Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 11:06:23 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975  (Đọc 77828 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 07:10:31 am »

II. BƯỚC PHÁT TRIỂN CÓ TÍNH CHẤT NHẢY VỌT
CỦA PHONG TRÀO TRONG KHU ĐÔNG XUÂN 1964-1965

Tháng 10 năm 1964, theo sự chỉ đạo của Trung ương Cục và kế hoạch tác chiến của Bộ Tư lệnh Miền - Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy quyết định mở hoạt động Đông Xuân 1964-1965 trên hai hướng: Vùng đường 10 đông bắc tỉnh Phước Long và vùng Hoài Đức - Tánh Linh tỉnh Bình Thuận, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá ấp mở vùng, giải phóng đại bộ phận nông thôn, làm thất bại “Quốc sách ấp chiến lược” của địch, phối hợp với chiến dịch Bình Giã của Miền.

Lực lượng Quân khu lúc này được Bộ tăng thêm một tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn 130) hai đại đội bộ binh độc lập (Đại đội 54, Đại đội 55) và một đại đội hỏa lực. Quân khu bổ sung Đại đội 54 cho Tiểu đoàn 186. Như vậy, bước vào hoạt động, lực lượng chủ lực của Khu có hai tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn trợ chiến (Tiểu đoàn 145).

Ở trọng điểm Phước Long, ta bố trí hai tiểu đoàn (840 và 145), cùng với lực lượng địa phương, do đồng chí Tư lệnh Quân khu trực tiếp chỉ đạo. Hướng Hoài Đức - Tánh Linh, Tiểu đoàn 186 cùng phối hợp với bộ đội địa phương Bình Thuận hoạt động do đồng chí Bùi Định, phó bí thư Khu ủy - Chính ủy Quân khu cùng Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận chỉ đạo.

Lúc này, trên toàn Miền, một số chiến trường đã bước vào hoạt động Đông Xuân, địch bị căng kéo trên nhiều hướng, lại phải đối phó với vụ binh biến của lực lượng vũ trang người Thượng ở Buôn Ma Thuột, nên tình hình rất thuận lợi cho ta.

Đầu tháng 11 năm 1964, trên hướng đường 10 Phước Long ta bắt đầu hoạt động. Tiểu đoàn 840 dùng một đại đội đánh chiếm ấp chiến lược Bù Bông và phục kích đánh một đại đội bảo an từ chi khu Đức Phong đi giải tỏa, tiêu diệt một bộ phận địch, bắt sống bảy tù binh, thu vũ khí. Hai ngày sau, ta bao vây đánh ấp chiến lược Bom Ría, có một đại đội bảo an và hai trung đội dân vệ chiếm giữ. Trận đánh do ta bao vây không chặt nên địch đã bí mật cắt rừng tháo chạy, ta truy quét tàn quân địch và cùng đội công tác vũ trang phát động quần chúng xóa bỏ kìm kẹp, lập chính quyền tự quản.

Sau đó Tiểu đoàn 840 lợi dụng địa hình, bất ngờ áp sát dinh điền Bù Xia - Đức Hạnh ban ngày và thực hành vận động tiến công tiêu diệt địch, số còn lại tháo chạy. Ta chiếm ấp, phát động quần chúng phá kìm và bố trí đánh viện từ tiểu khu Phước Long kéo đến. Đúng theo kế hoạch của ta, sáng hôm sau địch dùng hai đại đội bảo an, một đại đội thám kích và một số trung đội dân vệ đi giải tỏa, bị ta đánh thiệt hại nặng hai đại đội bảo an và đánh bật đại đội thám kích lọt xuống sông Đức Hạnh. Buổi chiều, chúng tăng cường thêm hai đại đội của Tiểu đoàn 34 biệt kích quân, một chi đội xe bọc thép và máy bay đến oanh kích. Ta lợi dụng ưu thế địa hình và công sự vững chắc, chờ địch đến gần tầm hỏa lực mới đồng loạt nổ súng, ghìm địch trước cánh đồng nước để tiêu diệt chúng. Cùng lúc, đại đội một bộ binh xuất kích vận động đánh tạt vào sườn địch. Kết quả: ta đánh thiệt hại nặng quân cứu viện, bắn cháy hai xe bọc thép và hai máy bay, địch phải rút chạy. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 840 thừa thắng truy kích địch đến tận bờ bắc của sông Bé gần thị xã Phước Long.

Trận này, tuy ta tiêu diệt địch không gọn, nhưng cũng là một trận đánh khá tốt, đã đánh bại cuộc hành quân phản kích của tiểu khu, có cả xe bọc thép và máy bay chi viện, giữ vững thành quả phá ấp. Lần đầu tiên Tiểu đoàn 840 thực hành tổ chức bám trụ (phòng ngự điểm tựa), đánh gần, kết hợp vận động đánh địch phản kích (với lực lượng tương đối lớn có cả máy bay, xe bọc thép yểm trợ) đã đánh thiệt hại nhiều đại đội địch, truy kích, làm chủ chiến trường, thu vũ khí. Trận đánh không những có ý nghĩa quyết định trong việc mở mảng ấp, giải phóng đường 10, mà còn có tác dụng xây dựng bộ đội về cả tư tưởng và kinh nghiệm tác chiến.

Phát huy thắng lợi, ta tiếp tục phá các ấp Bù Yàm, Bù Gia Chúc, Khắc Khoan. Đến đầu tháng 1 năm 1965, ta giải phóng hầu hết các ấp trên đường 10 và làm chủ hoàn toàn con đường này, đưa thế tranh chấp vào các ấp xung quanh chi khu, quận lỵ Đức Phong trên đường 14. Các lực lượng địa phương cũng phá lỏng rã kìm, làm chủ có mức độ các ấp Bù Na, Phước Liễu đến nam chân núi Bà Rá và mảng ấp Phú Văn, rút nhiều thanh niên bó vào các đội, mui công tác và bộ đội địa phương. Trước tình hình các địa bàn mở ra, cán bộ địa phương thiếu, Khu ủy điều một số cán bộ và các cơ quan Khu xuống giúp xây dựng các vùng mới giải phóng, kịp thời đưa lên thế hai chân, ba mũi, sẵn sàng chiến đấu chống địch lấn chiếm.

Tiểu đoàn phân công Đại đội 54 ở lại cùng cán bộ địa phương xây dựng, bảo vệ các ấp giải phóng, chủ yếu là khu dinh điền Bù Xia - Đức Hạnh. Đơn vị đã gắn bó với nhân dân và làm tốt công tác dân vận, bám trụ kiên cường, đánh giặc giỏi, bảo vệ được dân nên đã được nhân dân ở đây trìu mến, tặng cho cái tên là “Đại đội Đức Hạnh”.

Giữa lúc đó, chủ lực Miền giành thắng lợi lớn ở Bình Giã, Tiểu đoàn 840, đại đội đặc công tiến công tiêu diệt gọn chi khu, quận lỵ Đức Phong (Phước Long), làm chủ chiến trường, thu chiến lợi phẩm, gây tác động mạnh tình hình trong khu vực Phước Long - Quảng Đức. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện thừa thắng phát triển tiến công giải phóng các ấp Bù Na, Đức Bồn, Phước Liễu, Vĩnh Thuận và một phần ấp Đao Nghĩa. Toàn bộ các ấp chiến lược dọc đường 10 được giải phóng, đường hành lang được mở rộng, vùng giải phóng của ta nối liền từ đường 10 đến đường 14 tiếp giáp với căn cứ của Khu, tạo bàn đạp thuận lợi để chuẩn bị tiến công vào thị xã Phước Long mùa hè năm 1965.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 07:11:01 am »

Phối hợp với trọng điểm Phước Long của Khu, trong Đông Xuân, Lâm Đồng đã loại khỏi vòng chiến trên ba trăm tên địch, diệt gọn một số trung đội dân vệ và bảo an, thu hàng trăm súng, chuyển lên tranh chấp và giải phóng một số ấp đồng bào dân tộc ở Đạ Bình, Gung Răngia, Bà Trộ, Bsar… Quảng Đức cũng loại khỏi vòng chiến 140 tên, thu 73 súng, mở được các khu ở Nàng Ne, Khơhimua, Bù Xếp, Kladố, Klata… Tuyên Đức từ tháng 11 năm 1964 đã hoạt động trên đường 11, đánh phá đưa lên làm chủ ấp Xuân Thành là ấp chiến lược kiểu mẫu của địch; đánh diệt một trung đội bảo an ở ấp Tia Hóa (tức Hoạt), mở rộng bàn đạp nối với tây nam Đà Lạt xuống đường 20. Tháng 1 năm 1965 lực lượng ta diệt bốt cảnh sát và đồn dân vệ Trại Mát ở ngoại vi Đà Lạt, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị trong thị xã.

Ở Bình Thuận, Tiểu đoàn 186 cùng lực lượng địa phương mở đợt tấn công vào hệ thống kìm kẹp của địch ở hai huyện Hoài Đức, Tánh Linh. Đây là một vùng kinh tế phì nhiêu nổi tiếng “Gạo Đồng Kho, cá biển Lạc” nối liền với Xuân Lộc, Đồng Nai, Đông Nam Bộ. Từ những năm 1959-1961 địch đã dưa dân miền Trung vào xây dựng những khu “dinh điền” và “ấp chiến lược” nhằm khai thác nguồn kinh tế và cuốt giữ vùng xung yếu này. Chúng lập 25 dinh điền và ấp chiến lược, gồm 50.000 dân Kinh, Thượng và Nùng, với một hệ thống đường sá, đồn bốt nối liền từ Bình Tuy đến quốc lộ 20.

Lực lượng của ta mỗi huyện (Hoài Đức - Tánh Linh) mới có hơn một tiểu đội bộ đội địa phương và hai đến ba tiểu đội vũ trang công tác bám hoạt động phía trước, và từ hai tiểu đội đến hai trung đội du kích ở căn cứ. Cơ sở bên trong nhiều nơi còn trắng. Tình hình như vậy nên tháng đầu ta phải vừa chạy gạo, vừa chuẩn bị chiến trường. Bộ đội gần đến ngày hoạt động, mỗi người không đầy hai ki-lô-gam gạo, để dành nấu cơm vắt mang theo cho chiến dịch trong ngày.

Mở đầu hoạt động đêm 10 tháng 11 năm 1964, phía nam sông ta sử dụng một bộ phận của Đại đội 486 (tỉnh) và bộ đội địa phương huyện Tánh Linh đánh phá các ấp chiến lược Đá Mài, Sông Phan, bắt một số tề, điệp. Ở bắc sông, ta dùng một trung đội (của Tiểu đoàn 186) tiêu diệt một trung đội dân vệ giữ ấp Mêpu, và trụ lại trong ấp, cùng đội mũi công tác phát động quần chúng, truy bắt tề điệp, kêu gọi dân vệ và thanh niên chiến đấu ra nộp vũ khí. 8 giờ sáng ngày 11 tháng 1 năm 1964, đại đội bảo an cơ động của chi khu Hoài Đức và một trung đoàn dân vệ do tên Quận trưởng Hoài Đức chỉ huy, kéo lên ứng cứu, bị sa vào trận địa phục kích của ta, 63 tên bị diệt, ta thu 28 súng; số còn lại tháo chạy, một số đầu hàng.

Tối ngày 11 tháng 11 năm 1964, ta chuyển sang vây ép Quận lỵ, chi khu Hoài Đức, và đột vào đánh phá khu ấp chiến lược Bác Ruộng ở sát chi khu. Địch ở chi khu lo cố thủ, không dám bung ra phản ứng, ta cải trang thanh niên chiến đấu, huy động dân nổi dậy đột trụ sở hành chính, phá ranh rào, phá ban hấp Bắc Ruộng và tiếp tục bao vây chi khu. Ta dự kiến: khi lực lượng cơ động chi khu bị đánh thì tiểu lực lượng cơ động của tiểu khu sẽ kéo đến cứu nguy. Do vậy ta sử dụng một đại đội tăng cường (Đại đội 486, Đại đội 489 của Bình Thuận) và một đại đội của tiểu đoàn 186 bố trí trận địa phục kích trên đường số, đoạn từ Láng Gòn lên ki-lô-mét 46. Ngày 12 tháng 11 năm 1964 một đại đội bảo an, một đại đội biệt kích, một trung đội công dân vụ, một chi đội xe bọc thép M.113 dẫn đầu đi cứu viện đã lọt vào trận địa của ta, bị bao vây, chia cắt; ta diệt tại chỗ 130 tên, có hai cố vấn, phá hủy 10 xe quân sự, thu 57 súng các loại. Số sống sót tháo chạy về tiểu khu. Trận đánh đã làm chấn động quân địch ở Bình Tuy và càng làm cho địch ở chi khu Hoài Đức thêm hoang mang dao động.

Trong ngày, vùng chiến thuật 2, vội vã điều quân cộng hòa từ Nha Trang đến cứu viện bằng trực thăng, đổ xuống chi khu Hoài Đức một tiểu đoàn bộ binh (thiếu) đẻ giữ chi khu và quận lỵ, dùng hỏa lực và máy bay oanh tạc xung quanh để giải tỏa áp lực của ta chứ chưa dám bung ra.

Sau đó, ta dùng một lực lượng nhở vây lỏng chi khu Hoài Đức, Tiểu đoàn 186 phân tán thành đại đội; trung đội, đột nhập vào hầu hết các ấp và dinh điền cả ở phía Bắc và phía Nam chi khu (như: Súng Nhơn 1, Sùng Nhơn 2, Tề Lễ, Tà Bao, Huy Hiêm, v.v.) vừa đánh địch vừa vận động nhân dân (phần lớn là dân vùng tự do cũ Liên khu V bị đưa vào đây rất thông cảm với cách mạng) nhanh chóng nổi dậy tiếp tay cùng bộ đội phá ấp, giành quyền làm chủ. Họ cung cấp địch tình, hướng dẫn địa hình, vận động con em là dân vệ, thanh niên chiến đấu ra đầu hàng, nộp súng cho ta. Nhờ vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, Tiểu đoàn 186 và lực lượng địa phương đã làm chủ hầu hết các ấp và dinh điền thuộc quận Hoài Đức, trừ các ấp sát quận lị, số bảo an, dân vệ giữ ấp bị diệt, bị tan rã, số còn lại rút chạy về quận. Số tề điệp ác ôn nhờ có quần chúng phát hiện nên ta đã giải quyết nhanh, phần lớn được đưa đi cải tạo, giáo dục. Do đó, khi địch bung ra phản kích, chúng mất chỗ dựa tại chỗ, bị các lực lượng phân tán của ta quần đánh liên tục, gây tổn thất. Chúng chỉ lướt qua một số ấp, rồi bí mật cắt rừng rút về co cụm ở Quận.

Cùng thời gian này, ở phía Tánh Linh; một bộ phận lực lượng của tỉnh cùng với bộ đội địa phương huyện liên tục đột nhập các ấp Đá Mài, Sông Phan, Bà Tá, các khu dinh điền Quang Hà, Gia An… vũ trang tuyên truyền, diệt ác, phá kìm.

Đối với các ấp làm chủ, ta đã tăng cường cán bộ xuống làm công tác phát động quần chúng, lập chính quyền tự quản, xây dựng dân quân du kích, tổ chức các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông dân.

Nhờ kết hợp chặt chẽ các mặt công tác tuyên truyền giáo dục, tổ chức quần chúng, đánh địch lấn chiếm, cải tạo trấn áp tề điệp, nên đã đưa phong trào các khu ấp mới giải phóng lên nhanh. Ta đã tổ chức cho quần chúng, có cả gia đình binh sĩ kéo lên quận đấu tranh với địch, đòi được tự do đi lại, mua bán làm ăn, không được bắn pháo, không được dùng máy bay bắn phá vào ấp. Qua đó giữ được giao lưu kinh tế giữa vùng địch và vùng ta, xe cộ từ Sài Gòn - Phan Thiết vẫn lui tới vùng mới giải phóng bình thường. Hàng trăm thanh niên thoát ly nhập ngũ, được ưu tiên bổ sung cho bộ đội huyện và tỉnh. Đã giải quyết được lương thực cho các lực lượng có ăn và dự trữ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 07:43:38 pm »

Đầu năm 1965, địch bắt đầu tăng quân dũi ra lấn chiếm lại các khu ấp đã mất. Ngày 17 tháng 1 năm 1965, một đại đội bảo an và ba trung đội dân vệ từ Hoài Đức đánh lên Mêpu. Tiểu đoàn 186 dùng chiến thuật chốt chặn, kết hợp với vận động tiến công đánh tiêu diệt gọn đại đội bảo an và đánh tan ba trung đội dân vệ. Trận đánh diễn ra lúc 8 giờ sáng ngay trong ấp, xác địch ngổn ngang, có cả bọn cố vấn và toàn bộ Ban chỉ huy hành quân của địch. Ta làm chủ hoàn toàn trận địa; nhân dân ùa ra thu dọn chiến trường; bọn sống sót vứt cả súng tháo chạy. Chiến thắng này được Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba.

Sau chiến thắng Mêpu, ta chuyển qua đồng loạt tiến công các ấp chiến lược Bác Núi (xã Huy Khiêm) trên tỉnh lộ số 2, sát với chi khu Hoài Đức; giải trang các trung đội dân vệ, thu hàng trăm súng, chiếm giữ ấp, phát động quần chúng phá kìm.

Ta chuyển một lực lượng sang phía nam sông La Ngà, giải phóng ấp Võ Xu và tranh chấp ấp Chính Đức; cùng đội công tác võ trang tuyên truyền vào hai khu dinh điền lớn Võ Đắc và Gia An.

Lực lượng của Bình Thuận sau khi giải phóng các ấp Bà Tá, Suối Kiết, đêm 7 rạng ngày 8 tháng 2 năm 1965 ta dùng đặc công tiêu diệt gọn cứ điểm Lồ Ô, một cao điểm bảo vệ chi khu - quận lỵ Tánh Linh; đồng thời ta dùng hỏa lực tập kích đánh thiệt hại nặng chi khu Tánh Linh. Cùng lúc ta đánh dứt điểm khu tập trung Đồng Me, một ngàn đồng bào dân tộc nổi dậy phá kìm về lại căn cứ và giải phóng luôn ấp Đồng Kho.

Ngày 22 tháng 2 năm 1965, địch ở Hoài Đức tập trung hai đại đội cộng hòa và bốn trung đội dân vệ đi giải tỏa khu ấp chiến lược Bác Núi, bị ta chặn đánh quyết liệt, tiêu diệt 60 tên, số còn lại tháo chạy về cố thủ trong chi khu.

Chiến dịch Bình Giã của Miền đã kết thúc thắng lợi. Bộ chỉ huy chiến dịch cho một trung đoàn phát triển ra hướng Lagi - Hàm Tân (Bình Tuy). Đêm 27 tháng 2 năm 1965 trung đoàn đã phối hợp cùng lực lượng địa phương Hàm Tân diệt một trung đội dân vệ của ấp Hiệp Hòa (Tân Thắng) và ngày hôm sau diệt hai đại đội của tiểu khu Bình Tuy từ Lagi viện vào, giải phóng ấp Hiệp Hòa trên hai ngàn dân.

Bị đánh mạnh và bị căng kéo trên toàn tỉnh, tiểu khu Bình Tuy buộc phải rút bỏ một số đồn bốt lẻ có nguy cơ bị tiêu diệt. Toàn bộ địch ở chi khu Hoài Đức đứng trước tình hình bị uy hiếp mà không được trên chi viện. Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 2 năm 1965, chúng đã hốt hoảng bỏ chạy về Võ Đắc (nam sông La Ngà). Ta vào kiểm soát và thu dọn được nhiều kho tàng của địch bỏ lại.

Vậy là, sau bốn tháng hoạt động liên tục trên hướng trọng điểm của Bình Thuận, ta đã giải phóng hoàn toàn quân Hoài Đức và đại bộ phận quận Tánh Linh; mở ra một vùng có nhiều lúa gạo, với hơn ba vạn năm ngàn dân, phối hợp tốt với chiến dịch Bình Giã là chiến dịch chủ lực đầu tiên của Miền. Trong thời điểm này, quận Hoài Đức là quận thứ 2 (sau Đức Huệ) được hoàn toàn giải phóng(1).

Phối hợp với hướng trọng điểm Hoài Đức - Tánh Linh của tỉnh, ở khu Lê Hồng Phong, trong tháng 10 năm 1964, lực lượng vũ trang tỉnh và huyện đã đánh diệt một đại đội và một trung đội bảo an, phá banh hai ấp chiến lược Gộp và Tà Nung, nối liền với vùng giải phóng Hồng Sơn. Tại thị xã Phan Thiết, đặc công và biệt động đột nhập diệt địch ở bót Cổng chữ Y và vũ trang tuyên truyền vào các ấp Phú Phong B, Phú Hưng, Phú Khánh. Ở huyện Hàm Thuận, từ tháng 1 năm 1965 các lực lượng địa phương, đã đánh vào chi khu Thiện Giáo (Ma Lâm), diệt gần hết các mục tiêu, trong đó có một đại đội biệt kích và dân vệ, thu 120 súng. Sau đó, tại ấp Bình Lâm, Đại đội 430 Hàm Thuận dùng một tiểu đội cải trang dân gánh lúa ngoài đồng chiều về ấp, bất thần nổ súng diệt một trung đội bảo an, hỗ trợ quần chúng phá kìm.

Ở Ninh Thuận: tháng 1 năm 1965, ta diệt một đại đội bảo an, san bằng cứ điểm Phước lập, thu 50 súng, phá banh các ấp chiến lược Phước Lập, Nho Lâm, Văn Lâm. Tiếp sau đó tiến công phá banh cấp ấp chiến lược Từ Tâm, Hòa Thủy, Thành Tín, Sơn Hải…

Nhân đà vũ trang hoạt động mạnh, phong trào đấu tranh chính trị trong Đông Xuân 1964-1965, cũng có một bước chuyển biến mới, phối hợp khá tốt với hoạt động vũ trang. Nhân dân nổi dậy phá kìm đấu tranh làm lỏng rã thế kìm trên nhiều mặt, vạch mặt cảnh cáo bọn tay sai và ác ôn, tự động diệt ác; tổ chức đấu tố hạ uy thế tề ngụy (Phước Long - Quảng Đức); đòi bầu cử dân chủ để loại những tên xấu; mặc nhiên phá bỏ một số hình thức ngăn cấm của địch, bung ra xa sản xuất làm ăn. Lâm Đồng đầu năm 1965 có mười ba ngàn đồng bào Thượng từ các ấp bung ra làm rẫy xa, sâu trong rừng, trong đó có một phần ba ở lại bên ngoài.

Ở Quảng Đức và Phước Long tình hình cũng tương tự như vậy. Ở đây, đồng bào Thượng còn đấu tranh đòi phá gạo, muối, thuốc men…

Đấu tranh quyết liệt và dai dẳng là chống bắt lính bằng nhiều hình thức như: kêu khóc, níu kéo, giành giật không để địch bắt con em, thanh niên. Ở Lương Sơn (Bình Thuận); cùng một lúc 400 người nhất loạt đấu tranh đã giải thoát được 150 thanh niên bị bắt lính.


(1) Trên toàn Miền lúc này cũng mới có huyện Đức Huệ được giải phóng.
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Mười Hai, 2011, 06:57:00 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 07:44:18 pm »

Ở Ninh Thuận còn có phong trào đấu tranh của hàng ngàn quần chúng chống địch rải chất độc hóa học phá hoại mùa màng, buộc chúng phải bồi thường; 160 đồng bào huyện Thuận Bắc đấu tranh giành lại quyền khai thác, đánh bắt cá trên đầm Vĩnh Hy. Sau trận lụt tháng 12 năm 1964 có hơn một nghìn người chết, tài sản hoa màu bị mất nhiều, nhân dân đã tổ chức giúp đỡ nhau và đấu tranh đòi địch phải cứu trợ, chống địch lợi dụng lụt lội để gom dân, bắt lính.

Ở đô thị, ngoài các cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ thường xuyên, từ cuối năm 164 đến đầu năm 1965, đã có những cuộc đấu tranh lớn với hàng chục ngàn quần chúng tham gia (bao gồm nhân dân lao động, thanh niên, học sinh, sinh viên, tín đồ Phật giáo) chống chế độ độc tài phát xít Mỹ - Khánh, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi hòa bình trung lập, đòi dân chủ thật sự. Nổi nhất là những cuộc đấu tranh ở Phan Rang, Phan Thiết hồi tháng 9 năm 1964 với năm vạn lượt người tham gia, bằng các hình thức như biểu tình, bãi khóa, bãi thị liên tiếp trong mấy ngày, đã gây bối rối cho địch và đưa khí thế quần chúng đô thị lên một bước.

Tháng 1 năm 1965, ở Đà Lạt và Blao đã nổ ra cuộc đấu tranh lớn của tín đồ Phật giáo, học sinh và sinh viên đòi lật đổ chính phủ Trần Văn Hương, đòi Taylor cút về nước (riêng ở Đà Lạt, số người tham gia đấu tranh có lúc lên đến 14.000 người, ở Blao 2.500 người). Các cuộc bãi thị, bãi khóa, đình công liên tiếp xảy ra, địch lúng túng, bị động một thời gian không dám đàn áp.

Tình hình trên có nhiều thuận lợi nhưng do cơ sở ta trong các đô thị còn quá ít, yếu, việc liên hệ chỉ đạo từ bên ngoài vào còn chậm trễ, nên đã không tận dụng được thời cơ để đưa phong trào lên.

Trong Đông Xuân 1964-1965, công tác binh vận cũng được các cấp ủy địa phương đẩy mạnh, nhát là đối với công tác vận động dân vệ và thanh niên chiến đấu. Một số nơi đã xây dựng được cơ sở nội tuyến trong lực lượng này, phục vụ cho đánh địch và làm tan rã hàng ngũ chúng. Việc giáo dục, tuyên truyền chính sách cho binh lính và gia đình họ cũng làm được rộng rãi hơn. Chính sách đối với tù hàng binh làm tốt nên gây được ảnh hưởng đối với binh lính địch, nhất là trong chiến đấu. Trong năm 1964, chủ yếu là những tháng cuối năm ta hoạt động mạnh, số lính đào rã ngũ tăng gấp bốn lần so với năm 1963. Có những vụ trốn hàng loạt, rã từng đơn vị (như Đại đội biệt kích 307 ở trung tâm huấn luyện Bù Đốp (Phước Long); Đại đội 401 bảo an ở Gộp; trung đội lính cộng hòa đóng ở xã Bình Thạnh (Bình Thuận) mang theo 17 súng; 200 lính biệt ích ở trung tâm huấn luyện Tân Rai (Lâm Đồng). Sau cuộc binh biến của lực lượng người Thượng ở Buôn Ma Thuột đã có bốn đại đội “lính đặc biệt” của Mỹ ở trung tâm huấn luyện Sa Pa (Quảng Đức) tan rã cùng một lúc.

Ở Quảng Đức: từ ngày 13 tháng 9 đến cuối tháng 11 năm 1964 đã có tám trung đội biệt kích, dân vệ tan rã. Riêng quận Hoài Đức (Bình Thuận) trong đợt hoạt động của ta tháng 11 năm 1964 đã làm tan rã một lúc bốn trung đội dân vệ. Tại một số dinh điền ở Phước Long cũng có tình hình dân vệ và thanh niên chiến đấu, đầu hàng tan rã hàng loạt.

Phong trào đấu tranh của binh sĩ ngụy chống lệnh đi càn quét, đi chi viện cũng phát triển. Một số đơn vị chủ lực và bảo an đi càn lấy lệ, giữa đường nằm lại chờ hết ngày rút về… Có cả đơn vị dân vệ, thanh niên chiến đấu mang súng ra đầu hàng ta ở Mỹ Tường và Kiền Kiền (Ninh Thuận), hoặc làm nội ứng đánh phá ấp chiến lược; có cả đơn vị làm binh biến, mang súng đạn, trang bị đi theo cách mạng. Chẳng hạn như trung đội dân vệ 32 biệt kích lượng Sơn đóng ở Bàu Ốc do anh Phu Bồ chỉ huy, đã nổi dậy phá banh ấp chiến lược Bàu Ốc, bung 5.000 dân về vùng đất cũ, bố phòng đưa lên du kích chiến tranh (số này về sau có người đã trở thành cán bộ, đảng viên ở địa phương).

Tuy đã góp phần làm tan rã, suy yếu hàng ngũ địch, nhưng theo đánh giá của Khu ủy lúc bấy giờ thì công tác binh, địch vận còn là khâu yếu trong các mặt tiến công địch. Trước tình hình địch đang bê bối, binh sĩ ngụy bị chết nhiều, hàng ngũ dao động, nhưng ta chưa tận dụng hết thuận lợi để đẩy chúng suy sụp hơn nữa, góp phần đưa phong trào quần chúng lên.

Với thắng lợi trong Đông Xuân 1964-1965, cuộc kháng chiến ở Khu VI đã chuyển lên một bước mới, đánh được địch, mở được phong trào, nhất là trên các hướng trọng điểm.

Về tác chiến: Từ đầu năm 1964 đến tháng 1 năm 1964, các lực lượng vũ trang ta đã đánh gần 1.500 trận, diệt 5.365 tên địch làm đào rã ngũ trên 5.000 tên, thu 2.000 súng các loại, phá hủy 48 xe cơ giới có cả xe bọc thép, bắn rơi 14 máy bay và bắn bị thương 19 chiếc khác.

Đã phá 223 (trong tổng số 557) ấp chiến lược; trong đó phá banh, phá dứt điểm 123 ấp, phá lỏng rã kìm 100 ấp. Đến Xuân 1965, số dân giải phóng lên gần 100.000, có những mảng giải phóng liên huyện như Hoài Đức - Tánh Linh, khu Lê Hồng Phong đến Tam Giác huyện Hàm Thuận (Bình Thuận) vùng đường 10 - 14 (Phước Long). Vùng tranh chấp ở một số nơi đã lấn đến sát thị xã, thị trấn. Bước đầu thực hiện được phương châm đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, phá ấp, phá kìm, chuyển lên thế hai chân, ba mũi, mở rộng diện tranh chấp và làm chủ, thu hẹp vùng địch kiểm soát.

Tình hình phát triển chung trong toàn khu là là có tính chất nhảy vọt, nhưng chưa đều và so với thời cơ thuận lợi thì chưa tận dụng hết. Nguyên nhân: có phần do sức ta còn có hạn, có tỉnh còn quá yếu (như Tuyên Đức), nhưng chủ yếu là do sự chuyển biến và tư tưởng, nhận thức và phương pháp còn chậm.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 07:45:15 pm »

III. PHỐI HỢP VỚI CHỦ LỰC MIỀN TRONG CHIẾN DỊCH ĐỒNG XOÀI HÈ 1965
TIẾP TỤC TIẾN CÔNG ĐỊCH, CHUYỂN PHONG TRÀO LÊN,
GÓP PHẦN LÀM PHÁ SẢN CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA ĐỊCH

Hè 1965, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch trên địa bàn Phước Long - Bình Long mang tên là Chiến dịch Đồng Xoài.

Hướng chính của chiến dịch nằm trên tỉnh Phước Long, trọng điểm của Quân khu VI. Mục đích là tiêu diệt một bộ phận quân tinh nhuệ của địch, kết hợp với phá hệ thống ấp chiến lược, đưa phong trào đại liên lên, mở rộng căn cứ hành lang, mở rộng phong trào dọc biên giới Cam-pu-chia. Thời gian là từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1965. Lực lượng sử dụng trên hướng chính gồm ba trung đoàn chủ lực Miền Tiểu đoàn 840 của Quân khu và lực lượng địa phương.

Nhiệm vụ của Khu VI là phối hợp với Miền trong việc chuẩn bị chiến trường và tham gia hoạt động trong chiến dịch. Đồng thời phải đẩy mạnh hoạt động ở hướng diện là Lâm Đồng - đường 20 và các hướng khác trong Khu, cố gắng giải phóng và tranh chấp được hai phần ba ấp chiến lược còn lại và cắt đứt giao thông địch.

Thị xã Phước Long nằm trên một bình độ cao, có con sông Bé chạy bao bọc từ phía đông nam đến tây bắc, bờ sông dốc đứng cao, đồi núi lồi lõm, gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc hành quân tiếp cận. Ta phải chọn hướng đột phá chủ yếu từ phía đông bắc thị xã để đánh vào tiểu khu và Tòa hành chính tỉnh.

Bước vào chiến dịch Đồng Xoài đợt một, ở hướng chính Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng Tiểu đoàn 840, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 1), hai trung đội đặc công, tám đại đội hỏa lực (hai sơn pháo 75, tám ĐKZ 75, tám khẩu cối 82, tám trọng liên) đánh vào thị xã Phước Long; một tiểu đoàn tăng cường Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 2) đánh chi khu Phước Bình; Trung đoàn 2 (thiếu) và Trung đoàn 3 đánh viện đổ bộ đường không trên khu vực từ thị trấn Phước Bình đến thị xã Phước Long; Trung đoàn 1 (thiếu) làm dự bị chiến dịch. Đồng chí Nguyễn Minh Châu (Tư lệnh Quân khu VI) làm tư lệnh phó chiến dịch, được phân công trực tiếp chỉ huy cánh quân đánh vào thị xã Phước Long. Yêu cầu là: trong bước một, đánh chiếm hoặc gây thiệt hại nặng thị xã và trụ lại, buộc chủ lực địch phải đi viện tạo điều kiện cho Trung đoàn 2 (thiếu) và Trung đoàn 3 đánh tiêu diệt sinh lực địch.

Sau khi nghiên cứu nắm lại tình hình để chuẩn bị hành quân tiếp viện, thấy do đường xa, mang vác nặng, phải vượt qua nhiều địa hình khó khăn phức tạp, nên chỉ huy cánh quyết định đêm 9 tháng 5 năm 1965 bí mật vượt đường Ngô Đình Thục và ém quân trước tại hữu ngạn sông Bé (gần ngã ba Thác Mơ) trong ngày 10 tháng 5 năm 1965. Tối đến, ta tổ chức bộ đội vượt ghềnh, phải ngả cây làm cầu từng đoạn cho pháo cối qua. Ngày và đêm 10 tháng 5 năm 1965, ta còn xử trí một số tình huống đụng địch nằm ở bên ngoài, nhưng vẫn giữ được bí mật cho đội hình tiếp cận.

Các lực lượng sau khi vượt sông, đã đưa đội hình vào triển khai chiếm lĩnh các mục tiêu đã quy định. Các trận địa hỏa lực cũng đã chiếm lĩnh trên khu vực phía bắc sân bay, chuẩn bị mục tiêu và sẵn sàng trực tiếp chi viện cho bộ binh chiến đấu. Tuy vậy, các đơn vị hỏa lực do hành quân xa, quân số giảm sút (ốm đau) sức mang vác có hạn, nên lượng đạn mỗi loại súng còn không đủ một cơ số chiến đấu. Nhưng cũng đã cố gắng đưa được các phân đội hỏa lực vào, khi nổ súng đánh trong những phút đầu, hỏa lực đã dồn dập áp chế địch, tạo điều kiện cho các mũi đột phá đánh chiếm các mục tiêu: ty cảnh sát, khu thông tin, trận địa pháo…

Quá trình diễn biến chiến đấu thì các phân đội hỏa lực, trợ chiến không kịp thời đi cùng bộ binh phát triển chiến đấu, không diệt được hỏa điểm mạnh kể cả hỏa lực xe tăng, nên ta bị thương vong và chặn lại, không đánh chiếm được tiểu khu và tòa hành chánh. Mũi tiểu đoàn 1 của trung đoàn 1 cũng bị chặn tại khu chợ. Ở phía tây, đơn vị đặc công đã tiêu diệt được khu cư xá Mỹ và dinh tỉnh trưởng.

Kết quả trong đêm, tại thị xã đã đánh chiếm khu thông tin, gần hết khu công an, cảnh sát, phá hủy trận địa pháo, chi đội thiết giáp, đánh thiệt hại nặng khu trung tâm huấn luyện nghĩa quân, đồn biệt động, đồn bảo an, khu cư xá Mỹ, dinh tỉnh trưởng, đốt cháy một kho xăng. Chi khu Phước Bình cũng bị diệt gọn sau hai mươi lăm phút chiến đấu, ta thu toàn bộ chiến lợi phẩm.

Sáng ngày 11 tháng 5 năm 1965, Tiểu đoàn 840 và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 1) bám trụ các mục tiêu đã chiếm trong đêm, tổ chức đánh lui sáu đợt phản kích của địch, diệt hai đại đội của tiểu đoàn 36 biệt động quân, bắn rơi 13 máy bay, bắn hỏng một xe bọc thép. Buộc địch phải viện bằng đổ bộ đường không (một tiểu đoàn đổ xuống Hiếu Phong, một tiểu đoàn đổ xuống Phước Bình) để chi viện cho thị xã, nhưng lực lượng Miền không đánh diệt được viện. Đến trưa đã có bộ phận địch lọt vào thị xã, phối hợp với lực lượng còn tại chỗ phản kích. Các lực lượng ta đánh trả quyết liệt, nhưng càng về chiều đạn dược cạn dần và thương vong tăng lên. Tiểu đoàn 840 và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 1) phải vừa chiến đấu vừa giải quyết thương binh, tử sĩ và chuyển các đơn vị hỏa lực hết đạn ra ngoài. Tối 11 tháng 5 năm 1965 được lệnh của trên Tiểu đoàn 840 và Tiểu đoàn 1 rút khỏi thị xã, tổ chức đưa thương binh, tử sĩ và các lực lượng qua sông an toàn.

Ngày 12 tháng 9 năm 1965, địch cho hai đại đội đổ xuống tại Đức Hạnh để ngăn chặn được rút lui của ta, bị Đại đội 54 (Tiểu đoàn 840) đánh quyết liệt, diệt tại chỗ 86 tên, thu vũ khí. Số còn lại tháo chạy về thị xã Phước Long.

Kết thúc đợt một. Chiến dịch Đồng Xoài, các lực lượng Miền phối thuộc chiến đấu rút về. Tiểu đoàn 840 phát triển qua Phước Bình tiếp tục đánh địch, vây ép thị xã và cùng lực lượng địa phương giải phóng các ấp Phước Tín, Phước Quả, Hiếu Phong, Lệ An…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 07:46:02 pm »

Sang đợt hai của chiến dịch, chủ lực Miền đánh diệt chi khu Đồng Xoài (10 tháng 6 năm 1965) và đánh Tiểu đoàn 7 dù đổ bộ đường không xuống dinh điền Thuận Lợi. Tiểu đoàn 840 đánh vào bọn chi khu Phước Bình lưu vong tại Sơn Giang (cách thị xã ba ki-lô-mét), pháo kích vào thị xã, đánh diệt đài quan sát truyền tin ở núi Bà Rá, làm chủ thị trấn Phước Bình; phối hợp cùng bộ đội địa phương phá banh hệ thống ấp chiến lược trên đường liên tỉnh 2 thuộc Phước Long.

Vào đợt ba, lực lượng chủ lực Miền tiến công Bù Đốp. Địch phải hấp tấp rút bỏ cứ điểm Bù Gia Mập. Thế là một mảng tuyến biên giới được giải phóng. Trong lúc này Tiểu đoàn 840 phân tán cùng với lực lượng địa phương, đội công tác tranh thủ xây dựng phong trào lên thế vững chắc.

Trong quá trình chiến dịch, các cấp ủy địa phương đã chỉ đạo đánh phá kìm kẹp của địch, giải phóng ấp, giải phóng dân. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân du kích, các đội mũi công tác đã giữ vai trò chính. Trừ một số nơi như Phú Riềng, Thuận Lợi, Đa Kim, Bù Đốp,… lực lượng địch còn đông, nên Bộ tư lệnh Chiến dịch phải sử dụng đến chủ lực hỗ trợ cho địa phương.

Kết thúc chiến dịch Hè 1965, đại bộ phận nông thôn tỉnh Phước Long được giải phóng, địch chỉ còn lại ba cụm lớn: thị xã Phước Long nối liền với quận lị Phước Bình mới, cụm Bù Đốp và Chi khu quận lỵ Đức Phong (Bù Đăng). Vùng giải phóng và làm chủ có 56.000 dân (trong tổng số 67.000). Vận động được 350 nam nữ thanh niên tòng quân. Cắt đứt hẳn con đường chiến lược 14 và khai thông được các cửa khẩu biên giới giữa ta và Cam-pu-chia.

Qua chiến dịch, tuy còn nhiều nhược điểm nhưng cũng nổi lên ưu điểm là: ba thứ quân phối hợp được chặt chẽ nhịp nhàng, hỗ trợ lẫn nhau, đoàn kết giúp đỡ nhau, thể hiện tính ưu việt của chiến tranh nhân dân; đẩy mạnh được phong trào đấu tranh của quần chúng, phối hợp chặt chẽ với tiến công quân sự, góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc trong tình hình địa phương còn nhiều khó khăn, lực lượng tại chỗ không nhiều. Đó là thành công và cũng là những nhân tố bảo đảm cho chiến dịch đạt kết quả.

Phối hợp với chiến trường trọng điểm, các địa phương trong khu đã đẩy mạnh tiến công địch sôi nổi, đều khắp trên các chiến trường.

Ở Lâm Đồng: mặc dầu quân địch bung ra càn quét lấn chiếm ngăn chặn, nhưng ta vẫn chủ động đánh địch. Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 5 năm 1965, Tiểu đoàn 186 phục kích gây thiệt hại nặng và tiếp tục bao vây bức rút đồn B’sar (một đồn cấp đại đội nằm trên liên tỉnh lộ số 2). Đêm 6 rạng ngày 7 tháng 5 năm 1965, tiểu đoàn cùng bộ đội địa phương huyện K4 (Lâm Đồng) tập kích cứ điểm ngã ba B’sar. Sau ba mươi lăm phút chiến đấu., diệt và bắt sống toàn bộ Đại đội 545 bảo an đóng giữ cứ điểm, và cả bọn tàn quân của Đại đội 343 ở đồn B’sar chạy về đó.

Ngày 9 tháng 5 năm 1965, tiểu đoàn lại phục kích dưới chân đèo Blao, diệt đo thám kích của Tiểu khu Lâm Đồng đi cứu viện cho B’sar, bắn cháy hai xe bọc thép, đánh sập cầu Đạ M’Rế và cầu Đa Oai, làm chủ hoàn toàn trên một tháng, một đoạn dài 26 ki-lô-mét trên lộ 20 (từ chân đèo Blao đến đèo Chuối), giải phóng các ấp dọc hai bên đường. Huy động nhân dân vùng giải phóng ở Hoài Đức, phá hoại, cắt đứt đường 20, làm cho lưu thông giữa Sài Gòn Và thành phố Đà Lạt bị gián đoạn.

Giữa tháng 5 năm 1965, Tiểu đoàn 186 chuyển một bộ phận về Hoài Đức - Tánh Linh, hỗ trợ địa phương chống càn quét, lấn chiếm. Đêm 17 tháng 5 năm 1965 tiểu đoàn tập kích tiêu diệt Đại đội 510 bảo an lấn chiếm ra chốt tại ấp Võ Xu; buộc địch phải rút bỏ cuộc càn quét lấn chiếm này; ba khôi phục lại vùng giải phóng.

Phát huy thắng lợi làm chủ đường 20, lực lượng tập trung của Lâm Đồng phối hợp với Tiểu đoàn 130 (thiếu) của Quân khu đánh diệt hai trung đội địch ở ấp Tân Lý, bức rút trại biệt kích Tân Rai, và sau đó chuyển sang phía đông giải phóng đoạn đường số 8 kéo dài, từ bắc quận lỵ Di Linh đến Kin Đạ. Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 5 năm 1965 Tiểu đoàn 130 lại cùng với Đại đội 210 của Lâm Đồng đánh chiếm ấp Bờ Xu Lach trên đường số 8 kéo dài và đánh viện của Tiểu khu và Chi khu Di Linh, diệt một đại đội bảo an, một trung đội thám kích, đánh thiệt hại nặng một đại đội bảo an khác. Bị đánh đau, các đồn bốt còn lại trên đường số 8 kéo dài từ Đinh Trang Thượng đến Tân Dân (bắc quận lỵ Di Linh) hoảng hốt tháo chạy. Ta làm chủ hoàn toàn đoạt đường này, giải phóng trên một vạn dân, nối liền với căn cứ phía bắc của tỉnh Lâm Đồng.

Bộ đội địa phương và du kích K3 (tức huyện Di Linh) bám hoạt động từ núi Chẻ đến Tân Dân, đánh địch từ Di Linh dũi ra lấn chiếm đường 8 kéo dài. Đầu tháng 6 năm 1965 Đại đội 310 của tỉnh chuyển sang đánh địch trên đường 20, từ ấp An Lạc đến ấp Đinh Trang Hạ, giải phóng các ấp ở đây và làm chủ đường này, có lúc cả tuần lễ. Cũng trong lúc này Tiểu đoàn 130 (thiếu) chuyển sang vây ép địch ở quận lỵ và chi khu Di Linh, cùng với các đội công tác làm chủ các ấp Cẩm Hương, Kim Lệ, ấp cây số 3, cây số 5 (phía tây thị trấn Di Linh). Thời gian này, ở Lâm Đồng, địch chỉ hai cụm lớn là thị xã Blao, thị trấn Di Linh và một số chốt lưu động trên những đoạn đường 20 còn lại (như chốt ấp 12, đèo Blao và Đa Gùi).

Ta mở rộng vùng căn cứ, vùng giải phóng phía nam và bắc Lâm Đồng nối liền với vùng giải phóng Hoài Đức - Tánh Linh của Bình Thuận. Ta làm chủ và cắt từng đoạn dài trên đường 20, gây khó khăn cho việc vận chuyển, tiếp tế của địch; xe chở khác, chở hàng của tư nhân phải chịu sự kiểm soát của ta. Sĩ quan ngụy đi trên các xe khách phải cái trang và xuất trình giấy tờ qua trạm kiểm soát của ta. Có lúc địch phải điều cả trung đoàn đi giải tỏa lộ 20 nhưng không giải quyết được.

Với tình hình thuận lợi này, nhiều người thân của bộ đội ta (có những người ở tận Nam Bộ) đã từ vùng địch mang quà ra vùng giải phóng thăm viếng con em mình và động viên cán bộ, chiến sĩ ta hăng hái làm nhiệm vụ. Những hoạt động trên của tỉnh Lâm Đồng đã có tác động căng kéo, phân tán lực lượng địch; và phối hợp tốt với chiến dịch Đồng Xoài.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 07:47:19 pm »

Ở Quảng Đức, ngày 9 tháng 5 năm 1965, lực lượng tập trung tỉnh đã đánh dứt điểm đồn Sa Na, diệt gọn đại đội 284 bảo an; sau đó đánh viện của tiểu khu Gia Nghĩa, diệt hai trung đội bảo an, giải phóng ấp Sa Na với 1.200 dân (đồng bào Thượng), cắt đứt hoàn toàn con đường Gia Nghĩa đi Đức Xuyên.

Tháng 6 năm 1965 lực lượng ta tiếp tục đánh diệt bốn trung đội bảo an, dân vệ và trừng trị một số tề điệp ác ôn, nhiều ấp dân vệ tan rã hoặc đầu hàng, nộp vũ khí cho ta. Tính chung Xuân Hè 1965, Quảng Đức đã đánh phá hơn năm mươi phần trăm ấp chiến lược trong tỉnh, mở được diện làm chủ và giải phóng gần một vạn dân.

Ở Tuyên Đức: do ta còn nhiều khó khăn về lương thực, sau hoạt động Xuân 1965, lực lượng phải rút về căn cứ Lạc Dương làm rẫy. Giữa năm 1965 mới trở lại địa bàn. Qua hoạt động đã rút được thanh niên ra thành lập trung đội bộ đội địa phương huyện Lạc Dương và trung đội công binh của tỉnh.

Ở đồng bằng Bình Thuận, các lực lượng vũ trang chính trị đã phối hợp tiến công địch liên tục và đều khắp, mở ra được nhiều mảng ở vùng sâu và vùng ven thị xã. Ở “điểm” của tỉnh(1) đêm 4 rạng ngày 5 tháng 5 năm 1965, lực lượng tỉnh đánh diệt ba trung đội dân vệ ở ấp chiến lược Giồng Thầy Ba, là ấp nằm sát căn cứ khu Lê, 5.000 dân đã bung về làng cũ; đồng thời tiến công giải phóng các ấp Rạng, Bà La. Sau đó ta trụ lại phục kích đánh thiệt hại nặng hai đại đội bảo an từ chi khu Hai Long kéo lên cứu viện. Trước tình hình đó, tiểu khu điều quân từ Phan Thiết ra phản kích, bị ta đánh trả quyết liệt, đập tan cuộc phản kích, giữ vững được vùng giải phóng. Tiếp theo, ta tiến sâu vào vùng ven thị xã Phan Thiết, đánh tan hai trung đội dân vệ ở hai ấp Phú Hải và Phước Thiện Xuân, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền làm chủ.

Ngày 17 tháng 5 năm 1965, Đại đội 450 huyện Thuận Phong phối hợp với lực lượng tỉnh, dùng một lực lượng nhỏ cải trang thường dân đi trên hai xe lam vượt qua cổng gác Phú Long, bất ngờ nổ súng tiêu diệt bọn gác cầu (Phú Long), đánh chiếm trụ sở ngụy quyền và đánh thiệt hại Đại đội 433 bảo an và hai trung đội dân vệ. Tiểu khu Phan Thiết phải điều hai đại đội bảo an (441-887), có 5 xe bọc thép đi phản kích. Bảy lần quân địch cho vượt sông đánh vào trận địa ta thì bảy lần các chiến sĩ ta anh dũng đánh bật chúng trở lại. Gần tối, địch co cụm lại. Nắm thời cơ, trung đội trưởng Văn Minh Trường dẫn đầu đơn vị vượt sông đánh thẳng vào đội hình đang co cụm của địch. Cùng lúc, các đơn vị khác cũng vượt sông, hình thành thế bao vây, diệt gọn Đại đội bảo an 887. Tàn quân của Đại đội 441 dựa vào lô cốt cũ của Pháp ở Kim Ngọc ngoan cố chống trả. Ta bắn chết tên chỉ huy ác ôn, buộc những tên còn sống sót hạ súng đầu hàng, diệt và làm bị thương 150 tên.

Ở huyên Hòa Đa: ta tiến công diệt một trung đội dân vệ quận, vây ép đồn 39 và trung tâm huấn luyện biệt kích Lương Sơn, giải phóng trên năm nghìn dân; đánh bọn bảo an tái chiếm, diệt hai trung đội, giữ vững ấp Hiệp Thành, bức rút đồn Phú Hải (tây thị trấn Phan Rí) và phá banh hầu hết các ấp chiến lược còn lại phía tây chợ Lầu.

Ngoài ra, ta còn đột đánh địch ở các ấp Phú Điền, Vĩnh Hảo, La Gàn, Dưồng, diệt và bắt hàng trăm tên dân vệ và tề điệp, thu trên 50 súng, phá hoại nhiều đoạn đường, cắt đứt đường sắt từ sông Lũy qua Ma Lâm và đường số 1 từ Chợ Lầu trở vào.

Ở Hàm Thuận: cuối tháng 5 năm 1965, ta mở hoạt động trên đường số 8, đánh quân lấn chiếm các ấp Bình Lâm, Bình An, Tân Điền, Tân An; đánh thiệt hại nặng hai đại đội bảo an; làm chủ hoàn toàn đường số 8 từ Tân An đến An Phú; mở rộng thêm vùng làm chủ của khu Tam Giác, nối liền với mảng giải phóng phía đông đường 8 và khu Lê Hồng Phong. Phong trào quần chúng phá banh ấp chiến lược, bung về vườn đất cũ phát triển rộng mạnh. Lực lượng bộ đội địa phương và du kích đã đẩy mạnh. Lực lượng bộ đội địa phương và du kích đã đẩy mạnh hoạt động vào các vùng sâu; đánh bọn dân vệ ở Lại An, Thuận Nghĩa, Phú Hội; chuyển các ấp Đại Nẫm, Xuân Phong, Phú Hội, Lại An Hạ ở vùng ven thị xã lên tranh chấp mạnh; và nhiều lần vũ trang tuyên truyền vào các ấp Phú Tài, Trinh Tường, phường Phú Trinh nằm trong thị xã, trừ gian diệt ác; đánh diệt bót Cổng chữ Y lần thứ hai.

Chưa bao giờ quân, dân Bình Thuận tiến công địch mạnh mẽ và đều khắp như trong tháng 5 và tháng 6 năm 1965; đã mở rộng được vùng Phước Thiện Xuân, Phú Hài, Bà La, Rạng, và nối liền vùng giải phóng của Hàm Thuận kéo dài theo dọc lộ số 1 từ Lương Sơn vào đến Phú Long. Quận lỵ Hải Long của địch ở Thạch Long, Mũi Né hoàn toàn cô lập.

Ở miền núi tây Bình Thuận cũng có những hoạt động đều, sau nhiều lần phá hoại đường số 8 từ Gia Bát đi Di Linh, ngày 3 tháng 6 năm 1965 bộ đội địa phương huyện Di Linh cùng với một tiểu đội dân vệ tại chỗ đã bức địch rút đồn Gia Bát, giải phóng trên hai nghìn đồng bào dân tộc, mở rộng vùng căn cứ.

Đặc biệt là du kích và đồng bào ở các ấp giải phóng đã hăng hái tham gia cùng với bộ đội đánh phá giao thông các trục đường số 8 (Phan Thiết - Ma Lâm), đường số 1 (Phan Thiết - Sài Gòn), các đoạn đường sắt Mường Mán - Phan Thiết, Mường Mán - Ma Lâm, Mường Mán - Suốt Vận; đánh cả bọn đi giải tỏa đường; làm tê liệt hoan toàn hệ thống giao thông đường bộ của địch trên toàn tỉnh trong từng thời gian.

Ở Ninh Thuận: tuy còn gặp nhiều khó khăn, nhưng trong hoạt động hè cũng cố gắng đánh được địch, mở phong trào. Lực lượng huyện Thuận Nam mạnh dạn thọc sâu đánh địch ở các ấp Hiếu Lễ, Vạn Phước; cùng các đội công tác đánh địch, diệt ác; có trận diệt gọn cả trung đội địch, thu vũ khí, có trận trụ lại đánh địch phản kích ngay cả ban ngày trong ấp chiến lược. Ta đã giành và giữ thế tranh chấp mạnh với địch ở các ấp Thương Diêm, Lạc Nghiệp, Sơn Hải, Vĩnh Trường, Từ Tầm, Hòa Thủy… Ở Thuận Bắc, bộ đội địa phương và các đội công tác bám sát đường số 1 (Bà Râu - Do Long) và đường 11, liên tục đánh nhỏ lẻ, diệt trên 50 tên địch, bắt và cải tạo 20 tên ác ôn, phát động quần chúng xây dựng cơ sở, làm lỏng rã kìm ở nhiều ấp hai bên đường.

Phong trào xung phong ra phía trước tiến công địch, phá ấp, phá kìm, phá giao thông của du kích và bộ đội địa phương ở căn cứ Bác Ái, Anh Dũng, tiếp tục được duy trì.


(1) Tỉnh chọn huyện Thuận Phong và vùng tây nam Hòa Đa (từ Lương Sơn đến chợ Lầu) làm “điểm”.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Mười Hai, 2011, 06:15:17 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 07:48:37 pm »

Nhìn chung trong đợt hè năm 1965, phối hợp với toàn Miền, các lực lượng trong quân khu đã chuyển hoạt động đều và rộng mạnh hơn bất cứ đợt nào trước đây. Cả năm 1965, nhất là trong đợt hè, ta đã đánh 1875 trận, diệt 7.965 tên địch, thu 2.000 súng, đánh hỏng 70 xe quân sự (có 12 xe bọc thép), bắn rơi 21 máy bay, bắn bị thương 46 chiếc khác. Đáng chú ý là các đơn vị tập trung của quân khu và tỉnh tuy lực ít nhưng có tinh thần xông xáo và được tổ chức sử dụng linh hoạt, cơ động nên đã đánh diệt được nhiều địch và hỗ trợ có hiệu quả cho phong trào nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng.

Diện đánh nhỏ lẻ của du kích và bộ đội địa phương huyện cũng rộng rãi và thường xuyên hơn. Riêng du kích đã độc lập đánh 559 trận và phối hợp với các lực lượng đánh 475 trận.

Tiêu diệt địch giành quyền làm chủ, kết hợp tác chiến với quần chúng nổi dậy, ta đã mở ra nhiều vùng rộng lớn, thu hẹp dần vùng kiểm soát của địch, có nơi mở vào sát thị trấn, thị xã. Xuân hè 1965 ta đã phá banh, phá dứt điểm thêm 172 ấp chiến lược, nâng tổng số ấp giải phóng trong toàn khu lên 356 ấp (chiếm gần hai phần ba trong tổng số) với số dân là 203.345 người. Huyện Hoài Đức được giải phóng hoàn toàn và có 10 huyện được giải phóng đại bộ phận như K127, K6, K9 của Phước Long, Di Linh và K4 của Lâm Đồng, Khiêm Đức và Đức Lập của Quảng Đức, Hòa Đa, Thuận Phong, Tánh Linh của Bình Thuận. Các địa bàn được giải phóng đã nối liền với các khu căn cứ thành thế liên hoàn, nối từ biên giới Cam-pu-chia xuống tận bờ biển Bình Thuận (tuy bị các đường 14, 20, đường số 1 và đường sắt cắt ngang, nhưng ta vẫn làm chủ và đi lại bình thường).

Việc liên tục đánh cắt các đường giao thông chiến lược số 14, 20, quốc lộ 1, đường sắt Bắc - Nam và hầu hết các tỉnh lộ, đã gây cho địch nhiều khó khăn, lúng túng trong cơ động lực lượng, chuyển vận tiếp tế, giao lưu kinh tế, nhất là giữa Sài Gòn với nam Tây Nguyên và miền Trung; có lúc địch phải dùng cả máy bay, tàu biển để tiếp tế và phải dùng một lực lượng đáng kể vào việc mở đường, mở đường nhưng cũng không bảm đảm an toàn. Ngoài ra, ta còn đánh sập 17 trụ điện cao thế (Lâm Đồng), phối hợp với Long Khánh cắt đứt đường điện từ Đa Nhim về Sài Gòn.

Nhân dân các vùng giải phóng tiếp tục đấu tranh hạn chế sự đánh phá của địch, giữ được thế hợp pháp, giao lưu giữa vùng ta và vùng địch, ổn định cuộc sống, tuyên truyền vận động binh sĩ, nhất là các gia đình có con em đi lính cho địch. Ở Phước long, có dinh điền 96 người đi lính cho địch thì đã có 91 người bỏ ngũ trở về. Ở Bình Thuận, có ấp 43 người đi lính cho địch thì 31 người đào ngũ trở về. Qua đợt hoạt động hè có 11 trung đội dân vệ, biệt kích nộp súng đầu hàng.

Được các chiến thắng quân sự cổ vũ, phong trào đấu tranh của nhân dân trong các vùng địch kiểm soát cả đồng bào Kinh và Thượng, có khí thế mới như đòi tự do đi lại làm ăn, bung về ở chỗ cũ, đòi bồi thường chồng con, em bị tử trận, đòi cứu tế gạo, muối, thuốc men…

Ở vùng giải phóng cũ và mới, công tác xây dựng các mặt được tiến hành khẩn trương nhằm chống địch lấn chiếm và đáp ứng yêu cầu của kháng chiến. Trước mắt là đẩy mạnh sản xuất, cả lương thực và rau màu, tổ chức bố phòng chống địch bằng ba mũi, vừa xây dựng lực lượng chính trị, vừa tổ chức dân quân du kích. Nhiều nam nữ thanh niên tình nguyện thoát ly nhận công tác cách mạng. Nhân dân hăng hái đóng góp và sẵn sàng bán cho cách mạng hàng ngàn tấn lúa gạo, hàng vạn lượt người đi dân công. Công tác giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng được tiến hành.

Tính chung trong năm 1965, trong toàn khu đã động viên được 3.204 thanh niên thoát ly, trong đó có 2.689 tân binh, đây là con số động viên cao nhất trong một năm, kể từ khi bắt đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng là con số kỷ lục cho đến khi kết thúc cuộc chiến tranh, chưa tính số tham gia các mặt công tác khác tại địa phương.

Vùng giải phóng mở rộng nên dân căn cứ bị gom xúc, nay cũng bung về lại núi rừng, đưa số dân vùng căn cứ lên gần ba vạn người. Tình hình tương đối ổn định nên việc xây dựng các mặt ở vùng dân tộc làm được nhiều và sâu hơn, nhất là đi sâu giáo dục nâng cao tinh thần độc lập dân tộc, giải quyết những mơ hồ về ta, bạn, thù, nâng cao ý chí chiến đấu, quyết tâm chống địch, làm chủ núi rừng. Mặt khác, tích cực giải phóng được muối, vải cho nhân dân, nên tình hình đời sống vật chất và tinh thần ở vùng căn cứ có thêm sắc thái mới.

Lực lượng vũ trang tuy phải hoạt động liên tục nhưng vẫn chú ý kết hợp xây dựng và chiến đấu như kèm cặp tân binh, bồi dưỡng đơn vị cũ, xây dựng thêm đơn vị mới, tổ chức huấn luyện và rút kinh nghiệm giữa các đợt chiến đấu để nâng thêm trình độ bộ đội. Trường Quân chính Quân khu đã khắc phục khó khăn, mở được các kháo đào tạo và bổ túc cho cán bộ, kịp thời bổ sung cho các đơn vị chủ lực quân khu và địa phương được nhiều cán bộ trung đội, đại đội, đáp ứng được yêu cầu chiến đấu, huấn luyện và xây dựng đơn vị; nhiều đồng chí sau đó đã trưởng thành đảm đương được những chức vụ cao hơn.

Tóm lại, trong năm 1965, tuy sức ta có hạn nhưng đã tranh thủ thời gian, lợi dụng thời cơ, đẩy mạnh các mặt hoạt động, chuyển phong trào toàn Khu lên một cao trào mới, vùng ta được mở rộng và nối liền nhau; hoạt động vũ trang và đấu tranh chính trị được nâng lên một bước, góp phần cùng toàn Miền đánh bại về cơ bản “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy; quân khu đã tạo được thế mới, lực mới để duy trì và phát triển cuộc chiến đấu chống âm mưu mới của địch, đưa thế ta đi lên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2011, 07:50:06 pm »

Chương IV

CÙNG VỚI TOÀN MIỀN ĐÁNH BẠI
CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
(Từ giữa năm 1965 đến cuối năm 1968)

CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ,
QUYẾT TÂM VÀ ĐỐI SÁCH CỦA TA

Bước sang năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị thất bại. Trước nguy cơ đó, đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” với chiến lược “tìm diệt” và “bình định”. Đồng thời phát động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc nước ta. Chúng hy vọng ngăn chặn sự sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền; kìm chế sự phát triển của cách mạng miền Nam, từng bước phản công giành lại thế chủ động và tạo ra thế mạnh buộc ta phải thương lượng theo những điều kiện của chúng.

Tin tưởng mù quáng vào “sức mạnh ghê gớm” của quân lực Huê Kỳ, ngày 9 tháng 7 năm 1965, tổng thống Mỹ Giôn-xơn chuẩn y kế hoạch giành thắng lợi từ hai năm lên hai năm rưỡi của tướng Oét-mo-len.

Kế hoạch chia làm ba giai đoạn:

- Giai đoạn một: Triển khai quân chiến đấu Mỹ và chư hầu ngăn chặn chiều hướng thua của quân ngụy.

- Giai đoạn hai: Mở tiến công 6 tháng đầu năm 1966, ở các vùng đặc biệt ưu tiên để tiêu diệt chủ lực của cộng sản và tiến hành bình định.

- Giai đoạn ba: Từ một năm đến một năm rưỡi tiếp theo giai đoạn hai đánh bại và tiêu diệt các lực lượng và phá các căn cứ của ta.

Đất nước ta, dân tộc ta đang đứng trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Tuy nhiên những điều đó không vượt ra ngoài dự kiến của Đảng ta. Hội nghị lần thứ 11 (tháng 9 năm 1965) và Hội nghị lần thứ 12 (tháng 12 năm 1965) Ban Chấp hành Trung ương Đảng nghiên cứu toàn diện tình hình, âm mưu và hoạt động mới của đế quốc Mỹ, nhận định cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta: về tính chất và mục đích vẫn là chiến tranh xâm lược nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Song cuộc chiến tranh đó từ chỗ dựa vào lực lượng quân ngụy là chủ yếu đã phát triển thành cuộc chiến tranh của Mỹ, dựa vào hai lực lượng chiến lược là quân đội viễn chinh của Mỹ và quân đội ngụy. Do đó, cuộc chiến tranh sẽ diễn ra gay go, ác liệt hơn. “… do những thất bại nặng nề của địch và những thắng lợi to lớn của ta, mặc dầu đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam Việt Nam hàng chục vạn quân viễn chinh Mỹ, lực lượng so sánh giữa ta và địch căn bản không thay đổi. Đế quốc Mỹ đưa 20 vạn quân vào miền Nam, hay 40 vạn, 50 vạn cũng không thể thắng được”(1).

Trung ương Đảng nêu cao quyết tâm “Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà”(2).

Quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, đó là quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quyết tâm đó thể hiện trong lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước ngày 20 tháng 7 năm 1965 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù phải chiến đấu năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”.

Đánh Mỹ và thắng Mỹ, đó là vấn đề của thời đại. Sức mạnh quân sự “không lồ” của tên đế quốc đầu sỏ có nền công nghiệp quân sự hiện đại, cùng với “huyền thoại” một đội quân chưa hề nếm mùi thất bại đã và đang khiến cho nhiều người trên thế giới lo ngại.

Đương đầu với tên sen đầm quốc tế giàu mạnh, có những tham vọng lớn và tính chất tàn bạo nhất, cuộc chiến tranh của Đảng ta, dân tộc ta nhất định sẽ gặp nhiều khó khăn, gian khổ ác liệt, hy sinh. Không coi thường kẻ địch, nhưng cũng không sợ địch. Vấn đề quan trọng hơn cả là dám đánh Mỹ, từ dám đánh sẽ từng bước tìm ra cách đánh và thắng Mỹ.

Quân chiến đấu Mỹ và chưa hầu nhảy vào miền Nam trong lúc cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta đang diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt và rộng khắp từ Quảng Trị đến Cà Mau, từ rừng núi đến đồng bằng và đô thị. Thế trận của chiến tranh nhân dân đã hình thành vững chắc, chiến tranh du kích phát triển cao, quân chủ lực của ta đã được xây dựng và bố trí trên những địa bàn chiến lược quan trọng. Trong lúc đó, ngụy quân, ngụy quyền lại đang bị đánh đau, từng bộ phận bị suy sụp, tan rã. Vì thế, các đơn vị chiến đấu Mỹ và chư hầu mới vào, không những không thể triển khai như ý muốn của chúng, mà lại sa vào vòng vây của chiến tranh du kích của ta.

Vả lại, quân chiến đấu Mỹ là đội quân được huấn luyện và trang bị cho cuộc chiến tranh quy ước phân rõ chiến tuyến. Ở miền Nam nước ta, chiến tranh lại không có mặt trận nhất định, quân Mỹ và chư hầu ở đâu, đi đến đâu cũng bị đánh. Khắp các thôn xã, núi rừng, đồng ruộng, v.v. đều là mặt trận. Đội quân hiện đại đó buộc phải đánh theo cách đánh của ta; phát sinh mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung. Phải đương đầu với một thế trận của chiến tranh nhân dân phát triển cao là điều chúng không thể nào khắc phục được.

Dù là “chiến tranh đặc biệt” hay “chiến tranh cục bộ” cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ vẫn là cuộc chiến tranh thực dân mới, chúng dựa vào ngụy quân ngụy quyền, vẫn phải thực hiện một số chính sách mị dân, lừa bịp, lôi kéo quần chúng. Ta có thể đấu tranh chính trị, binh vận, hình thành ba mũi giáp công, khắp cả ba vùng chiến lược.

Trước tình hình đó Đảng ta khẳng định: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh Mỹ, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lới. Do đó, cách mạng miền Nam vẫn “giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công”, tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”. Mục tiêu chủ yếu của đấu tranh vũ trang là:

Tiêu diệt và tiêu hao đại bộ phận quan trọng quân Mỹ làm cho nó tổn thất nặng, không làm được nòng cốt và chỗ dựa cho quân ngụy, không thể ngăn chặn được sự tan rã của ngụy quân, ngụy quyền.

Tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy tới mức nó không còn là lực lượng mà đế quốc Mỹ có thể dựa vào để tiếp tục chiến tranh xâm lược thực dân mới.

Những nhận định và chủ trương đúng đắn trên đây đã tiếp thêm sức mạnh và củng cố thêm quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân cả nước ta.

Ở chiến trường Khu VI, bước vào mùa khô 1965-1966 ta vẫn tiếp tục phát triển tiến công mở rộng vùng ta, đồng thời phản công địch, giữ các vùng giải phóng.


(1), (2) Trích Nghị quyết lần thứ 12 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 12 năm 1965.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2011, 06:26:00 am »

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM