng chí bị giam cầm.

Ngày 19 tháng 4 ta tiếp tục truy quét bọn tàn quân, thu chiến lợi phẩm. Nhân dân các phường phối hợp với lực lượng vũ trang truy bắt bọn ác ôn, tề điệp. Băng cờ, khẩu hiệu, biểu ngữ chào mừng mặt trận và giải phóng quân xuất hiện khắp phố phường. Ủy ban Quân quản thị xã bắt đầu hoạt động, các điều quy định, các mệnh lệnh ban hành được nhân dân chấp hành nghiêm túc.

13 giờ ngày 19 tháng 4 năm 1975, địch cho 1 phi vụ F5 oanh kích đánh sập cầu Quang nằm ở trung tâm thị xã, bị cao xạ ta bắn bị thương hoảng hốt trút bom bửa bãi rôi bay về, nhưng đến Nhà Bè - Sài Gòn thì bị rơi (theo tài liệu đăng ký tác chiến ngày 19 tháng 4 năm 1975 của Bộ Tổng Tham mưu ngụy).

Trong ngày đại đội 2 (Tiểu đoàn 840) và lực lượng địa phương chiếm lĩnh chi khu Hải Long, thị trấn Mũi Né và chi khu Ngã Hai. Vậy là trong ngày 19 tháng 4 năm 1975, tỉnh Bình Thuận (từ đảo Phú Quý) đã được hoàn toàn giải phóng.

Ta diệt và làm tan rã 8 tiểu đoàn cộng hòa, biệt động 18 đại đội, 136 trung đội bảo an, dân vệ và toàn bộ hệ thống kìm kẹp của địch. Thu 16 khẩu pháo, 4 máy bay, toàn bộ vũ khí, khí tài và kho tàng. Trên 14.000 sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ ra trình diện, nộp vũ khí.

Trong những ngày ta tiến công giải phóng Bình Thuận, thì ở Bình Tuy, các lực lượng địa phương cũng nỗ lực vươn lên tiến công địch, đánh giải phóng địa phương mình. Ở đây, từ đầu tháng 4 năm 1975 đã có tàn quân địch đánh các nơi lần lượt chạy dồn về khá đông, căng lều ở từng cụm xung quanh thị xã Lagi, sân bay Láng Gòn, dọc tỉnh lộ 28 và trên dọc quốc lộ 1. Chúng giành giật, cướp bóc của nhau và của nhân dân, bắn giết lẫn nhau, gây tình hình rất hỗn độn. Ngày 18 tháng 4 năm 1975, Đại đội 88 của tỉnh phối hợp với bộ đội huyện Hàm Tân đánh chiếm căn cứ 6 và căn cứ 13 của địch. Ngày 20 tháng 4, địch phá sập cầu 37 và 38 trên đường số 1 rồi rút chạy, dồn xuống tỉnh lộ 28. Ngày 21 tháng 4, Đại đội 88 đánh chiếm ấp Đông Hà, áp sát sân bay Láng Gòn, cùng với lực lượng vũ trang và cơ sở bên trong của ta bố trí thanh niên canh giữ các ấp Văn Kê, Thạnh Mỹ, nắm và sử dụng các toán phòng vệ dân sự ở ấp Hiệp Nghĩa, Hiệp Phước, Hiệp Trí, Hiệp An để làm áp lực bao vây chi khu Hàm Tân.

Sau giải phóng Phan Thiết, Quân khu lệnh cho tiểu đoàn 200c, Tiểu đoàn 15 (Trung đoàn 812) nhanh chóng phong trào đánh chiếm Bình Tuy tạo thuận lợi cho cánh quân Duyên Hải tiến về phía Nam; đồng thời đồng chí Lê Trọng Tấn cũng cho một bộ phận nhỏ xe tăng, pháo binh và cơ giới hỗ trợ cho lực lượng địa phương đánh chiếm thị xã Lagi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #108 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:25:50 pm »

19 giờ ngày 22 tháng 4 năm 1975, với sự chi viện của hỏa lực pháo binh, Tiểu đoàn 15 và một bộ phận của Tiểu đoàn 200c, phối hợp cùng xe tăng và 1 đại đội bộ binh cơ giới tiến công đánh chiếm sân bay Láng Gòn, sau đó chia thành 2 mũi chọc thẳng vào tiểu khu và thị xã Lagi. Ở đây, địch tuy đông nhưng đã mất tinh thần nên chỉ chống trả yếu ớt, rồi tranh nhau chạy ra cửa biển Tân Lý, vứt bỏ lại xe pháo, súng đạn ngổn ngang dọc dường. Từ hướng nam, Đại đội 88 cũng đánh thẳng vào thị xã và bắt liên lạc với chủ lực tại khu trung tâm. Đến 23 giờ, ta hoàn toàn làm chủ thị xã Lagi.

Cùng đêm, bộ đội địa phương, du kích phối hợp với cơ sở binh vận bên trong, nổ súng đánh chiếm chi khu và quận lỵ Hàm Tân. Tên quận trưởng cùng một số sĩ quan và binh sĩ bỏ chạy thoát thân. Một số bị diệt tại chỗ. Nhân dân xung quanh nổi dậy truy bắt ác ôn, tề ngụy, thu súng phòng vệ dân sự, bảo an, kêu gọi số còn lại đầu hàng. Toàn huyện Hàm Tân, huyện cuối cùng của Bình Tuy được giải phóng.

Ngày 23 tháng 4, trong khi ta tiếp tục truy quét bọn tàn quân lẩn trốn trong các khu vực đồi Dương, cửa biển Tân Lý thì bắt được tên trung tá Trần Hữu Giao - Quận trưởng kiêm chi khu trưởng Hàm Tân cùng bọn sĩ quan tùy tùng, ta kiểm soát đảo Hòn Bà, một hòn đảo nhỏ cách bở biển 3 ki-lô-mét.

Đến sáng ngày 23 tháng 4 năm 1975, tỉnh Bình Tuy đã được hoàn toàn giải phóng, nối liền với tỉnh Long Khánh và thị xã Xuân Lộc, mở rộng thêm hậu phương và bàn đạp cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Ở Bình Thuận, đêm 26 tháng 4, Tiểu đoàn 482 của tỉnh và Đại đội 490 của huyện Tuy Phong cùng một số cán bộ chính trị (được sự chi viện về phương tiện của đoàn 385 Hải quân) đã tiến ra đảo Phú Quý (cù lao Thu). 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 quân ta bất ngờ đổ bổ bộ lên đảo và sau 1 giờ chiến đấu, 300 tên lính địch đầu hàng, nộp 100 súng các loại, 12.000 đồng bào được giải phóng. Cùng với việc giải phóng đảo Phú Quý (mảnh đắt cuối cùng của tỉnh Bình Thuận) toàn bộ lãnh thổ Quân khu VI, cả trên đất liền và trên biển được hoàn toàn giải phóng.

*
*   *

Vậy là trong điều kiện có nhiều khó khăn, lực lượng có hạn, các lực lượng vũ trang và nhân dân Khu VI, với quyết tâm tranh thủ thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn, đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, tiến công và nổi dậy liên tục trong 38 ngày đêm (từ 17 tháng 3 đến 23 tháng 4) giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh, góp phần phá vỡ tuyến phòng thủ Sài Gòn từ xa của địch, tiêu diệt và làm tan rã hơn 7 vạn tên địch, thu toàn bộ cơ sở vật chất, kho tàng và phương tiện chiến tranh, kể cả căn cứ không quân lớn ở Phan Rang, các cơ sở nghiên cứu khoa học ở Đà Lạt như Viện Nguyên tử, Nha Địa dư, Viện Pasteur…

Khu VI được giải phóng đã mở rộng đường tiến vào Sài Gòn từ hướng đông và đông bắc của các binh đoàn chủ lực trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trục đường số 1 từ Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết vào đến Rừng Lá, Xuân Lộc, ngày đêm không ngớt các đoàn xe nối đuôi nhau lao nhanh về hướng Long Khánh - Biên Hòa (xe chuyển quân, chuyển nhiên liệu, lương thực, xe tăng, xe kéo pháo). Từ sân bay Thành Sơn, máy bay A37 cất cánh đánh bom làm tê liệt sân bay Tân Sơn Nhất(1). Bệnh viện Đoàn Mạnh Hoạch ở Camp Êsépic mới tiếp quản đã được nhanh chóng sửa sang và mở rộng để đón thương binh, bệnh binh của cánh quân Duyên Hải. Nha Địa dư ở Đà Lạt đã khẩn trương in hàng ngàn tấm bản đồ phục vụ cho bộ đội ta trên đường tiến vào Sài Gòn. Nhân dân dọc các đường hành quân hăng hái sửa chữa đường sá để cuộc tiến quân được nhanh chóng. Cả cực nam Trung Bộ được huy động tối đa phục vụ cho trận quyết chiến, chiến lược giải phóng Sài Gòn và thực tế đã trở thành hậu phương cho những cánh quân phía đông, đông bắc Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Đi đôi với phục vụ tiền tuyến, nhân dân Khu VI từ rừng núi đến đồng bằng, bắt tay ngay vào việc giữ gìn an ninh trật tự, ổn định nơi ăn ở và sản xuất, khôi phục sinh hoạt bình thường. Một không khí sôi nổi, phấn khởi tự hào bao trùm khắp làng mạc phố phường.

Với tinh thần thần tốc, táo bạo các binh đoàn chủ lực ta đã xông lên đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy; 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 lá cờ quyết chiến quyết thắng phất cao trên nóc “Dinh Độc Lập”.

Cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, ác liệt và vinh quang suốt 21 năm của dân tộc đã toàn thắng!


(1) 15 giờ 40 phút ngày 28 tháng 4 năm 1975, 1 biên đội 5 chiếc áy bay A37 do Nguyễn Thành Trung dẫn đường cất cánh từ sân bay Thành Sơn, bất ngờ ném bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy 24 máy bay địch, có cả một số máy bay Mỹ đang làm nhiệm vụ di tản, cháy 1 kho nhiên liệu, chết 200 tên.
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Tám, 2016, 08:41:49 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #109 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2012, 03:26:32 pm »

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM