Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:58:23 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975  (Đọc 77676 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #80 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2012, 08:32:13 pm »


Ở trọng điểm 2: Tuyên Đức vào đợt TK, Tiểu đoàn 200c đặc công của Khu cùng với lực lượng tỉnh tấn công trường Võ bị Quốc gia, trường chiến tranh chính trị trong thị xã Đà Lạt, chi khu Đơn Dương, Trung tâm huấn luyện cảnh sát dã chiến, gây cho địch nhiều thiệt hại. Đồng thời, các tiểu đoàn bộ binh tỉnh cùng với bộ đội huyện đánh phá ấp và phục kích đánh viện trên đường 21 kéo dài và đường 20.

Cuối tháng 5 năm 1970 nhận được chỉ thị (của Miền) đánh phối hợp với chiến trường Campuchia, Quân khu chủ trương mở tiến công đồng loạt vào thị xã Đà Lạt, với 2 Tiểu đoàn bộ binh thiếu (810-145), Tiểu đoàn 200c đặc công, các đội biệt động thị xã, cùng lực lượng du kích mật và cơ sở tại chỗ. Với yêu cầu là phải chiếm giữ một số mục tiêu quan trọng then chốt trong thị xã, làm chủ thị xã ít nhất 2 ngày, gây tác động mạnh, buộc địch phải điều quân đối phó, lo phòng thủ nội địa. Qua đó ta thực hiện được sự phối hợp, hỗ trợ với chiến trường bạn.

Thực hiện ý định trên, đêm 28 rạng ngày 29 tháng 5 năm 1970, trên các hướng, các cánh, các mũi đều đồng loạt đánh chiếm và gây thiệt hại nặng một số mục tiêu quan trọng trong thị xã như: dinh thị trưởng, trường Võ bị Quốc gia, ấp Đa Thiện, trụ sở Vô tuyến viễn thông, Lữ quán Thanh niên; đánh chiếm cao điểm Picorbin và trận địa pháo Tân Lạc, Đa Cát, đồi Đất Đỏ, Lãnh địa Đức Bà… diệt viện đoạn từ thác Pren đến bót Nguyễn Tri Phương và tiếp theo liên tục đánh phản kích ở đồi Đất Đỏ, đồi Bạch Đằng và lãnh địa Đức Bà… Địch đã phải dùng cả bom pháo để hủy diệt. Riêng đơn vị chiếm lĩnh Lãnh địa Đức Bà đã đánh lui 8 đợt phản kích của địch, diệt 1 đại đội và đánh thiệt hại 1 đại đội khác. Ở trường đại học Giáo Hoàng chủng viện - ta đã đánh địch phản kích suốt ngày 29 tháng 5 diệt 1 đại đội và đánh thiệt hại nặng 1 đại đội khác. Qua ngày 30 tháng 5 ta chuyển ra đứng tại ấp Đa Thiện tiếp tục đánh địch phản kích và đến sáng ngày 31 tháng 5 năm 1970 ta mới rút ra. Kết quả ta diệt được gần 1.000 tên, diệt 2 đại đội đánh thiệt hại 3 đại đội (Trung đoàn 53), phá trụ sở Vô tuyến viễn thông, đánh chiếm dinh 2, cao điểm Picorbin, Lãnh địa Đức Bà, đồi Đất Đỏ và đánh thiệt hại nặng dinh Thị trưởng - trận địa pháo Tân Lạc.

Du kích và biệt động đã phối hợp diệt 1 bót cảnh sát, diệt một số ác ôn và phát triển thế diện. Lực lượng quần chúng đã hưởng ứng, nổi dậy truy lùng bọn tề ác trong một số khu phố, treo cờ, khẩu hiệu tiếp tế cơm nước cho bộ đội, cho mượn cuốc xẻng đào hầm. Ở trường Đại học, học sinh, sinh viên hăng hái đưa bàn ghế, giường tủ ra làm chướng ngại vật.

Qua đợt tiến công bất ngờ, địch đối phó lúng túng. Các lực lượng đều bị đánh, bị tiêu hao, nhiều mục tiêu quan trọng bị đánh phá, liên lạc vô tuyến Đà Lạt - Sài Gòn bị gián đoạn. Địch hoảng hốt phải điều lực lượng từ các nơi đến để chi viện và giải tỏa. Sáng 30 tháng 5 điều Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 53) từ Đơn Dương lên; sau đó điều tiếp 2 tiểu đoàn từ Di Linh, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 44) ở Sông Mao (Bình Thuận) và 2 tiểu đoàn của Sư đoàn 22 từ Quy Nhơn vào để giải tỏa Đà Lạt.

Dư luận báo chí Sài Gòn lúc bấy giờ(1) cho đây là cuộc tiến công lớn nhất vào một thành phố ở miền Nam Việt Nam, kể từ sau Tết Mậu Thân…

Trong đợt tiến công này, bộ đội ta đã làm tốt chính sách dân vận, khi vào vùng Công giáo ở Lãnh địa Đức Bà, Giáo hoàng Chủng viện, bộ đội vừa chiến đấu đánh địch, vừa phân công cán bộ làm công tác tuyên truyền, giải thích chính sách cho quần chúng giáo dân, trong đó có một số cha cố của Chủng viện. Địch đã dùng đạn có chất độc hóa học bắn vào Chủng viện. Ta đã giúp họ phòng tránh và cứu chữa những người bị ngạt, gây được ảnh hưởng tốt; nên sau khi rút ra, địch đến tuyên truyền xuyên tạc, đã bị giáo dân ở đây phản bác thẳng thừng, nói lên những việc làm đúng đắn, tốt đẹp của bộ đội Cụ Hồ. Chiến công này đã được Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền gửi điện khen ngợi.

Tính chung trong Xuân Hè năm 1970, toàn Khu đã diệt 20.113 địch, bắn rơi và phá hủy 188 máy bay các loại, 340 xe tăng và xe bọc thép, 74 khẩu pháo, cối 81 ly(2). Bộ đội địa phương huyện, du kích lộ và du kích biệt động mật, các đội công tác, lực lượng an ninh đã đánh bọn kìm kẹp và quân yểm trợ diệt 5.543 tên (trong tổng số 13.900 tên địch).

Các lực lượng vừa đánh địch, vừa vũ trang tuyên truyền gần 1.100 lần vào 400 khu ấp chiến lược (có 40 phường, ấp nằm trong các thị xã) với 36.000 lượt quần chúng, tấn phát hơn 100.000 truyền đơn, diệt 503 tên ác, bắt cải tạo 350 tên và cảnh cáo giáo dục tại chỗ gần 450 tên khác.

Ở một số xã, ấp đã hình thành được 3 mũi đấu tranh tại chỗ trong chống phá bình định, giành quyền làm chủ, nâng được khí thế quần chúng lên. 6 tháng đầu năm 1970 đã vận động đào rã ngũ 3.160 tên. Diện lỏng rã kìm được mở rộng, số dân bung ra làm ăn trên ruộng, vườn đất cũ ngày càng đông (Bình Thuận có 13.000 người, Lâm Đồng 8.000 người), nhưng vẫn chưa ngăn được kế hoạch bình định của địch, chưa chuyển được cục diện chiến trường. Đến tháng 6 năm 1970, vùng căn cứ giải phóng có 24.950 dân, vùng làm chủ khoảng 72.000 dân, vùng tranh chấp 116.000 dân, vùng lõng kìm 130.000 dân, vùng yếu, vùng bị kìm (thị trấn, thị xã) còn 235.000 dân. Vậy là so với yêu cầu giành dân, mở vùng đã đề ra thì còn xa mới đạt được. Ta có cố gắng phá đi, phá lại nhiều lần, nhưng địch cũng tập trung lực lượng làm đi, làm lại nhiều lần, nhất là chúng dùng mọi cách triệt phá cơ sở cách mạng tại chỗ, phong tỏa ngăn chặn lực lượng ta từ bên ngoài vào, kìm chặt quần chúng bên trong, tăng cường sĩ quan nắm lực lượng bình định, củng cố các tổ chức Phượng Hoàng, phân chi khu cảnh sát xã, phát triển mạng lưới tề điệp ngầm(3). Do lực lượng so sánh quá chênh lệch những cũng có phần do cách hoạt động của ta chưa thích hợp, chưa đi sâu nghiên cứu đánh trúng vào các thủ đoạn nguy hiểm của địch, nặng dùng lực lượng bên ngoài đánh địch, chưa vận dụng tốt các phương thức để xây dựng, phát huy lực lượng tại chỗ, kết hợp lực lượng trong và ngoài để tiến công địch; vì vậy tuy ta có đánh diệt được địch nhưng lại mất dân, mất ấp và gặp thêm khó khăn.


(1) Các báo Công luận, Chính luận, Tiền tuyến, Đuốc Nhà Nam… xuất bản tại Sài Gòn những ngày đầu tháng 6 năm 1970, lưu tại Thư viện khoa học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
(2) Theo số liệu báo cáo 6 tháng đầu năm 1970 của Khu ủy - Quân khu VI.
(3) Phượng Hoàng là một tổ chức đơn thuần tình báo do Phân cục tình báo CIA Mỹ ở Sài Gòn lập ra từ cuối năm 1967. Từ tháng 7 năm 1968, Mỹ chuyển giao cho ngụy nhưng tiếp tục điều khiển thông qua 300 cố vấn đặc trách bình định ở các tỉnh và quận. Từ 1969 trở đi tổ chức này phát triển nhanh với quy mô lớn và sâu rộng từ trung ương đến địa phương, đảm nhận vai trò có tính chất quyết định trong chương trình bình định. Tổ chức này được Mỹ mệnh danh là “con chim của thần chết” do tính dã man, tàn bạo của nó trong hoạt động. Mục tiêu chính của hoạt động này là “diệt và vô hiệu hóa hạ tầng cơ sở cách mạng, bình định quần chúng nhân dân”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #81 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 07:47:20 pm »

II. CHUYỂN MẠNH VÀO NHIỆM VỤ TRUNG TÂM
ĐÁNH PHÁ BÌNH ĐỊNH

Từ tháng 7 năm 1970, địch chuyển sang thực hiện kế hoạch “bình định đặc biệt”. Chúng ra sức triệt phá cơ sở cách mạng, bình định các ấp ta đang tranh chấp, lấn chiếm các ấp ta làm chủ và giải phóng, củng cố và hoàn chỉnh bộ máy ngụy quyền ở cơ sở, thực hiện kế hoạch tự phòng thủ xã, ấp, lập nhiều tuyến ngăn chặn từ xa, giành giữ các địa bàn trọng yếu.

Sau đợt TK, từng loại quân, từng đơn vị có tổ chức những phân đội nòng cốt ác ôn chuyên đánh biệt kích, phục kích, đột kích, gài đánh mìn… Chúng đẩy bọn này bung ra hoạt động nhỏ, lẻ từng tiểu đội, trung đội, đại đội quanh đồn bót, ấp, lùng lội phục kích, nhất là phát triển mạnh việc đánh mìn trên các hướng ta có thể ra vào, cả đêm và ngày.

Chúng điều chỉnh lại thệ thống đồn bót cũ, đóng thêm đồn bót mới, các cụm lô cốt quanh một số khu ấp chiến lược đông dân, tiến hành phát quang, ủi trống địa hình dọc một số trục giao thông chính như đường số 1, đường 20… quanh một số thị xã, ấp chiến lược. Với những thủ đoạn trên, địch đã gây cho ta nhiều tổn thất, việc đi lại hoạt động rát khó khăn.

Ở vòng ngoài, địch dùng quân cộng hóa và quân Mỹ kết hợp với bảo an, dân vệ, biệt kích càn quét, dùng trực thăng đổ chụp, phi pháo đánh phá vùng giáp ranh và căn cứ giải phóng để diệt cơ quan, phá hoại kho tàng, cơ sở sản xuất, ngăn chặn hành lang, khu vực đánh phá liên tục và dài nhất là mảng phía tây Tuyên Đức, Lâm Đồng, Bình Thuận, Bình Tuy (đánh bên sườn của miền Đông Nam Bộ để dọn bãi bến cho Mỹ xuống thang, rút quân).

Cũng trong thời gian này chúng rút dân quân Mỹ và chư hầu(1) đưa Trung đoàn 44 (Sư đoàn 23) về Bình Thuận, Trung đoàn 53 về Tuyên Đức và Lâm Đồng. Giao cho bảo an, dân vệ, cảnh sát từng bước đảm nhiệm phòng thủ địa phương, chuyển quân cộng hòa lên làm nhiệm vụ cơ động bên ngoài. Ghép thêm 2 tiểu đoàn bảo an cho Bình Thuận và Tuyên Đức và một số liên đội bảo an cho các tỉnh, tích cực phát triển lực lượng phòng vệ dân sự để thanh thế dân vệ và bảo an giữ ấp.

Tháng 8 năm 1970, tiếp theo các chỉ thị số 18/CT, 21/CT và 25/CT của Thường vụ Trung ương Cục, Hội nghị Khu ủy mở rộng nhận định tình hình địch, ta trong Khu và bàn biện pháp chuyển mạnh qua trọng tâm đánh phá kế hoạch bình định của địch với nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể như sau:

“Trên cơ sở cải tiến chỉ đạo, phát huy sức tiến công của ta lên một bước, tập trung sức vừa đẩy mạnh tiến công, vừa phát động quần chúng nổi dậy đánh bại một bước âm mưu bình định của địch. Trước mắt là đánh bại bình định trong mùa mưa, phá cho được một số mảng, chuyển một số vùng lên làm chủ (nhất là ở trọng điểm), phá lỏng rã kìm trên một diện rộng; đồng thời ra sức xây dựng tích lũy lực lượng ta về các mặt (phong trào chính trị và du kích chiến tranh tại chỗ) để tạo thêm thế và lực mới, chuẩn bị cho Đông Xuân đến…”(2).

Hội nghị cũng đã bàn các phương thức hoạt động và xây dựng của các lực lượng vũ trang, của đấu tranh chính trị và binh vận và xây dựng phát triển thực lực bên trong, bảo đảm chuyển được 3 mũi tại chỗ và phong trào du kích chiến tranh lên một bước.

Trong lúc triển khai thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ trên, ngoài khó khăn về địch, ta còn gặp một số khó khăn như quân số rất thiếu, lực lượng và phong trào 3 mũi còn yếu, đảm bảo vật chất hậu cần đang thiếu hụt, có ảnh hưởng đến đời sống, và hoạt động của các lực lượng; nội bộ nổi lên tư tưởng ngần ngại lâu dài, hy sinh gian khổ. Nhưng qua học tập, tình hình có chuyển biến một bước, nên 6 tháng cuối năm, toàn Khu vẫn đẩy được hoạt động liên tục, từng bước, có những đợt cao điểm đồng loạt, gây cho địch nhiều thiệt hại về sinh lực và phương tiện chiến tranh(3), đã đánh được một số trận tiêu diệt bọn bên trên, gây thối động (đánh Camp Êsépic, chi khu Hàm Tân) nhất là đã phát triển được lối đánh nhỏ vào bọn bên dưới, diệt được nhiều lực lượng kìm (chiếm tỷ lệ 60 phần trăm trong tổng số địch bị diệt), kết hợp tác chiến với vũ trang tuyên truyền diệt ác, hỗ trợ 3 mũi tại chỗ.

Nhưng đến cuối năm 1970, ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận, xâm nhập vào ấp để đánh địch, tiếp xúc với dân, giải quyết tiếp tế lương thực, thực phẩm, có nơi gần như bế tắc. Thực lực cách mạng ở xã, ấp phát triển không được bao nhiêu, nhiều ấp còn trắng hoặc có nhưng không liên lạc được với ta, riêng lực lượng vũ trang ngày cảng bị giảm sút về số lượng(4), chất lượng nâng lên không kịp.

Nguyên nhân chủ yếu của tình hình tên là do ta chưa có sự chuyển biến toàn diện sâu sắc đối với nhiệm vụ trung tâm là đánh bại kế hoạch bình định của địch, nhất là chưa tập trung sức đánh bại các thủ đoạn và biện pháp đánh phá cơ sở, làm mất chỗ dựa của ta ở xã ấp. Tư tưởng lúc đầu có chủ quan nôn nóng, nhưng sau gặp khó khăn, phức tạp thì thấy khó khăn lâu dài, thiếu tích cực xốc tới.

Mặt khác, qua 2 năm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy hết đợt này đến đợt khác, lực lượng của ta bị tiêu hao, giảm sút nhiều. Địch bị tổn thất nhiều nhưng có được bổ sung, chi viện và cố giành giựt quyết liệt với ta tại địa bàn xã, ấp và ngăn chặn ta từ bên ngoài.


(1) Mỹ rút các chi đoàn 1/50, 2/, 2/15, d3/506 ở Camp Êsépic Bình Thuận, Lữ 199 ở Bình Tuy nhưng lại đưa đến một số tiểu đoàn kỵ binh không vận để thay thế, từng bước chuyển giao căn cứ không quân Thành Sơn cho quân ngụy.
(2) Trích Nghị quyết Hội nghị Khu ủy mở rộng từ ngày 5 đến 14 tháng 8 năm 1970;
(3) Từ 1 tháng 7 năm 1970 đến tháng 12 năm 1970, toàn Khu đã diệt 12.044 tên địch (có 2.240 tên Mỹ), làm đào, rã ngũ 1.552 tên (có 600 phòng vệ dân sự), diệt một Chi khu, 2 cứ điểm, 18 đại đội, 43 trung đội, 1 đoàn bình định, bắn rơi và phá hủy 102 máy bay, đánh hỏng 279 xe quân sự (có 13 xe tăng và xe bọc thép), 16 khẩu pháo, đánh sập 14 cầu, 14 cống, làm gián đoạn giao thông đường số 1, số 8, 11 từ 1 đến 7 ngày, thu 150 súng.
(4) Trong năm 1970, toàn khu chỉ rút được 240 tân binh địa phương và 139 du kích bổ sung cho bộ đội.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #82 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 07:47:38 pm »

Tập trung cao cho nhiệm vụ đánh phá bình định

Ở Khu VI, địch tiếp tục thực hiện kế hoạch “bình định đặc biệt”. Đến tháng 4 năm 1971 thì chuyển sang kế hoạch “bình định phát triển” giai đoạn 1, với nội dung tự vệ, tự quản, tự túc, củng cố và mở rộng vùng an ninh, mở rộng lấn chiếm ra vùng tranh chấp, giải phóng, gom hết số dân còn lại về vùng kiểm soát của chúng. Tăng cường xây dựng ngụy quân, ngụy quyền, tổ chức các đoàn thể phản động và từng bước phát huy chức năng hoạt động của các loại quân tại chỗ. Đồng thời khôi phục tuyến đường sắt để giải quyết lưu thông và cũng để lập thêm tuyến ngăn chặn ta từ vùng núi xuống đồng bằng ở 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận.

Phần ta, sang đầu năm 1971, tình hình đánh phá kế hoạch bình định trên toàn Miền vẫn còn nhiều khó khăn. Trung ương Cục và Quân ủy Miền tiếp tục ra nhiều chỉ thị về nhiệm vụ đánh phá bình định (chỉ thị số 33/CT70, 01/CT71…). Tháng 3 năm 1971, Hội nghị Khu ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm năm 1971 như sau:

“Trên cơ sở quán triệt nhiệm vụ, bước đi trước mắt và phương châm sách lược của Đảng, tập trung mọi khả năng đẩy mạnh tiến công 3 mũi và xây dựng lực lượng các mặt trên 3 vùng, nhằm chống phá kế hoạch bình định của địch, trước hết là đánh sụp lực lượng kìm ở cơ sở, giành quyền làm chủ hầu hết xã, ấp, phá lỏng hệ thống phòng thủ khống chế ở nông thôn, mở rộng nâng cao các phong trào thành thị, giữ vững các địa bàn căn cứ các trục hành lang, làm cho kế hoạch bình định của địch thất bại một bước nặng nề, tạo ra thế lực mới trên 3 vùng, tạo ra thế chủ động tiến công mới, trên cơ sở của phong trào quần chúng và phong trào du kích chiến tranh rộng mạnh…”.

Về hoạt động quân sự, trước hết phải nhằm vào lực lượng “bình định” của địch, tập trung đánh sụp lực lượng kìm kẹp ở cơ sở, phá lỏng hệ thống khống chế của địch ở nông thôn, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, đồng thời coi trọng đánh phá hậu phương, hậu cứ, kho tàng, cơ quan đầu não của địch, diệt sinh lực và phương tiện kỹ thuật của địch.

Về xây dựng, ưu tiên bổ sung phát triển bộ đội huyện, đổi mới công tác và đi sâu xây dựng du kích mật, an ninh mật, nâng cao sức chiến đấu của các lực lượng nói trên để làm đòn xeo cho phong trào 3 mũi tại chỗ.

Tư tưởng chỉ đạo trong hoạt động vũ trang phải nằm vững phương châm tập trung, phân tán linh hoạt, phải biết vận động thích hợp với điều kiện cụ thể, trong thời điểm cụ thể các phương thức:

- Vũ trang công tác, vũ trang tuyên truyền trừ gian, diệt ác.

- Thọc sâu, đánh đau, đánh hiểm của bộ đội đặc công, biệt động, du kích mật, các phân đội nhỏ của chủ lực phân tán xuống tăng cường cho địa phương.

- Vây, lấn, tấn, diệt, tạo thể mở vùng và trụ lại các xã ấp.

- Mở chiến dịch tổng hợp đánh phá “bình định” trên từng khu vực với quy mô thích hợp.

- Mở hội nghị rút kinh nghiệm đánh phá bình định trong năm 1970 và tổ chức tập huấn cho cán bộ, chiến sĩ cả về công tác và chiến kỹ thuật.

Thượng tuần tháng 3 năm 1971, Quân khu mở một đợt cao điểm, tiến công đồng loạt phối hợp với chiến trường chung toàn Miền, với đường số 9 Nam Lào và đông bắc Campuchia. Tại trọng điểm Bình Thuận, các Tiểu đoàn 840, 482 và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 33 phối hợp với các lực lượng bộ đội địa phương đã cài thế bố trí sẵn đánh được nhiều trận, diệt bọn bung ra giải tỏa chi viện liên tục trong một số ngày, ngay tại vùng ven Phan Thiết, trên đường số 8 và trên đường Ngã Hai - Mường Mán; diệt và đánh thiệt hại nặng 5 đại đội và 12 trung đội thuộc đối tượng bảo an, dân vệ, cảnh sát, thám báo, biệt kích. Các lực lượng bộ đội địa phương huyện, du kích, đội công tác đã đột nhập vào gần 20 khu ấp chiến lược, đánh bọn tề ác, bọn bình định, vũ trang tuyên truyền phát động quần chúng nổi dậy phá ấp, phá kìm. Ở Thuận Phong, Tiểu đoàn 186 đột nhập vào ấp Gò, đánh quân giải tỏa, diệt 1 xe. Đêm 22 tháng 3, đặc công Quân khu đánh vào căn cứ Sông Mao lần thứ 7, diệt 150 tên địch.

Lâm Đồng đánh diệt hậu cứ Liên đội bảo an Quang Trung, phá khu ấp Việt kiề ở sát thị xã Blao, đột nhập đánh địch ở các ấp Tân Lạc, Liên Đầm, Đồng Lạc trên đường 20.

Ninh Thuận đánh diệt 1 đoàn bình định ở Nhuận Đức, đánh phá giao thông trên đoạn đường 11 Tháp Chàm.

Tuyên Đức diệt ác và vũ trang tuyên truyền, móc nối cơ ở ở các ấp ven thị xã Đà Lạt, đường 20, đường 21 và đánh bọn lùng sục ra vùng bàn đạp Đức Trọng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #83 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 07:47:55 pm »

Bình Tuy đánh phá một số ấp sát chi khu Hàm Tân và đánh 3 đại đội địch từ Lagi kéo lên chi viện. Qua hoạt động, tuy ta có đánh một số trận đạt hiệu quả chiến đấu khá, nhưng Khu ủy và Quân khu thấy cơ sở vẫn còn yếu, phải tăng cường hơn nữa lực lượng bên dưới đủ sức làm nhiệm vụ, nên chủ trương giải thể tiểu đoàn 24C bộ binh của Khu để bổ sung chủ yếu cho bộ đội địa phương của tỉnh Bình Thuận và tỉnh Ninh Thuận, điều chỉnh Tiểu đoàn 200c đặc công thành 1 đại đội đặc công tăng cường, lấy quân số còn lại bổ sung cho các đội biệt động Đà Lạt - Tuyên Đức. Thu hẹp Tiểu đoàn 130 hỏa lực của Khu thành 1 đại đội hỏa lực tăng cường, quân số còn lại bổ sung cho các tiểu đoàn của Quân khu và tỉnh. Quân khu bổ sung đại đội 216 đặc công cho Lâm Đồng, Đại đội 71 trinh sát và Đại đội 10 công binh cho Bình Tuy. Giải thể Đại đội 115 (nữ) của Quân khu để bổ sung cho đoàn vận tải H50, số còn lại bổ sung cho các đôi vũ trang công tác của Bình Thuận. Gần một trăm cán bộ và chiến sĩ của các cơ quan Khu ủy và Quân khu được rút ra bổ sung cho các tỉnh và huyện. Ngoài ra, các đơn vị tập trung của tỉnh (như Tiểu đoàn 145 của Tuyên Đức, Tiểu đoàn 610 của Ninh Thuận, Tiểu đoàn 481 (thiếu) đặc công của Bình Thuận, Đại đội 745 bộ binh của Lâm Đồng) cũng tinh giản biên chế để có quân số bổ sung cho lực lượng huyện và các đội vũ trang công tác. Lúc này, Miền giao huyện Khiêm Đức và thị xã Gia Nghĩa của tỉnh Quảng Đức cũ về cho tỉnh Lâm Đồng, giao huyện Kiến Đức và Phước Long, cá huyện Đức Xuyên, Đức Lập về tỉnh Đắc Lắc (không còn tỉnh Quảng Đức).

Qua điều chỉnh biên chế, lực lượng các huyện được tăng cường, nhất là được tăng thêm thành phần đặc công và công binh. Đội công tác cũng được tăng thêm 30 đội cả về số lượng và chất lượng. Một số địa phương còn đưa một số cán bộ và chiến sĩ ém vào trong dân, để làm nhiệm vụ xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, vũ trang tại chỗ, nhất là các ấp vùng sâu và thị xã.

Cuộc chiến đấu giành giật vùng nông thôn giữa ta và địch diễn ra quyết liệt. Từ mùa hè năm 1971, một độ các cuộc hành quân cảnh sát của địch tăng gấp rưỡi và hành quân càn quét vùng giáp rang tăng gấp đôi năm 1970. Nhưng nhờ tăng cường lực lượng cho cơ sở, với sự tập trung chỉ đạo của các cấp vào địa bàn xã ấp, với thế bố trí mới kết hợp được giữa lực lượng bên trong và bên ngoài, nên công tác đánh phá bình định của các địa phương dần dần chuyển biến tốt. Khó khăn, gian khổ nhiều, nhưng cán bộ đảng viên, chiến sĩ ngày đêm bám sát ấp, xã diệt ác, phá kìm, phát động quần chúng, đẩy được phong trào 3 mũi phát triển. Khá nhất là du kích các ấp Bình Lâm, Tân An, Tuy Hòa, xóm Gò của Bình Thuận, du kích Tháp Chàm của Ninh Thuận, du kích Đạ Roan của Lâm Đồng…

Cán bộ về làng, bộ đội và du kích bám xã - ấp, bọn đầu sỏ ác ôn bị diệt, thế kìm của địch lỏng dần, quần chúng càng kiên quyết đấu tranh chống địch, cơ sở từng bước được phục hồi.

Tính từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1971, toàn Khu đã xóa được 63 ấp trắng và nối lại hàng trăm cơ sở bị đứt liên lạc, việc kèm cặp, bồi dưỡng làm được nhiều hơn trước, chất lượng cơ sở được nâng lên.

Cao điểm từ 23 tháng 9 năm 1971 đến 15 tháng 10 năm 1971: để hỗ trợ cho phong trào chống phá bầu cử Hạ nghị viện và Tổng thống ngụy, các chiến trường đã chuyển lên hoạt động đều, phối hợp được trong ngoài tốt hơn, đánh diệt chi khu Đức Trọng, đánh vào các thị trấn Phan Rí, Tùng Nghĩa, Cầu Đất, đánh đồn Thiện Chánh, 3 phân chi cảnh sát và 4 cụm lô cốt khác; đột nhập vào nhiều ấp chiến lược, tiến công bằng đặc công và pháo kích vào các mục tiêu trong thị xã Phan Thiết, Lagi, Blao, Đà Lạt, Chi khu Hòa Đa, Chi khu Thiện Giáo, Trung tâm huấn luyện Đức Trọng, vũ trang tuyên truyền nhiều lần vào các ấp chiến lược treo cờ, khẩu hiệu và tấn phát nhiều truyền đơn, vạch mặt trò hề bầu cử của ngụy.

Tình hình được chuyển biến như trên cũng có phần nhờ sự tác động của tình hình chung, nhất là chiến thắng ở đường 9 Nam Lào, ở Campuchia (Chen la 1 - Chen la 2) buộc địch phải tập trung đối phó; nhân lúc địch gặp rối ren nhân dân đã mạnh dạn vươn lên đấu tranh chống gom dân, đòi bung về vườn đất cũ sản xuất.

Đặc biệt, phong trào đấu tranh chống phá bầu cử Hạ nghị viện và Tổng thống ngụy diễn ra từ đầu tháng 8 năm 1971 và ngày càng sôi nổi từ thành thị lan ra nông thôn. Nổi bật là Đà Lạt, mặc dầu địch tìm cách dọa dẫm, ngăn chặn nhưng các cuộc hội thảo và biểu tình vẫn diễn ra. Sinh viên, học sinh, công chức, cả thương phế binh và binh lính cũng tham gia chống bầu cử gian lận kéo dài trong nhiều ngày.

Công tác tuyên truyền thời sự và phổ biến chính sách trong hàng ngũ địch có tác dụng phân hóa cô lập số xấu, tranh thủ được nhiều binh lính và nhân viên ngụy quyền, góp phần làm lỏng rã kìm. Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1971 đã có 2100 tên đào rã ngũ, có một số chịu nhận công tác cách mạng giao.

Tóm lại, năm 1971, tình hình các mặt trong Khu có tiến bộ, tính đến tháng 10 năm 1971, dân vùng làm chủ có 50.607, vùng tranh chấp 77.673, vùng lõng kìm 122.423 và vùng còn bị kìm là 235.000; dân vùng căn cứ giải phóng ổn định hơn, nối liền phía sau và phía trước, miền núi và đồng bằng; việc ăn ở, đi lại học tập của các cơ quan và lực lượng được rộng rãi hơn; nhân dân đã đóng góp được nhiều sức người, sức của cho phía trước, sản xuất lương thực, lúa, bắp, sắn đều tăng, không những đủ cung cấp cho các lực lượng địa phương mà còn giải quyết một phần cho lực lượng trên (Trung đoàn 33 Miền) và Quân khu bạn (Quân khu VII).

Từ năm 1969 đến năm 1971 là một trong các thời kỳ có nhiều khó khăn, gian khổ của Đảng bộ và quân dân Khu VI. Lúc đầu do chưa đánh giá đúng bản chất ngoan cố xảo quyệt của địch, nhất là chưa dự kiến đầy đủ khả năng chúng vừa xuống thang chiến tranh, vừa tập trung sức đánh phá ta, ta lại chưa có chủ trương và biện pháp đối phó thích hợp và kịp thời nên phong trào gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Sau đó, được sự chỉ đạo của trên, kiểu cách hoạt động được sửa đổi, chuyển mạnh xuống địa bàn xã ấp, phá kìm giành dân kết hợp với đánh lực lượng yểm trợ bên trên, nên tình hình đã chuyển biến; nhất là với thắng lợi Xuân Hè năm 1971 ở trong Khu và thắng lợi to lớn của toàn Miền tác động, phong trào trong Khu ước đầu có thêm thế và lực mới, có thêm điều kiện để bước vào năm 1972 giành thắng lợi lớn hơn.

Thực tiễn cho thấy: trước một đối tượng tác chiến mà mỗi lần chúng thay đổi chiến lược chiến tranh là mỗi lần chúng thay đổi cả biện pháp, thủ đoạn, nếu ta chỉ chú ý đến những âm mưu lớn mà không nắm được những biện pháp, thủ đoạn cụ thể của địch, để có chủ trương đối phó thích hợp, thì sẽ lâm vào thế bị động, khó khăn và tổn thất. Cố nhiên nó không thể xoay chuyển được xu thế phát triển cơ bản của tình hình nhưng nó cũng làm chậm bước tiến của ta, bắt ta phải trả giá.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #84 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 07:50:08 pm »

III. CÙNG TOÀN MIỀN THỰC HIỆN CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC NĂM 1972,
GÓP PHẦN GIÀNH THẮNG LỢI BUỘC ĐỊCH PHẢI KÍ KẾT
HIỆP ĐỊNH PARIS VỀ VIỆT NAM

Trên toàn miền, trong năm 1971, các chiến trường đã đánh phá có kết quả kế hoạch bình định của địch, ngăn chặn và đẩy lùi chúng ở nhiều nơi, thực hiện phá lỏng rã kìm trên một diện rộng và xây dựng thêm được thế mới trên mặt trận đánh phá bình định. Đồng thời ở Campuchia và đường 9 Nam Lào, ta đã đánh thắng giòn giã cuộc phản công mùa khô của quân ngụy, có không quân Mỹ hỗ trợ.

Tháng 5 năm 1971, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định nhiệm vụ tiến công chiến lược năm 1972 như sau: “… Động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị, ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của Mỹ ở Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”.

Tháng 10 năm 1971, Trung ương Cục họp Hội nghị lần thứ 11 để quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị và đề ra nhiệm vụ trong năm 1972 là cùng với các chiến trường khác trên toàn Miền, với 3 quả đấm chiến lược(1) đánh bại về cơ bản chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ trên chiến trường miền Nam và giành thắng lợi lớn trên chiến trường Campuchia, đồng thời cũng chuẩn bị đánh lâu dài nếu địch còn ngoan cố. Thường vụ Trung ương Cục và Quẩn ủy Miền cũng đề ra quyết tâm cụ thể cho từng chiến trường trong toàn Miền. Riêng đối với Khu VI, Miền chỉ đạo mở chiến dịch tổng hợp ở khu vực trọng điểm đánh phá bình định của Khu. Đồng chí Lê Văn Hiền, Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Phó bí thư Quân khu ủy đã dự Hội nghị này(2).

Tháng 12 năm 1971, Hội nghị Khu ủy mở rộng. Sau khi nghe đồng chí Lê Văn Hiền truyền đạt quán triệt Nghị quyết của Trung ương Cục, Hội nghị đã bàn và đề ra nhiệm vụ cho toàn Khu là: “… Nỗ lực khẩn trương phấn đấu đánh sụp một bước nghiêm trọng ngụy quân, ngụy quyền (chủ yếu là cơ sở) và âm mưu bình định của địch, phá lỏng rã kìm; mở cơ sở và phong trào trên hầu hết xã, ấp, xây dựng nâng lên làm chủ nhiều mức độ đại bộ phận nông thôn, kết hợp với bung dân ra khôi phục vùng giải phóng cũ, mở thêm những lõm giải phóng mới, lập thế liên hoàn giữa các vùng; đồng thời ra sức đưa phong trào thành thị lên phối hợp với cao trào đấu tranh của các đô thị trong Miền; hỗ trợ trực tiếp có hiệu quả cho phong trào đánh phá bình định ở nông thôn; ra sức xây dựng ta về các mặt. nhất là xây dựng lực lượng tại chỗ ngày càng vững mạnh để đủ sức liên tục tiến công và nổi dậy giành thắng lợi lớn, sẵn sàng chủ động đối phó với mọi tình huống.

Tháng 1 năm 1972, Quân khu mở Hội nghị cán bộ trung cao cấp trong toàn Quân khu, để học tấp, quán triệt Nghị quyết, chủ trương hoạt động của Miền và của Khu ủy, và kinh nghiệm mở chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định (một loại hình chiến dịch mới, mà Miền mới tổng kết).

Lúc này trong Khu, quân Mỹ còn khoảng 1.500 tên, chủ yếu là lực lượng yểm trợ của không quân Thành Sơn và pháo binh, công binh. Quân cộng hòa còn 2 trung đội bộ, 9 tiểu đoàn nhưng đang điều dần đi các chiến trường chính; đến cuối tháng 3 năm 1972 chỉ còn 1 tiểu đoàn cộng hòa và chi đoàn bọc thép 2/8 ở Bình Thuận. Chúng đang ra sức huấn luyện và tăng cường trang bị cho lực lượng địa phương, nâng dần chức năng cơ động của bảo an và dân vệ, lập thêm một số tiểu đoàn, ghép thêm các liên đội bảo an cho các tỉnh; huấn luyện bọn này sử dụng cơ giới và trực thăng; xây dựng phát triển lực lượng phòng vệ dân sự giữ ấp; tăng thêm các phân chi cảnh sát xã, nâng bọn này lên thành lực lượng nòng cốt, kìm kẹp quần chúng, ngày đêm lùng sục truy bắt cơ sở. Bên ngoài dùng quân cộng hòa còn lại nống ra vùng giáp ranh, đột sâu vào một số vùng căn cứ để vừa đánh phá, vừa phát hiện, ngăn chặn sự tiến công mùa khô của ta.

Mở chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định

Để thực hiện quyết tâm chung của Miền và Nghị quyết tháng 12 năm 1971 của Khu ủy, Thường vụ Khu ủy và Đảng ủy Quân khu chủ trương mở chiến dịch tổng hợp. yêu cầu của chiến dịch là: đánh phá bình định ở trọng điểm Bình Thuận tiêu hao và làm tan rã một lực lượng bảo an cơ động, dân vệ, cảnh sát, phá lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp, bung dần về khôi phục vùng giải phóng cũ, mở thêm những lõm giải phóng mới, nâng thế làm chủ nhiều mức độ trên đại bộ phận nông thôn còn lại, phát triển cơ sở và đưa phong trào thị xã, thị trấn lên một bước mới, cắt giao thông… phối hợp với các chiến trường trong toàn Miền.

Khu vực Tam giác đường số 8 và đường số 1, đoạn từ Lương Sơn đến Tà Nung (đông bắc Phan Thiết) là điểm tiến công thu hút tiêu diệt lực lượng cơ động của địch, tạo thuận lợi cho nhân dân khu vực Tam giác đường số 8 nổi dậy giành quyền làm chủ và bung về vườn đất cũ.

Lực lượng sử dụng là các tiểu đoàn của Khu, Tiểu đoàn 482 của tỉnh, bộ đội huyện và du kích. Thời gian chiến dịch từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1972, chia làm 3 đợt, đồng thời cũng là 3 cao điểm để các chiến trường khác trong toàn Quân khu phối hợp.

Mở màn chiến dịch: ngày 6 tháng 4, ta dùng đặc công tiêu diệt cứ điểm Lương Sơn (Bình Thuận), nhưng đánh không gọn, ta chuyển sang vây ép, khống chế các cứ điểm Cây Táo, Gộp… gài, kéo đánh các lực lượng đi chi viện và giải tỏa của chi khu, tiểu khu. Kết quả là: đã đánh diệt và gây thiệt hại một số đại đội, trung đội bảo an và bọn cơ giới, thu hút được các tiểu đoàn bảo an cơ động của tiểu khu và chi đoàn xe bọc thép 2/8,tạo thuận lợi cho các địa phương đấu tranh 3 mũi phá ấp, phá kìm; nhất là trên trục đường số 8 và đường số 1 (bắc và đông bắc Phan Thiết) bộ đội địa phương và du kích đẩy hoạt động, diệt được các lô cốt lẻ, bao vây đồn bót, đánh bọn gài mìn phục kích; đột vào ấp đánh lực lượng kìm, phát động quần chúng, du kích mật ở một số xã đã diệt cảnh sát, ác ôn, uy hiếp, phân hóa, tranh thủ phòng vệ dân sự. Quần chúng đã nhân dịp này kết đấu tranh chính trị và binh vận chống phá sự kìm kẹp của địch, chống bắt lính, bảo vệ thanh niên, đòi bung về ruộng vườn đất cũ làm ăn. Trên cánh đồng Tam Giác, Hàm Phú, Hàm Trí và dọc sông Khiêng, này càng có nhiều bà con bung ra làm ăn, dựng chòi trại ở lại. Binh lính được quần chúng tuyên truyền mười chính sách của Mặt trận nên đã tỏ thái độ làm ngơ hoặc đồng tình để cho dân hành động, tránh né lực lượng ta, không chịu đi viện, bỏ gác, v.v.

Trong hai tháng 6 và 7 năm 1972 ta liên tiếp có những trận tập kích vào Camp Êsépic, vào thị xã Phan Thiết, căn cứ Sông Mao và các chi khu Hải Ninh, Hòa Đa, Thiện Giáo, tiến công phá rã một số ấp chiến lược, đưa 32.000 dân lên làm chủ, phá lỏng rã kìm 65.000 dân, vận động rã ngũ 560 bảo an, dân vệ, 350 phòng vệ dân sự. Ở Tuyên Đức, Tiểu đoàn 810 và Đại đội 816 tiến công địch ở các ấp Phú Hội, Tùng Nghĩa và trục đường 21 kéo dài hỗ trợ nhân dân phá kìm ở các ấp Phú Sơn, Gia Thạnh, Đa Huynh; mở rộng đường hành lang từ căn cứ tỉnh Lâm Đồng qua đường 21 kéo dài đến Nam Ban, vùng bàn đạp tây nam thị xã Đà Lạt; trong thành phố, biệt động và tự vệ mật diệt được một số ác ôn.

Lực lượng vũ trang Lâm Đồng phá các ấp chiến lược “Minh Rồng - An Lạc”, đánh phá cắt đứt nhiều đoạn giao thông trên đường 20, khai thông được hành lang Nam - Bắc đường 20, đoạn Đa Oai và Tứ Quý.

Ở Ninh Thuận, du kích và bộ đội địa phương 2 huyện căn cứ Bác Ái, Anh Dũng đã ra phía trước phối hợp cùng lực lượng của tỉnh và các huyện đồng bằng, đánh địch trên đường 11, phá các ấp phía tây nam An Phước. Các đội vũ trang công tác đi sâu phát động quần chúng ở La Chữ, Cà Ná, Khánh Nhơn, Hoài Trung, Hữu Đức…

Lực lượng vũ trang Bình Tuy mở hoạt động vào Gia An, Huy Khiêm, Tề Lễ, Lạc Tánh, Xã Dú ở Tánh Linh, và phá ấp giành dân ở các xã Phong Điền, Hiệp Nghĩa ở Hàm Tân.


(1) Quả đấm của chủ lực, quả đấm đánh bình định ở nông thôn (quân sự, chính trị, binh vận) quả đấm của phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân các đô thị.
(2) Lúc này đồng chí Lê Thành Công (Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu được Miền điều ra miền Bắc chữa bệnh, đồng chí Phạm Văn Kha (Phó tham mưu trưởng) được bổ nhiêm Tham mưu trưởng Quân khu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #85 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 07:51:24 pm »

Chuẩn bị đón thời cơ.

Trên toàn miền Nam, địch bị thua đau trong cuộc tiến công chiến lược và bị thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, nên từ mùa thu năm 1972, đế quốc Mỹ đã buộc phải chuẩn bị để ký kết Hiệp định Pa-ri về Việt Nam.

Ở chiến trường Khu VI, từ giữa tháng 7 năm 1972 địch đã đưa đến một số lực lượng cơ động, tăng cường cho lực lượng tại chỗ và bắt đầu phản kích. Lực lượng Quân khu tuy có được Bộ Tư lệnh Miền tăng cường cho 2 tiểu đoàn (15, 17) bộ binh và trung đoàn bộ nhẹ ghép thành Trung đoàn 211 (thiếu), nhưng quân số, vũ khí trang bị đều rất thiếu.

Tháng 10 năm 1972, được hướng dẫn của trên, Quân khu đã động viên các lực lượng đẩy mạnh tiến công và nổi dậy mở rộng vùng giải phóng nông thôn; đồng thời khẩn trương xây dựng các mặt trận chuẩn bị cho kế hoạch thời cơ có giải pháp chính trị(1).

Trọng điểm hoạt động chuyên về phía nam (từ khu vực Tam Giác của Bình Thuận qua đến Tánh Linh - Hoài Đức của Bình Tuy và lên đường 20 phía nam đèo Blao của Lâm Đồng), nhằm mở rộng vùng giải phóng và tuyến hành lang từ Miền về Quân khu. Điều Tiểu đoàn 840 từ bắc Bình Thuận vào địa bàn đường số 8 Tam Giác, Tiểu đoàn 186 vào Tánh Linh - Hoài Đức, Tiểu đoàn 200c từ Bình Thuận lên khu vực Đa Oai (Lâm Đồng), Trung đoàn 211 (thiếu) đứng hoạt động ở đoạn nam đèo Blao trên đường 20 của Lâm Đồng.

Bước vào hoạt động, đêm 14 tháng 10 năm 1972, Tiểu đoàn 200c (thiếu) đặc công tập kích tiêu diệt chi khu Đa Oai (một cứ điểm khá kiên cố từ lâu khống chế đoạn đường 20 và bảo vệ cầu Đa Oai) và đánh sập cầu Đa Oai. Sáng ngày hôm sau Trung đoàn 221 (thiếu) đánh gãy cánh quân chi viện giải tỏa của tiểu khu Lâm Đồng ngay tại chân đèo Blao, diệt và đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an. Ta làm chủ đoạn đường 20 từ nam đèo Blao đến nam cầu Đa Oai trong nhiều ngày.

Tiểu đoàn 186 cùng với lực lượng địa phương Bình Tuy gài, bám đánh bọn bảo an, dân vệ và lực lượng kìm ở các khu vực ấp chiến lược Nghị Đức, Gia An, Lạc Tánh, diệt một số trung đội bảo an, dân vệ mở rộng diện lỏng rã kìm và làm chủ từng lúc trên một số đoạn đường tỉnh lộ số 3.

Ở khu vực Tam Giác trên đường số 8 (Bình Thuận), Tiểu đoàn 840 cùng với các lực lượng địa phương đánh liên tiếp ba trận cấp tiểu đoàn và tiểu đoàn tăng cường ở các ấp Bình Lâm, Tân Điền, An Phú. Với chiến trường quen thuộc và lối đánh sở trường “vận động tiến công kết hợp với chốt chặn”, khéo nghi binh kết hợp, có công sự khá vững chắc và tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, Tiểu đoàn đã lần lượt đánh thiệt hại từng đại đội bảo an và chi đoàn 2/8 của tiểu khu đi giải tỏa. Các lực lượng vũ trang, chính trị của địa phương đã áp sát vào ấp, kể cả các ấp vùng sâu, vùng en thị xã Phan Thiết, vừa tấn công địch, vừa phát động quần chúng đấu tranh 3 mới và xây dựng lực lượng tại chỗ.

Ở hướng diện của Bình Thuận, Tiểu đoàn 482 cùng với lực lượng bộ đội địa phương huyện và du kích vừa đánh tiêu diệt nhỏ, vừa bám đánh phá các ấp từ Lương Sơn đến phía tây Chợ Lầu.

Các tỉnh khác tuy đánh nhỏ nhưng đều, vừa đột đánh vào ấp chiến lược, vừa xây dựng phát triển lực lượng tại chỗ, nâng phong trào 3 mũi lên. Đồng thời đánh phá giao thông, đánh vào một số thị xã, hậu cứ. Tỉnh Tuyên Đức nhiều lần pháo kích và đánh đặc công vào một số mục tiêu trong Đà Lạt, sân bay Cam Ly. Ninh Thuận thường xuyên bắn hỏa tiễn H12 gây mất ổn định căn cứ không quân Thành Sơn. Lâm Đồng liên tục đánh phá các ấp chiến lược trên đường 20, nhất là đoạn từ đèo Blao đến giáp Định Quán (Long Khánh). Lực lượng địa phương Bình Tuy đưa hoạt động vào vùng sâu của huyện Hàm Tân và thị xã Lagi.

Kết hợp với tiến công quân sự, ta đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và binh vận. Tổ chức những đợt hoạt động đồng loạt: cán bộ chính trị, đội mũi công tác và lực lượng vũ trang bám vào ấp tuyên truyền phát động quần chúng, xây dựng, giáo dục cơ sở. Mặt khác, tổ chức đưa quần chúng ra bên ngoài hội họp (họp nhóm, họp giới, họp đại biểu nhân dân…), để tuyên truyền, phát động thâm nhập chính sách và hướng dẫn đấu tranh; qua đó khơi dậy được khí thế của quần chúng, mạnh dạn đấu tranh làm lỏng rã kìm, bung ra làm ăn, mạnh dạn tiếp xúc với cách mạng, đấu tranh chống bắt lính, bảo vệ thanh niên, tuyên truyền cho lực lượng phòng vệ dân sự bỏ canh gác, không chịu cầm súng, chống đôn lên dân vệ, bảo an, đòi được ở nhà làm ăn…

Phong trào được sự đồng tình của binh lính, sĩ quan và lan rộng vào vùng sâu, vùng công giáo. Ta cũng tuyên truyền được chính sách vào đồng bào Chăm, Nùng, công giáo di cư khá hơn. Trong toàn khu lúc này dân bung ra làm ăn có đến hàng vạn người, hàng ngàn gia đình đã ra các chòi trại, ở lại hẳn vùng ta.

Ở Đà lạt, Phan Rang phong trào bị vỡ, một số đảng viên, ở bị bắt, bị đứt liên lạc. Còn Phan Thiết vẫn giữ được phong trào và phát triển tốt hơn. Đến cuối năm 1972, Đà Lạt có 9 lõm chính trị. Phan Thiết 6, Blao 3. Trong đấu tranh, quần chúng đã biết vận động các tổ chức công khai để tạo thêm thế và lực.

Cùng với tác động của tiến công quân sự, công tác binh vận trong năm 1972 làm tan rã ngũ 2386 binh lính và hơn 1000 phòng vệ dân sự, xây dựng được 543 cơ sở nội tuyến trong phòng vệ dân sự, bảo an, tranh thủ được một số sĩ quan; nắm và sử dụng với nhiều mức độ 29 toán phòng vệ dân sự, 32 trung đội dân vệ, 3 đại đội bảo an, và làm cho một số toán phòng vệ dân sự khác mất hiệu lực. Lúc này, số chỉ huy đồn bót nghiêng về phía hòa bình, phía nhân dân có tăng lên, ác ôn bị cô lập; hiện tượng hòa hoãn, trung lập, đồng tình với nhân dân phát triển.

Công tác xây dựng, phát triển thực lực tại chỗ cũng được xúc tiến mạnh. Đến cuối năm 19 72, vùng nông thôn phía trước: 338 (trong số 507) ấp có cơ sở, 148 ấp có chi bộ thuộc đảng viên, 96 ấp có đoàn viên, 152 ấp có du kích mật. Dân vùng căn cứ giải phóng có 24.163; nông thôn phía trước có 534.810 dân (vùng làm chủ 43.914 người (trong 47 ấp), vùng tranh chấp có 82.650 dân (trong 89 ấp), vùng lỏng kìm có 163.025 dân (trong 143 ấp), vùng kìm là 239 ấp với 235.000 dân). Riêng lực lượng vũ trang cuối năm 1972: quân số còn 5.593 (so với năm 1971 giảm gần 200). Tân binh rút ở địa phương được ít và số trên bổ sung cũng không bù kịp với đà bị tiêu hao, tổn thất(2).

Tuy sức ta có bị hạn chế, nhưng nhìn chung, qua hoạt động và chuẩn bị cho thời cơ, các lực lượng đã có nhiều cố gắng, đã mạnh dạn áp sát ra phía trước, huy động thêm được lực lượng phía sau (căn cứ, cơ quan) tăng cho phía trước. Nhờ đó mà đẩy tiến công quân sự và chính trị lên đều hơn, diện tiếp xúc với quần chúng được rộng rãi hơn. Công tác ảo đảm lương thực, vũ khí đạn dược cho các lực lượng chiến đấu phía trước và chuẩn bị cho kế hoạch thời cơ tiếp theo cũng được tiến hành khẩn trương với mọi khả năng có thể (Bình Tuy mua từ vùng địch hàng trăm tấn bột mì…).


(1) Chỉ thị ngày 10 tháng 10 năm 1972 của Quân khu “Từ nay đến khi có ngừng bắn, khi ngừng bắn, sau khi ngừng bắn, từng lúc phải làm gì?” (Số bảo mật 895 QK lưu tại bộ phận phía Nam của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam).
(2) So sánh tương quan ta - địch cuối năm 1972, tổng quân số địch trong Khu (chưa tính phòng vệ dân sự là 22.058 tên, chiếm tỉ lệ 4/1 so với ta. Ta 1972 tuyển tân binh và rút du kích địa phương lên được 372, cơ quan dân chính đảng chuyển qua 271, Miền bổ sung 485, trong đó Tiểu đoàn 15 quân số chỉ có 280.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #86 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 07:51:47 pm »

Tranh thủ “Chồm lên” giành thêm thắng lợi trong thời cơ ký Hiệp định Paris về Việt Nam

Để chuẩn bị giành thêm thắng lợi trong thời cơ ký kết Hiệp định Paris, từ cuối tháng 12 năm 1972, ta đã đẩy mạnh hoạt động và tạo thế, triển khai lực lượng áp sát vào các mục tiêu theo “Kế hoạch thời cơ”. Đồng thời cũng chuẩn bị khả năng địch ngoan cố kéo dài chiến tranh. Khu ủy và Quân khu đã huy động tối đa các lực lượng cơ quan, đơn vị sản xuất ở phía sau, dân quân du kích và cả dân vùng căn cứ địa phương ra cùng với lực lượng phí trước chuẩn bị “chồm lên”, chuyển các cơ quan Khu, tỉnh ra đứng các vùng bàn đạp để kịp thời chỉ huy, chỉ đạo.

Theo kế hoạch thời cơ thì ngay trong đêm trước ngày ký kết hiệp định, tất cả các lực lượng của ta bên ngoài phải áp sát vào ấp phối hợp với lực lượng tại chỗ tranh thủ đánh chiếm, làm chủ nhiều ấp, làm chủ nhiều đoạn giao thông quan trọng, mở rộng vùng ta, đánh địch phản kích và quyết giữ cho đến vùng ta, đánh địch phản kích và quyết giữ cho đến giờ ngừng bắn có hiệu lực (theo quy định của Hiệp định). Sau đó, tổ chức hội họp quần chúng tuyên truyền, phổ biến nội dung Hiệp định, treo băng cờ, khẩu hiệu hoan nghênh Hiệp định, hoan nghênh ngừng bắn… sẵn sàng đánh trả bọn ngoan cố phản kích lấn chiếm.

Trước những ngày đó, địch cũng ra sức chuẩn bị đối phó với các cuộc tiến công của ta và nổi dậy của quần chúng. Tại trọng điểm Bình Thuận, địch tăng thêm 1 tiểu đoàn cộng hòa, 1 chi đoàn xe bọc thép, 1 tiểu đoàn công binh, 1 phi đội trực thăng và pháo binh, 2 tàu chiến Mỹ rập rình ngoài cửa Phan Thiết; chúng còn dùng cả B52 đánh dọc trục đường sắt trên khu vực Tam Giác để ngăn chặn ta. Chúng ra lệnh giới nghiêm cấm trại 100 phần trăm. Tất cả các địa phương tăng cường quân xuống giữ các chốt, ấp, trục giao thông, vành đai thị xã, cho lính ra cắm cờ ở những vùng tranh chấp, đưa bọn sĩ quan tâm lý chiến, bọn an ninh quân đội xuống kìm các đơn vị bảo an, dân vệ và phòng vệ dân sự.

Mặc cho địch ra sức ngăn chặn, đề phòng, đêm 26 rạng ngày 27 tháng 1 năm 1973 các lực lượng vũ trang và chính trị trong toàn Khu đã đồng loạt nổ súng tiến công địch trên hầu khắp các địa phương. Ở hướng trọng điểm của Khu, ta chủ động đồng loạt đánh chiếm, làm chủ nhiều ấp trên đường số 8 như Bình Lâm, Bình An, Tân Điền, vùng ven thị xã Phan Thiết, ấp Đại Hòa, Đại Thiện, thị trấn Mường Mán, các ấp trên đường số 3 đoạn Tánh Linh - Hoài Đức của Bình Tuy, các ấp trên đường 20 ở đoạn phía nam Đa Oai của Lâm Đồng, một số ấp phía tây An Phước trên đường 11 của Ninh Thuận, trên đường 21 của Tuyên Đức. Các lực lượng của ta cũng đồng thời đánh chiếm, phá hoại, làm chủ nhiều đoạn trên hầu hết các con đường giao thông quan trọng trong khu.

Từ rừng núi đến đồng bằng, ở các xóm ấp, ta làm chủ ven trục lộ giao thông, ven thị trấn, thị xã, cờ cách mạng đồng loạt mọc lên. Lực lượng ta chốt xen kẽ với địch trên các đường 11, đường số 1, đường số 8, đường số 3… Hình thái cài răng lược (địch và ta) và giành giựt giữa ta và địch đang diễn ra ở khắp các địa phương.

Ngày 27 tháng 1 năm 1973 và những ngày tiếp theo, địch liên tục phản kích cố đánh bật ta ra khỏi các ấp mới chiếm được, bất chấp giờ ngừng bắn đã có hiệu lực; chiến sự diễn ra ác liệt ở nhiều nơi.

Ở mảng trọng điểm: địch và ta tranh chấp quyết liệt các khu ấp chiến lược Đại Thiện - Đại Hòa (vùng ven Phan Thiết), Bình Lâm - Tân Điền… trên trục đường số 8 (thị trấn Mường Mán và thị trấn Tánh Linh… Chúng dùng phi pháo và cả xe tăng đánh vào các khu, ấp bị ta đánh chiếm với tính chất hủy diệt, tàn phá nhiều nhà cửa, tài sản, gây thương vong cho nhân dân và lực lượng của ta. Sau giờ ngừng bắn có hiệu lực, ta còn chiếm giữ được 36 ấp, nhưng do sức ta có hạn và để tránh bớt thiệt hại cho nhân dân, nên sau 1 ngày đêm chiến đấu quyết liệt (28 tháng 1 năm 1973, ta rút ra khỏi phần lớn các ấp vùng sâu. Ở Bình Tuy, các khu ấp Hiếu Tín, Huy Lễ, Gia An, Võ Xu trên trục đường số 3 (Hoài Đức - Tánh Linh) ta chiếm giữ đến ngày 3 và ngày 4 tháng 2 năm 1973. Trên các trục giao thông, ta liên tục đánh bọn phản kích giải tỏa. Đường 20 đoạn từ Đa Oai và đường số 3 ta cắt và làm chủ đến ngày 7 tháng 2 năm 1973 địch mới giải tỏa được. Trên hướng trọng điểm đường 8 Tam Giác, sau khi chuyển lực lượng ra, ta vẫn giữ được thế áp sát, giữ được các bàn đạp vùng ven Phan Thiết và các ấp trên trục giao thông, đã đánh trả được các cuộc bung ra cắm cờ lấn đất của địch, chúng không thực hiện được mưu đồ đánh bật lực lượng ta để chiếm lại khu Tam Giác (là một bàn đạp lợi hại, thường xuyên uy hiếp thị xã Phan Thiết).

Tóm lại, từ giữa năm 1971, sau khi chuyển lại kiểu cách hoạt động tốt hơn phong trào trong Khu đã từng bước chuyển lên, cùng toàn Miền thực hiện thắng lợi cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và tranh thủ giành thêm thắng lợi trong thời cơ ký kết Hiệp định Paris tháng 1 năm 1973.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #87 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 07:53:49 pm »

Chương VI

TRONG THỜI CƠ CHIẾN LƯỢC SÁT CÁNH CÙNG TOÀN MIỀN
VƯƠN LÊN THỰC HIỆN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975,
GIẢI PHÓNG TOÀN QUÂN KHU
(Tháng 01 năm 1973 - 30 tháng 4 năm 1975)

I. GIỮ VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN THẾ TIẾN CÔNG ĐỊCH
SAU KHI CÓ HIỆP ĐỊNH PARIS CHO ĐẾN CUỐI NĂM 1973

Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và chiến công xuất sắc của quân và dân ta, đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng, đã buộc chính phủ Mỹ phải ký kết Hiệp định ngày 27 tháng 1 năm 1973 tại Paris.

Theo Hiệp định, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, cam kết tôn trọng các quyền làm dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, chấm dứt dính líu quân sự và can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam… Các đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam giữ nguyên lực lượng và thế bố trí rên các địa bàn chiến lược.

Song đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố bám lấy miền Nam và Đông Dương bám lấy “Học thuyết Níchxơn” và chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ của Mỹ, âm mưu đặt toàn bộ miền Nam Việt Nam dưới ách thống trị thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta.

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi quân và dân cả nước: “Tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã giành được, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình, thống nhất nước nhà”.

Quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương và Trung ương Cục, Khu ủy và Quân khu ủy Khu VI đề ra chủ trương: một mặt phải tôn trọng Hiệp định Pais, một mặt phải đấu tranh đòi địch phải thi hành Hiệp định, phải giữ vững và phát triển thế tiến công địch, bảo vệ và mở rộng vùng ta, khẩn trương xây dựng lực lượng ta lớn mạnh. Các lực lượng vũ trang phải đứng vững ở các vùng ven ấp, ven đường, sẵn sàng đánh trả địch bung ra lấn chiếm, diệt ác, phá kìm, hỗ trợ đắc lực cho phong trào chính trị, đẩy mạnh 3 mũi tại chỗ tiến công địch, tạo điều kiện cho dân bung ra làm ăn rộng rãi, đồng thời phải có những trận thọc sâu đánh phá cơ quan đầu não, kho tàng… và các đơn vị ác ôn của địch, nhưng phải thật gọn, thật khôn khéo.

Đánh địch vi phạm Hiệp định

Ngay khi Hiệp định Paris có hiệu lực, ngày 28 tháng 1 năm 1973, Nguyễn Văn Thiệu được chủ Mỹ hà hơi, đã trắng trợn tuyên bố quyết chống phá hiệp định, đưa ra khẩu hiệu 4 không (không có hòa bình, không có ngừng bắn, không có giải pháp chính trị, không có tổng tuyển cử) và ra lệnh cho quân ngụy thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” ào ạt lấn chiếm vùng giải phóng của ta.

Ở Khu VI, địch dùng phi pháo, xe tăng cùng bộ binh phản kích hòng chiếm lại các ấp mà ta đã giành được trong “kế hoạch chồm lên”. Nhưng chúng đã bị quân ta đánh trả quyết liệt. lúc 8 giờ 30 phút ngày 29 tháng 1 năm 1973 đồng chí chỉ huy trưởng mặt trận đường 8 Tam giác, dùng máy bộ đàm nói chuyện với Ngô Tấn Nghĩa (tỉnh trưởng Bình Thuận) kêu gọi chúng tôn trọng Hiệp định Paris, chấm dứt dùng phi pháo và các cuộc hành quân lấn chiếm ra các vùng giải phóng. Nhưng chúng vẫn ngoan cố, không chấp nhận. Ta phải dùng hỏa tiễn H.12 đánh thẳng vào tiểu khu Phan Thiết để cảnh cáo(1).

Do tác động của Hiệp định và những trận đánh trả quyết liệt của ta, trong sĩ quan và binh lính địch có những biểu hiện dao động, cầu an, một số nơi tỏ thái độ hòa hoãn, chịu tiếp xúc với ta để bàn việc thực hiện ngừng bắn tại chỗ, nghe ta giải thích Hiệp định(2)

Nhưng sau đó, do bọn bên trên thúc ép nên các cuộc hành quân vẫn tiếp diễn theo chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” và “bình định đặc biệt”. Trên các địa bàn trong Khu địch đưa quân nống dần ra vùng ven ấp, nhổ cờ ta, cắm cờ chúng(3), từng bước lấn sâu ra vùng giải phóng. Âm mưu của chúng là đẩy lực lượng ta ra xa và chốt lại các vị trí đã rút bỏ trước, xóa thế “da báo”; trước hết là giành lại các vùng ta mới giải phóng trong năm 1972 và trên các trục giao thông chiến lược, có những nơi lực lượng ta mỏng, bị địch lấn chốt thêm đồn bót trên vùng giải phóng, hoặc ven căn cứ ta.

Ở trọng điểm Bình Thuận, địch cố giành lại mảng đường 8 Tam Giác, đẩy lực lượng ta lên trên đường sắt, khôi phục đoạn đường sắt từ Ninh Thuận vào Gia Rai, lấy đây làm tuyến phân ranh giới giữa hai bên và làm nơi để đón đoàn quân sự của ta vào Ban Liên hiệp Quân sự bốn bên tại khu vực 4 (Cam Êsépic - Phan Thiết). Nhưng chúng đã bị ta đánh trả quyết liệt, không thực hiện được.

Đầu tháng 2 năm 1973, địch hành quân lấn chiếm, nhổ cờ vùng ven bắc Phan Thiết và dọc đường số 8, đã bị tiểu đoàn 840 và các lực lượng địa phương chặn đánh. đến ngày 7 tháng 2 năm 1973, địch cho 2 chi đoàn xe bọc thép và đại đội bộ binh nống ra vùng ven ấp Tân Điền (đường 8), dùng hỏa lực bắn vào các vị trí cắm cờ và chốt của ta; lại bị các lực lượng ta đánh trả, buộc chúng phải rút lui.


(1) Đồng chí Võ Đức Nhi (chỉ huy trưởng) dùng máy bộ đàm nói chuyện, nhưng chúng đã không chấp nhận ý kiến ta mà còn ngoan cố đòi ta phải rút lên trên đường sắt, giao cả vung Tam giác cho chúng.
(2) Sau khi Hiệp định có hiệu lực, địch và ta nhiều nơi đóng xen kẽ nhau ở cấp trung đội, đại đội, nên cán bộ, chiến sĩ ta tranh thủ giải thích về Hiệp định, về hòa hợp dân tộc, nhiều binh sĩ địch vui mừng.
(3) Trong thời cơ “chồm lên”, ta và địch đều có cắm cờ, để xác định phạm vi lãnh thổ kiểm soát của mỗi bên khi Hiệp định Paris có hiệu lực.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #88 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 07:55:29 pm »

Trung tuần tháng 2 năm 1973, Thường vụ Khu ủy ra chỉ thị: phải dùng ba mũi giáp công đánh trả địch, buộc địch phải thi hành Hiệp định.

Ngày 10 tháng 3 năm 1973, địch lại liều lĩnh cho Tiểu đoàn 202 bảo an của tiểu khu, có sự yểm trợ của phi pháo, mở cuộc tiến công lấn chiếm Xóm Bàu (Tam Giác), phía tây đường số 8, cách bắc Phan Thiết 4 ki-lô-mét. Trên thế đã bố trí sẵn, Tiểu đoàn 840 xuất kích đánh trả quyết liệt, gây thiệt hại nặng 1 đại đội, bắt sống 9 tên, thu 27 súng các loại; số còn lại tháo chạy về ấp Tân Điền.

Hai ngày sau, tại Ban Liên hiệp Quân sự bốn bên, thuộc khu vực 4, tên trưởng phái đoàn ngụy tố cáo ta vi phạm Hiệp định ngừng bắn, nổ súng đánh vào Tiểu đoàn 202 bảo an gây hương vong cho chúng, bắt sống 25 tên và yêu cầu ta trả lại số lính bị bắt. Đồng chí Thượng tá Nguyễn Trọng Xuyên, Trưởng phái đoàn ta đã kháng cáo là chính chúng đã vi phạm Hiệp định, xua quân tấn công lấn chiếm vùng kiểm soát của ta; yêu cầu Ban Liên hiệp Quân sự bốn bên và Ủy hội Quốc tế hãy mở cuộc điều tra tại chỗ để có kết luận chính xác. Nhưng do bị thất lý nên sau đó chúng đã lờ đi, để tránh cuộc điều tra.

Ở hướng bắc Bình Thuận, Tiểu đoàn 482 (thiếu) và các lực lượng địa phương đứng sát các ấp dọc đường số 1 từ Lương Sơn ra Vĩnh Hảo đã kịp thời chặn đánh bọn lấn chiếm.

Các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy và lực lượng của các tỉnh cũng chuyển ra phía trước. Bộ đội địa phương và du kích các huyện Bác Ái, Anh Dũng bám sát đường số 11 và số 1. Lâm Đồng Trung đoàn 211 (thiếu) cũng bám sát đường 20 nam đèo Blao, cùng với lực lượng của tỉnh kịp thời trừng trị bọn bung xỉa, lấn chiếm ở ven thị xã Blao, An Lạc và thị trấn Di Linh.

Ngày 22 tháng 2 năm 1973, tại Ninh Thuận địch đã trắng trợn cho một tiểu đoàn bảo an, có phi pháo chi viện đánh vào cánh đồng Cà Tiêu, noi mà theo sự thỏa thuận của hai bên, đối phương sẽ cho trực thăng đáp xuống đón tổ Liên hiệp quân sự 2 bên của ta vào Phan Rang(1). Ở Lâm Đồng, Tuyên Đức chúng cũng đánh vào các điểm hẹn với phía ta như vậy. Nhưng nhờ có cảnh giác đề phòng, nên các lực lượng ta đã kịp thời đánh trả. Ninh Thuận diệt 11 tên. Do những hành động phá hoại của địch như trên, việc triển khai các tổ Liên hiệp quân sự hai bên để kiểm soát việc thi hành hiệp định các tỉnh trong Quân khu không thực hiện được.

Tại Ban Liên hiệp quân sự bốn bên (khu vực 4 Camp Êsépic - Phan Thiết) phái đoàn ta đã cực lực tố cáo các hành động vi phạm trắng trợn ấy, nhưng chúng cứ chối cãi quanh co, nên cuối cùng các tổ Liên hiệp quân sự hai bên của các tỉnh không vào được(2). Trong khi đó thì địch ráo riết thực hiện chương trình “Bình định đặc biệt”, tăng cường hành quân cảnh sát truy đánh cơ sở, bắt lính. Có nơi chúng trắng trợn khủng bố, bắn xả vào nhân dân đang khiêng xác người bị bắn chết lên quận đấu tranh làm chết và bị thương 20 người (xã Phước Thế - Tuy Phong - Bình Thuận). Chúng bưng bít và xuyên tạc Hiệp định với nhân dân và cả binh lính của chúng, chỉ giải thích những điều khoản nào có lợi cho chúng, xuyên tạc những thắng lợi của ta, hòng gây mất lòng tin trong nhân dân, vu cáo ta vi phạm Hiệp định, ngăn cản không cho dân tự do đi lại làm ăn, không cho tiếp xúc với kháng chiến.

Mặc dù vậy, nhân dân vẫn biết dựa vào pháp lý của Hiệp định, đòi thực hiện ngừng bắn, chống khủng bố, bắt bớ, đòi bồi thường thiệt hại do địch gây ra, nhất loạt đòi tự do đi lại làm ăn. Ở Bình Thuận: từ những ngày đầu tháng 2 năm 1973 dân các ấp Bình Lâm, Tân Điền, Ta Nung, Gộp, v.v… đã bung ra ngoài làm ăn, sản xuất, tiếp xúc với ta. Ở Ninh Thuận, Lâm Đồng, v.v. địch cũng không ngăn chặn được dân bung ra sản xuất, làm ăn. Nhiều nơi dân đã khéo léo vận động binh lính địch cho dân đi làm ăn xa, đi sớm về muộn, ngủ lại đêm ngoài rẫy; phong trào phát triển rộng mạnh lôi kéo cả tề, vệ, binh lính (nhất là ở các vùng đồng bào dân tộc) theo gia đình ra bên ngoài làm ăn tiếp xúc với ta.

Trong các thị xã, thị trấn, sau khi có Hiệp định, phong trào quần chúng với khí thế mới đã đấu tranh mạnh dạn hơn, sôi nổi luận bàn về Hiệp định, về chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc của ta. Xu hướng hào bình, hòa hợp dân tộc phát triển rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong các gia đình binh lính, trong công chức.

Hoạt động của lực lượng vũ trang và phong trào đấu tranh của nhân dân cở một số địa phương đã diễn ra khá mạnh, nhất là ở Bình Thuận đã giữ vững được vùng mới mở ra và vùng giải phóng cũ. Nhưng nhiều nơi khác địch vẫn lấn được đất, giành được dân. Ở đây ngoài vấn đề do sức ta có hạn, còn có nguyên nhân do chỉ đạo không thấy hết bản chất ngoan cố và những thủ đoạn chiến tranh mới của địch, để có biện pháp chống trả thích đáng; có nơi cán bộ còn ỷ lại vào pháp lý của Hiệp định, mơ hồ, hữu khuynh “hòa hoãn”, “hòa hợp”, thiếu chuẩn bị kế hoạch sẵn sàng đánh trừng trị địch vi phạm Hiệp định ngay từ đầu nên địch có điều kiện đánh chiếm nhanh mạnh, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần, tư tưởng của các lực lượng ta.


(1) Ở tỉnh gọi là tổ Liên hiệp quân sự hai bên.
(2) Sau gần 50 ngày trực diện đấu tranh với địch ở Ban Liên hiệp quân sự bốn bên tại Camp Êsépic tháng 7 năm 1973 hai phái đoàn của ta (Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam) rút về sát nhập với phái đoàn quân sự tại Ban Liên hiệp quân sự Trung ương tại Tân Sơn Nhất (Sài Gòn).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #89 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 07:55:58 pm »

Tháng 3 năm 1973, Quân khu mở hội nghị quân chính kiểm điểm tình hình và xác định nhiệm vụ cụ thể cho các lực lượng vũ trang ta: phải kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định, vừa đánh bọn bung ra, vừa đánh sâu vào vùng địch, diệt ác, phá kìm, kết với tuyên truyền, phát động quần chúng đấu tranh 3 mũi chống phá bình định, xây dựng phát triển lực lượng cách mạng.

Tháng 4 năm 1973 trong buổi đồng chí Trần Lê lên làm việc với Trung ương Cục, đồng chí Phạm Hùng Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục chỉ rõ “cây muốn lặng mà gió không dừng”. Nó đã đánh ta thì ta phải đánh nó. Cứ mạnh dạn làm, không ngại vi phạm Hiệp định.

Tháng 5 năm 1973, Hội nghị Khu ủy mở rộng đã kiểm điểm, uốn nắn tư tưởng hữu khuynh, do dự trong tiến công đánh trả địch vi phạm Hiệp định, và ra nghị quyết nêu rõ: “Trên cơ sở tiếp tục, bám, tấn và xây, chuyển mạnh phương thức hoạt động, ra sức giữ vững và mở rộng vùng tranh chấp, xóa đại bộ phận ấp trắng, tích cực mở vào vùng sâu, vùng yếu, kết chặt với phá kìm, giành dân, giành quyền làm chủ,… xây dựng cả lực lượng bên ngoài và bên trong vững mạnh”.

Để thực hiện, Quân khu và hướng dẫn các lực lượng học tập quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Khu ủy và Quân khu về tình hình và nhiệm vụ mới, vừa tổ chức huấn luyện chiến kỹ thuật, nâng cao trình độ chiến đấu cho các lực lượng một bước và tiến hành đình chỉnh, bố trí lại lực lượng theo hướng tăng cường cho bên dưới; giải thể Trung đoàn 211 (thiếu), lấy Tiểu đoàn 17 bộ binh bổ sung quân sự cho Tiểu đoàn 840, phối thuộc Tiểu đoàn 186 cho Bình Tuy; tăng cường Tiểu đoàn 15 cho Bình Thuận đứng ở trọng điểm Tam Giác. Quân khu chỉ trực tiếp nắm Tiểu đoàn 840, đại đội 200c đặc công, đại đội 130 trợ chiến và đại đội công binh.

Bộ đội địa phương các tỉnh tổ chức gọn lại, có nơi còn một đại đội (Ninh Thuận - Bình Tuy) hoặc đại đội tăng cường (Bình Thuận), tiểu đoàn (thiếu) (Tuyên Đức - Lâm Đồng). Đối với bộ đội địa phương mỗi huyện còn một trung đội hoặc trung đội thiếu.

Bước vào năm 1973 các lực lượng trong toàn Khu đã vươn lên hoạt động, bám giữ được địa bàn, đánh tiêu hao, tiêu diệt nhỏ, ngăn chặn hoặc hạn chế địch đánh lấn ra vùng ta và phá kế hoạch khôi phục đường sắt của chúng. Riêng trong hai tháng 4 và 5 năm 1973, ta đã đánh 150 trận, diệt 323 tên địch, có 9 tên ác ôn, bắt sống 5 tên, bắn rơi 5 máy bay, đánh hỏng 8 xe quân sự, đánh sập 7 cầu cống, phá 500m đường sắt, làm tê liệt hoàn toàn đoạn đường Tháp Chàm - Sông Mao chúng vừa mới khôi phục.

Đi đôi với hoạt động vũ trang, phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ gắn với đòi làm đúng pháp lý Hiệp định, tiếp tục phát triển. Những cuộc đấu tranh chống đuổi nhà, dồn dân ở Đà Lạt, Phan Thiết diễn ra giằng co, quyết liệt. Phong trào chống bắt lính, bảo vệ thanh niên, bảo vệ lính trốn, cũng diễn ra với nhiều hình thức. Nhân dân còn đấu tranh chống học tập chiêu hồi, chống cướp giật ruộng đất, chống tăng thuế, v.v. Trong binh lính có tình hình không chịu đôn quân, không muốn đi đánh nhau, án binh bất động hoặc đào ngũ trong các đơn vị và sắc lính địch.

Đặc biệt trong các thị xã, nhân dịp lễ Phật Đản tháng 5 năm 1973 khẩu hiệu “Hòa bình” đã trở thành khẩu hiệu chính trong các buổi lễ, các buổi cầu nguyện được đồng bào nhân dân hưởng ứng. Tại Đà Lạt ngày 15 tháng 5 năm 1973, hàng ngàn người tỏa ra đường đi dự lễ “mừng hòa bình”, được dư luận cho là ngày lễ Phật Đản lớn nhất ở thị xã này.

Ở nông thôn và miền biển, mặc cho địch ngăn cấm, quần chúng vẫn bung ra làm ăn ngoài đồng và trên mặt biển ngày ngày càng đông. Có hàng người về cất chòi, trại tại vườn cũ ở theo thế 2 chân.

Đi đôi với đẩy mạnh hoạt động ở phía trước, Khu cũng đặt vấn đề xây dựng căn cứ theo quy mô, không những nhằm đáp ứng nhu cầu địa phương, mà còn cho các lực lượng của trên nữa. Ngoài sản xuất tự túc của các lực lượng tại chỗ, đã xây dựng được 3 khu sản xuất lớn dưới dạng nông trường gọi là “công doanh”, khu vực lớn nhất là Đa Tẻ (vùng 3 Lâm Đồng) vỡ hoang được gần 1000 mẫu, sử dụng 20 máy cày, chủ yếu trồng cây lương thực (mì, mía, bắp), làm được 300 hécta lúa nước. Ban kinh tế Khu vận động lạc quyên trong vùng tranh chấp, vùng địch kiểm soát và thu thuế trên các đường giao thông, các đồn điền, các nơi khai thác gỗ… Riêng năm 1974 là 436 triệu đồng. ngoài ra còn dự trữ gần 5.000 lạng vàng.

Thế ăn ở của nhân dân, kể cả đường sá đi lại ở vùng giải phóng cũng được bố trí, sửa sang lại thuận tiện hơn, trường học, nhà y tế được xây dựng thêm. Đường hành lang vận tải vũ khí từ biên giới Căm-pu-chia về khu được củng cố và tăng cường, các cung đoạn được tổ chức lại.

Cung đoạn 1: Vận tải bàng phương tiện ô tô, từ Bù Đốp qua Sông Bé, qua lộ 14 - Bù Na về đến Bến Cầu (sông Đồng Nai Thượng).

Cung đoạn 2: Từ Bến Cầu, dùng thuyền máy chạy dọc theo sông Đồng Nai về đến vàm sông Đa Oai.

Cung đoạn 3: Từ vàm sông Đa Oai vượt lộ 20 về đến Hoài Đức, Tánh Linh (La Ngà) bằng mang vác bộ và xe thồ, có đoạn đã dùng ô tô và tỏa đi các tỉnh trong khu. Khối lượng hàng hóa nhận lãnh và chuyển tải riêng trong 2 năm 1973-1974 được 700 tấn đã phục vụ kịp thời cho chiến trường.

Nhìn chung, với tinh thần tiến công trừng trị địch vi phạm Hiệp định, các lực lượng không những đã đánh được địch lấn ra bên ngoài mà còn thọc sâu vào vùng địch, phong trào chính trị, binh vận có phát triển. Kế hoạch “Bình định đặc biệt” và “tràn ngập lãnh thổ” một số nơi bị ngăn chặn. Ta tranh thủ xây dựng đưa vùng ta lên toàn diện hơn. Tuy nhiên các lực lượng vũ trang ta sức có ít, vừa lo củng cố học tập, vừa giành một phần lực lượng để lo sản xuất phục vụ mùa nên hoạt động có bị hạn chế, thiếu những trận đánh đau để trừng trị bọn lấn chiếm. Có những nơi địch còn hung hăng bung ra đánh phá lấn chiếm gây khó khăn cho phong trào.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM