Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 09:13:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975  (Đọc 77846 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:14:45 pm »

II. KHẨN TRƯƠNG XÂY DỰNG NAM TÂY NGUYÊN GẮN LIỀN VỚI
MIỀN TÂY CÁC TỈNH THÀNH CĂN CỨ ĐỊA VÀ HÀNH LANG CHIẾN LƯỢC

Từ tháng 7 năm 1961, trên toàn Miền, địch bắt đầu làm thí điểm ấp chiến lược. Tháng 3 năm 1962, Tổng thống ngụy quyền Ngô Đình Diệm thông qua “Quốc sách ấp chiến lược” và đến tháng 8 năm 1962 chúng bắt đầu triển khai làm ồ ạt.

Ở nam Tây Nguyên từ đầu năm 1962, địch bắt đầu gom dân xây dựng ấp chiến lược ở các vùng chúng kiểm soát, nhất là vùng xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột - Đà lạt và các quận lỵ trên trục đường 14.

Về phần ta, sau khi được thành lập, Khu ủy chủ trương đẩy mạnh công tác phát động quần chúng mở rộng diện phá kìm, xây dựng chính quyền cách mạng, động viên nhân dân đóng góp sức người, sức của cho cách mạng. Hướng mở ra là toàn bộ vùng Lạc Thiện, dọc sông Krông-Nô, đông, tây đường 21Bis, nhất là vùng đứng chân của các cơ quan Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu.

Qua phát động, đồng bào nhận rõ địch, ta, quyết tâm đi theo cách mạng, hăng hái sản xuất, bố phòng chống địch. Mặt trận, chính quyền, dân quân du kích lần lượt được xây dựng. Ở B3 và miền tây các tỉnh phong trào cách mạng vốn có từ trước nay có dịp vùng lên, nhân dân hăng hái tham gia phong trào du kích chiến tranh, thoát ly làm công tác cách mạng, gia nhập bộ đội địa phương, đi dân công đóng góp lương thực cho kháng chiến và tham, gia các mặt văn hóa, xã hội.

Đi đôi với việc, lực lượng vũ trang các tỉnh, huyện bám đánh các lực lượng kìm kẹp, hỗ trợ cho các đội công tác võ trang tuyên truyền phát động quần chúng. Bộ đội khu đánh một số trận nhằm vào các đồn bốt, còn nằm sâu trong vùng ta, hoặc ở các vùng ven để mở rộng địa bàn căn cứ về diện làm chủ. Tháng 11 năm 1961, đánh diệt đồn cấp đại đội ở Buôn Khanh, mở rộng vùng đông, nam Hồ Lắc ra đến đường 21, nối liền với miền tây tỉnh Khánh Hòa. Nhân dân xã Ninh Phước (huyện Ninh Hòa) và bảy thôn Đất Sét, Khánh Xuân, Phú Cốc, Lễ Thạnh,… (huyện Diên Khánh) nổi dậy phá ấp chiến lược. Đầu tháng 4 năm 1962, đánh cụm đồn bốt Phy-yàng cắt đường 21 kéo dài hỗ trợ cho phong trào huyện Đức Phong, tây tỉnh Tuyên Đức, mở ra thế liên hào giữa B5 và B4 vào giáp sông Đồng Nai (Lâm Đồng).

Cuối tháng 4 năm 1962, cùng một lúc ta đánh tiêu diệt gọn đồn cấp trung đội Hang-tơ và đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an chiếm giữ khu dinh điền Krong Pong, mở rộng diện tranh chấp mảng phía đông bắc Hồ Lắc. Tháng 5 năm 1962 lực lượng vũ trang ta lại tiến công chi khu và quận lỵ Lạc Thiện lần thứ hai(1), mở ra vùng tranh chấp ở vùng Lắc. Tiếp đó phục kích diệt địch từ Lắc đi dinh điền Tham Trạch và mở mảng phía tây Lắc qua Đức Xuyên.

Như vậy, đến giữa năm 1962 đã hình thành được thế ba vùng hỗ trợ lẫn nhau, mở rộng chiến tranh nhân dân địa phương (vùng căn cứ giải phóng, vùng tranh chấp và vùng còn bị kìm). Vùng căn cứ mới của khu được mở ra, đang khẩn trương xây dựng củng cố nâng lên về các mặt.

Đồng thời với việc xây dựng căn cứ, các tuyến hành lang cũng được củng cố hoàn chỉnh, với tất cả trên 30 trạm. Ngoài tuyến hành lang số 1 (hành lang chiến lược nối từ Gia Lai - Kon Tum vào đến Lâm Đồng - Đông Nam Bộ), đa xây dựng xong mạng đường đi về các tỉnh trong khu. Nhờ đó khách và hàng không ứ đọng, nhất là số khác và hàng Trung ương chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Đến hết quý một năm 1962, Khu đã sử dụng trên 60 tấn gạo và bốn vạn rưỡi lượt dân công phục vụ hành lang, có những chặng đường đã huy động hàng trăm voi và ngựa. Đặc biệt là cuối năm 1961, đã tổ chức đón đưa một số đồng chí Ủy viên Trung ương và luật sư Nguyễn Hữu Thọ qua đường dây Khu VI về đến Trung ương Cục an toàn.

Đối phó với phong trào Cách mạng đang chuyển lên, địch xúc tiến mạnh việc gom dân xây dựng ấp chiến lược. Ở nam Tây Nguyên trong sáu tháng đầu năm 1962, địch đã gom được 100 làng ở các vùng giáp ranh, vùng ven, xây dựng thành ấp chiến lược khá kiên cố, với nhiều lớp rào, có hào sâu, lô cốt và ụ chiến đấu kết hợp với chông mìn… Ngoài lực lượng dân vệ, còn có lực lượng bảo an chốt giữ ấp, bộ máy kìm kẹp cũng được tổ chức trong từng ấp khá chặt. Miền Tây các tỉnh đồng bằng ven biển, địch gom xúc hàng ngàn dân vùng giáp ranh xuống lập ấp ở đồng bằng.

Tháng 6 năm 1962, sau khi kiểm điểm tình hình và sơ bộ rút khởi nghĩa trong nhiệm vụ chống phá âm mưu gom dân, lập ấp chiến lược của địch, Thường vụ Khu ủy đã đề ra những biện pháp lớn để chống phá âm mưu này và chỉ đạo một đợt đánh phá mạnh ấp chiến lược trong toàn Khu, bắt đầu từ tháng 7 năm 1962.

Ở nam Tây Nguyên, mở đầu đánh phá ấp Buôn Trấp (bắc tây bắc Buôn Ma Thuột) ta diệt một đại đội “tự trị” sau đó mở hoạt động vào một số ấp xung quanh. Nhưng hoạt động của ta nặng dùng vũ trang và vũ trang cũng không đủ mạnh nên bị địch đối phó ngăn chặn. Ta phải chuyển lại hoạt động với phương châm hai chân ba mũi thích hợp ở từng vùng. Đến cuối năm 1962, dù địch nống ra chiếm đóng vùng Đầm Roòng nhưng ta vẫn quần bám đánh địch và nắm dân các ấp xung quanh.

Về xây dựng lực lượng vũ trang, đua tháng 4 năm 19672 Trung ương chi viện vào chiến trường Quân khu VI, một khung cán bộ trung đoàn (Trung đoàn 120) và một khung tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn 39) và tiếp sau đó đưa thêm một tiểu đoàn thực binh (Tiểu đoàn 36). Nhưng do cơ sở chính trị, vũ trang bên dưới còn yếu, điều kiện hoạt động tập trung còn hạn chế, nên Khu ủy phải giải thể khung trung đoàn để lấy cán bộ bổ sung xây dựng cơ quan quân sự các tỉnh và xây dựng cơ quan Bộ Tư lệnh Quân khu; còn giữ lại khung tiểu đoàn trợ chiến và hai tiểu đoàn bộ binh (36-39); các đơn vị này phải phân tán hoạt động nhỏ kết hợp với lo lương ăn. Tiểu đoàn 186 đứng hoạt động ở vùng NamKa thuộc huyện Đức Xuyên, tiểu đoàn 120 (sau này là Tiểu đoàn 840) hoạt động ở vùng đồng bằng Ninh Thuận - Khánh Hòa.

Năm 19621, Bình Thuận rút thanh niên (nam nữ) bổ sung cho Quân khu được bảy mươi tân binh và Miền bổ sung khoảng hai trăm tân binh Nam Bộ. Nhưng do các đồng chí chưa quen khí hậu miền núi nên bị đau ốm nhiều, phải nuôi dưỡng một thời gian mới công tác và chiến đấu được.

Bộ đội địa phương tỉnh, huyện ở miền núi, trừ B3 có vốn cũ và được các tỉnh bạn ở Khu V chi viện, nên xây dựng được lực lượng khá hơn. Đến giữa năm 1962, bộ đội tỉnh (B3) đã có hai đại đội bộ binh và một trung đội đặc công. Mỗi huyện có từ một tiểu đội đến một trung đội; dân quân du kích đến đầu năm 1962, riêng nam Tây Nguyên có 2.210 người (trong đó có 500 du kích nửa thoát ly). B3 có 1.600 du kích. Miền Tây các tỉnh đồng bằng, bộ đội địa phương huyện và du kích đã phát triển đều và rộng hơn, chất lượng khá (nhất là du kích Bác Ái).

Như vậy là qua một năm vừa xây dựng, vừa chiến đấu, được sự chi viện của Trung ương và Miền, lực lượng vũ trang ba thứ quân trong quân khu được hình thành và phát triển (nhất là lực lượng dân quân du kích ở B3, Bác Ái và Di Linh).


(1) Lần thứ nhất, đánh diệt hồi tháng 3 năm 1961.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:15:27 pm »

III. PHÁT TRIỂN TIẾN CÔNG ĐỊCH,
MỞ RỘNG PHONG TRÀO Ở ĐỒNG BẰNG

Những tháng đầu năm 1961, ở đồng bằng, lực lượng của Liên tỉnh 3 và các tỉnh cùng đội vũ trang công tác tiếp tục đánh địch, diệt ác, phá kìm, phát động quần chúng, xây dựng phát triển cơ sở.

Trong đợt chống phá bầu cử Tổng thống ngụy tháng 5 năm 1961: Ninh Thuận đánh diệt bốt dân vệ và trụ sở xã Mỹ Tường, diệt ác ở Phương Cựu, Thái An, Mỹ Hòa, v.v. Bình Thuận đánh diệt một tiểu đội biệt kích ở Bình Lâm, đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an (từ Phan Thiết viện lên), tiến hành vũ trang tuyên truyền ở nhiều nơi. Tuy nhiên, hoạt động mới chỉ mang tính chất bề nổi từng đợt, lướt qua trên diện rộng, chưa đi sâu phát động, tổ chức được quần chúng, nên khi ta rút đi, địch kim kẹp lại.

Do đó, Hội nghị ban cán sự Liên tỉnh ngày 3 tháng 5 năm 1961 đã đề ra yêu cầu là phải quần bám, phát động quần chúng, xây dựng cơ sở, hướng dẫn đấu tranh, giành giữ phong trào. Chấp hành nhiệm vụ trên, từ tháng 7 năm 1961 trở đi, các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa đã tập trung sức hoạt động, mở phong trào ở đồng bằng.

Lúc này, địch đang tiến hành “chiến tranh đặc biệt” ra sức bắt lính, đôn quân, phát triển lực lượng cả cộng hòa, bảo an và dân vệ tại chỗ, tăng cường bộ máy kìm kẹp thôn xã, tổ chức gián điệp, tiến hành xây dựng thí điểm ấp chiến lược. Tuy vậy, địch vẫn có nhiều sơ hở, từ chỗ hoàn toàn chủ động và tự do đánh phá phong trào cách mạng, nay bị lực lượng vũ trang ta tiến công, diệt ác, phá kìm, hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy đã làm chúng bất ngờ, lúng túng, hoang mang, dao động.

Ở Bình Thuận, lực lượng vũ trang của tỉnh, huyện cùng với các đội vũ trang công tác phối hợp thành các đội vũ trang tuyên truyền mạnh, giương cao cờ Mặt trận giải phóng hoạt động đều khắp trên các khu vực sát thị xã Phan Thiết, Hàm Tân, Lagi. Vừa đánh địch, diệt ác ôn, vừa tuyên truyền, phát động quần chúng bằng nhiều hình thức như truyền đơn, hẩu hiệu, mít tinh, hội họp… Qua đó đã làm cho quần chúng mạnh dạn đứng lên đấu tranh chống địch, giành giữ quyền làm chủ.

Ở Ninh Thuận - Khánh Hòa, các lực lượng vũ trang và đội công tác cũng phối hợp đẩy mạnh hoạt động phá lỏng, làm rã kìm kẹp ở nhiều nơi, mở rộng cơ sở, khôi phục những vùng bị đứt liên lạc từ lâu, mở ra một số xã làm chủ và tranh chấp.

Tháng 9 năm 1961, được bổ sung thêm lực lượng từ miền Bắc về (gồm những con em ở quê hương, được học tập rèn luyện có trình độ về quân sự, chính trị, có bảnh lĩnh chiến đấu tốt) cộng với lực lượng vũ trang tại chỗ nên ta đã tập trung đẩy mạnh hoạt động đạt hiệu quả chiến đấu cao, nhất là ở vùng đồng bằng.

Ở mảng phía bắc, Tiểu đoàn 120 đánh một số trận tốt: diệt gọn đồn bảo an cấp trung đội (Cửu Lợi) trên đường số 1 phía bắc Ba Ngòi 25 ki-lô-mét; tiếp theo là trận chặn đoàn tàu hỏa, đánh diệt quân hộ tống đoàn tàu và cả đại đội quân cảnh đi học ở Sài Gòn về, thu vũ khí, bắt sống một số tên.

Tháng 10, Tiểu đoàn 120 chuyển ra hoạt động vùng điểm của Khánh Hòa, phối hợp với lực lượng tỉnh đánh trận Cẩm Sơn thắng lợi. Trận này diễn ra phức tạp, từ đánh phục kích vận động chuyển thành trận tập kích, đánh địch trong công sự ban ngày (vì địch lợi dụng công sự của đồn Cẩm Sơn cũ và ngoan cố chống lại ta). Sau ba giờ chiến đấu rất dũng cảm, ngoan cường bộ đội ta diệt gọn một đại đội bảo an và một chi đội xe bọc thép của tiểu khu Khánh Hòa, bắt tù binh, thu toàn bộ vũ khí. Chiến thắng này đã làm thối động phong trào trong tỉnh, làm tê liệt và tan rã lực lượng kìm ở nhiều ấp, xã, từ Đại Điền đến Suối Dầu. Địch phải kêu “có lực lượng chính quy của Bắc Việt về”. Điều đó càng làm cho hàng ngũ chúng lo sợ và nhân dân thì rất vui mừng.

Cũng trong tháng 9, tháng 10 năm 1961, đại đội 305 của Ninh Thuận đánh phá các khu tập trung La Bá, Trại Thịt,… đưa đồng bào dân tộc về lại núi rừng xây dựng căn cứ; thọc sâu xuống vùng sát biển của Thuận Nam, diệt gọn một đội công an xung phong mười bốn tên, thu toàn bộ vũ khí, gây tác động mạnh đến bọn tề vệ địa phương. Cả trung đội dân vệ ở ấp Sơn Hải đào rã ngũ một số mang súng chạy theo cách mạng. Phát huy chiến thắng, ta vũ trang tuyên truyền, phá lỏng rá kìm, xây dựng cơ sở ở các ấp Từ Tâm, Hòa Thủy, Thành Tín, v.v.

Tháng 11 năm 1961, đại đội 305 chuyển vào hoạt động ở hướng Cà Ná, phục kích đánh diệt gọn một trung đội dân vệ đi bảo vệ đoàn xe tải tạo, thu được nhiều lương thực. Ngày hôm sau bị địch bất ngờ đánh úp, nhưng đơn vị đã kịp thời chuyển sang vận động phản công địch, hình thành thế vu hồi, bao vây, diệt gần hết lực lượng này; số sống sót tháo chạy, bỏ xác tại chỗ. Sau đó ta dùng hình thức kỳ tập đánh đồn Mũi Điện ở Sơn Hải, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ trung đội dân vệ 24 tên, phá hủy đồn.

Sau những thận chiến thắng trên, Đại đội 305 cùng với các đội vũ trang đột nhập vào các xã, ấp ven biển (từ Cà Ná - Thương Diêm ra đến Sơn Hải, Vĩnh Trường, v.v.) phát động quần chúng, mở rộng diện làm chủ ra hầu hết các ấp. Nhân dân rất vui mừng được gặp lại bộ đội là con em mình năm xưa trở về quê hương, đã động viên được 130 thanh niên bổ sung cho Đại đội 305 và xây dựng bộ đội địa phương huyện.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:16:14 pm »

Cuối năm 1961, Tiểu đoàn 120 chuyển một bộ phận sang hoạt động ở phía Thuận Bắc (Ninh Thuận) nhằm hỗ trợ và chuyển phong trào lên, đã đánh đồn Mỹ Tường, diệt và bắt sống gần hết bọn tề vệ và đánh thiệt hại đại đội bảo an tiểu khu đến chi viện; sau đó phân tán cùng với lực lượng địa phương vũ trang tuyên truyền, làm lỏng, rã kìm nhiều xã, đưa dân lên làm chủ các ấp Thái An, Mỹ Hòa, Vĩnh Hy; rút được 60 thanh niên bổ sung cho lực lượng huyện và khu. Đặc biệt đã tổ chức cho trên năm trăm đồng bào dân tộc Bác Ái xuống tận đồng muối Phương Cựu để lấy muối ăn. Đây là món hàng chiến lược rất quý đối với nhân dân miền núi. Những ngày đi lấy muối ăn cũng là những ngày hội đối với nhân dân ở đây.

Ở Bình Thuận: sau trận đánh diệt đồn Gia Bát (15 tháng 8 năm 1961), tháng 9 năm 1961 lực lượng tỉnh chuyển ra đánh đồn Trường Bia ở Lương Sơn, diệt gọn một trung đội bảo an, thu vũ khí. Tiếp theo là đánh bọn phản kích ra Xe Lương, giải thoát một số đồng bào bị địch bắt. Thắng lợi đã gây chấn động trong hàng ngũ địch ở mảng bắc Bình Thuận, hỗ trợ cho các đội công tác vào ấp phát động quần chúng, kể cả các ấp vùng sâu sát thị trấn chợ Lầu - Phan Rí… Thừa thắng, lực lượng ta phát triển qua khu Lê Hồng Phong. Địch ở Nhơn Thiện, Bàu Thiêu hoảng sợ bỏ đồn tháo chạy. Lực lượng vũ trang và các đội vũ trang công tác thọc sâu vào các ấp ở Rạng, Long Hoa, đánh tan lực lượng kìm kẹp tại chỗ võ trang tuyên truyền phát động quần chúng, đánh bại các cuộc phản kích của địch lên Bến Ngạch, Bàu Tàng. Các xã Hồng Tâm, Hồng Chính (thuộc Nhơn Thiện) và xã Hồng Thịnh được hoàn toàn giải phóng. Các xã Thiện Nghiệp, Hồng Sơn chuyển lên giành quyền làm chủ.

Ở Tam Giác (Hàm Thuận) được sự hỗ trợ có hiệu quả của các lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, phong trào quần chúng phá kìm tiếp tục phát triển tốt. Những tên ác ôn khét tiếng như: Cửu Xe, Năm Chấn, Ba Dĩ… lần lượt bị trừng trị. Tháng 10 năm 1961, lực lượng tỉnh phối hợp với bộ đội địa phương huyện và các đột công tác, đánh phá các khu tập trung Cổ Mồm, Gia Lê (Láng Cốc) Gia Bát, và các ấp Tân Lâm, 18, 30, 31 giải phóng các xã Hàm Phú, Hàm Trí. Ngày 17 tháng 10 năm 1961 đại đội Hoành Sơn (486) và du kích đánh bại cuộc càn của địch vào Hàm Thạnh gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đêm 17 tháng 10 năm 1961, ta sử dụng đặc công đánh thiệt hại nặng địch ở quận lỵ Hàm Thuận. Ba xã Hàm Thạnh, Hàm Phú, Hàm Trí hoàn toàn được giải phóng và xây dựng thành làng chiến đấu, nối liền với các xã giải phóng ở khu Lê Hồng Phong, mở rộng căn cứ bàn đạp ở đồng bằng và đánh bại nhiều cuộc càn quét của địch ra vùng giải phóng.

Ở vùng ven thị xã Phan Thiết: xã Tiến Lợi cũng chuyển lên làm chủ. Như vậy các xã, ấp ở Hàm Thuận vào những tháng cuối năm 1961 đều bị lỏng, rã kìm, tề ấp; xã còn lại hoang mang dao động. Chúng đã thất vọng, “mình xây dựng bảy, tám năm trời, Việt cộng về phá một đêm là xong hết”. Một số bỏ trốn vào thị xã, thị trấn. Có những tên viết thư cho ta xin nhận tội hoặc bỏ việc. Khí thế quần chúng vươn lên, mạnh dạn đấu tranh với địch. Tại Tam Giác, ban ngày bộ đội ta vẫn vào cảnh giới địch, để đồng bào chạy máy xay xát gạo tiếp tế cho cách mạng.

Ở Hàm Tân: giải phóng xã Kim Bình và tranh chấp với địch, giành quyền làm chủ các xã, ấp trên mảng phía đông bắc của huyện.

Đồng bào căn cứ miền núi đang đói; đồng bằng đã mở ra, nhưng lực lượng thoát ly tăng nhanh nên thiếu lương thực. Để giải quyết khó khăn này, tỉnh chủ trương, đánh xe lửa vận chuyển lương thực, thực phẩm của địch. Ngày 22 tháng 10 và 4 tháng 12 năm 1961, đã đánh hai đoàn tàu lửa, lấy được nhiều lương thực, thực phẩm, thuốc men, diệt và bắt gọn lính hộ tống. Kịp thời giải quyết khó khăn cho các đơn vị, cơ quan và hỗ trợ một phần cho đồng bào căn cứ.

Đến cuối tháng 11 năm 1961, ba tỉnh đồng bằng ven biển cực nam Trung Bộ đã phát triển và xây dựng cơ sở cách mạng trong 223 thôn (79 xã) (trên tổng số 610 thôn, 135 xã). Bình Thuận có 10 xã giải phóng và làm chủ với trên 25.000 dân, có chính quyền cách mạng, dân quân du kích, động viên được thanh niên thoát ly, huy động được dân công phục vụ chiến trường, vận động ủng hộ và thu mua lúa gạo để nuôi quân. Ninh Thuận cũng mở được 10 xã giải phóng và làm chủ. Khánh Hòa mở ra một số thôn ấp làm chủ và lỏng rã kìm.

Sáu tháng cuối năm 1961, cùng với lực lượng miền Bắc chi viện ba tỉnh đồng bằng đã tuyển được 600 thanh niên. Bình Thuận xây dựng được đại đội bộ binh thứ hai (Đại đội 489). Ninh Thuận phát triển lực lượng lên thành hai đại đội thiếu. Khánh Hòa lập thêm một đại đội bộ binh đứng hoạt động ở mảng phía bắc của tỉnh. Các huyện đồng bằng hầu hết đã xây dựng từ một tiểu đội, hai tiểu đội đến một trung đội bộ đội địa phương huyện. Mỗi xã đều có tổ chức đội vũ trang công tác. Các xã giải phóng và làm chủ đều có từ một tiểu đội đến hai tiểu đội du kích. Tuy vậy, so với yêu cầu và những điều kiện thuận lợi lúc bấy giờ thì việc xây dựng lực lượng vũ trang ở đồng bằng còn chậm.

Đi đôi với việc đó, cuối năm 1961, các tỉnh có Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng lâm thời đã triển khai hoạt động rộng rãi từ miền núi đến đồng bằng. Ủy ban Mặt trận xã, huyện cũng lần lượt thành lập ở các vùng căn cứ miền núi, vùng giải phóng và vùng làm chủ ở đồng bằng ven biển.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:17:20 pm »

*
*   *

Để cứu vãn nguy cơ thất bại, đế quốc Mỹ một mặt trực tiếp đẩy mạnh hoạt động quân sự ở miền Nam; mặt khác tăng cường viện trợ trang bị cho quân ngụy, đưa một số đơn vị vũ trang của Mỹ (chủ yếu là không quân, hai và lính biệt kích) hỗ trợ cho bọn tay sai, tiến sâu thêm một bước trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta.

Đầu năm 1962, địch tập trung lực lượng phản kích phong trào đồng bằng, ráo riết thực hiện kế hoạch Stalay - Taylor, dồn dân lập ấp chiến lược, lập vành đai trắng, chia cắt đồng bằng với miền núi.

Tháng 2 năm 1962, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp nhận định: “Sự can thiệp mạnh hơn của đế quốc Mỹ chắc chắn sẽ tây thêm khó khăn cho ta, nhưng với đà can thiệp hiện nay về cơ bản so sánh lực lượng giữa ta và địch và đối tượng của cách mạng miền Nam vẫn chưa có gì thay đổi… Đế quốc Mỹ chẳng những không ngăn chặn được phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam ngày càng phát triển, trái lại càng làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ và bọn tay sai càng sâu sắc thêm”.

Hội nghị quyết định: Kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ thế chủ động, đẩy địch vào thế bị động hơn nữa, tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, ra sức phá kế hoạch Stalay - Taylor, tiến lên giành những thắng lợi lớn hơn nữa”.

Ở Quân khu VI, đầu năm 1962 phong trào các tỉnh đồng bằng và miền núi tiếp tục chuyên lên. Mặc dù lúc bấy giờ địch đã bắt đầu thực hiện kế hoạch xây dựng ấp chiến lược và chuẩn bị để phản kích lại phong trào ta; nhưng các lực lượng vũ trang trong khu vẫn tiếp tục tấn công, đã tiêu hao, tiêu diệt được địch và công tác vũ trang, tuyên truyền, mở rộng diện làm chủ và tranh chấp.

Ở Bình Thuận, Đại đội 489 đứng hoạt động phía bắc tỉnh từ huyện Hòa Đa (kể cả khu Lê Hồng Phong) ra các huyện Phan Lý - Tuy Phong. Đại đội 480 hoạt động phía nam từ Tam Giác Hàm Thuận đến huyện Hàm Tân, phối hợp với bộ đội địa phương huyện vừa đánh địch bung ra càn quét, vừa chủ động tiến công vào vùng địch, cùng với các đội vũ trang công tác tuyên truyền phát động quần chúng. Nhờ đó phong trào tiếp tục được duy trì và phát triển, mặc dầu địch ra sức phản kích, giành giật lại. Ở các vùng trọng điểm, lực lượng chính trị của quần chúng cũng phát triển khá mạnh, đã mạnh dạn đấu tranh trực diện với địch và duy trì được thế hợp pháp. Ở những vùng địch còn kiểm soát, nhiều cuộc đấu tranh bảo vệ quyền lợi thiết thân hằng ngày đã diễn ra sôi nổi như: đấu tranh chống đuổi nhà cướp đất, chống rào làng xây dựng ấp chiến lược, chống bắt lính, chống khủng bố, chống xâu thuế, chống quyên góp, chống lập tề, đòi tự do đi lại làm ăn, v.v. Làng chiến đấu bố phòng chống địch ở các vùng ta làm chủ và giải phóng.

Để đẩy hoạt động vào trung tâm đầu não địch, chuyển phong trào thị xã, thị trấn lên, đêm 12 tháng 4 năm 1962, một bộ phận của đơn vị 486 đã cải trang đột nhập vào thị xã Phan Thiết, diệt ba tên ác ôn có nợ máu và đánh phá trụ sở phường Đức Long, thu nhiều tài liệu. Cũng trong tháng 4 năm 1962, đại đội 486 cùng với bộ đội địa phương huyện Hàm Thuận đánh thiệt hại nặng đại đội biệt kích đang càn quét khu vực Hàm Thạnh, giữ vững các xã giải phóng ở phía bắc Mường Mán - Ma Lâm. Ở Tánh Linh tháng 5 năm 1962, đánh diệt đồn cấp trung đội Đồng kho, phá khu tập trung, đưa hơn một trăm đồng bào dân tộc về lại căn cứ.

Phía bắc Bình Thuận và Thuận Phong, các lực lượng vũ trang địa phương đánh địch và vũ trang tuyên truyền vào nhiều xã, thị trấn: Hòa Đa, Chợ Dầu, Long Hương, Long Phú, Long Hoa (Gộp), Phú Long, Bà La, Rạng, Mũi Né…

Ở Hàm Tân: giải phóng thêm xã Văn Mỹ, phá lỏng kìm các ấp Bàu Dòi, Hiệp Nghĩa, Tam Tân, Phú Sung…

Để đẩy mạnh tiến công và tạo thuận lợi hơn nữa cho các địa phương trong tỉnh hoạt động đánh phá, ngăn chặn địch xây dựng ấp chiến lược, bảo vệ vùng làm chủ và giải phóng, đêm 4 tháng 8 năm 1962, ta tiến công tiêu diệt chi khu, quận lỵ Hàm Tân. Đây là một vị trí mạnh, có công sự khá kiên cố, nằm ở vùng ven biển, lực lượng chiếm giữ gồm: một đại đội bảo an, bốn trung đội dân vệ. Lực lượng ta gồm hai đại đội bộ binh và một đơn vị đặc công, được một cơ sở nội ứng trong đồn phối hợp, lợi dụng lúc điện tắt ngắn giữa đêm, ta cắt rào, gỡ mìn và tiếp cận. Khi đèn điện vừa phựt sáng, các hướng đồng loạt nổ súng đánh chiếm các mục tiêu, địch hoàn toàn bất ngờ. Sau gần ba chục phút chiến đấu, ta diệt gọn chi khu, thu 200 súng và nhiều phương tiện thông tin của địch. Cùng lúc, bộ đội địa phương huyện Hàm Tân tiến công diệt đồn dân vệ và trụ sở xã Tân Thuận. Sáng ngày 5 tháng 8 năm 1962 ta lại chặn đánh lực lượng của tiểu khu từ Lagi ra tiếp viện, diệt gần trăm tên. Nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, mở thêm một số vùng làm chủ mới ở Tam Tân, Gò Đình, Cửa Cạn, Hiệp Nghĩa… Trận chiến đấu này đã được Bộ Tư lệnh Miền tặng thường huân chương Quân công hạng ba.

Phong trào lên mạnh, địch tập trung sức phản kích. Từng tiểu đoàn quân cộng hòa kết hợp với bảo an, dân vệ, vây quét từng thôn xóm nhỏ. Ở xã Hồng Sơn, xã nhỏ nằm ven khu căn cứ Lê Hồng Phong, trong sáu tháng địch càn 18 lần; xóm làng xơ xác, nhà cửa bị đốt trụi, nhưng nhân dân vẫn “một tấc không đi, một ly không rời”. Địch đốt nhà, dân lại làm nhà, không còn vật liệu thì dựng tạm mấy cây cọc, lợp vài tấm tranh ngay trên nền nhà cũ để che mưa nắng.

Tiểu đoàn 120, sau đợt học tập và sản xuất tại căn cứ Bác Ái, cuối tháng 2 năm 1962, trở lại hoạt động ở Nam Khánh Hòa và Bắc Ninh Thuận. Đây là chiến trường gian khổ, khó khăn nhưng tiểu đoàn vẫn quyết bám dân mà sống, bám địch mà đánh. Mở đầu hoạt động, ta chặn đánh đoàn xe lửa ở ga Hòa Tân (nam Suối Dầu) để vũ trang tuyên truyền và giải quyết lương thực. Sau đó phân tán hoạt động vào các xã dọc theo đường số 1, thọc sâu xuống vùng Thủy Triều, Cầu Hin, Bãi Giấy (Bắc Cam Ranh). Vận dụng một cách linh hoạt các hình thức chiến thuật đột kích, phục kích, tập kích nhỏ,… nên trong một thời gian ngắn ta đã tiêu hao, tiêu diệt được nhiều địch, trừng trị được một số ác ôn, hỗ trợ tốt cho phong trào của địa phương.

Tháng 3 năm 1962, tiểu đoàn chuyển ra hoạt động phía Diên Khánh (Khánh Hòa) đã tạo được thế bất ngờ, đánh diệt một số đơn vị dân vệ ở Suối Dầu, Tân Phú, Suối Tre, Lễ Thanh, Nghiệp Thành, Thanh Minh, Đại Điền (ở sát chi khu Diên Khánh); mở rộng diện lỏng rã kìm, tạo bàn đạp cho các đội vũ trang công tác ra vào ấp chiến lược dễ dàng, có đội còn ở lại được cả ban ngày trong ấp; hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá các khu dồn dân trở về làng cũ.

Tại Ninh Thuận, đại đội 2 (Tiểu đoàn 120) cùng với trung đội bộ đội địa phương đánh địch, mở vùng Khánh Hội, Khánh Nhơn, Bình Nghĩa thuộc Thuận Bắc. Ở Thuận Nam, địch bung ra vùng giáp ranh ngăn chặn ta và tiến hành xây dựng ấp chiến lược bên trong. Đại đội 305 trên đường hành quân xuống chiến trường phải đánh tao ngộ với một đại đội biệt đông quân đi càn ở Hồ Tấn Giang. Đơn vị đã quần đánh địch suốt năm giờ và đã diệt gần hết đại đội này; nhưng ta cũng bị thương vong nhiều, phải lui về căn cứ củng cố. Tháng 6 năm 1962, Đại đội 305 trở lại hoạt động. Tuy có đánh được một số trận ở Mông Nhuận Đức, Thương Diêm, Sơn Hải, v.v. nhưng không ngăn chặn được địch lấn chiếm lại phần lớn ấp, xây dựng hầm hào, gây khó khăn cho ta.

Ở vùng căn cứ Bác Ái, Anh Dũng, địch cũng bung ra càn quét lấn chiếm. Tiểu đoàn 120 đánh diệt cứ điểm Suối Rua (ngày 15 tháng 6 năm 1962) và cùng du kích Bác Ái truy đánh diệt đại đội biệt kích lên càn quét. Ngày 24 tháng 8 năm 1962, tiểu đoàn lại tập kích cánh quân chủ yếu của địch tại đồi thông xã Phước Chính, diệt gọn một đại đội, bẻ gãy hoàn toàn cuộc càn. Chúng phải dùng trực thăng chở xác chết và thương binh về thị xã Phan rang. Thắng lợi của tiểu đoàn càng làm cho hàng ngũ chúng thêm hoang mang và nhân dân thị xã càng phấn khởi.

Như vậy, ở đồng bằng từ năm 1961 đến giữa năm 1962, ta chuyển lên đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị, vừa diệt địch, vừa mở rộng phong trào giành quyền làm chủ; vừa đánh địch càn quét vào căn cứ vừa thọc sâu xuống đồng bằng, kết hợp với quần chúng nổi dậy phá lỏng rã kìm, mở rộng diện tranh chấp và làm chủ, hình thành dần thế ba vùng. Nhưng phong trào giữa các tỉnh không đồng đều. Bình Thuận mở được vùng tranh chấp, làm chủ, giữ được các xã giải phóng, động viên được nhiều nhân tài vật lực tại chỗ. Ninh Thuận, Khánh Hòa thời gian đầu mở ra khá nhưng từ cuối năm 1962, khi địch phản kích, ngăn chặn, thì có một số nơi ta không đủ sức chống lại nên bị địch đánh chiếm.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 07:03:07 am »

IV. KIÊN QUYẾT BÁM TRỤ ĐÁNH ĐỊCH,
CHỐNG PHÁ “QUỐC SÁCH ẤP CHIẾN LƯỢC CỦA ĐỊCH,
GIỮ GÌN CÁC KHU CĂN CỨ NAM TÂY NGUYÊN
VÀ CHUYỂN PHONG TRÀO ĐỒNG BẰNG LÊN

Từ tháng 8 năm 1962 trở đi, chương trình xây dựng ấp chiến lược của địch được xúc tiến trên quy mô lớn trong toàn Miền. Ở Khu VI, chúng tiến hành cả ở đồng bằng và miền núi. Chúng đặt các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Quảng Đức trong diện “ưu tiên 2” của “chương trình bình định theo quốc sách ấp chiến lược”(1). Đặc biệt ở nam Tây Nguyên, địch gắn việc gom dân xây dựng ấp chiến lược với việc xóa các địa bàn đứng chân và triệt phá đường hành lang chiến lược của ta.

Địch đã biết: ngoài căn cứ Chư Đề Lay-Ya ở bắc đường 21, ta còn có căn cứ dọc thung lúng sông Krông-Nô, tây đường 21 mà chúng cho là căn cứ chính của Khu VI(2). Chủ chỉ thị cho tướng Tôn Thất Đính (phụ trách Tây Nguyên) phải bằng mọi giá đánh phá giành lại địa bàn này.

Để thực hiện âm mưu nói trên, địch tiến hành củng cố và xây dựng các tuyến đường giao thông, dọc, ngang, chia cắt căn cứ của ta, tạo điều kiện dùng xe cơ giới đánh sâu căn cứ ta. Đó là các đường số 8 kéo dài đến Khiêm Đức (14 kép), đường Gia Nghĩa - Đức Xuyên, đường Đức Lập - Đức Xuyên - Lắc, Đà Lạt - Đầm Roòng - Lắc, Tân Mỹ - Tà Lú - Ma Ty căn cứ Bác Ái. Địch xây thêm 25 cứ điểm lớn nhỏ, lập thêm một số dinh điền mới ở xung quanh Buôn Ma Thuột, Hoài Đức - Tánh Linh (miền tây Bình Thuận), chia nhỏ chiến trường, lập thêm một tỉnh mới (tỉnh Phú Bổn).

Từ giữa năm 1962, địch mở những cuộc hành quân nhỏ vào lưu vực sông Krông-Nô (nam Hồ Lắc - Đà Lạt để đốt phá, bắt dân, hạn chế các cuộc tiến công của ta.

Tháng 10 năm 1962, chúng bắt đầu mở những cuộc hành quân quy mô và dài ngày đánh mạnh vào căn cứ, hành lang. Tham dự cuộc hành quân này có sư đoàn 23, lực lượng biệt động quân, tự trị Mỹ, bảo an, biệt kích, dân vệ, công dân vụ, v.v. Từng lúc còn tăng cường thêm lực lượng thủy quân lục chiến. Địch vận dụng các chiến thuật “hữu hiệu nhất” là “bủa lưới phóng lao”, “trên đe dưới búa”, “phượng hoàng vồ mồi”, trực thăng vân, v.v.

Chiến dịch càn quét mang tên “An Lạc” nhằm đánh phá căn cứ ở Đắc Lắc, Tuyên Đức, Quảng Đức; điểm tập trung là vùng lưu vực sông Krông-Nô. Mở đầu hành quân, chúng đã chốt hai cứ điểm nằm sâu trong căn cứ của ta: một là cứ điểm Phi-di-da tại khu vực Phi Có, trên đường 21 kéo dài, ở phía tây nam căn cứ của khu; hai là cứ điểm Đầm Roòng nằm ở tả ngạn sông Krông-Nô, phía nam căn cứ của Khu. Mỗi cứ điểm địch bố trí khoảng một tiểu đoàn tăng cường, có một trung đội pháo 105 ly, và cùng một số chốt có sẵn trên đường 21 (phía bắc có chi khu Lạc Thiện), hình thành thế bao vây căn cứ ta.

Chiến dịch gồm 13 đợt đánh phá; mỗi đợt dùng từ hai đến ba tiểu đoàn cộng hòa cùng với biệt kích, thám báo và phi pháo tập trung đánh phá vào một khu vực. Xen kẽ các đợt là dùng bọn biệt kích lùng sục bắt dân, đánh phá cơ quan, kho tàng, rẫy sản xuất, trạm giao liên, v.v.

Ta chống càn quét trong điều kiện hết sức khó khăn: căn cứ mới được xây dựng, phong trào nhân dân du kích chiến tranh trong đồng bào dân tộc mới nhen nhóm, lương thực thiếu thốn phải sản xuất tự túc, có khi hàng tháng chỉ ăn lá bép, bột xà bu(3) với măng le, trái gấm và củ rừng… tuy vậy, Khu ủy kiên quyết lãnh đạo các cơ quan, lực lượng bám trụ địa bàn, đánh trả địch, giữ vững căn cứ, hành lang chiến lược. Tiểu đoàn 186 được điều từ Nam Ka (Đức Xuyên) về đứng chân ở khu vực Trêpun-Dôn-bát (B5) để cùng với du kích cơ quan chống càn, hướng dẫn dân quân du kích các buôn bố phòng, canh gác, đánh địch bảo vệ dân. Bộ đội vừa lo bám đánh địch bảo vệ dân, vừa tranh thủ suốt lúa để làm gạo ăn hàng ngày. Buôn nào du kích còn yếu, bộ đội phải phân công trực tiếp bảo vệ, dẫn dân tránh lánh địch và lo ăn cho dân.

Từ căn cứ hành quân, hằng ngày địch dùng pháo bắn vào các khu vực có cơ quan hoặc bộ đội ta ở và bắn yểm trợ cho các cánh quân đi lùng sục. Khi đụng độ với ta thì có máy bay oanh tạc đến chi viện, cùng lúc trực thăng cơ động đổ quân đột kích bất ngờ. Chúng cũng gom được một số buôn về Đầm Roòng và xung quanh một số cứ điểm ở phía nam Hồ Lắc. Hàng trăm mẫu rẫy lúa đang chín vàng không thu hoạch được hoặc bị phá.

Tình hình đó đặt cho lãnh đạo, các cơ quan và lực lượng sự thử thách nghiêm trọng, di chuyển hay trụ lại? Một lần nữa, Thường vụ Khu ủy quyết định phải trụ lại đánh địch, giữ vững địa bàn căn cứ, bảo đảm hành lang. Đồng chí Trần Lê (Bí thư Khu ủy) giải thích: “Trong lịch sử từ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đến bây giờ, biết bao đồng chí đã hy sinh và ta phải mất biết bao công sức mới giành được địa bàn chiến lược quan trọng này, nay đang xây dựng thành căn cứ chiến lược theo ý đồ của cấp trên; nếu ta bật đi nơi khác để địch chiếm lại thì biết bao giờ ta mới giành được và nhiệm vụ đến lúc nào mới hoàn thành: cho nên ta phải kiên quyết đứng lại đánh địch, bảo vệ căn cứ hành lang…”. Trước tình hình đó, có một số cán bộ bi quan, dao động muốn rút lui; đồng chí Bí thư Khu ủy phải xuống họp riêng từng chi bộ của cơ quan, đơn vị để động viên, củng cố quyết tâm.


(1) Theo tài liệu nguyên bản của Ủy ban Liên bộ chỉ đạo bình định của ngụy quyền Trung ương ngày 1 tháng 8 năm 1962.
(2) Sau khi đi thị sát vùng phía bắc Đắc Lắc, Ngô Đình Nhu cho vằng Việt cộng đã chiếm lính phần phía nam của tỉnh Đắc Lắc (đường 21).
(3) Xà bu là một loại cây gỗ to, lõi cây cưa ra từng khúc, dùng cối giã ra thành bột có thể làm bánh, nấu cháo, hấp xôi để ăn. Số bột của một cây to có thể đủ nuôi một gia đình ba, bốn người trong một tháng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 07:04:40 am »

Vậy là, trừ một số bộ phận nặng nền hoặc là cơ quan mật phải di chuyển tránh lánh, còn đại bộ phận cán bộ và chiến sĩ đều trụ lại cùng nhau, bố phòng đánh địch, bảo vệ dân, giúp cho các trạm giao liên cắt đường đưa đón khách, vận chuyển hàng hóa, thu hoạch cất giấu lúa, hoặc đi về Ninh Thuận - Khánh Hòa lấy muối ăn. Gần hai tháng, ta quyết tâm bám trụ đánh trả địch; địch cũng quyết kéo dài cuộc càn quét để tiêu diệt hoặc đánh bật ta ra khỏi địa bàn, gom được dân, phá được hành lang… Tình hình rất căng thẳng.

Để hạn chế và làm thất bại âm mưu càn quét, lấn chiếm dồn dân của địch, và tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch, giữa tháng 11 năm 1962 Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu hạ quyết tâm: tập trung lực lượng tiêu diệt cứ điểm hành quân Đầm Roòng. Nơi đây địch đặt Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh hành quân của trung đoàn 44, sư đoàn 23 với lực lượng 700 tên, gồm một tiểu đoàn cộng hòa, một đại đội biệt động quân, một phân đội pháo 105 ly (2 khẩu), một phân đội cối 81 ly (3 khẩu), ba cố vấn Mỹ, 6 chốt tiền tiêu bảo vệ, xung quanh còn có công sự, chướng ngại vật, mìn…

Ta sử dụng: tiểu đoàn 120 - với tên gọi mới là Tiểu đoàn 840 (nhưng mới đến kịp một bộ phận), đại đội 1 Tiểu đoàn 186, đại đội 143 trực thuộc Quân khu, một đội đặc công, đại đội trợ chiến (gồm: 3 khẩu 81 ly, 2 ĐKZ 57 ly, 2 đại liên), một đội trinh sát và một trung đội thiếu thông tin liên lạc. Vận dụng chiến thuật tập kích bằng mật tập và có kế hoạch dự phòng, nếu bị lộ thì dùng cường tập, nên phải hết sức khẩn trương và kịp đánh vào thời gian tối trời.

Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 12 năm 1962, sau 55 phút chiến đấu quyết liệt, dũng cảm, ta làm chủ khu trung tâm, tiêu diệt toàn bộ sở chỉ huy hành quân, đại đội thông tin, phân đội pháo 105 ly, phân đội cối 81 ly và hơn một đại đội bộ binh chốt tiền tiêu quan trọng, gồm 300 tên chết và bị thương (trong số chết có tên trung đoàn trưởng Trung đoàn 44). Phá hủy nhiều phương tiện, vũ khí, điện đài, và thu chiến lợi phẩm.

Trận đánh Đầm Roòng đã gây được tiếng vang lớn (được Bộ Quốc phòng điện biểu dương), có ảnh hưởng tốt trong nhân dân các vùng ở nam Tây Nguyên.

Sau trận đánh, địch đưa thêm lực lượng đến củng cố lại cứ điểm Đầm Roòng và tiếp tục cuộc hành quân An Lạc. Nhưng phấn khởi trước chiến thắng và nắm được quy luật địch, các lực lượng ta đã chống càn có hành quân hơn, buộc địch phải cụm lại. Ngày 11 tháng 12 năm 1962, Đại đội 2 Tiểu đoàn 186 (do đại đội trưởng Lương Văn Nam chỉ huy) đã quần đánh với 2 đại đội địch tại khu rẫy Đak-Trêpun cách cơ quan khu ủy một nghìn năm trăm mét, từ 8 giờ sáng đến 16 giờ chiều, giết và làm bị thương 40 tên, buộc địch phải rút lui. Ngày 13 tháng 12 năm 1962, một trung đội của Đại đội 141, đánh nhau với một tiểu đoàn địch trên hai mươi phút, sát thương 476 tên. Đại đội 143 phối hợp với bộ đội địa phương (B8) phục kích đánh thiệt hại nặng một đại đội biệt kích địch ở Buôn Liên Trang bờ nam sông Krông-Nô… Qua bám trụ đánh địch, các lực lượng địa phương và du kích đã chuyển lên thế bố phòng và xây dựng làng chiến đấu chống địch, giữ được buôn làng. Các trạm hành lang cũng kết hợp với địa phương bố phòng, đánh địch, mở đường dẫn khách, chuyển hàng đi lại an toàn, bảo đảm cho đường hành lang chiến lược tuy có khó khăn nhưng vẫn được thông suốt.

Trong lúc này, ở các vùng kiểm soát của địch, các đội vũ trang công tác lợi dụng khi địch huy động lực lượng đi càn quét căn cứ, đột nhập vào các ấp phát động quần chúng, móc ráp xây dựng cơ sở, chống lại các chính sách và thủ đoạn lừa mị của địch.

Một âm mưu khá nham hiểm của địch ở Tây Nguyên là đưa ra thuyết “Tự trị” có Mỹ giúp, để lừa bịp, lôi kéo các tầng lớp nhân dân. Chúng dùng nhiều thủ đoạn, mở nhiều cuộc vận động gọi là tương trợ đồng bào tỵ nạn “cộng sản”, tung ra một số gạo, muối, vải để mua chuộc. Bọn tay sai rêu rao thuyết “Tự trị”, Mỹ sẽ trả đất cho người Thượng, ai vào “Tự trị” sẽ có đặc quyền, đặc lợi, giả vờ nói xấu Diệm, v.v. Có một số người nhầm lẫn nghe theo. Đặc biệt với chiêu bài ấy, bọn Mỹ đã nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang người Thượng, phát triển gián điệp, đẩy mạnh thực hiện ấp chiến lược. Nhưng trước tình hình thực tế, bị giam cầm trong các khu ấp chiến lược, nên không bao lâu nhân dân đã nhận rõ chân tướng của kẻ địch và bắt đầu tẩy chay cái gọi là “Tự trị” kiểu Mỹ.

Trong những tháng đầu năm 1963, địch còn mở thêm những cuộc càn mang tên “Nhơn Hòa”, “Dân Thắng 401” ở B3, nhằm đánh phá, gom dân, nhất là ở khu căn cứ Chư Đề-Lya-Ya và các vùng giải phóng dọc sông Ba, đường số 7. Nhưng nhờ phong trào du kích chiến tranh ở đây đã được xây dựng khá, nên đã chống trả quyết liệt, gây cho địch nhiều tổn thất. Sau đó địch phải dùng lực lượng mạnh, kết hợp với biệt kích, gián điệp đánh phá dài ngày mới gom được một vạn hai ngàn dân.

Trải qua nhiều đợt càn quét và chống càn quét liên tục, quyết liệt, với tương quan lực lượng khá chênh lệch, lại phải chiến đấu trong điều kiện hết sức gian khổ, thiếu thốn, tuy vùng căn cứ, làm chủ của ta có bị địch gom xúc mất nhiều dân, nhưng nhờ tinh thần quyết tâm chống địch, bám núi rừng của đồng bào, việc lăn lộn quần bám của bộ đội và cán bộ, nên đến giữa năm 1963 ta vẫn còn giữ được hai mươi ngàn dân (trong trong số ba mươi lăm ngàn) và 15 lõm căn cứ, bàn đạp lớn nhỏ.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Hai, 2012, 02:39:26 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 07:05:03 am »

Trong lúc đó, ở ba tỉnh đồng bằng ven biển, địch tiếp tục xây dựng “ấp chiến lược” với quy mô rộng mạnh hơn (đặc biệt là ở hai tỉnh Ninh Thuận - Bình Thuận); chúng vừa củng cố các ấp đã làm, vừa mở ra vùng tranh chấp, làm chủ của ta; chúng dùng mọi thủ đoạn, vừa trắng trợn, tàn ác, vừa thâm độc, xảo quyệt để cưỡng bức, ép buộc dân vào “ấp chiến lược”. Đến giữa năm 1963 . (theo số liệu của địch) thì Ninh Thuận đã làm xong 125 trong tổng số 127 ấp, với gần 99 phần trăm dân số (địch cho Ninh Thuận là tỉnh kiểu mẫu về xây dựng ấp chiến lược). Ở Bình Thuận đã làm xong 165 trong tổng số 180 ấp. Một số ấp đã phá kìm giải phóng trước đó nay cũng bị địch gom xúc dân về vùng chúng, như: xã Ninh Phước (ở Khánh Hòa); các xã Long Phú, Hàm Phú - Hàm Trí (ở Bình Thuận); các xã Vĩnh Huy, Thái An, Mỹ Hòa, Vĩnh Tường, Từ Thiện (ở Ninh Thuận).

Bao quanh ấp chiến lược có hai hào sâu và ba bờ tường đất cao (chúng gọi là hai sông, ba núi), nhiều lớp rào kẽm gai và chông mìn, chỉ chừa một cổng, ngày đêm canh gác, kiểm soát việc ra vào của dân, lực lượng vũ trang, dân vệ tuân tra, sục sạo xung quanh. Có nơi chúng đã tiến lên rào liên xã ấp chiến lược, xây dựng vành đai dài 20 ki-lô-mét vây quanh 6 xã, 24 ấp với gần 75.000 dân như ở vùng phụ cận thị xã Phan Thiết.

Bên trong, chúng ra sức củng cố bộ máy kìm kẹp, tổ chức huấn luyện và trang bị cho thanh niên chiến đấu giữ ấp, phát triển do thám, gián điệp theo dõi chặt chẽ các loại đối tượng.

Đồng thời địch tiếp tục mở các cuộc hành quân bên ngoài, đánh phá sâu vào vùng căn cứ giải phóng, để gom hết số dân còn lại.

Ở Bình Thuận: trong tháng 8 và tháng 9 năm 1962, địch mở cuộc càn Sơn Dương 1, sử dụng hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến và địa phương quân đánh sâu vào căn cứ Di Linh (Ara, Salôn,  Quao) và khu Lê Hồng Phong. Tháng 2 và 3 năm 1963, lại mở đợt càn Sơn Dương 2 với lực lượng cấp trung đoàn, đánh phá các vùng giáp ranh miền núi và các xã giải phóng. Tháng 4 năm 1963, lại mở tiếp cuộc càn “Bình Lâm” cấp trung đoàn, kết hợp với lực lượng Hải Thuyền đổ quân đánh vào khu Lê Hồng Phong (Bình Thuận). Ở Khánh Hòa, Ninh Thuận chúng cũng mở nhiều cuộc càn vào căn cứ Khánh Sơn, Bác Ái.

Hầu hết các cuộc càn quét lớn nhỏ của địch đều bị quân và dân ta đánh trả quyết liệt. tuy có gom bắt được một số dân ở các khu giải phóng, nhưng chúng cũng bị tiêu hao, tổn thất nặng. Đặc biệt là vào tháng 6, 7 năm 1963 trong chiến dịch “Thiểu Đầu Thủy”, địch sử dụng 2.500 quân một trung đoàn tăng cường, với trực thăng, phi pháo yểm trợ, có cả pháo hạm ở Cam Ranh chi viện, chủ yếu đánh vào thung lũng sông “Tô Hạp” thuộc Khánh Sơn là vùng trung tâm căn cứ của tỉnh Khánh Hòa. Nhưng địch đã bị sa lầy ở vùng có phong trào du kích chiến tranh mạnh; bị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân du kích và nhân dân các dân tộc dựa vào các tuyến bố phòng được xây dựng sẵn chống trả quyết liệt và có hiệu quả. Sau 40 ngày đêm ta sát thương 200 tên buộc địch phải rút lui một cách vội vã. Trên đường rút còn bị bộ đội địa phương và du kích truy bám, chặn đánh, gây thêm thương vong, đến nỗi chúng phải gọi lưu vực sông “Tô Hạp” là “Thung lũng tử thần”.

Phối hợp với căn cứ miền núi chống càn; ở đồng bằng: bộ đội địa phương huyện Vĩnh Xương đánh cắt đứt đoạn đường xe lửa từ Phú Vinh đi Suối Dầu, đặc công tỉnh đánh vào sân bay Nha Trang, phá hủy ba máy bay, các đội vũ trang công tác tăng cường hoạt động các xã, ấp.

Ở đồng bằng Bình Thuận: địch càn quét bắt dân về ấp chiến lược, nhưng dựa vào hoạt động của ta có hiệu quả, quần chúng lần lượt đấu tranh trở về đất cũ, xây dựng làng chiến đấu, sản xuất và chống địch. Đến giữa năm 1963, có 9 xã giải phóng ở đồng bằng với 7.000 dân (mỗi xã còn một phần ba, một nửa hoặc hai phần ba dân số), chuyển hẳn lên thế bất hợp pháp.

Hoạt động càn quét và chống càn quét, dồn dân và chống dồn dân, xây dựng và phá ấp chiến lược diễn ra giữa ta và địch ở cả miền núi và đồng bằng rất gay go, rất quyết liệt. Tháng 3 năm 1963, Quân khu mở Hội nghị quân chính để kiểm điểm rút kinh nghiệm về hoạt động xây dựng của lực lượng vũ trang và đề ra nhiệm vụ chóng địch càn quét, lấn chiếm, chống phá “quốc sách ấp chiến lược” của địch, xây dựng và hình thành ba thứ quân, chú trọng nâng cao chất lượng. Lúc này trường Quân chính Quân khu cũng kịp thời bổ sung cho các đơn vị, địa phương tỉnh, huyện trên hai trăm cán bộ đại đội, trung đội đã được bổ túc và đào tạo.

Tháng 4 năm 1963, lực lượng của quân khu được tổ chức biên chế lại cho phù hợp với tình hình thực tế lúc bấy giờ. Do lực lượng vũ trang bên dưới còn quá yếu, điều kiện bảo đảm hoạt động tập trung còn khó khăn, nên giải thể một số tiểu đoàn để lấy cán bộ, chiến sĩ đưa xuống, xây dựng bộ đội địa phương tỉnh, huyện (như lấy Tiểu đoàn 36, bổ sung cho Tuyên Đức và Quảng Đức, lấy hai đại đội của Tiểu đoàn 39 bổ sung cho Khánh Hòa, v.v.).

Quân khu chỉ còn giữ hai tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 840, quân số hoạt động mỗi tiểu đoàn cũng chỉ có 250 đến 300 tay súng); và một khung tiểu đoàn trợ chiến. Tuy lực lượng ít nhưng việc cung cấp rất khó khăn, lương thực thường xuyên lúc bấy giờ là: mì-măng-môn-muối mà chiến sĩ gọi đùa là công thức “+4M”. Tiểu đoàn 186 thường phải ăn lá bép trừ cơm nên được gọi vui là “Tiểu đoàn lá bép”.

Từ giữa năm 1963 trở đi, tuy địch vẫn còn tiếp tục càn quét, đánh phá, nhưng mật độ và quy mô có giảm. Do lực lượng địch bị tiêu hao, do tình hình chung trên toàn Miền tác động, nhất là sau chiến thắng Ấp Bắc, ta bắt đầu chuyên lên cao trào đánh phá ấp chiến lược, địch bắt đầu gặp khó khăn mới trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận’ của bài của Mỹ - ngụy trong “chiến tranh đặc biệt’ bị phá sản, làm sụp đổ lòng tin của quân ngụy vào trang bị kỹ thuật hiện đại và lực lượng yểm trợ cơ động và hỏa lực của Mỹ. Nó cũng làm sụp đổ lòng tin của Mỹ vào khả năng chống đỡ của quân ngụy trước sức tiến công của ta. Trận “Ấp Bắc” chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng thắng Mỹ về quân sự trong “chiến tranh đặc biệt’ này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 07:06:11 am »

Thường vụ Khu ủy và Quân khu chủ trương tranh thủ mở những đợt tấn công vào vùng địch, kết hợp diệt địch với phá ấp chiến lược bằng kết hợp ba mũi: quân sự, chính trị và binh vận.

Mở đầu bằng kết hợp quân sự với binh vận, tiến công phá mảng, ấp buôn ENa, buôn Bla và buôn Edrack ở nam Buôn Ma Thuột. Ở buôn ENa, nhờ có cơ sở nắm chắc dân vệ, nên khi lực lượng ta vào, họ tập trung hết súng giao cho ta và giở vờ nổ súng đánh nhau, để họ có cớ đấu tranh với địch. Ở buôn Edrack-Bla, dân vệ có nổ súng đánh lại, nhưng qua sử dụng cơ sở gia đình họ phát loa giải thích, kêu gọi thì dân làng nhất tề hưởng ứng, vận động dân vệ nộp súng cho ta và cùng nhau ùa ra phá banh hết ranh rào. Ta thu gần 150 súng. Ta còn đánh diệt một đồn cấp trung đội nằm gần đó, tạo thêm lý lẽ cho nhân dân đấu tranh. Với phương thức trên, trong những tháng cuối năm 1963, B6 (thị xã Buôn Ma Thuột và các vùng xung quanh) tiếp tục phá banh hàng loạt ấp.

Để căng kéo địch và hỗ trợ cho nhân dân vùng căn cứ chống càn và chống phá ấp chiến lược, tháng 7 năm 1963 Tiểu đoàn 840 chủ lực Quân khu, tiến công tiêu diệt cứ điểm Hăng-tơ (đồn cấp đại đội) ở đông bắc Hồ Lắc và phối hợp với bộ đội B5 (nam đường 21 đến nam Hồ Lắc) liên tục bám đánh địch, phá lỏng, phá banh một số ấp trong vùng. Tháng 8 năm 1963 Tiểu đoàn 840 đánh một trận phục kích vận động trên đường 21 kép, sau gần hai giờ chiến đấu, ta phá hủy 20 xe GMC, đánh thiệt hại nặng hai đại đội của Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 44) đi hộ tống và một trung đội bảo an đi chốt và mở đường; buộc địch sau đó phải co lại, đường hành lang của ta vẫn đi lại bình thường.

Trong những tháng cuối năm 1963, mật độ đánh phá của địch thưa dần. Ta một mặt sẵn sàng chống càn quét, giữ dân còn lại trong các khu căn cứ, giữ vững đường hành lang, mặt khác chủ động tổ chức tiến công địch ở phía trước, đánh phá ấp chiến lược có kết quả.

Ở đồng bằng, tuy địch còn mở một số cuộc càn quét dài ngày vào các vùng căn cứ giải phóng, nhưng phong trào du kích chiến tranh ở căn cứ và các xã giải phóng đã có bước phát triển mới, bước đầu đánh trả địch có hiệu quả. Ngày 30 tháng 3 năm 1963 lực lượng vũ trang vũ trang Bình Thuận cùng với bộ đội địa phương huyện Hòa Đa phục kích giao thông đoạn Bầu Sen (quốc lộ 1), tiêu diệt một đoàn xe quân sự, một đại đội bảo an và bốn trung đội dân vệ, thu 160 súng. Tiếp theo, ta đánh đồn Bình Lâm (đường số 8), làm thiệt hại nặng một đại đội bảo an. Ngày 27 tháng 7 năm 1963, lực lượng tỉnh cùng bộ đội địa phương huyện Tánh Linh tiêu diệt gần hết hai đại đội bảo an, giết chết tên quận trưởng Tánh Linh, hỗ trợ cho nhân dân vùng Suốt Kiết nổi dậy phá “ấp chiến lược”.

Ngày 28 tháng 10 năm 1963, lực lượng vũ trang tỉnh cùng đội vũ trang công tác diệt ác, phá kìm ở ven thị xã Phan Thiết và phục kích tiêu diệt một đoàn xe lửa bọc thép, thu 50 súng và nhiều chiến lợi phẩm. Đây là loại xe do đế quốc Anh chế tạo chống lại du kích Malaixia, xe có hình dáng như chiếc nồi đồng, vỏ sắt dày, hỏa lực mạnh, thường đi theo đội hình ba chiếc, mỗi chiếc cách nhau 100 mét.

Sau hai lần đánh để rút kinh nghiệm, công binh xưởng Cao Thắng của tỉnh đã sản xuất được một loại mìn đủ sức phá loại xe nồi đồng. Với loại mìn này, ta đã đánh diệt gọn cả tốp ba chiếc, một đoàn tàu mười hai toa và những chiếc xe bọc thép hộ tống. Sau trận đánh này, quân địch phải bỏ luôn đoạn đường sắt Cà Ná - Gia Huynh.

Phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo đòi tự do tín ngưỡng từ Huế lan tràn vào các tỉnh phía nam và phong trào sinh viên, học sinh chống độc tài bảo vệ Phật giáo nổi lên rầm rộ đã thu hút cả một bộ phận binh sĩ và nhân viên ngụy quyền tham gia: Ở Đà Lạt hàng ngàn quần chúng xuống đường tuần hành phản đối địch đàn áp nhân dân, tổ chức lễ truy điệu những nạn nhân bị địch giết hại. Nhân dân đưa bàn thờ Phật “xuống đường” thiết lập hương án ngay trên các đường phố khu trung tâm thị xã, gây mất ổn định cho địch trong hàng tuần lễ.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, nhóm Dương Văn Minh do Mỹ giật dây làm đảo chánh lật đổ Ngô Đình Diệm, hàng ngũ địch hoang mang dao động. Nhân thời cơ đó, các địa phương đã bung ra hoạt động hỗ trợ cho phong trào quần chúng bung về chỗ cũ làm ăn, giải quyết đời sống và làm lỏng rã kìm. Ta khôi phục và mở thêm một số ấp tranh chấp, làm chủ và phát triển lực lượng tại chỗ. Tuy nhiên, do sức ta có hạn và một số nơi còn chần chừ nên chưa tranh thủ hết thời cơ thuận lợi để đưa phong trào lên mạnh.

Tháng 10 năm 1963, sau khi nhận được quyết định của trên điều chỉnh lại chiến trường, Khu VI đã bàn giao hai tỉnh Khánh Hòa và Đắc Lắc (trừ Quảng Đức) lại cho Khu V, tiếp nhận hai tỉnh Phước Long và Lâm Đồng của Khu X, kế tục nhiệm vụ xây dựng căn cứ bảo đảm hành lang Bắc - Nam.

*
*   *

Vậy là, qua những năm tháng chiến đấu hết sức gian khổ, trong những điều kiện vô cùng gian nan, phức tạp của chiến trường, mặc dù vẫn còn nhiều nhược điểm, khó khăn, nhưng đến đây coi như Khu VI đã vượt qua được bước thử thách của mấy năm đầu, kể từ sau ngày được thành lập. Với tư tưởng cách mạng tiến công, với phương châm đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, tư tưởng kiên định bám trụ chiến trường, xây dựng lòng tin Đảng, tin Cách mạng của đồng bào dân tộc nam Tây Nguyên và miền tây các tỉnh, Khu VI đã mở ra và giữ được địa bàn nam Tây Nguyên, giữ vững đường hành lang chiến lược; chuyển được phong trào đồng bằng lên thế hai cân, ba mũi, ba thứ quân được hình thành; thế trận chiến tranh nhân dân không ngừng phát triển (tuy chưa được đồng đều giữa các chiến trường trong Khu).

Khuyết điểm của chúng ta lúc đầu là chủ quan, không thấy hết các âm mưu, thủ đoạn của địch; về sau khi bị địch phản kích thì đánh giá chúng cao, ta thấp, nhẹ công, nặng thủ; chưa coi trọng mũi đấu tranh chính trị, binh vận; chưa coi trọng cách vận dụng phương châm, phương thức sát hợp với từng vùng…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 07:09:03 am »

Chương III

PHỐI HỢP VỚI TOÀN MIỀN CHUYỂN LÊN TIẾN CÔNG ĐỊCH,
PHÁ ẤP CHIẾN LƯỢC, MỞ RỘNG VÙNG LÀM CHỦ VÀ GIẢI PHÓNG
(1964-1965)

I. TRIỂN KHAI THẾ ĐỨNG, TRANH THỦ CỦNG CỐ VÀ CHUẨN BỊ CÁC MẶT
PHỐI HỢP VỚI TOÀN MIỀN ĐÁNH PHÁ ẤP CHIẾN LƯỢC.

Tháng 12 năm 1963, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 9, nêu rõ phương hướng trước mắt của cách mạng miền Nam là: “Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang một cách linh hoạt; đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều đóng vai trò rất cơ bản và rất quyết định, nhưng đấu tranh quân sự đóng vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh tan lực lượng quân sự của địch làm cho Cách mạng thắng lợi.”. Phải nỗ lực tăng cường lực lượng ta về mọi mặt, đặc biệt là lực lượng quân sự… tiến công địch về quân sự và chính trị nhằm đạt hai mục tiêu chủ yếu:

- Tiêu diệt từng bộ phận quân địch, tạo điều kiện làm tan rã hoàn toàn quân ngụy.

- Làm thất bại kế hoạch gom dân, lập ấp chiến lược của địch, làm chủ rừng núi và phần lớn nông thôn đồng bằng.

Sau Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị chú trọng tăng cường lực lượng cho miền Nam và Nam Trung Bộ.

Ở Khu VI, sau khi có quyết định điều chỉnh lại chiến trường và trải qua cuộc hành quân di chuyển dài ngày vất vả, các cơ quan và lực lượng của Quân khu đã về đến vùng bãi Cát Tiên ở lưu vực sông Đồng Nai, nằm giữa Lâm Đồng và Phước Long. Ở đây, nhờ có sẵn rẫy mì, lang do các đơn vị bạn để lại và tổ chức thu mua được lương thực, thực phẩm từ vùng địch, nên đã sớm ổn định được chỗ ăn, ở cho các đơn vị, có cơ sở bước đầu để triển khai hoạt động, công tác và sản xuất.

Lực lượng ở Khu lúc này chỉ tăng một ít cán bộ ở miền Bắc vào (Đoàn H.34 - H.36)(1) để bổ sung cho cơ quan Quân khu và giáo viên trường Quân chính Quân khu (sáu mươi đồng chí từ thiếu úy đến thiếu tá). Các đơn vị tập trung của Quân khu lúc này vẫn là hai Tiểu đoàn 186-840 thiếu và một khung tiểu đoàn trợ chiến (Tiểu đoàn 145), bộ đội địa phương tỉnh, huyện có 9 đại đội, 19 trung đội và 2.570 du kích.

Sau cuộc đảo chính, địch đang lo củng cố hàng ngũ. Hầu hết các tỉnh trưởng, tỉnh phó và một số tay chân của Diệm - Nhu đều bị bắt, bị câu lưu hoặc thay hế như tỉnh trưởng Bình Thuận, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Quảng Đức, Bình tuy, thị trưởng Đà Lạt, v.v. Các tổ chức do Diệm - Nhu dựng lên như Đảng cần lao nhân vị, phong trào Cách mạng Quốc gia, Thanh niên Cộng hòa, Phụ nữ liên đới… đều bị giải tán. Các ủy ban xét xử tội trạng bọn tay chân của Diệm - Nhu được thành lập. Tình hình đó làm cho hàng ngũ tề điệp ở xa, ấp hoang mang, rệu rã mạnh. Tiếp đến việc Nguyễn Khánh lật đổ Dương Văn Minh ngày 30 tháng 1 năm 1964 càng làm cho hàng ngũ chúng thêm nghi kỵ, lục đục với nhau.

Đây là cơ hội cho các lực lượng của ta kết hợp với phong trào quần chúng đẩy mạnh hoạt động, đấu tranh giành giữ quyền làm chủ.

Nhiều nơi nhân dân tổ chức mít tinh, hội họp khống chế bọn tay sai địch, đấu tranh đòi thay đổi bọn tề phản động.

Qua một thời gian chấn chỉnh lại hàng ngũ, tháng 3 năm 1964, Nguyễn Khánh tổ chức những đoàn bình định có lực lượng quân sự đi kèm về các vùng trọng điểm củng cố lại bộ máy kìm kẹp ở thôn, xã, tiếp tục thực hiện “Quốc sách ấp chiến lược” (tên gọi mới là “ấp Tân Sinh”), với chiêu bài cải cách dân chủ, lừa mị.

Chúng khẩn trương phát triển các lực lượng bán vũ trang, đặc biệt là tổ chức thanh niên chiến đấu, tăng cường trang bị vũ khí, trả lương, tuyển thanh niên người Thượng xây dựng lực lượng biệt kích Mỹ (Mỹ trực tiếp nắm), thanh niên người Chăm xây dựng lực lượng tự trị Chiêm Thành, xây dựng thêm đồn bót để phục vụ cho kế hoạch lấn chiếm bình định. Chúng chú trọng xây dựng hệ thống đồn bót ở mảng tây bắc Đức Lập để kiểm soát biên giới, ngăn chặn đường hành lang ta, mở rộng sây bay Thành Sơn Ninh Thuận và khai thác quân cảng Cam Ranh.

Từ cuối năm 1963 đến tháng 3 năm 1964, địch mở hai cuộc càn “Bình Lâm 1 và Bình Lâm 2” với lực lượng từ 3 đến 7 tiểu đoàn, đánh phá vào vùng giải phóng khu Lê Hồng Phong, Hàm Thuận và miền tây Bình Thuận; càn quét và đột kích vào các lõm căn cứ ở Lạc Dương, Đức Trọng, Tuyên Đức), Đức Xuyên, Kiến Đức (Quảng Đức), dùng trực thăng đi cướp lúa của đồng bào để ngoài đồng (hàng trăm tấn), rải chất đốc phá hoại mùa màng, triệt nguồn lương thực, gây khó khăn cho đời sống nhân dân và lực lượng ta. Chúng còn dùng chất độc hóa học để phát quang hai bên đường sắt và đường quốc lộ 1 ở Ninh Thuận - Bình Thuận và vùng ngoại ô thị xã Đà Lạt. Dã man hơn, địch cho tay sai trộn thuốc độc vào thực phẩm, thức ăn để giết hại lực lượng Cách mạng và nhân dân vùng giải phóng của ta.

Nhưng những hành động dã man ấy, không làm nhụt ý chí của nhân dân và lực lượng ta. Trong sáu tháng đầu năm 1964, trong lúc nội bộ địch rối ren, các lực lượng ta đã tranh thủ mở hàng trăm cuộc vũ trang tuyên truyền vào các khu ấp chiến lược; hàng chục lần chặn xe khách trên các trục lộ 1, 20, 14… để tán phát tin thức, truyền đơn; mở trên năm trăm cuộc mít tinh lớn nhỏ, để động viên, hướng dẫn phong trào đấu tranh của quần chúng. Nhân dân trong các ấp chiến lược đã cùng các lực lượng bên ngoài đốt phá hàng chục ngàn mét hàng rào ấp, phá hoại giao thông đường bộ, đường sắt, đốt phá 15 trụ sở ấp, xã, diệt một số ác ôn, giải tán gầm 400 thanh niên chiến đấu (nhiều là ở Quảng Đức và Lâm Đồng), phá rã 41 khu ấp chiến lược (Bình Thuận phá 26 ấp), phá binh 23 khu ấp, có hai ấp địch phải bỏ luôn.

Phong trào quần chúng bung về ở vườn, nhà cũ, hoặc đi làm ăn xa ấp, sâu vào vùng ven núi, ven rừng, ngày càng mở rộng. Ở vùng đồng bào dân tộc, hàng ngàn quần chúng đi làm rẫy cách xa ấp từ hai, ba giờ, đến cả buổi, cả ngày đường, dần dần làm chòi ngủ lại rẫy, từ lẻ tẻ đến đông người, từ ít ngày đến nhiều ngày, theo thế hai chân (trong và ngoài ấp), cất giấu lại lương thực, chuẩn bị điều kiện để bó ấp, ở luôn bên ngoài. Tháng 5 năm 1964, ở Lâm Đồng đã có 1.900 đồng bào (có 600 người Kinh), Phước Long có 3.000 người bung ra làm ăn cư trú ở bên ngoài.


(1) - Đoàn H.34: do đồng chí đại úy Nguyễn Trọng Quý đoàn trưởng, thiếu tá Nguyễn Xuân Cảnh chính trị viên.
- Đoàn H.36: do đồng chí đại úy Nguyễn Hoanh đoàn trưởng, (ở lại Khánh Hòa), đại úy Võ Đức Nhi chính trị viên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 07:09:41 am »

Ở đồng bằng Bình Thuận, Ninh Thuận: đồng bào cũng lần lượt về bám lại ruộng vườn cũ sản xuất, chăn nuôi, đi lại làm rừng, làm biển; có trên ngàn gia đình về cất nhà ở lại đất cũ, làm lại hàng trăm mẫu ruộng đất bỏ hoang hóa. Cùng với phong trào quần chúng bung ra, đi lại làm ăn, các cuộc đấu tranh trực diện tại chỗ chống bắt lính, chống tăng thuế, đòi cứu đói, cứu đau dũng diễn ra sôi nổi.

Các vùng giải phóng đồng bằng và căn cứ miền núi đến tháng 5 năm 1964 vẫn còn giữ được 25.000 dân. Đã hình thành được những xã chiến đấu, điển hình ở đồng bằng như: Hồng Liêm, Hồng Lâm, Hồng Chính, Hàm Thạnh, v.v. (Bình Thuận), Sơn Hải, Thương Diêm (Ninh Thuận). Địch càn quét, đánh phá đã bị tiêu hao, ngăn chặn. Việc giao lưu mua bán, thăm viếng hội họp, đi lại giữa vùng ta và vùng địch kiểm soát được duy trì. Nhiều “chợ kháng chiến” ở khu Lê Hồng Phong, Hàm Thạnh, Hàm Tân được tổ chức và hoạt động thường xuyên. Khi địch càn vào thì nhân dân vùng ta tạm tránh vào vùng địch, được nhân dân vùng địch đùm bọc, giúp đỡ.

Tuy có cố gắng như trên, nhưng nhìn chung phong trào chưa chuyển biến mấy. Số lượng diệt địch trong sáu tháng đầu năm 1964 ít hơn sáu tháng đầu năm 1963. Diệt phá banh, phá dứt điểm ấp chiến lược còn ít. Có nguyên nhân do khó khăn về lực lượng, hậu cần, về ăn, ở không ổn định, di chuyển điều chỉnh chiến trường, nhưng chủ yếu là do đánh giá địch cao ta thấp, chưa mạnh dạn bung ra tiến công địch.

Tháng 5 năm 1964, Hội nghị Quân khu ủy kiểm điểm đánh giá tình hình chung và đề ra nhiệm vụ quân sự của Quân khu trong thời gian tới. Đây là lần đầu tiên Hội nghị Quân khu ủy được tiến hành bài bản, có đề cập toàn diện các vấn đề hoạt động và xây dựng lực lượng trên cơ sở đánh giá tình hình và kiểm điểm sâu sắc các mắt công tác, nhất là phê phá tư tưởng hữu khuynh co thủ, đã chi phối nhiều đến tinh thần tích cực tấn công tiêu diệt địch.

Hội nghị đề ra nhiệm vụ quân sự trong thời gian tới: “tập trung mọi lực lượng, liên tục tiến công phá ấp chiến lược, mở rộng vùng căn cứ giải phóng, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, nỗ lực xây dựng lực lượng ta về mọi mặt, trước hết là lực lượng du kích và bộ đội địa phương huyện, kiên quyết tiến lên cùng các chiến trường đánh bại kế hoạch Mắcnamara của địch. Trong đánh phá ấp chiến lược phải dùng cả ba thứ quân phối hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, binh vận của quần chúng và qua nhiệm vụ phá ấp giành dân mà mở rộng diện du kích đánh nhỏ lẻ và nâng mức đánh tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trên, Hội nghị chủ trương tiến hành chỉnh huấn chính trị cho cả cơ quan và các lực lượng vũ trang nhằm: nâng cao ý chí chiến đấu, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, tích cực công tác và tiến công tiêu diệt địch, giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn nữa. Qua đó giải quyết triệt để tư tưởng hữu khuynh co thủ, ngại địch, ngán địch lâu dài, trông chờ ỷ lại.

Tháng 6 năm 1964, Khu ủy mở hội nghị lần thứ 3, xác định nhiệm vụ: “Trong thời gian tới phải đưa phong trào toàn Khu lên một bước mới, đẩy mạnh đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang nhằm đập tan âm mưu địch củng cố lại ấp chiến lược, đánh phá căn cứ, cắt đứt đường hành lang của ta. Mở rộng vùng làm chủ và tranh chấp trên đại bộ phận nông thôn đồng bằng, củng cố và mở rộng căn cứ địa, thu hẹp vùng kiểm soát của địch, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng hành lang trước mắt và sau này. Đồng thời ra sức xây dựng và phát triển lực lượng ta về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào”. Hội nghị Khu ủy cũng nhất trí thông qua nhiệm vụ quân sự do Quân khu ủy đề ra.

Để chuẩn bị phối hợp chiến trường chung toàn Miền, tháng 7 năm 1964, Quân khu chủ trương mở một đợt hoạt động Thu Đông 1964 trên địa bàn tỉnh Phước Long nhằm:

- Tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta.

- Đẩy mạnh phong trào phá ấp, giành dân, mở rộng căn cứ bảo đảm hành lang.

- Qua tác chiến nâng trình độ lực lượng vũ trang ta lên.

Đồng thời Quân khu cũng đã tổ chức một đoàn cán bộ công tác chuẩn bị chiến trường ở hướng Lâm Đồng và Bình Thuận (trục đường 20, Hoài Đức - Tánh Linh).

Lúc này Quân khu đã chuyển Tiểu đoàn 840 (thiếu) sang đứng hoạt động ở Phước Long, vừa hỗ trợ cho phong trào phá ấp giành dân ở địa phương, vừa chuẩn bị chiến trường cho hoạt động Đông Xuân 1964-1965 theo kế hoạch chung của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam. Tiểu đoàn 186 (thiếu) sau thời gian ở lại bảo vệ căn cứ và hành lang lưu vực sông Krông-Nô, trước khi bàn giao cho Khu V, đã chuyển vào đứng ở Mã Đà để học tập và củng cố.

Tỉnh Phước Long sau khi đã sáp nhập vào Khu VI được xác định là trọng điểm của Khu. Lực lượng địch ở đây có Tiểu đoàn 34 biệt động quân, một chi đoàn xe bọc thép và các đại đội bảo an lẻ. Mỗi chi khu có một đại đội bảo an cơ động, không tính số đại đội, trung đội bảo an chốt giữ các cứ điểm. Ở đây còn có hai trại biệt kích Mỹ ở Bù Đốp và Bù Gia Mập; mỗi nơi có từ một đến hai đại đội được huấn luyện theo lối đánh biệt kích ở vùng núi dọc biên giới Phước Long - Cam-pu-chia. Ở các dinh điền, ấp chiến lược, có tử một tiểu đội đến một trung đội giữ ấp.

Phần ta, lực lượng ở tỉnh chưa đầy một đại đội, các huyện mới có từ một tiểu đội đến một trung đội (Sau đó Quân khu có bổ sung thêm đại đội 273, đại đội bảo vệ căn cứ của Khu X để lại). Do tình hình như vậy nên việc hoạt động còn gặp nhiều khó khăn.

Bước vào mùa mưa 1964, Tiểu đoàn 804 (thiếu) và lực lượng vũ trang Phước Long đã tích cực triển khai hoạt động trên diện rộng, vừa đánh phá ấp chiến lược, vừa phục kích đánh viện. Tháng 4 năm 1964, ta diệt đồn Bon Ría (cứ điểm do đại đội bản an chốt giữ và khống chế dân trên trục đường 10). Sau đó chuyển qua phá rã, phá banh một số ấp chiến lược chung quanh, mở rộng được địa bàn đứng chân của tỉnh. Qua hoạt động đã giúp cho cán bộ thấy rõ hơn địch ta, góp phần giải quyết một bước tư tưởng hữu khuynh co thủ, thiếu tin ở sức mình và quần chúng nhân dân, làm cơ sở chuẩn bị khí thế bước vào hoạt động Đông Xuân 1964-1965 mạnh mẽ hơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM