Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 09:09:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975  (Đọc 77689 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #10 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:13:14 pm »

Tố cộng là quốc sách của Mỹ - Diệm nhằm đánh phá toàn diện, triệt để Cách mạng miền Nam tiêu diệt những người cộng sản, tổ chức cộng sản, và tư tưởng cộng sản, tàn sát những người yêu nước, khủng bố tàn bạo những người kháng chiến cũ. Chúng tiến hành bằng lực lượng tổng hợp các cấp, các ngành quân sự, hành chánh, an ninh, tình báo, thông tin; bằng biện pháp tổng hợp cả quân sự, chính trị, tâm lý, kinh tế rất thâm độc, tàn bạo và xảo quyệt.

Ta đã kiên quyết đấu tranh chốn lại nhưng do chưa có chủ trương và biện pháp đấu tranh thích hợp, nên không ngăn chặn được âm mưu địch. Nhất là ở nông thôn đồng bằng, địch dùng nhiều thủ đoạn tàn bạo đánh phá quyết liệt, nhưng ta chỉ đơn thuần dùng đấu tranh chính trị, hợp pháp một chiều, thiếu cả những hình thức đấu tranh tự vệ thích đáng để chống lại, nên luôn luôn phải lâm vào thế bị động, chống đỡ, xây dựng, phát triển lực lượng không bù kịp với tiêu hao mất mát.

Đầu năm 1956, Liên khu chỉ đạo đồng chí Trần Lê thôi giữ chức Bí thư Bình Thuận để chuyên lo công tác liên tỉnh, và phân công đồng chí Võ Dân (Ủy viên Ban Cán sự Liên tỉnh) xuống làm Bí thư tỉnh ủy Bình Thuận. Tình hình chung trong Liên khu lúc này, nhất là các tỉnh đồng bằng đang có nhiều khó khăn; tổ chức Đảng và cơ sở quần chúng bị bể vỡ nặng; thế đứng bất hợp pháp bên ngoài rừng núi của chỉ đạo và cán bộ gặp nhiều gian nan, không những không sát dân, sát địch, không nắm được quần chúng, lãnh đạo được phong trào mà còn bị tiêu hao mất mát ngày càng nhiều. Tháng 10 năm 1956, Liên khu ủy họp để bàn cách chuyển sự chỉ đạo(1) đề ra chủ trương chuyển hệ thống chỉ đạo vào nằm sát dân, sát địch, sát phong trào; hình thức hoạt động chủ yếu là hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp với bất hợp pháp; đồng thời ra sức khai thác xây dựng nguồn cán bộ hợp pháp mới, tiến tới tạo được thế đứng ở vùng sâu, vùng đông dân, nhất là ở các thị xã, thị trấn để chỉ đạo phong trào.

Đầu năm 1957 Nghị quyết này được phổ biến xuống các tỉnh ở cực nam Trung Bộ. Anh em có nhiều tâm tư, nhưng cũng vẫn phải chấp hành vì chưa có cách nào khác. Nhiều người không thông suốt, vì thấy cán bộ sống trong vùng địch thì dễ bị địch phát hiện, truy bắt. Do đó có ý muốn tổ chức du kích, bộ đội, dựa vào rừng núi mà đánh địch hỗ trợ cho phong trào. Nhưng vì trên đã có quyết định rồi nên phải cố gắng phấn đấu thực hiện. Để tạo điều kiện ăn ở đi lại hợp pháp trong dân, cán bộ phải đổi vùng, phải thay đổi họ tên, làm giấy tờ giả, phải tạo cho mình có một thân phận hợp pháp nhất là có một nghề làm ăn, sống hòa mình trong nhân dân để từ đó đi sâu vận động quần chúng và thực hiện các công tác Cách mạng Đảng phân công cho mình. Nếu không may sa vào tay giặc thì phải chiến đấu giữ trọn khí tiết của người chiến sĩ Cách mạng.

Đến cuối năm 1957, ở Bình Thuận, ta đã bố trí sắp xếp cho số cán bộ bị địch truy bắt đã tự động chạy ra rừng, cùng với trên bốn mươi cán bộ trong biên chế bất hợp pháp trở về hoạt động lại trong dân; tỉnh Khánh Hòa bố trí vào hoạt động trong dân mười người; Ninh Thuận hai mươi người. Trong những đồng chí ra hợp pháp, trừ một số rất ít tồn tại và hoạt động được; còn phần lớn bị địch phát hiện, bị bắt và bị tù, một số không tạo được chỗ ăn ở phải trở ra rừng. Đầu năm 1958 Liên khu ủy có chỉ thị đình chỉ thực hiện chủ trương này vì nó không phù hợp với đặc điểm tình hình cách mạng ở miền Nam lúc bấy giờ, không những nó không làm chuyển được tình thế mà còn gây thêm tổn thất, khó khăn cho phong trào.

Ở nam Tây Nguyên, trong quá trình bàn triển khai thực hiện, Tỉnh ủy thấy rất khó khăn vì lâu nay quen sống ở rừng núi, nay ra thị xã, thị trấn, nhất định bị lộ. Do đó dùng giằng mãi, chưa có đồng chí nào ra, nhất là sau vụ một tỉnh ủy viên Gia-kon ra hợp pháp ở Buôn Ma Thuột bị bắt. Các huyện Madrak, Cheo Reo, có cho một số cán bộ người dân tộc cải trang vào sống ở các buôn vùng địch, nhưng chỉ một thời gian ngắn, anh em cũng bị bật ra rừng lại. Ở Đắc Min có một số cán bộ dân tộc vào nhưng cũng bị địch phát hiện và bắt thủ tiêu. Do đó, việc chuyển cán bộ ra hợp pháp phải chựng lại và đến đầu năm 1958 thì được lệnh đình chỉ.

Trong khi lãnh đạo đang lúng túng thì địch tiếp tục tấn công vào phong trào. Tại nam Tây Nguyên, sau vụ Ngô Đình Diệm bị ám sát hụt ở Buôn Ma Thuột, chúng đẩy mạnh việc thanh lọc hàng ngũ ngụy quyền, gom dân xây dựng ấp chiến lược và các khu dinh điền. Ở đồng bằng, chúng dồn dân vào các khu tập trung như Bà Râu, Đồng Dày, Tầm Ngân, Đá Tang, v.v. (Ở Ninh Thuận), các khu Gia Lê, Tà Dục, Tà Nĩa, Thác Trại, Suối Dầu, v.v. (ở Khánh Hòa), các khu Bác Ruộng, Đồng kho, Cỏ Mồm, Láng Cóc,… (ở Bình Thuận). Tình hình ở nông thôn rất căng thẳng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các phong trào chống đối mạnh sau này.


(1) Hội nghị này có đồng chí Trần Lê về dự, đồng chí Lê Văn Hiền Ủy viên Ban cán sự Liên tỉnh, Bí thư tỉnh ủy Ninh Thuận kiêm nhiệm nhiệm vụ thường trực Liên tỉnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #11 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:16:15 pm »

II. CHUYỂN LÊN CÁCH MẠNG BẠO LỰC

Cuối năm 1957 đầu năm 1958, trước tình hình địch ngày càng khủng bố trắng trợn ở đồng bằng và càn quét dồn dân ở miền núi, lẻ tẻ một số nơi (cả ở đồng bằng và miền núi) đã có những hoạt động diệt ác, nhưng giấu cấp trên; nhân dân miền núi có nơi đã tự động bố phòng bằng hầm chông, mang cung, ngụy trang dưới hình thức chống thú rừng, giữ rẫy.

Giữa lúc ấy thì Thường vụ Khu ủy V nhận được gợi ý của đồng chí Lê Duẩn về phương châm đấu tranh ở nam Trung Bộ:

- Đối với đồng bằng phải xây dựng cơ sở mai phục, xúc tích lực lượng. Phong trào chính trị phải được che giấu dưới các phong trào dân sinh như sản xuất, học tập do quần chúng tự làm ra. Chi bộ phải rất ít đảng viên, vấn đề chính là phải tạo ra số cốt cán trong quần chúng. Phải hết sức tranh thủ chính quyền xã.

- Đối với đô thị: căn bản là mai phục.

- Đối với miền núi: quan trọng là nắm vững chính sách dân tộc, dựa từng dân tộc mà hoạt động, đi từ chỗ bất hợp pháp đến chỗ đòi tự trị, từ chỗ võ trang tuyên truyền đến chiến tranh du kích lẻ tẻ, kết hợp với đặc công rất linh hoạt.

Đồng chí còn nêu vấn đề xây dựng căn cứ địa miền núi, nhất là Tây Nguyên.

Từ những gợi ý trên, tháng 3 năm 1958 Liên khu ủy V đã hướng dẫn cho Liên tỉnh 3 làm ba việc:

- Có biện pháp đối phó với bọn ngoan cố.

- Tổ chức võ trang tự vệ.

- Xây dựng căn cứ địa.

Liên tỉnh rất phấn khởi và đã họp ngay để bàn biện pháp triển khai một số mặt như: xây dựng lực lượng vũ trang tự vệ, xây dựng các tuyến bố phòng, kiên quyết chống tập trung dân, kéo dân về lại núi rừng, tiến hành một số vụ diệt ác để rút kinh nghiệm và không những đình chỉ việc chuyển cán bộ ra hợp pháp mà còn rút một số cần thiết về lại bất hợp pháp.

Cũng trong thời gian đó (tháng 3 năm 1958) Liên tỉnh 3 nhận được bản Đề cương đường lối cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn qua đường liên lạc bất hợp pháp từ Bà Rịa ra. Đề cương nêu rõ: “Đối tượng cách mạng miền Nam là đế quốc xâm lược phát xít Mỹ và phong kiến độc tài trả thù, hiếu chiến Diệm… Mục đích cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền địch. Để chống lại Mỹ - Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cách mạng, ngoài con đường cách mạng không có con đường nào khác. Toàn bộ các mặt hoạt động là nhằm đưa quần chúng tiến dần từng bước đến chỗ vùng dậy dùng bạo lực lật đổ bọn thống trị”. Đề cương này càng làm cho mọi người sáng tỏ thêm phương hướng tiến lên của phong trào và quyết tâm thực hiện các việc Liên khu ủy đề ra.

Mùa thu năm 1958, Liên tỉnh nhận được từ Liên khu ủy bàn kế hoạch sơ bộ về xây dựng căn cứ địa ở Tây Nguyên về miền Tây các tỉnh đồng bằng, về xây dựng lực lượng vũ trang với nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ, cho dùng vũ trang diệt bọn phản động ác ôn, biệt kích, hướng dẫn tăng gia sản xuất, dự trữ muối, vải, nông cụ.

Mặc dù tình hình còn khó khăn, nhiều việc chưa rõ hết, nhưng các tỉnh vẫn hăng hái, triển khai thực hiện nhiệm vụ. Số cán bộ vũ trang ở lại được tập hợp thành những tổ bắt đầu xây dựng và hoạt động. Khánh Hòa diệt hai tên ác ôn ở Ninh Hòa và Vĩnh Xương. Ninh Thuận diệt một tên ác ôn ở Bác Ái, v.v. Một số tề điệp tại chỗ bắt đầu hoang mang, dao động.

Đến tháng 6 năm 1959, lực lượng vũ trang Ninh Thuận gồm 32 đồng chí, thanh niên ở từng mé núi được tổ chức vào các tổ tự vệ.

Ở Bình Thuận tháng 9 năm 1959, sau khi rút được thanh niên từ đồng bằng lên đã thành lập một trung đội của tỉnh.

Ở nam Tây Nguyên cuối năm 1958, ta cũng bắt đầu tổ chức lực lượng vũ trang tự vệ, lo dự trữ lương thực, nhất là muối; chỉ đạo cho các cơ quan tỉnh, huyện làm rẫy tự túc; đồng thời vận động nhân dân đẩy mạnh sản xuất không những để có ăn mà còn để đóng góp lương thực cho cách mạng. Ở các vùng có phong trào mạnh, nhân dân nhiệt tình hưởng ứng, mỗi hộ đóng góp ba trăm gùi lúa, hộ tối thiểu cũng hai mươi gùi, và tự mình đi làm kho cất giấu cẩn thận rồi báo lại cho cán bộ Cách mạng.

Chính nhờ số lương thực và muối dự trữ đó mà đến năm 1960-1961 ta giải quyết được hàng ngàn khách trên đường hành lang từ nam Tây Nguyên vào Nam Bộ.

Bằng nhiều thủ đoạn đánh phá, đến năm 1958 ở cực nam Trung Bộ địch đã dồn được số đông dân miền núi xuống các khu tập trung giáp ranh đồng bằng. Nhưng lẻ tẻ buôn nào cũng có người bám lại, nhất là thanh niên ở các buôn vùng cao. Nhân dân dựa vào địa hình hiểm trở, đấu tranh giằng co nên địch không dồn được. Số bám lại đã bố phòng chông, bẫy… chống địch lùng sục để tự vệ.

Bà Râu là một trong hai khu tập trung lớn của Bác Ái, nằm ở chân núi Phước Kháng (sát đường sắt Bắc Nam) được xây dựng thành khu kiểu mẫu người dân tộc từng được Ngô Đình Diệm và Nguyễn Ngọc Thơ đến tận nơi để biểu dương khuyến khích. Nhưng cuộc sống của nhân dân bị giam hãm trong khu tập trung chật hẹp và ngày càng cơ cực, đói rách, bệnh tật, chết chóc. Lẻ tẻ đã có người bỏ trốn về núi. Đặc biệt là có một số thanh niên trong ấp bí mật ta tìm gặp cán bộ để báo cáo tình hình và xin ý kiến phá khu tập trung, đưa dân về lại rừng núi ông bà. Trước tình hình bức xúc đó, tỉnh ủy Ninh Thuận đã cử một đồng chí xuống gặp huyện ủy bàn biện pháp phá khu tập trung, tổ chức nhiều mũi công tác đi sâu vận động quần chúng, hướng dẫn kế hoạch bung về. Đêm 30 tháng Chạp âm lịch (tức ngày 7 tháng 2 năm 1959), lợi dụng lúc địch sơ hở, gần 5000 đồng bào đã đứng lên đốt phá các khu xóm tập trung, rầm rập kéo nhau về lại rừng núi ông bà.

Tin khu Bà Râu bị phá đã thúc giục các khu tuyên truyền Krôm, Đồng Dày nổi dậy tiếp theo, làm cho địch không kịp đối phó. Năm ngày sau, địch mới cho một đại đội lên càn quét gom dân trở lại, nhưng nhân dân vừa tránh né, vừa dùng vũ khí thô sơ chống trả.

Tháng 3 năm 1959, các đồng chí lãnh đạo huyện cử đồng chí PinăngTác (sau này là Anh hùng lực lượng vũ trang) cùng 30 thanh niên Bác Ái Đông lên Bác Ái Tây vận động quần chúng diệt ác, phá tề, giải tán các khu ấp ở đây. Đầu tháng 4 năm 1959, đồng bào ở khu Tầm Ngân đã nổi dậy phá banh khu tập trung về lại rừng núi cũ, sản xuất, bố phòng sẵn sàng đánh trả địch.

Việc phá hai khu tập trung Bà Râu và Tầm Ngân có tác động đến phong trào của huyện Anh Dũng (tây đường 11) và các huyện miền núi tây Khánh Hòa. Nhân dân các dân tộc bị dồn trong các khu tập trung theo gương Bà Râu, Tầm Ngân, hàng ngày không ngừng đấu tranh đòi được trở về buôn làng cũ làm ăn, làm cho ách kìm kẹp trong các khu tập trung bị lòng. Một số khu như Cà Rôm, Sông Trau, Đồng Dày… dân lần lượt trốn về núi gần hết.

Tháng 5 năm 1959, Liên tỉnh 3 tổ chức hội nghị mở rộng rút kinh nghiệm về việc phá khu tập trung, đưa dân về rừng núi và xây dựng căn cứ về các mặt. Hội nghị nhận thấy đồng bào các dân tọc rất căm thù địch và luôn luôn hướng về Đảng, về Cách mạng. Họ không chịu được cảnh sống tập trung xa rừng núi, bị kìm kẹp, áp bức, không được tự do đi lại làm ăn. Phá khu tập trung, bung dân về rừng núi là nguyện vọng bức thiết của họ, nếu được lãnh đạo hướng dẫn cụ thể, vận động được tề và binh lính con em của mình, đồng tình thì họ có thể nổi dậy hành động bằng bạo lực của chính bản thân họ.

Từ mùa hè năm 1959 trở đi, nhiều lần địch huy động lực lượng lên càn quét Bác Ái để tìm bắt dân đưa về các khu tập trung. Cuối tháng 10 và tháng 11 năm 1959 chúng đưa hơn 1.200 quân mở cuộc càn lớn kéo dài hơn một tháng vào Bác Ái (Ninh Thuận) và Khánh Sơn (Khánh Hòa). Bằng vũ khí thô sơ, làm chồng, cung tên, v.v. nhân dân Bác Ái, Khánh Sơn đã gây thương vong trên hai trăm tên địch. Trước tình hình không thể dồn dân xuống đồng bằng được, địch chuyển qua tập trung tại chỗ. Chúng xây dựng đồn bót ở Ma Ty, Tà Lú, Đầu Suối rồi cho quân đi lùng sục bắt dân tập trung về đây, nhưng chúng cũng chỉ bắt dược khoảng hai nghìn người, hầu hết là ông bà già, phụ nữ, trẻ em. Sau đó, nhân dân và du kích vừa bám đồn bắn tỉa, phục kích bọn đi lùng, vừa lập các tuyến bố phòng vây hãm địch, làm chủ buôn làng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #12 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:17:45 pm »

III. KHI CÓ NGHỊ QUYẾT 15 CỦA TRUNG ƯƠNG
CỰC NAM TRUNG BỘ ĐÃ CHUYỂN LÊN VŨ TRANG KHỞI NGHĨA TỪNG PHẦN
Ở MIỀN NÚI VÀ PHÁT TRIỂN XUỐNG ĐỒNG BẰNG
(1959-1960)

Đầu năm 1959, phong trào cách mạng ở miền Nam và cực nam Trung Bộ bắt đầu có chuyển biến. Mỹ - Diệm càng ra sức phản kích trắng trợn, mà đỉnh cao là “luật 10/59” đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, lê máy chém đi khắp nơi, mở phiên tòa xét xử và chém ngay tại chỗ những người cách mạng. Chúng tuyên bố đất nước dang trong tình trạng chiến tranh, hô hào “Bắc tiến” và tiến hành càn quét đánh phá ác liệt. ở miền núi, chúng càn quét dồn dân, đóng thêm đồn bót khống chế các khu tập trung. Ở nam Tây Nguyên, chúng tập trung các khu trù mật dọc theo các trục giao thông chiến lược. Mỹ dùng khẩu hiệu tự trị giả hiệu để trực tiếp nắm đồng bào dân tộc.

Ngày 13 tháng 01 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp lân thứ 15 ra Nghị quyết về đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam: “Con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là lấy sức mạnh bạo lực của quần chúng, dựa vào lực lượng của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc Mỹ và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân. Trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình thế đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang cục diện mới, đó là chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”.

Cuối tháng 12 năm 1959, đồng chí Trần Lê (đi dự hội nghị Trung ương lần thứ 15) về cùng với một số cán bộ quân sự cực nam cũ được Trung ương cho trở lại chiến trường.

Hội nghị Liên tỉnh mở rộng được triệu tập đã nghiên cứu quán triệt Nghị quyết 15 và bàn kế hoạch triển khai thực hiện. Cán bộ dự hội nghị đều vui mừng, phấn khởi, như trút được hết sự trăn trở day dứt từ bấy lâu nay và hoàn toàn nhất trí với đường lối, phương hướng, phương châm đấu tranh Trung ương đề ra, rất tâm đắc với các nhận định và phân tích của Nghị quyết.

Khi bàn triển khai thực hiện Nghị quyết 15, đồng chí Trần Lê còn truyền đạt những lời dặn dò của trên là: phải làm từng bước, vừa làm vừa thăm dò phản ứng của địch, chưa phải làm mạnh ngay; phải chú ý vận dụng cả ba mặt hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp; chưa được nặng vũ trang, chưa nên bộc lộ các hoạt động vũ trang sớm(1), nhất là khi ta còn có nhiều khó khăn, nếu bộc lộ sớm dễ bị địch ngăn chặn, khó làm; hướng là phải đánh, nhưng phải đợt xây dựng lực lượng vũ trang. Chống càn, trước mắt chủ yếu là dùng vũ khí thô sơ. Đi đôi với xây dựng lực lượng vũ trang phải ra sức móc ráp, xây dựng, phát triển cơ sở chính trị và lực lượng tự vệ ở đồng bằng, kiên quyết phá các khu tập trung dân, đưa đồng bào dân tộc về xây dựng căn cứ miền núi.

Các tỉnh nhanh chóng triển khai học tập, quán triệt Nghị quyết 15 cho cán bộ, đảng viên đến tận cơ sở. Niềm mong đợi của mọi người từ lâu đã đến, sự vui mừng, phấn khởi lộ rõ trên nét mặt, ai cũng hăm hở quay về địa phương khẩn trương thực hiện.

Ở Liên tỉnh, Ban quân sự được hình thành do đồng chí Phan Văn Hược (tức Mười Trung) chuyên trách. Đầu năm 1960, lực lượng vũ trang Liên tỉnh đã có một đại đội thiếu bộ binh và một đại đội thiếu đặc công. Các tỉnh cũng bước đầu hình thành cơ quan quân sự tỉnh. Bình Thuận xây dựng căn đơn vị 2 tháng 9 thành một trung đội mạnh vừa bộ binh, vừa đặc công. Ninh Thuận một trung đội, Khánh Hòa một trung đội. Một số xã miền núi đã tổ chức tổ hoặc tiểu đội du kích, tự vệ.

Lực lượng vũ trang một mặt lo xây dựng, huấn luyện, một mặt cùng cán bộ chính trị bám các buôn làng, phát động quần chúng xây dựng thực lực chính trị và vũ trang, tổ chức bố phòng, đánh địch càn quét, gom dân.

Những tháng đầu năm 1960, nhiều cuộc càn của địch lên vùng núi Bác Ái, Anh Dũng (Ninh Thuận), Tô Hạp (Khánh Hòa), Di Linh, Tánh Linh (Bình Thuận), đều bị các tuyến bố phòng ngăn cản và sát thương.

Ngày 20 tháng 5 năm 1960, đồng chí Nguyễn Đoàn Tụ, chiến sĩ đơn vị 2 tháng 9 Bình Thuận (đóng Buôn Quao), căm thù địch đốt nhà dân và ném xác trẻ em vào lửa, đã nổ súng tiêu diệt một tên biệt kích. Địch vội vã rút lui. Trên đường về, bọn này lại bị một tổ của Trung đội 2 tháng 9 phục kích ở La Hơn bắt gọn cả toán, thu 4 súng. Đây là trận đánh đầu tiên ở vùng rừng núi Bình Thuận và cả Liên tỉnh 3.

Ở đồng bằng được bổ sung một số cán bộ quân sự và chính trị từ miền Bắc về, các huyện đã xây dựng thêm các đội vũ trang công tác, vừa tiến hành diệt ác, vừa móc ráp mở cơ sở.

Ở miền núi, để xây dựng cắn cứ, phải phá khu tập trung kéo dân về. Riêng Bình Thuận, phải phá cho được khu dinh điền có trên năm nghìn đồng bào dân tộc ở Bác Ruộng. Ở đây, địch đã xây dựng các mặt và bố phòng khá chặt chẽ, coi như một dinh điền kiểu mẫu: xung quanh có rào tre và kẽm gai, có hệ thống lô cốt phòng thủ, lại được bố trí ở sát quận lỵ hành chí và chi khu Hoài Đức; thường xuyên có một đại đội bảo an, một trung đội biệt kích và các lực lượng cảnh sát, dân vệ, thanh niên cộng hòa có vũ trang chốt giữ. Do đó, tỉnh ủy và cơ quan quân sự đã thống nhất hạ quyết tâm đánh diệt chi khu, quận lỵ, phá khu tập trung đưa dân về buôn làng cũ.


(1) Cuối năm 1959 Trung ương có chỉ thị dặn dò phải kiên trì đấu tranh, không được nóng vội.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Hai, 2012, 08:18:02 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #13 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:18:52 pm »

Sau một thời gian ngắn chuẩn bị đêm 30 tháng 7 năm 1960, 27 đồng chí vừa là bộ binh, vừa là đặc công được nhân dân và tự vệ tiếp sức, đã nổ súng tiến công địch. Chỉ sau một giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt và chiếm lĩnh toàn bộ các mục tiêu: chiếm chi khu và quận lỵ Hoài Đức, diệt gọn đại đội bảo an, một trung đội dân vệ, một trung đội cảnh sát chiến đấu, bộ máy khu dinh điền, đánh tan rã thanh niên cộng hòa có vũ trang, thu 150 súng các loại (có 7 trung liên, 10 tiểu liên, 9 súng ngắn) và nhiều chiến lợi phẩm khác; giải thoát bốn mươi cán bộ cơ sở đang bị địch giam giữ. Gần bốn nghìn đồng bào dân tộc trong khu dinh điền Bắc Ruộng đã nổi dậy đốt phá khu tập trung và vượt qua bao nhiêu núi đèo, sông suối để về buôn làng cũ an toàn .

Chiến thắng Bác Ruộng (chi khu quận lỵ Hoài Đức) là chiến thắng mở đầu việc dùng lực lượng vũ trang hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng phá khu tập trung của địch. Nó có ý nghĩa cả về quân sự và chính trị rộng lớn đối với quân và dân cực nam Trung Bộ, đem lại kinh nghiệm quý báu cho Liên tỉnh trong chỉ đạo dùng vũ trang hỗ trợ cho phá ấp, giành dân về sau.

Đối với địch, đây là một thất bại đau, tiếp theo sau trận Tour 2 ở Trảng Sụp, Tây Ninh. Vì vậy, Diệm đã ra lệnh cho tướng Thái Quang Hoàng chỉ huy sư đoàn cấp tốc truy đuổi với tinh thần “mất súng không sao nhưng mất dân là không được, phải đưa cho được bốn nghìn dân Thượng trở lại khu dinh điền”. Nhưng dân đã về đến núi rừng, lần này lại có lực lượng vũ trang đánh chặn, hỗ trợ, nên nửa chúng địch phải rút.

Phát huy chiến thắng của trận Hoài Đức - Bắc Ruộng, Liên tỉnh đã chỉ đạo các tỉnh dùng lực lượng vũ trang đánh diệt một số đồn bốt, kết hợp với đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền để hỗ trợ đồng bào dân tộc ở các khu tập trung bung về rừng núi, sản xuất, bố phòng, xây dựng căn cứ.

Ở Ninh Thuận, đêm 30 tháng 8 năm 1960 lực lượng vũ trang Liên tỉnh (đại đội 121 đặc công và đại đội 120 bộ binh) tiến công tiêu diệt gọn hai đồn cấp đại đội là Tà Lú và Ma Ty ở Bác Ái, hỗ trợ gần hai nghìn dân nổi dậy phá khu tập trung, bung về làng cũ. Cùng lúc, nhân dân và du kích xã Phước Chiến nổi dậy bao vây uy hiếp, bức rút đồn Đầu Suối. Đồng bào khu tập trung Ma Nơi, Trà Co, Đá Trắng, Chà Vân, Trại Thịt… cũng nổi dậy phá khu tập trung về làng cũ. Miền núi Ninh Thuận được giải phóng với trên một vạn hai nghìn dân.

Ở Khánh Hòa, tháng 9 năm 1960, lực lượng vũ trang tỉnh có một bộ phận lực lượng của Liên tỉnh phối hợp diệt đồn Thác Trại - Gia Lê, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá khu tuyên truyền Gia Lê - Thác Ngựa; năm nghìn đồng bào dân tộc trở về với cuộc sống tự do ở núi rừng. Tháng 11 năm 1960, phá khu tập trung Cây Dầu, giải phóng các vùng Tà lương, Suối Hai. Miền núi Khánh Hòa một vạn năm nghìn dân được giải phóng.

Sau đó, lực lượng vũ trang các tỉnh và Liên tỉnh cùng với cán bộ chính trị và nhân dân tiếp tục phá các khu tập trung còn lại ở miền núi và vùng giáp ranh như La Bá, Cỏ Mòm, Láng Cốc ở Bình Thuận, v.v.

Cuối năm 1960, Liên tỉnh chủ trương mở Đại hội phong trào dân tộc tự trị ở từng huyên và tiếp theo là Đại hội ở toàn khu căn cứ (gồm các huyện miền tây Khánh Hòa và Bác Ái (Ninh Thuận) để phát động mạnh mẽ quyết tâm đứng lên làm chủ núi rừng của nhân dân các dân tộc. Đại hội tuyên bố xóa bỏ hết chính quyền tổng lý của địch, xây dựng chính quyền tự quản của nhân dân, phát động mạnh mẽ phong trào đoàn kết chiến đấu chống địch, xây dựng cuộc sống mới. Sau đại hội nhân dân các dân tộc hưởng ứng sôi nổi và thực hiện tích cực việc sản xuất bố phòng, xây dựng dân quân du kích và bộ đội địa phương.

Nhìn chung, đến cuối năm 1961, đại bộ phận miền núi các tỉnh đồng bằng được giải phóng. Vùng giải phóng nối liền nhau giữa ba tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Lâm Đồng đang được khẩn trương xây dựng các mặt, để trở thành vùng căn cứ địa cách mạng.

Ở đồng bằng ven biển cực nam Trung Bộ: Đầu năm 1960, tuy địch còn kéo dài “Tố cộng” đợt 3, đánh phá phong trào, nhưng cán bộ huyện xã đã cố gắn quần bám, phát động quần chúng, móc nối cơ sở. Từ mùa thu 1960, do tác động của các chiến thắng quân sự ở miền núi và phong trào nổi dậy của đồng bào các dân tộc, cùng với những tin tức tiến công và nổi dậy từ Nam Bộ dội ra, Khu V dội vào, hơn nữa bản thân lực lượng tại chỗ cũng được tăng thêm (như rút được thanh niên, tiếp thu được phần nào sự chi viện từ miền Bắc) nên hoạt động ở đồng bằng có được đẩy mạnh lên một bước, khơi dậy được khí thế cách mạng trong các tầng lớp nhân dân.

Công tác vũ trang tuyên truyền diệt ác, phá kìm, kết hợp với số trận đánh tốt, đã tạo thuận lợi để mở rộng cơ sở và nắm quần chúng, phát triển phong trào. Tháng 11 năm 1960, nhân vụ Nguyễn Chánh Thi đảo chánh Diệm, lực lượng Liên tỉnh đã đột nhập thị trấn Ba Ngòi (Khánh Hòa) giữa ban ngày diệt ác, bắt tề, đánh thiệt hại nặng một đại đội Cộng hòa từ Nha Trang kéo vào chi viện. Các đội vũ trang công tác còn đột vào một số xã thuộc các huyện Diên Khánh, Vĩnh Xương, Ninh Hòa để tuyên truyền, phát động quần chúng, tán phát truyền đơn khơi dậy khí thế cách mạng của quần chúng.

Ở Ninh Thuận, tháng 11 năm 1960, lực lượng vũ trang của Liên tỉnh cùng lực lượng huyện tập kích đồn Mỹ Tường, đột nhập các ấp Phương Cựu, Mỹ Hòa… giải phóng các ấp Mỹ Tường, Mỹ Hòa, Thái An, Vĩnh Hy ở ven biển phía bắc. Ở phía nam, đại đội 305 của tỉnh thọc sâu xuống các ấp ven biển đánh diệt một số địch và giải phóng ba ấp Vĩnh Tường, Từ Thiện, Sơn Hải.

Ở Bình Thuận: ngày 9 tháng 12 năm 1960, một tiểu đội của Trung đội 2 tháng 9 cải trang dùng xe khách, ban ngày đột nhập diệt đồn Bầu Trắng (do một trung đội bảo an đóng giữ) và trụ sở xã Nhơn Thiện, diệt tên đồn trưởng và thư ký xã, bắn bị thương ba tên, bắt tám tề, thu bảy súng. Ta tổ chức mít tinh, có mấy trăm quần chúng dự, vận động được ba mươi thanh niên thoát ly.

Như vậy là đồng bằng cực nam đã có một bước chuyển lên tiến công với khí thế mới, cơ sở được khôi phục ở nhiều nơi, lực lượng du kích, tự vệ mật cũng được xây dựng. Số thanh niên thoát ly tham gia bộ đội cũng ngày càng tăng.


(1) Theo các báo cáo của tỉnh ủy Bình Thuận.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #14 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:00:18 pm »

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #15 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:03:39 pm »

IV. NAM TÂY NGUYÊN CHUYỂN LÊN KHỞI NGHĨA TỪNG PHẦN

Ở Tuyên Đức: từ đầu năm 1960, Liên tỉnh đã tổ chức hai đội vũ trang công tác, một đội từ Anh Dũng (Ninh Thuận) mở về hướng Mlọn (Đơn Dương) do đồng chí Nguyễn Ứng (Lâm) phụ trách; một đội từ tây Bác Ái (Ninh Thuận) mở lên đông bắc Đà Lạt do đồng chí Đinh Sĩ Uẩn phụ trách. Khoảng giữa năm 1960 đội này đã xây dựng được cơ sở và đứng chân được ở buôn Đồng Mang, Đạ Tro, Đạ Cháy và liên tục phát triển về hướng bắc để bắt liên lạc với Liên tỉnh 4, móc nối với cơ sở trong Đà Lạt.

Ở hướng Lâm Đồng: Liên tỉnh 3 chỉ đạo cho Tỉnh ủy Bình Thuận tổ chức hai đội công tác: một đội do đồng chí Tính phụ trách xuất phát từ Triêng Làng, Tố Nõ (Tánh Linh) mở cơ sở lên hướng B’Sar, Đạ Gùi, Đạ Hoai vượt qua bắc đường 20; một đội do đồng chí Cảnh (tức Nguyễn Xuân Du) phụ trách xuất phát từ R’Bú mở cơ sở lên hướng Đinh Trang Hạ, Đinh Trang Thượng, các sở chè (dọc đường 20) và Kin Đạ (bắc đường 20). Cuối năm 1960, cả hai đội đều xây dựng được cơ sở ở nam đường 20 và bắt đầu mở cơ sở qua phía bắc đường. Đội thứ ba thành lập từ đầu năm 1961 do đồng chí Hà Ngọc Bích (Tám Bích) phụ trách từ Tố La phát triển lên hướng Blao.

Mở cơ sở lên Lâm Đồng, Tuyên Đức trong thời điểm này còn có nhiệm vụ thực hiện ý đồ của cấp trên là phối hợp với Liên tỉnh 4 tạo cơ sở mở hành lang nối với Nam Bộ. Để hỗ trợ đắc lực cho các đội công tác phát triển lên hướng bắc được thuận lợi, Ban Cán sự Liên tỉnh 3 chủ trương diệt một số cứ điểm then chốt trên đường 20 và 11 (Tuyên Đức - Lâm Đồng).

Tháng 5 năm 1961, lực lượng vũ trang của liên tỉnh 3 và lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận cùng hợp đồng tiến công chi khu, quận lị Đran (Đơn Dương) và chi khu quận lỵ Di Linh (Lâm Đồng).

Ở Đran: lực lượng địch có một đại đội bảo an giữ chi khu; một đồn cấp trung đội đóng giữ bờ đập Đa Nhim; quận lỵ do dân vệ và một bộ phận bảo an chiếm giữ. Đêm 15 tháng 5 năm 1961, đại đội 121 đặc công và đại đội 120 bộ binh của Liên tỉnh (do đồng chí Phan Văn Hược và đồng chí Bảy Thành(1) chỉ huy), sau một giờ chiến đấu đã tiêu diệt gần hết các mục tiêu, bắt sống tên quận trưởng, làm chủ và thu dọn chiến trường, thu hàng trăm súng (có 12 trung liên).

Cùng đêm ấy ở Di Linh, lực lượng Bình Thuận, đã diệt một đại đội bảo an, một trung đội cảnh sát đánh thiệt hại nặng khu quận lỵ, một đồn cấp đại đội, chiếm giữ một số khu vực hành chính, làm chủ thị trấn Di Linh trong đêm và tuyên truyền vận động quần chúng nổi dậy.

Các trận đánh ở chi khu, quận lỵ Đran và Di Linh đã tác động mạnh đến cả mảng Lâm Đồng và Tuyên Đức. Địch dao động đề phòng, bọn tề vệ trong các ấp co lại, tạo thuận lợi cho các đội vũ trang công tác phát triển nhanh lên phía bắc.

Đến giữa năm 1961, hai đội công tác của Liên tỉnh lên Tuyên Đức đã xây dựng được cơ sở trong bảy buôn với hàng ngàn dân và đã liên lạc được với các đội nam Tây Nguyên ở phía nam Lạc Thiện, tại vùng Đầm Roòng trên bờ sông Krông-Nô. Ba đội công tác của Bình Thuận đã mở qua bắc đường 20, vào một số đồn điền có cả người dân tộc và người Kinh.

Ở Đắc Lắc: tháng 8 năm 1960, Tỉnh ủy mới chính thức tổ chức học tập Nghị quyết 15. Tuy vậy, từ những tháng cuối năm 1959 Liên tỉnh 4 cũng đã chỉ thị hướng dẫn thực hiện từng phần Nghị quyết 15. Tháng 11 năm 1959 được bổ sung một số cán bộ quân sự ở miền Bắc về, tỉnh bắt đầu tổ chức cơ quan quân sự tỉnh và tuyển thanh niên người dân tộc, xây dựng trung đội tập trung đầu tiên của tỉnh (đơn vị A37). Một số huyện phía bắc cũng bắt đầu xây dựng được tiểu đội vũ trang. Ngay trước đó tỉnh cũng đã cho diệt ác, nhưng không báo cáo lên trên.

Đầu năm 1960, tỉnh ủy Đắc Lắc chia làm hai mảng: mảng phía nam từ đường 21 trở vào do đồng chí Vũ Anh Ba bí thư tỉnh ủy trực tiếp phụ trách có nhiệm vụ mở cơ sở khẩn trương tạo hành lang đi vào Nam Bộ, mảng phía bắc từ đường 21 trở ra do đồng chí Nguyễn Tuấn phó bí thư tỉnh ủy phụ trách.

Tháng 9 năm 1960, tỉnh ủy Đắc Lắc phát động một đợt hoạt động vũ trang để hỗ trợ cho phong trào của đồng bào các dân tộc. mở đầu là trận phục kích diệt một trung đội địch đang ép dân đi dự lễ quốc khánh của Ngô Đình Diệm ngày 27 tháng 10 năm 1960 trên đoạn đường từ Buôn Yu đến Buôn Hoan.

Tháng 11 năm 1960, ta tiến hành bao vây uy hiếp kết hợp binh vận bức rút đồn M’Lák, đánh diệt Ai-nu, thu toàn bộ vũ khí. Quần chúng nổi dậy xóa bỏ tề điệp, giải quyết một vùng rộng lớn trù phú ở lưu vực sông Ba thuộc các huyện Cheo Reo - Madrak.

Phối hợp với trọng điểm đông nam Cheo Reo, ở phía tây Buôn Hồ, ta tập kích bằng hỏa lực vào quận lỵ Buôn Hồ, địch hoảng hốt bỏ chạy, ba ngày sau mới trở lại. Nhưng do ta không nắm được tình hình nên đã bỏ lỡ thời cơ. Tháng 12 năm 1960, ta đánh đồn diệt gọn một trung đội thu 15 súng, phá hủy 4 xe ủi đất, 2 xe GMC.

Lúc này, ta rút thêm được thanh niên dân tộc và được miền Bắc chi viện nên đã xây dựng thêm nhiều đội võ trang công tác. Từ tháng 12 năm 1960, các đội đã phát triển hoạt động vào các buôn làng sâu, mở rộng diện phá kìm, xây dựng chính quyền tự trị của đồng bào dân tộc. Khí thế quần chúng lan rộng nhanh, ta tranh thủ được tầng lớp trên, công chức, sĩ quan địch, mở rộng mặt trận, cô lập chính quyền địch. Có những buôn, ta không đến được nhưng dân cũng tự động nổi dậy. Tính đến mùa xuân 1961 có gần ba vạn đồng bào dân tộc của ba mươi xã, hai trăm buôn, chủ yếu ở mảng bắc của tỉnh Đắc Lắc, đã giành quyền làm chủ.

Vùng giải phóng rộng, liên hoàn từ đông và nam Cheo Reo đến giáp vùng giải phóng tây Phú Yên, vào đến bắc huyện Madrak, sang phía tây của huyện Buôn Hồ trên đường 14. Nhờ có chính sách dân tộc đúng đắn, chính sách mặt trận đoàn kết rộng rãi, biết chăm lo đời sống đồng bào dân tộc, làm cho sự gắn bó giữa Đảng và quần chúng được chặt chẽ, nên nhân dân rất phấn khởi, ra sức sản xuất để có ăn và đống góp cho Cách mạng, nô nức đi dân công, phục vụ đường hành lang chiến lược, nhiều thanh niên hăng hái thoát ly tham gia lực lượng vũ trang và làm giao liên.

Đêm 19 tháng 6 năm 1961, theo chỉ thị của trên, lực lượng vũ trang B3 (bắc Đắc Lắc) phối hợp cùng lực lượng vũ trang tỉnh Phú Yên, đánh vào thị trấn Củng Sơn để giải thoát luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Ta diệt được địch, làm chủ chiến trường, thu vũ khí, nhưng không thực hiện được yêu cầu đưa luật sư ra vì ông đi vắng(2). Ta phá ấp, phát động quần chúng vận động được hàng trăm thanh niên ra nhập ngũ.

Tháng 3 năm 1961, lực lượng vũ trang mảng bắc đã có một đại đội bộ binh người dân tộc, một đại đội bộ binh gồm tân binh Phú Yên rút ra, một trung đội trinh sát, một trung đội đặc công. Các huyện Madrak, Cheo Reo, Buôn Hồ, đã xây dựng được trung đội bộ đội địa phương. Nhiều xã giải phóng đã tổ chức dân quân, du kích. Lúc này đồng chí Nguyễn Viên (tức Bình) thay đồng chí Nguyễn Tuấn làm Bí thư Tỉnh ủy kiêm chính trị viên lực lượng vũ trang mảng bắc của Đắc Lắc.


(1) Nguyễn Cảnh (Bảy Thành) là cán bộ Quân đội nhân dân trong chống Pháp, được bố trí ở lại nắm lực lượng Bình Xuyên chống Ngô Đình Diệm với cấp và tên là trung tá Huỳnh Long. Sau một thời gian, bị lộ chạy ra miền Đông Nam Bộ sau đó về Liên tỉnh 3. Sau này được bố trí về Lâm Đồng rồi Miền rút về Khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
(2) Đến đợt hoạt động cuối tháng 10 năm 1961 mới đưa luật sư ra được.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #16 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:08:01 pm »

V. NỐI THÔNG HÀNH LANG CHIẾN LƯỢC
TỪ NAM TÂY NGUYÊN VÀO ĐẾN NAM BỘ

Sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương, vấn đề chi viện cho chiến trường miền Nam về người và vũ khí là hết sức cấp thiết. Nhất là sau đồng khởi, Nam Bộ rất cần sự chi viện về cán bộ và phương tiện từ Trung ương, để kịp xây dựng lực lượng vũ trang hỗ trợ cho phong trào lúc đấu tranh chính trị.

Lúc này, đường hành lang chiến lược từ Trung ương vào mới thông đến đường 19 bắc Đắc Lắc, nên người và vũ khí chi viện cho Nam Bộ còn bị kẹt ở Gia Lai - Kon Tum và bắc đường 21. Do đó Liên khu ủy V đã tăng cường cán bộ hình thành cơ quan chỉ đạo ở phía nam Đắc Lắc. Đồng chí Vũ Anh Ba làm bí thư. Để khẩn trương xúc tiến việc này, Trung ương cũng cử một đoàn cán bộ gồm 24 đồng chí(1) vào cùng với địa phương mở cơ sở, xoi đường vào Nam Bộ.

Lực lượng mở đường chia làm ba đội: một đội đi về hướng Đức Xuyên, Khiêm Đức qua sông Đồng Nai, bắc Lâm Đồng; đội thứ hai vượt qua đường 14 phát triển vè phía nam ba ranh giới; đội thứ ba đi về phái tây bắc Đà Lạt (Đức Trọng - Tuyên Đức). Liên khu ủy V cũng chỉ đạo cho Liên tỉnh 3 xoi lên bắt liên lạc với mũi Quảng Đức xuống và mũi Nam Bộ ra.

Lúc 16 giờ ngày 11 tháng 11 năm 1960 đội ngoài vào có ba đồng chí: Phạm Văn Nhường (Năm Nhường), Phạm Văn Lạc (Tư Lạc), Hoàng Minh Đô (Ba Đen), đồng chí Nhường phụ trách. Đội trong ra có đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (phụ trách) và đồng chí Tư, Cột, gặp nhau tại ngã ba suối Đăk K’tích (ở vùng B’Sar Lao Xiêng)(2). Cuộc gặp vừa mừng vừa xúc động vì nhiệm vụ Đảng giao đã hoàn thành, lệnh thông đường hành lang Bắc - Nam được thực hiện.

Từ đây, trên đường hành lang, các đoàn đi vào Nam Bộ được thông suốt và ngày càng nhiều. Hàng ngàn nam nữ thanh niên, hàng trăm voi của đồng bào Buôn Hồ, Buôn Ma Thuột, Đắc Min đã được huy động để vận tải hàng hóa, lương thực cho hành lang. Cơ sở cách mạng trong Buôn Ma Thuột đã dùng phương tiện hợp pháp để chuyển gạo và thực phẩm tiếp tế cho hành lang.

Đầu năm 1961; Liên khu ủy V tăng thêm cho nam Tây Nguyên một đại đội bộ binh, một trung đội đặc công, điều đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên vào làm Trưởng ban Quân sự Liên tỉnh 4 cùng với một số cán bộ quân sự khác để hình thành các ban quân sự của các B(3).

Để mở rộng vùng làm chủ, đảm bảo hành lang, tháng 3 năm 1961 ta tiến công tiêu diệt gọn quận lỵ Lắc (Lạc Thiện). Tháng 5 năm 1961 ta lại tiến công tiêu diệt quận lỵ Đức Lập. Các trận đánh trên đã thối động mạnh phong trào trên một vùng rộng lớn ở nam Tây Nguyên, tạo điều kiện nhanh chóng phát triển cơ sở, tập hợp quần chúng. Từ đây mở ra một mảng làm chủ rộng lớn ở tây và nam Hồ Lắc, giáp đường 21 và vùng căn cứ miền tây tỉnh Khánh Hòa.

Mở được cơ sở phong trào ở nam Tây Nguyên không những tạo được điều kiện cơ bản để mở hành lang chiến lược vào thời điểm lúc bấy giờ (cuối 1960 đầu 1961), mà còn để xây dựng địa bàn này, cùng với miền rừng Đông Nam Bộ, thành một căn cứ chiến lược lớn ở miền Nam, có ý nghĩa lâu dài đối với cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam như ý đồ của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương.

*
*   *

Cực nam Trung Bộ và nam Tây Nguyên vốn là chiến trường địch hậu, chiến trường vùng yếu, xa Trung ương, xa Liên khu ủy V nên có nhiều khó khăn. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm đã ngang nhiên xóa bỏ Hiệp định, thẳng tay khủng bố ác liệt, hòng dập tắt phong trào Cách mạng của quần chúng và cơ sở Đảng. Chúng hy vọng với chính sách “Tố cộng” thâm độc, dã man sẽ tiêu diệt được tổ chức Đảng ta, khuất phục quần chúng, bình định được miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự Mỹ để tiến công ra miền Bắc.

Nhưng đảng bộ và nhân dân các dân tộc ở cực nam Trung Bộ và nam Tây Nguyên đã nghiêm chỉnh chấp hành nhiệm vụ trên giao, đã đấu tranh kiên cường, bất khuất, chịu đựng nhiều gian khổ hy sinh. Lúc đầu đánh giá tình hình địch - ta không đúng, chưa xác định đúng phương hướng, phương châm đấu tranh, chưa kịp thời chuyển hướng tổ chức và hình thức đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới nên để bộc lộ lực lượng, bị tổn thất nặng nề.

Sau này, tuy có thấy không thể đấu tranh hòa bình một chiều được, nhưng cũng không mạnh dạn đề đạt ý kiến của mình với trên.

Tuy vậy trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn phức tạp các đảng bộ vẫn giữ vững đoàn kết và ý chí chiến đấu, tin tưởng Đảng, tin thưởng Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ, giữ gìn kỷ cương của Đảng. Nhờ vậy mà cuối cùng còn duy trì được hệ thống chỉ đạo từ trên xuống dưới, giữ gìn được một số cán bộ, đảng viên cốt cán và các địa bàn đứng chân để khi có Nghị quyết 15 thì bung ra hoạt động, mở lại phong trào.

Tháng 3 năm 1958, sau khi nhận được sự gợi ý sơ bộ của trên đã kịp thời chuyển hướng lại sự chỉ đạo: lo vũ trang, lo căn cứ, đưa phong trào cách mạng miền Tây các tỉnh đồng bằng từng bước tiến lên.

Năm 1960, đã mạnh dạn sử dụng lực lượng vũ trang kết hợp với cơ sở cách mạng tấn công địch, mở phong trào. Chiến thắng Bác Ruộng, Tà Lú, Maty, chi khu quận lỵ Đran, Di Linh, quận lỵ Lắc, quận lỵ Đức Lập, v.v… đều có tác dụng thối động mạnh phong trào, mở đầu cho thời kỳ đưa vũ trang lên hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.

Việc mở rộng hành lang vào Nam Bộ là một sự kiện có ý nghĩa chiến lược, góp phần thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng miền Nam và sự hợp đồng chiến đấu giữa các chiến trường trên phạm vi cả nước.

Địa bàn cực nam Trung Bộ và nam Tây Nguyên được mở ra và nố liền với miền rừng Đông Nam Bộ, cũng là tiền đề để Trung ương quyết định thành lập Khu ủy - Quân khu VI với nhiệm vụ lo căn cứ và hành lang ở vùng xung yếu này.


(1) Đoàn này do đồng chí Trần Đình San tức Phước làm trưởng đoàn. Đồng chí Phùng Đình Ấm (tức Ba Cung) làm phó đoàn đi 20 tháng 5 năm 1959, đến tại Rờ Bút nam Đắc Lắc cuối tháng 12 năm 1959.
(2) Theo sử của tỉnh Lâm Đồng.
(3) B tương đuơng tỉnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #17 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:08:26 pm »

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #18 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:10:37 pm »

Chương II

KHU VI - QUÂN KHU VI ĐƯỢC THÀNH LẬP,
ĐẢM NHIỆM XÂY DỰNG CĂN CỨ VÀ HÀNH LANG - CHIẾN LƯỢC
NAM TÂY NGUYÊN
(1961-1963)

I. SỰ KIỆN THÀNH LẬP KHU ỦY - QUÂN KHU VI

Năm 1960, phong trào miền tây các tỉnh đồng bằng cực nam Trung Bộ và nhiều vùng rộng lớn ở nam Tây Nguyên được mở rộng, nhiều vùng giải phóng, nối thông được hành lang chiến lược từ nam Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ. Ở các tỉnh đồng bằng: từ thế địch kìm kẹp đã từng bước lên diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ. Phong trào tự trị ở miền núi cũng phát triển. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở cực nam Trung Bộ - nam Tây Nguyên ra đời đã tập hợp và động viên mọi tầng lớp nhân dân vùng lên đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

Để cứu vãn chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam đang đứng trước nguy cơ suy sụp, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” chống nhân dân miền Nam. Đây là một bộ phận quan trọng của chiến lược “phản ứng linh hoạt” trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ áp dụng vào miền Nam nước ta. Đó là một thứ chiến tranh “dùng người Việt đánh người Việt”. Ngoài mục đích xâm lược miền Nam Việt Nam, Mỹ còn âm mưu dùng miền Nam nước ta làm nơi thí nghiệm kiểu chiến tranh đó để đem đi đàn áp phong trào cách mạng ở các nơi khác trên thế giới, đe dọa các nước mới giành độc lập dân tộc, bắt các nước ấy chấp nhận chính sách thực dân kiểu mới của chúng.

Để tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ đề ra kế hoạch Salay - Taylor với năm biện pháp lớn: Một là, xây dựng phát triển mạnh quân ngụy theo hướng chống chiến tranh du kích đã phát triển cao, đặc biệt xây dựng quân địa phương và các đặc chủng chống chiến tranh du kích. Hai là, tập trung nỗ lực thực hiện chương trình bình định theo quốc sách “ấp chiến lược”, kết hợp tác chiến diệt lực lượng vũ trang cách mạng, phá căn cứ. Ba là, phong tỏa biên giới, vùng biển, cắt mọi chi viện từ miền Bắc, đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc. Bốn là, tiếp tục củng cố hệ thống ngụy quyền các cấp đủ sức tiến hành chiến tranh dưới sự chỉ đạo của Mỹ. Năm là, triển khai mạnh cố vấn quân sự và lực lượng yểm trợ của Mỹ (cả không quân, hải quân, pháo binh, thiết giáp, hậu cần…) để nhanh chóng tăng khả năng tác chiến và cơ động cho quân ngụy.

Đầu năm 1961, đế quốc Mỹ và tay sai đẩy mạnh bắt lính, tăng quân để xây dựng đội quân ngụy mạnh, có cố vấn Mỹ chỉ huy, xây dựng đồn bốt, công sự vững chắc hơn…

Tháng 1 năm 1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp đánh giá tình hình miền Nam sau Đồng khởi, Hội nghị khẳng định: thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ - Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu, các hình thái chiến tranh du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện, mở đầu cho một cao trào cách mạng ngày càng rộng hơn.

Bộ Chính trị quyết định: “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị; tấn công địch cả hai mặt chính trị và quân sự. Bộ Chính trị giao cho Quân ủy Trung ương, giúp Trung ương chỉ đạo công tác quân sự miền Nam, quyết định kiện toàn Trung ương Cục miền Nam, kiện toàn các cấp ủy, tăng cường cán bộ, tăng cường tiếp tế phương tiện, vũ khí, tài chính và mở rộng giao thông liên lạc với miền Nam”.

Hội nghị Liên khu ủy V tháng 2 năm 1961 đề ra nhiệm vụ làm chủ núi rừng, củng cố và xây dựng căn cứ địa cách mạng, giành lại đồng bằng, tiêu diệt sinh lực địch. Về phương châm đấu tranh ở ba vùng chiến lược Liên khu ủy chỉ rõ: “Vùng căn cứ rừng núi đấu tranh vũ trang là chủ yếu, vùng đồng bằng đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang có thể ngang nhau, vùng đô thị đấu tranh chính trị là chủ yếu”.

Từ thực tiễn tình hình chiến tranh ngày càng mở rộng và phát triển, nhiệm vụ chiến đấu, xây dựng mọi mặt, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy chặt chẽ và kịp thời. tháng 5 năm 1961 Bộ Chính trị quyết định tổ chức chiến trường Nam Trung Bộ thành hai khu và lập Bộ tư lệnh Quân khu. Khu V gồm các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai, do đồng chí Võ Chí Công (Ủy viên Trung ương Đảng) làm Bí thư Khu ủy. Khu VI gồm các tỉnh: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Tuyên Đức, Lâm Đồng, do đồng chí Trần Lê (Liên khu ủy viên Khu V) làm Bí thư Khu ủy. Khu ủy V trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Khu ủy VI trực thuộc Trung ương Cục miền Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #19 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2011, 06:12:43 pm »

Khu VI là một địa bàn chiến lược ở nam Tây Nguyên và miền tây các tỉnh đồng bằng ven biển, kết với vùng rừng núi miền Đông Nam Bộ hình thành thế trực tiếp, bao vây, uy hiếp Sài Gòn từ phía đông, đông bắc, chia cắt Sài Gòn với miền Trung; là khu vực có khả năng triển khai lực lượng lớn, giáng đòn quyết định vào sào huyệt cuối cùng cùng của địch, kết thúc chiến tranh; là nơi khi cần thiết có thể trở thành địa bàn đứng chân cho các cơ quan chỉ đạo của toàn Miền, là nơi có thể xây dựng cơ sở kinh tế, hậu cần cho chiến lược.

Cho nên, đối với Khu VI, vấn đề xây dựng và mở rộng căn cứ địa và hành lang chiến lược trở thành một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Nó bảo đảm cho việc dung trú, xây dựng và phát triển lực lượng, tạo bàn đạp tiến công, bảo đảm giữ vững con đường chi viện từ Bắc vào Nam.

Tháng 7 năm 1961, Bộ tư lệnh Quân khu VI được hình thành, gồm các đồng chí Yblok Êban, Quyền Tư lệnh Quân khu (năm 1963 đồng chí Nguyễn Minh Châu vào thay làm Tư lệnh), đồng chí Bùi Định (Tư Khiêm) - Chính ủy, đồng chí Trọng Xuyên - Tham mưu trưởng, đồng chí Phan Văn Hược - Chủ nhiệm Chính trị, đồng chí Trần Phòng (Bảy Biên) - Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu.

Vì không có bộ máy lãnh đạo sẵn, việc hình thành các cơ quan của Khu là do sự hợp nhất các cơ quan của hai Liên tỉnh 3 và 4, và phải qua một thời gian điều động, di chuyển đến vị trí mới, nên công việc triển khai có chậm. Tháng 2 năm 1962, Khu ủy Khu VI họp Hội nghị mở rộng để quán triệt Nghị quyết Trung ương Cục lần thứ nhất và bàn định nhiệm vụ công tác của Khu.

Hội nghị đã phân tích, đánh giá tình hình mọi mặt về địch - ta, nhận định những thuận lợi, khó khăn (nhất là những khó khăn của Khu mới được thành lập), quyết định động viên mọi lực lượng trong Khu tập trung thực hiện tốt ba nhiệm vụ:

- Ra sức xây dựng và mở rộng căn cứ địa miền núi; bảo đảm hành lang chiến lược của Trung ương thông suốt vào Nam Bộ và các tỉnh trong khu.

- Phát động quần chúng nổi dậy giành lại nông thôn đồng bằng, xây dựng và phát triển phong trào ở đô thị, thị xã, phá ấp chiến lược của địch.

- Ra sức tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phát triển và xây dựng lực lượng ta.

Nhưng nhiệm vụ trung tâm trước mắt là: mở rộng cơ sở phong trào cách mạng Nam Tây Nguyên gắn liền với miền tây các tỉnh đồng bằng, xây dựng thành căn cứ địa vững mạnh và bảo đảm đường hành lang chiến lược từ bắc Tây Nguyên vào Nam Bộ.

Lúc bấy giờ về tổ chức: Quân khu VI gồm các đơn vị như: Phía nam Tây Nguyên có B3, B4, B5, B6, B8(1). Phía đồng bằng ven biển có các tỉnh Khánh Hoa, Ninh Thuận và Bình Thuận (Lâm Đồng lúc đầu thuộc Khu X).

Về phía địch thuộc khu chiến thuật 23, vùng chiến thuật II - Quân khu II của địch. Chỉ trừ mảng phía nam Bình Thuận (theo địch là bỉnh Bình Tuy) thuộc khu 33, vùng chiến thuật III - Quân khu III của ngụy.

Khu VI địa bàn rộng nhưng cơ sở mới mở ra lốm đốm; trừ miền tây các tỉnh đồng bằng đã có phong trào cũ nối liền nhau, còn các nơi khác, nhất là vùng trọng điểm của Khu (nam Tây Nguyên) phong trào mới tuy có mở ra nhanh chưng chưa đủ thời gian, củng cố, rất nhiều nơi quần chúng chưa được phát động và tổ chức có bài bản.

Lực lượng vũ trang của Quân khu mới có hai đại đội bộ binh và một đại đội đặc công của Liên tỉnh 3 và 4 điều về. Lực lượng bộ đội địa phương tỉnh thì có Bình Thuận và B3 có đại đội; còn các tỉnh khác mới có trung đội; Tuyên Đức (B8) mới có đội vũ trang công tác.

Đến tháng 8 năm 1961, được miền Bắc chi viện lực lượng, Quân khu có hai khung tiểu đoàn (khung Tiểu đoàn 86 sau này là tiểu đoàn 186, khung Tiểu đoàn 365 sau này là Tiểu đoàn 120 - Tiểu đoàn 840). Mỗi khung tiểu đoàn quân số từ 250 - 300, chủ yếu là tổ trưởng 3/3 trở lên, và bốn đại đội thực binh, mỗi đại đội quân số có 60-70 người. Là những anh em ở chiến trường cũ, nên khi về lại địa bàn đã bắt tay vào hoạt động được ngay, phát huy được vai trò nòng cốt trong chiến đấu, công tác và xây dựng đơn vị, hỗ trợ tốt cho phong trào địa phương.


(1) B tương đương tỉnh: B3 gồm phía bắc đường 21 của Đắc Lắc; B4 gồm phạm vi tỉnh Quảng Đức cũ; B5 từ nam đường 21 vào giáp B4; B6 vùng xung quanh Buôn Ma Thuột và thị xã Buôn Ma Thuột; B8 gồm Tuyên Đức - Đà Lạt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM