Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:52:05 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975  (Đọc 77674 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:00:54 pm »

Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Năm xuất bản: 2002
Số hóa: macbupda
CHỈ ĐẠO NỘI DUNG

TRẦN LÊ: Nguyên Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IV - V).

Thượng tướng NGUYỄN MINH CHÂU: Nguyên Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Tư lệnh Quân khu, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa V - VI).

BÙI ĐỊNH: Nguyên Phó Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu.

LÊ VĂN HIỀN: Nguyên Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Phó Bí thư Quân khu ủy, Phó Chính ủy thứ nhất Quân khu, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IV - V).

Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG XUYÊN: Nguyên Khu ủy viên, Tư lệnh Quân khu, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VI - VII).

VŨ ANH BA: Nguyên Ủy viên Thường vụ Khu ủy.

ĐỖ VĂN NUỐNG (Tư Nguyện): Nguyên Khu ủy viên Khu VI, Khu X, Bí thư Tỉnh ủy Phước Long, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IV - V).

Đại tá VÕ CÔNG LUẬN: Nguyên Phó viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng, kiêm Phân viện trưởng Phân viện Lịch sử Quân sự.

BIÊN SOẠN

Đại tá TRẦN DƯƠNG: Nguyên Phó Trưởng ban Tác chiến Quân khu, Văn phòng Quân khu ủy (Chủ biên)

Đại tá VÕ ĐỨC NHI: Nguyên Trưởng ban Tác chiến Quân khu.

Thiếu tá NGUYỄN ĐỨC TẤN: Phòng Lịch sử Quân sự Quân khu VII.

VỚI SỰ THAM GIA

Thiếu tướng PHẠM VĂN KHA: Nguyên Tham mưu trưởng Quân khu.

Đại tá NGUYỄN VĂN BỔNG: Nguyên Trung đoàn phó - Tham mưu trưởng Trung đoàn 812.

Đại tá ÔNG ÍCH TRIỂN: Nguyên Phó chính ủy Cục Hậu cần Quân khu.

Trung tá PHẠM VĂN ĐƯỢC: Trưởng ban Lịch sử Quân sự Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Thuận.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:01:46 pm »

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Do yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy thống nhất trong cả nước, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tháng 10-1945, Nhà nước ta đã thành lập Chiến khu VI từ Phú Yên trở vào. Cuối năm 1948, Khu VI sáp nhập vào Liên khu V. Ở bốn tỉnh phía nam lập Ban Cán sự Đảng cực nam Trung Bộ. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, theo yêu cầu nhiệm vụ mới, địa bàn Khu VI được Trung ương nhiều lần điều chỉnh, thay đổi, chia tách, sáp nhập cho thích hợp với từng thời kỳ. Từ tháng 5-1961, Bộ Chính trị quyết định thành lập Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu VI trực thuộc Trung ương Cục miền Nam để lãnh đạo, chỉ huy phong trào cách mạng, lực lượng vũ trang địa phương và làm nhiệm vụ xây dựng căn cứ, mở đường hành lang chiến lược nam Tây Nguyên tiếp nhận sự chi viện của Trung ương cho chiến trường Nam Bộ. Đồng chí Trần Lê, người lãnh đạo giàu kinh nghiệm và kiên định được Trung ương giao trọng trách làm Bí thư Khu ủy VI từ đó cho đến ngày miền Nam toàn thắng.

Địa bàn Khu VI từ lúc này bao gồm các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Tuyên Đức, Lâm Đồng và đến cuối cuộc chiến tranh thì gồm các tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy, tương đương với Khu 23, Vùng chiến thuật II - Quân khu II và một phần Khu 33, Vùng chiến thuật III - Quân khu III của Mỹ - ngụy.

Là địa bàn chiến lược quan trọng nhưng rất xa hậu phương lớn, xa Trung ương, với Trung ương Cục tuy có gần hơn nhưng việc đi lại cũng gặp nhiều cách trỏ, trong khi đó tương quan lực lượng giữa ta và địch ở vùng này trong suốt cuộc chiến tranh lúc nào địch cũng mạnh hơn ta gấp nhiều lần, vì vậy cuộc chiến đấu tự lực tự cường của Đảng bộ, quân và dân Khu VI càng gay go khốc liệt.

Từ điều kiện thuận lợi có chính quyền, có lực lượng vũ trang với phong trào rất mạnh vào cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, theo Hiệp định Giơnevơ, chúng ta phải chuyển quân tập kết ra Bắc. Giống như tình hình chung của miền Nam lúc đó, Khu VI biến thành vùng địch, không còn chính quyền cách mạng, không có lực lượng vũ trang, về Đảng, ta chỉ bố trí một lực lượng nhỏ gồm những cán bộ kiên trung hoạt động bí mật, hợp pháp hoặc bán hợp pháp chờ thời cơ mới theo chỉ thị của Trung ương. Từ đây, Khu VI bước vào cuộc chiến đấu sống còn với địch ở thế bất lợi. Ngay sau khi lực lượng của ta chuyển quân tập kết ra Bắc, chính quyền Ngô Đình Diệm lập tức tung quân đánh phá tàn bạo cơ sở cách mạng và những người kháng chiến cũ, gây cho ta những tổn thất rất lớn. Trong bối cảnh của miền Bắc sau khi hòa bình lập lại và tình hình quốc tế lúc bấy giờ, cách mạng miền Nam phải tiến hành đấu tranh chính trị bằng phương pháp hòa bình, trong khi đó kẻ địch dùng bạo lực phản cách mạng để tiêu diệt bằng được phong trào cách mạng miền Nam. Nhận rõ những yêu cầu nóng bỏng, bức xúc của chiến trường, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 quyết định đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam là cần thiết phải dùng bạo lực cách mạng, cả bạo lực chính trị lẫn bạo lực vũ trang để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Với quyết định chiến lược mang tính bước ngoặt này, phong trào cách mạng miền Nam đã bùng lên mạnh mẽ, khắp miền Nam tiến hành cuộc đồng khởi hào hùng vào năm 1959-1960, đánh thắng cuộc chiến tranh đơn phương - chiến tranh không tuyên bố - của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, mở ra cục diện mới cho cách mạng miền Nam. Từ đây, Đảng bộ, quân và dân Khu VI phối hợp sát cánh cùng quân và dân miền Nam tiến hành cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ và anh dũng, lần lượt đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến lược chiến tranh cục bộ và chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ - ngụy cho đến ngày toàn thắng vào mùa Xuân 1975 lịch sử. Trong chiến công hiển hách đó của dân tộc, Đảng bộ, quân và dân Khu VI đã có đóng góp quan trọng và xứng đáng.

Trong suốt cuộc chiến tranh, Đảng bộ, quân và dân Khu VI đứng chân hoạt động ở địa bàn phức tạp, gian khổ, dân số ít, lực lượng vũ trang mỏng, chỉ được Trung ương và các địa phương chi viện hỗ trợ khoảng 6.500 cán bộ chiến sĩ, vì vậy phải tự lực, tự cường chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Dưới sự lãnh đạo kiên định, rất mực trung thành và sáng tạo của tập thể Khu ủy, Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu VI, cũng như của các cấp ủy địa phương, đơn vị trong toàn khu, quân và dân Khu VI đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn một cách bền bỉ, kiên cường vượt qua những thử thách sống còn để kiên quyết tiến công địch cả phía trước lẫn phía sau, bằng cả hai chân, ba mũi trên cả ba vùng chiến lược cho đến ngày toàn thắng, để lại những kinh nghiệm quý báu mang đặc trưng Khu VI trong chiến tranh, góp phần làm phong phú kho tàng kinh nghiệm của cả dân tộc qua một thời thời trận mạc để giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn thắng, những người lãnh đạo chiến trường Khu VI được điều động, phân công làm nhiệm vụ mới và chỉ sau khi hoàn thành vẻ vang những nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, lần lượt được thôi nhiệm, mới họp bàn cách ghi lại một phần cuộc chiến đấu hào hùng và sự hy sinh vô bờ bến của quân và dân các dân tộc trong khu lưu lại cho hậu thế. Đây là một sự nỗ lực rất đáng trận trọng. Chính những con người hôm qua trực tiếp góp phần làm ra lịch sử, nay ngồi lại với nhau để ghi lại những sự kiện lịch sử mà chính mình đã trải qua hoặc trực tiếp chứng kiến, cho nên rất chính xác và giàu sức thuyết phục.

Với việc xuất bản cuốn lịch sử đã được bổ sung, sửa chữa công phu và tâm huyết này, nhiệm vụ của những con người kiên định làm ra lịch sử và trực tiếp viết lại lịch sử đã hoàn thành. Đây là một tài liệu quý giá góp phần giáo dục truyền thống cách mạng kiên cường của quân và dân Khu VI, đồng thời là một tư liệu đáng tin cậy cho các nhà viết sử chuyên nghiệp sau này nghiên cứu đầy đủ, kỹ càng hơn chặng đường 21 năm chiến đấu, những cống hiến lớn lao của Đảng bộ, quân và dân Khu VI trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.

Trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc và xin được cám ơn sự cộng tác đầy tâm huyết của các đồng chí Trần Lê, Đỗ Quang Thắng và Tỉnh ủy Lâm Đồng trong việc xuất bản cuốn sách này.

Tháng 2 năm 2002
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Năm, 2012, 03:12:25 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:02:09 pm »

CÙNG BẠN ĐỌC

Năm 1995, cuốn Lịch sử Khu VI (cực nam Trung Bộ - nam Tây Nguyên) kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) được Ban chỉ đạo biên soạn phối hợp với Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản, xem đấy như là lần sơ thảo thứ nhất.

Cuốn sách ra đời đã đáp ứng phần nào sự mong đợi của đồng bào, đồng chí trong quân khu; đồng thời cũng được bạn đọc gần xa góp thêm nhiều ý kiến bổ sung, sửa chữa. Lẽ ra sau khi cuốn sơ thảo ra mắt bạn đọc phải có sự xem xét để sửa chữa, bổ sung và hoàn chỉnh để công bố chính thức. Nhưng do trong Ban chỉ đạo chó một số đồng chí đã qua đời, một số thì quá đau yếu nên không thể cùng nhau họp lại để tiến hành sửa chữa.

Trước tình hình đó, tháng 3-2000, các đồng chí lãnh đạo Khu ủy, Quân khu ủy cũ và một số đồng chí còn lại trong Ban chỉ đạo biên soạn tổ chức một cuộc họp mở rộng tại Đà Lạt để trực tiếp nghe ý kiến đóng góp và cùng nhau thảo luận. Cuộc họp nhất trí phải bổ sung, sửa chữa những điểm cần thiết và giao cho Ban chỉ đạo biên soạn với sự giúp đỡ của Tỉnh ủy Lâm Đồng thu thập tư liệu, hoản chỉnh dự thảo và sau đó do Khu ủy và Quân khu ủy không có điều kiện họp để thông qua, cho nên đã cử người mang bản thảo đến từng đồng chí xin ý kiến.

Đến nay việc sửa chữa, bổ sung đã hoàn thành và được sự giúp đỡ, cộng tác của các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã biên tập và xuất bản cuốn sách đúng vào dịp kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh.

Xin trân trọng kính báo cùng đồng bào, đồng chí trong Khu VI và cùng bạn đọc cả nước.

Tháng 12 năm 2001
T/M. BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN

TRẦN LÊ
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:03:53 pm »

Chương mở đầu

KHU VI, VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI

I. VÙNG ĐẤT

Khu VI là dải đất cuối cùng của duyên hải miền Trung và đoạn cuối rặng Trường Sơn - cao nguyên miền Nam thường gọi là cực nam Trung Bộ và nam Tây Nguyên; từ tháng 10 năm 1945 được Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quyết định tổ chức thành Chiến khu VI, sau đổi thành Khu VI; đến ngày 20 tháng 4 năm 1948 hợp nhất với Khu V và Khu XV thành Liên khu V; từ tháng 7 năm 1961 được tách ra lập thành Khu VI, gồm các tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Do tình hình chiến trường và yêu cầu chỉ đạo đòi hỏi, nên Khu VI phải trải qua nhiều lần thay đổi và tổ chức cơ cấu chiến trường và đến cuối năm 1974 thì bao gồm các tỉnh: Quảng Đức, Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy.

Do sự thay đổi trên nên phạm vi lãnh thổ rộng, hẹp từng lúc có khác nhau, nhưng nói chung vẫn bao gồm hầu hết các tỉnh Duyên Hải cực nam Trung Bộ và phần lớn các tỉnh nam Tây Nguyên với diện tích trên 40.000 ki-lô-mét vuông. Phía bắc, đông bắc giáp bắc Tây Nguyên, Khu V; phía tây nam giáp miền Đông Nam Bộ, phía tây bắc có chung đường biên giới với Cam-pu-chia, phía đông và đông nam giáp biển.

Địa hình có rừng núi, đồng bằng và bờ biển, trong đó rừng núi chiếm hết bốn phần năm diện tích toàn Khu. Ở đây cộng sản các cao nguyên lớn như cao nguyên Lâm Viên (Lang Biang), cao nguyên Di Linh (Djialinh), cao nguyên Đắc Lắc. Có các ngọn núi cao như Chư-Yang-Sin 2.402 mét, Lang Biang 2.150 mét; xen kẽ có nhiều vùng thấp bằng, hầu hết đã được khai thác lập đồn điền, hình thành các cụm dân cư; có thị trấn, thị xã như: Bảo Lộc, Di Linh (Lâm Đồng), Tùng Nghĩa, Đờ-Răn, Đà Lạt (Tuyên Đức), Gia Nghĩa, Đức Lập (Quảng Đức), Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc), v.v. Ở đây còn có các hồ lớn như hồ Lắc ở nam Buôn Ma Thuột rộng trên 500 hécta; có sông lớn như sông Đồng Nai, sông Đa Dung chảy xuyên qua rừng núi nam Tây Nguyên, với lượng nước khá lớn; thuyền bè có thể đi lại được trên nhiều đoạn. Trong kháng chiến chống Mỹ, sông Đồng Nai là một con đường vận chuyển vũ khí, hàng hóa quan trọng của ta và cũng là nguồn cung cấp cá mắm cho bộ đội.

Quân khu VI, nhất là nam Tây Nguyên, có thế núi rừng liên hoàn với rừng miền Đông Nam Bộ và Cam-pu-chia, nên có một vị trí quân sự lợi hại. Ở đây, có đường hành lang chiến lược đi qua, có nguồn tiếp tế từ các hướng, có những địa bàn căn cứ rộng làm chỗ đứng chân cho lực lượng chủ lực. Ngoài ra, trên từng khu vực cũng đã thiết lập được những căn cứ khá vững chắc như: căn cứ Bác Ái của Ninh Thuận, căn cứ Khánh Vĩnh Sơn ở miền tây Khánh Hòa, căn cứ nam Lạc Thiện (Đắc Lắc), căn cứ bắc Bảo Lộc (Lâm Đồng), căn cứ Tánh Linh, Di Linh, Lê Hồng Phong (Bình Thuận).

Tương phản với rừng núi, cao nguyên trùng điệp là dải đồng bằng ven biển dài và hẹp, bị chia cắt bởi những nhánh núi từ Trường Sơn đâm nang ra biển. Ở đây, lượng mưa thấp, sông suối ngắn, có độ dốc cao, mùa mưa dễ bị lũ lụt, mùa nắng thì cạn kiệt, đồng khô, lá rụng, địa hình trống trải; trừ những vùng dọc theo các con sông lớn có nước quanh năm thì đất đai phì nhiêu, dân cứ đông đúc. Về thị xã: gồm có Phan Rang, Nha Trang, Phan Thiết, Lagi; và các thị trấn lớn Như Vạn Giã, Ninh Hòa, Cam Ranh, Diên Khánh (Khánh Hòa), Phú Quý (Ninh Thuận), Liên Hương, Phan Rí, Sông Mao, Phú Long (Bình Thuận). Đồng bằng Khu VI trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ là nơi ta và địch tranh chấp nhau quyết liệt để giành sức người, sức của. Đặc biệt, ở phía đông bắc thị xã Phan Thiết, nhằm giữa quốc lộ 1 và biển có khu căn cứ Lê Hồng Phong là nơi đứng chân của cơ quan chỉ đạo cực nam Trung Bộ trong thời chống Pháp, và sau này cũng là địa bàn căn cứ trong kháng chiến chống Mỹ, địch tập trung đánh phá; nhưng ta vẫn trụ vững cho đến ngày toàn thắng.

Liền với đồng bằng là bờ biển dài 450 ki-lô-mét (tính lúc Khánh Hòa còn nằm trong Khu VI), có nhiều nhánh núi nhô ra biển tạo thành những mũi như: Hòn Hèo, Bình Bà, Mũi Dinh, La Gàn, Mũi Né, Kê Gà, v.v. Những vịnh: Vũng Rô, Vũng Môn, Vịnh Cam Ranh, các cửa biển: Ninh Chữ, Phan Rí, Phan Thiết, Lagi… tàu thuyền ra vào thuận tiện. Biển ở đây có hải sản phong phú, là nguồn lợi chính của nhân dân ven biển. Ngoài ra, còn có các đồng muối như: Hòn Khói, Ninh Chữ, Cà Ná, Duồng, Phan Thiết… Hàng năm khối lượng muối ăn khá lớn, đặc biệt có muối Cà Ná dùng cho công nghiệp.

Ngoài khơi, cách Nha Trang 250 hải lý có quần đảo Trường Sa, cách Phan Thiết 60 hải lý có đảo Phú Quý (cù lao Thu) là những vị trí tiền tiêu quan trọng của Tổ quốc, có giá trị về kinh tế và quốc phòng.

Hệ thống giao thông đường bộ ở Khu VI: tuyến dọc có quốc lộ 1 và đường sắt Bắc Nam, tuyến ngang có quốc lộ 14, quốc lộ 20, quốc lộ 11, quốc lộ 21 và 21 kéo dài, liên tỉnh lộ 8, có đường sắt răng cưa Tháp Chàm - Đà Lạt. Nối với quốc lộ còn có đường đi Lagi - Hàm Tân, đường số 2, số 3 đi Hoài Đức - Tánh Linh, đường sắt Phan Thiết - Mường Mán.

Cùng với hệ thống giao thông đường bộ, Mỹ, ngụy đã thiết lập ở Khu VI một hệ thống căn cứ vận chuyển khá hiện đại như: cảng Nha Trang, quân cảng Cam Ranh, cảng Ninh Chữ và các sân bay, nhất là sân bay Thành Sơn (Ninh Thuận), sân bay Cam Ranh, là hai căn cứ không lực thuộc loại A(1).

Về phía ta, trong kháng chiến chống Pháp đã mở được con đường mòn chạy trên triền núi phía đông qua các tỉnh đồng bằng ven biển, và từ vùng tự do Khu V đến miền Đông Nam Bộ. Trong kháng chiến chống Mỹ có thêm đường mòn Hồ Chí Minh, đường hành lang chiến lược của Trung ương xuyên qua nam Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ. Từ đây, nằm 1967 có tuyến đường vận tải của Quân khu VI (gọi là H50) chuyển hàng và lực lượng cắt qua lộ 14 và lộ 20 về các căn cứ của Khu và tỉnh. Trong kháng chiến, địch đã dùng đủ loại phương tiện chiến tranh đánh phá, ngăn chặn. Những cán bộ, chiến sĩ trong các đoàn vận tải của ta đã dũng cảm vượt qua bom đạn, mưa gió, lũ lụt… để đưa súng đạn về phục vụ cho chiến trường.

Về khí hậu: nam Tây Nguyên mát mẻ quanh năm; nhất là ở Đà Lạt có khí hậu ôn đới, nhiệt độ trung bình 19oC. Về thời tiết: có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11, về mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4.

Vùng đồng bằng ven biển khí hậu khô, nóng, nhiệt độ trung bình 28oC; vùng sát biển có khí hậu mát mẻ, dễ chịu hơn, mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 12. Phan Rang là nơi có lượng mưa thất nhấp Việt Nam. Vùng đồng bằng ven biển ít bão, nhưng từ tháng 8 đến tháng 10 thường có mưa to, gió lớn, biển động, thỉnh thoáng có lốc xoáy mạnh, gây thiệt hại cho tàu thuyền ngoài khơi và nhà cửa.

Nhìn chung địa hình, địa thế Khu VI thì đại bộ phận là vùng rừng núi, đồng bằng nhỏ hẹp, dân ít nhưng thường tập trung ở những chỗ có thể làm ăn sinh sống; nhiều vùng không dân và thường bị ngăn cách bởi núi cao, sông lớn. Ta có thuận lợi về địa thế hiểm trở nhưng cũng có nhiều khó khăn trong việc bố trí lực lượng triển khai hoạt động; do vậy, địch thường coi vùng này là hậu phương an toàn của chúng. Chúng đặt ở đây các cơ quan nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo sĩ quan, dùng đây làm nơi đi lại hội họp, nghỉ dưỡng cho các quan chức, tướng tá trong ngụy quân, ngụy quyền.

Do rừng núi, địa thế như trên nên chiến trường Quân khu VI có vị trí chiến lược quan trọng, nhất là vùng rừng núi nam Tây Nguyên nối liền với miền rừng đông Nam Bộ. Làm chủ được vùng này sẽ có điều kiện tiến công uy hiếp thủ đô ngụy Sài Gòn từ hướng đông, đông bắc; có điều kiện đánh xuống các tỉnh ven biển cực nam Trung Bộ; thực hiện chia cắt chiến lược giữa Sài Gòn và các tỉnh miền Trung. Vì vậy từ những năm 1960 Trung ương và Tổng Quân ủy đã đặt vấn đề xây dựng thành căn cứ địa vững chắc, có đường hành lang chiến lược đi qua.


(1) Theo quy định của Mỹ, ngụy sân bay loại A là sân bay có đường băng dài trên 2.000 mét, có trang bị hiện đại, có thể tiếp nhận những máy bay lớn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:05:05 pm »

II. CON NGƯỜI

Khu VI đất rộng nhưng dân thưa, có nhiều dân tộc anh em sinh sống; đại thể có thể chia làm hai nhóm: nhóm dân tộc đa số (Kinh) và nhóm các dân tộc thiểu số (Thượng, Chàm).

Trong quá trình lịch sử, qua các bước đổi hay đã hình thành một cộng đồng dân cư đa dạng; tuy phong tục tập quán, tâm tư, tinh cảm có chỗ không giống nhau, nhưng từ lâu các dân tộc đã cùng nhau chung sống, cùng nhau đoàn kết chiến đấu chống thiên tai, địch họa, xây dựng cuộc sống cho từng dân tộc và chung cho cả cộng đồng.

Về dân số: khi thành lập lại Khu VI (tháng 7 năm 1961), toàn khu có khoảng gần 1.100.000 người, người Kinh 850.000, người Thượng 215.000, người Chăm 35.000.

Người Kinh sống chủ yếu là ở vùng đồng bằng ven biển, ở nam Tây Nguyên rất ít. Họ vốn từ phía bắc di cư vào khai hoang lập ấp, lúc đầu vào Quảng Nam, Quảng Ngãi, sau đó dần dần đi vào Phan Rang, Phan Thiết, hoặc theo nghề biển từ Nghệ Tĩnh đi vào, đông nhất là khoảng giữa thế kỷ 17. Họ là những người dân bị thiên tai, giặc giã, áp bức bóc lột phải rời bỏ quê hương, đi tìm cuộc sống. Vào đây, lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn, gian khổ, phải chống chọi với thiên hiên khắc nghiệt và sự áp bức nặng nề của vua quan phong kiến. Họ đã gắn bó với nhau, cùng nhau hun đúc nên những đức tính và truyền thống quý báu, cần cù, chất phát, thương yêu đùm bọc nhau, giàu lòng yêu quê hương đất nước, kiên trung bất khuất, tự lập tự cường. Điều này được thể hiện rõ trong quá trình chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ.

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (tháng 7 năm 1954) Mỹ, Diệm đã dưa mười vạn dân miền Bắc, chủ yếu là người Kinh theo đạo Thiên Chúa, và người các dân tộc Nùng, Tày, Thái,… vào bố trí ở những vị trí xung yếu về kinh tế và quân sự như xung quanh Buôn Ma Thuột, dọc quốc lộ 20, 11, quanh sân bay Thành Sơn (Ninh Thuận), căn cứ Sông Mao (Bình Thuận). Từ năm 1958 đến năm 1961, Mỹ, Diệm lại đưa khoảng năm vạn dân ở vùng tự do cũ Liên khu V vào nam Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh cực nam để thiết lập các khu dinh điền, ấp chiến lược. Đến giai đoạn “Việt Nam hóa chiến tranh”, chúng chuyển tiếp một số dân ở các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên (và cả Việt kiều ở Cam-pu-chia) vào bố trí dọc theo quốc lộ 1 (Bình Thuận - Bình Tuy) tỉnh lộ 2 (Bình Tuy) và dọc quốc lộ 11 (Ninh Thuận). Có đáp ứng một phần yêu cầu về kinh tế, quốc phòng của Mỹ, ngụy, nhưng cũng gây mâu thuẫn giữa nhân dân, nhất là những người bị bắt ép rời bỏ quê hương với chế độ Mỹ - ngụy.

Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Khu VI, thường gọi chung là đồng bào Thượng, phần lớn là cư dân bản địa từ rất lâu đời, có dân tộc đã từng có nền văn hóa khá phát triển. Dân tộc có số dân tương đối đông là Êđê (Rhađê) K’Ho, M’Nông, RagLây. Dân tộc có số dân ít là ChâuRo, Chill, Sê’Tiêng. Nói chung, đồng bào Thượng rất cần cù lao động, gan dạ trước hiểm nguy, vừa sản xuất vừa chiến đấu với thiên nhiên, với thú rừng, với kẻ địch để tồn tại. Ham sống cuộc sống tự do gắn bó với núi rừng, và sẵn sàng chống lại bất kỳ ai xâm phạm. Nhưng với bà con buôn làng, bộ tộc thì rất tốt bụng, sẵn sàng nhường miếng ăn, chén rượu cho nhau. Nhược điểm là tư duy còn đơn giản, máy móc, nhất là còn bị nhiều phong tục, tập quán lạc hậu ràng buộc, gây trở ngại cho đoàn kết, sản xuất, chiến đấu. Trong thời kỳ Mỹ xâm lược còn bị chúng cho đạo Tin Lành thâm nhập khá sâu, làm cho công tác vận động cách mạng của ta trong vùng gặp không ít khó khăn.

Ở đồng bằng ven biển còn có đồng bào Chăm, dân số khoảng 35.000 người, sống thành từng khu vực ở bên cạnh vùng đồng bào Kinh, tập trung nhất là ở hai huyện An Phước (Ninh Thuận) và Phan Lý (Bình Thuận); nguồn sống chính là nghề nông, dệt vải và chăn nuôi. Đồng bào rất đoàn kết chăm sóc nhau trong làm ăn sinh sống và bảo vệ giống nòi, giữ gìn quan hệ tốt với đồng bào Kinh.

Khu VI có nhiều tài nguyên về rừng, biển, khoáng sản quý, nhân dân lao động cần cù, nhưng do trình độ sản xuất thấp, lại bị ách thống trị phong kiến thực dân kìm hãm và chiến tranh tàn phá nặng nề, nên tiềm năng kinh tế đó chưa được khai thác bao nhiêu, đời sống nhân dân vẫn khổ cực.

Đối với những vùng không kiểm soát dược, địch thường dùng bom đạn bắn phá, dùng chất độc hóa học hủy diệt môi trường sống, hành quân càn quét gom dân vào các trục giao thông, thị trấn, thị xã, khiến nhiều vùng nông thôn không còn dân, đất đai vườn ruộng bị bỏ hoang, đời sống nhân dân bị đảo lộn nặng nề.

Cùng với những hành động tàn bạo nói trên, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ còn dùng những thủ đoạn kinh tế, xã hội xảo quyệt để chia rẽ, lối kéo, khống chế quần chúng, đầu độc tư tưởng nhân dân; phát triển các đảng phái, đoàn thể phản động và các tôn giáo để nắm quần chúng, mê hoặc nhân dân; dùng văn hóa, lối sống đồi trụy, thực dụng; dùng chiêu bài quốc gia, dân tộc giả hiệu để đưa thanh niên đi vào con đường sa đọa, lầm lạc, cuối cùng là chống lại Tổ quốc và nhân dân.

Những chính sách, thủ đoạn đó tuy có làm cho phong trào kháng chiến trong Khu gặp rất nhiều khó khăn, trong xây dựng, phát triển lực lượng và triển khai hoạt động; nhưng chúng vẫn không thể nào khuất phúc được đồng bào ta, chặn được bước tiến của phong trào cách mạng. Trái lại, nhân dân các dân tộc trong khu vẫn luôn nêu cao tinh thần yêu nước và chí căm thù địch, cùng nhau chung lưng đấu cật vùng lên chống ngoại xâm, bảo vệ giống nòi, thể yện ý chí quật cường bất khuất của dân tộc.

Từ những phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân tộc, đến các phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ vĩ đại, nhân dân Khu VI đã cùng nhân dân cả nước viết nên bao trang sử hào hùng. Thời kỳ đầu, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân các dân tộc ở đây đã tích cực hưởng ứng và phối hợp cùng phong trào khởi nghĩa của Trương Công Định chống lại việc Pháp cướp ba tỉnh miền Đông Nam Bộ (1862); hàng nghìn nghĩa quân Việt - Chăm của các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và nhân dân các dân tộc Stiêng, Châu Ro… ở vùng rừng núi Bình Thuận (giáp Biên Hòa) đã đứng dậy lập căn cứ chống Pháp, phối hợp với cuộc dấy binh của Trương Quyền con trai Trương Công Định (1864). Từ năm 1912 đến năm 1935 có cuộc khởi nghĩa lớn, sau đó chuyển thành cuộc chiến đấu vũ trang do N’ Trang Lơng (tù trưởng dân tộc M’Nông lãnh đạo. Các cuộc nổi dậy, khởi nghĩa đó tuy có bị dập tắt, nhưng cũng đã gây cho địch nhiều tổn thất, đặc biệt là đã hun đúc thêm truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường bất khuất của các thế hệ nối tiếp nhau.

Trong suốt quá trình Pháp đô hộ vùng đất phiên trấn này (giữa Trung Kỳ và Nam Kỳ) cũng là nơi thường có các sĩ phu yêu nước qua lại gặp gỡ nhau để mưu tìm con đường cứu nước. Đặc biệt vào năm 1910 trong khi đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã có dịp dừng chân dạy học ở trường Dục Thanh - Phan Thiết.

Trong những năm 1928-1929 chịu ảnh hưởng của phong trào cách mạng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở Nam Trung Kỳ và miền Đông Nam Kỳ, các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Viên cũng bắt đầu có cơ sở của Tân Việt Cách mạng Đảng và Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Đầu năm 1930 tiểu tổ Tân Việt ở Bảo An (Tháp Chàm) Lâm Viên, tiểu tổ Tân Việt ở Đà Lạt được chuyển thành chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối năm 1930, Bình Thuận cũng lập được chi bộ ở Tam Tân (Hàm Tân). Năm 1931, các tỉnh nói trên đều có tỉnh ủy lâm thời. Cùng với việc xây dựng các tổ chức Cộng sản, các tổ chức Công Hội đỏ, Nông Hội đỏ, phản đế đồng minh… cũng lần lượt được xây dựng. Từ đây, phong trào quần chúng có những nét mới. Khẩu hiệu đòi quyền lợi công, nông, đòi nam nữ bình quyền, chống sưu cao thuế nặng, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô, v.v. được nêu cao. Cờ đỏ búa liềm, truyền đơn, khẩu hiệu xuất hiện ở nhiều nơi. Trong các năm 1932-1935 bị khủng bố nặng nề, phong trào có lắng xuống; nhưng đến những năm 1936-1939 lại phát triển sôi nổi trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Thời kỳ vận động giải phóng dân tộc, lúc đầu có bị chuệch choạc nhưng đến năm 1944-1945 với sự giúp sức của các đồng chí ngoài vào và trong các nhà tù ra, phong trào được phục hồi lại và đã đồng loạt nổi dậy giành chính quyền trong những ngày cuối tháng 8 năm 1946.

Sau Cách mạng tháng Tám, khi Pháp trở lại xâm lược nước ta thì cực nam Trung Bộ và nam Tây Nguyên cũng là những nơi sớm trở thành vùng bị địch tạm chiếm. Thời gian đầu, địch mạnh, ta yếu, chúng đã lấn chiếm nhiều nơi, vơ vét được sức người, sức của để tiến hành chiến tranh xâm lược. Nhưng được sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Bác Hồ, của chính quyền Cách mạng, nhân dân các dân tộc anh em trong Khu đã đoàn kết một lòng kiên quyết đứng lên kháng chiến, từng bước chuyển yếu thành mạnh. Trải qua các thời kỳ giằng co gay go, quyết liệt những nam 1948, 19439, 1950, đến cuối năm 1952 tình hình cơ bản thay đổi có lợi cho ta, nhất là ở các tỉnh cực nam Trung Bộ. Ta đã tiêu diệt được nhiều đơn vị địch, phong trào đấu tranh ở vùng tạm bị chiếm đã phát triển. Đến Xuân - Hè năm 1954 ta đã vươn lên tấn công địch, giành lại được nhiều vùng rộng lớn, phối hợp nhịp nhàng với chiến trường toàn Nam Trung Bộ và cả nước, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Thắng lợi vẻ vang này cũng đánh dấu một bước trưởng thanh của Đảng bộ và quân, dân Khu VI. Đây cũng là vốn quý của ta khi bước vào Cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:07:25 pm »

Chương I

TỪ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ THEO PHƯƠNG PHÁP HÒA BÌNH
CHUYỂN LÊN BẠO LỰC CÁCH MẠNG
(Tháng 7 năm 1954 - 1960)

I. BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ TỪ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
SANG ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐÒI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Liên khu ủy, Quân khu ủy V, phối hợp với chiến trường chính trong Khu và toàn quốc, ở chiến trường cực nam Trung Bộ, bước vào Xuân Hè 1954, ta phát triển tiến công địch mạnh mẽ, thu thắng lợi giòn giã. Nhiều đồn bốt địch bị diệt, nhiều đường giao thông bị cắt đứt hoặc uy hiếp, nhiều vùng nông thôn rộng lớn được giải phóng liên hoàn, buộc địch phải co về giữ các thị xã, thị trấn và những đoạn giao thông quan trọng.

Trong lúc ta đang trên đà chiến thắng, thì Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, lệnh ngừng bắn được ban ra. Tuy trước đó có biết: ta và đối phương đang họp ở Hội nghị Giơ-ne-vơ, nhưng tin đình chiến đến với các lực lượng vũ trang và nhân dân trong khu thật là đột ngột. Lúc bấy giờ ta đang trên đà chiến thắng, tâm lý mọi người là không ưng đình chiến mà muốn đánh tới để giành thắng lợi lớn hơn nữa.

Tuy vậy, với lòng tin tưởng tuyệt đối ở Đảng và Bác Hồ, quân và dân cực nam Trung Bộ vẫn chấp hành lệnh ngừng bắn một cách nghiêm chỉnh, kể từ 0 giờ ngày 1 tháng 8 năm 1954. Tất cả các lực lượng đều ngừng tiến công và chuyển về các vị trí tập trung để tổ chức chuyển quân tập kết. Thực hiện được ngừng bắn đồng loạt trên một chiến trường gồm nhiều địa bàn xa xôi, cách bức nhau ở miền núi và đồng bằng, chứng tỏ ý thức tổ chức và tinh thần kỷ luật cao của toàn quân và dân ta.

Ở các tỉnh cực nam Trung Bộ (trừ Khánh Hòa chuyển quân tập kết qua Phú Yên ra cảng Quy Nhơn) còn các tỉnh khác, các lực lượng vũ trang và dân chính đảng đều hành quân tập kết ở căn cứ Lê Hồng Phong ở Bình Thuận (“Thủ Phủ” của cực nam Trung Bộ trong kháng chiến chống Pháp). Ở đây, các lực lượng được tổ chức học tập thông suốt về ý nghĩa thắng lợi và nội dung của Hiệp định Giơ-ne-vơ; cùng với nhân dân làm lễ mừng chiến thắng, mừng hòa bình được lập lại. Mọi người lúc bấy giờ có nhiều băn khoăn lo âu, ngại địch không thi hành theo Hiệp định, chúng sẽ khủng bố trả thù, chia cắt lâu dài đất nước, v.v. Nhưng ai nấy đều tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng của cách mạng, và sẵn sàng bước vào cuộc đấu tranh mới theo sự lãnh đạo của Đảng.

Việc tổ chức chuyển quân, tập kết tiến hành rất cập rập, vì đường sá xa xôi, cách bức, thời gian chỉ có tám mươi ngày (đến này 15 tháng 10 năm 1954) cực nam Trung Bộ phải tập kết xong) nhưng đã cố gắng thực hiện đúng theo kế hoạch hướng dẫn của trên.

Cán bộ thôn, xã: hầu hết ở lại, một số cán bộ huyện cũng trở về sống hợp pháp, tuyên truyền vận động nhân dân đấu tranh đòi địch phải tôn trọng điều 14c của Hiệp định.

Cán bộ cấp huyện, tỉnh: khoảng năm mươi phần trăm được bí mật bố trí ở lại, hình thành hệ thống tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo mới ở các tỉnh, huyện, xã.

Một số ít chuyển đổi vùng để tạo điều kiện hoạt động như đi Blao, Đà Lạt, Sài Gòn. Tất cả số còn lại gồm cán bộ dân chính đảng và toàn bộ lực lượng vũ trang cùng với trang bị vũ khí, khí tài được tập trung lại để tập kết ra miền Bắc. Lực lượng vũ trang được tổ chức lại thành Trung đoàn 812(1) với trên 1.500 đảng viên. Lực lượng được để lại một số ít đặc công làm nhiệm vụ bảo vệ(2). Vũ khí, đạn dược đến những ngày cuối cùng mới có chỉ thị của Liên khu cho để lại, mỗi tỉnh đủ trang bị vài đại đội, nhưng do quá gấp nên việc cất giấu không chu đáo, sau này phần lớn bị hư hỏng hoặc thất lạc.

Về phần địch, ngay từ đầu, ba lần chúng thay đổi bến bãi đón lực lượng ta xuống tàu đi tập kết. Lúc đầu, chúng thỏa thuận xuống bến Biển Khu Lê, sau đổi lại là Hàm Tân - Lagi, và cuối cùng đòi ta phải vào tận bến Rạch Dừa, huyện Châu Thành, Bà Rịa. ta đấu tranh nhưng không kết quả, nên phải chuyển quân trong điều kiện phải đi bộ rất vất vả, nhất là đối với anh em thương bệnh binh. Cùng lúc đó chúng gấp rút hành quân vào chiếm lĩnh các vùng ta không đợi bàn giao. Một số nơi chúng bắt đầu khủng bố, trả thù người kháng chiến, ngay cả khi ta chưa chuyển quân tập kết xong.

Tuy vậy, đông đảo nhân dân, trong đó có nhiều gia đình kháng chiến, vẫn cơm đùm, cơm gói, kéo nhau đến tận Xuyên Mộc để tiễn đưa bộ đội, chồng con, anh em mình đi tập kết. Cảnh tượng chia tay rất cảm động, kẻ ở gởi gắm người ra đi bao niềm hy vọng hứa hẹn son sắt đợi chờ và sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Người ra đi bâng khuâng lo lắng cho số phận người ở lại, nguyện có ngày sẽ quay trở về. Và cuối cùng mọi người đều đưa hai ngón tay lên tạm biệt, biểu thị niềm tin hai năm sẽ gặp lại.

Ở Tây Nguyên (tỉnh Đắc Lắc) sau khi có lệnh ngừng bắn, các lực lượng vũ trang ở đây (chủ yếu là Trung đoàn 84) cùng với nhân dân các dân tộc làm lễ mừng chiến thắng, mừng hòa bình (tại xã giải phóng Đất Làng, đông nam Cheo Reo), để tạm biệt đồng bào, chuyển quân tập kết về Bình Định. Tỉnh ủy tranh thủ đưa hầu hết cán bộ chính trị cùng các đội công tác thâm hập vào các buôn làng, thị trấn để tuyên truyền phát huy thắng lợi, hướng dẫn nhiệm vụ và xây dựng tổ chức cơ sở. Nhưng sau đó bị địch phát hiện bắt và trao trả cho Ban liên lạc đình chiến ở An Khê.


(1) Trung đoàn 812 tổ chức thành bốn tiểu đoàn gồm: tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 86, tiểu đoàn 89, tiểu đoàn 90 và các đơn vị trực thuộc trung đoàn.
(2) Bình Thuận để lại hai tiểu đội đặc công, Khánh Hòa một tiểu đội, Ninh Thuận một tiểu đội.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:08:44 pm »

Hình thành tổ chức lãnh đạo và chỉ đạo mới

Để thuận tiện cho sự lãnh đạo trong tình hình mới, các tỉnh trong Liên khu V được tổ chức lại thành nhiều Liên tỉnh trực thuộc Liên khu ủy; riêng các tỉnh cực nam Trung Bộ được tổ chức lại thành Liên tỉnh 3, do đồng chí Trần Lê - khu ủy viên làm bí thư Ban Cán sự Liên tỉnh, kiêm bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận; các tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Đắc Lắc thành công thành Liên tỉnh 4, do đồng chí Trương Quan Tuân, khu ủy viên làm bí thư Ban Cán sự.

Vận dụng phương châm đấu tranh mới mà Trung ương đã đề ra cho cách mạng miền Nam là tranh thủ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp công tác hợp pháp với không hợp pháp, các địa phương đã bố trí lại cán bộ; một số hoàn toàn bất hợp pháp (số này chủ yếu nằm trong hệ thống lãnh đạo tỉnh, huyện, xã), một số sống trong dân nhưng theo lối nửa hợp pháp, và số đông là sống công khai hợp pháp, sinh hoạt như dân, cùng với nhân dân đấu tranh đòi quyền sống, đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Các tổ chức cơ sở Đảng, lúc này được chỉ thị đình chỉ sinh hoạt; nhưng đảng viên phải giữ vững niềm tin, luôn luôn nhớ rằng lúc nào cũng có Đảng ở bên cạnh và khi cần cấp trên sẽ bắt liên lạc. Mỗi xã lúc đầu chọn một vài nòng cốt không lộ hoặc ít lộ giao nhiệm vụ hướng dẫn đảng viên cơ sở hoạt động trong quần chúng; và sau một thời gian mới chọn người vững vàng và không lộ hình thành chi bộ.

Tổ chức ở cấp tỉnh: mỗi tỉnh có năm đến sáu tỉnh ủy viên cùng với một số ít đồng chí giúp việc, chủ yếu là văn phòng, đường dây liên lạc và điện đài cơ yếu. Huyện có ba đến năm cấp ủy viên, nhưng hầu hết phân xuống bám xã, số ít lực lượng võ trang để lại chủ yếu là lo việc bảo vệ giao thông liên lạc. Biên chế mỗi tỉnh từ 100-120 người.

Đối với Đắc Lắc, Liên khu ủy V đã chỉ thị cho tỉnh lựa chọn để lại 250 cán bộ, chiến sĩ có nhiệm vụ bám chiến trường hoạt động. Số này được cấp hai năm sinh hoạt phí cùng với quân trang và thuốc men, đã tổ chức thành hai bộ phận:

- Một bộ phận bất hợp pháp (do đồng chí Nguyễn Tuấn (tức Ma Đăng) phụ trách) dẫn lên bám lại vùng núi Chư-Đề-Lay-Ya. Từ dây, phân công cán bộ xuống phụ trách các huyện, và tổ chức ba đội thọc sâu vào địa bàn nam tỉnh Đắc Lắc (nam đường 21). Một đội do đồng chí Trần Văn Phòng (tức Bảy Biên) phụ trách, đứng ở Chư Nam Nung (Đắc Min), Một đội do đồng chí Ma Oanh vào gây cơ sở ở vùng núi Chư-Yang-Sin (đông nam Buôn Ma Thuột). Một đội vào vùng hồ Lắc (quận Lạc Thiện) (đội này trên đường đi bị địch đánh hy sinh hết).

- Một bộ phận gồm 24 đồng chí (do đồng chí Phạm Thuần (tức Chín Cán) phụ trách) đi theo đường hợp pháp lên thị xã Buôn Ma Thuột, tổ chức Ban Cán sự Đảng bí mật lãnh đạo phong trào thị xã và các vùng xung quanh, đa một số cán bộ về hoạt động các thị trấn Buôn Hồ, Cheo Reo.

Trong khi ta đang triển khai sắp xếp tổ chức thì địch cũng tranh thủ mở các cuộc hành quân cảnh sát, móc ráp các phần tử xấu tại chỗ vừa đưa bọn lưu vong về lập bộ máy kìm kẹp. chúng ra sức nói xấu Đảng, nói xấu kháng chiến và đề cao “Chính quyền quốc gia”.

Ở vùng địch chiếm cứ, chúng thay số thân Pháp bằng số thân Mỹ và số tay chân theo chúng từ miền Bắc vào. Đưa Sư đoàn 5 (dân tộc Nùng) của Vòng A Sáng vào đứng ở dọc quốc lộ 1 từ Bắc Bình Thuận vào giáp Biên Hòa, xây dựng hậu cứ ở sông Mao (Bình Thuận). Chúng còn đưa một số đồng bào Nùng (phần lớn là gia đình binh sĩ) vào đây và lập ra huyện Hải Ninh). Dọc theo đường 20 từ Định Quán, Túc Trưng, Phú Lâm, Phương Lâm (Đồng Nai) lên đến Tùng Nghĩa (Lâm Đồng), chúng cũng bố trí đồng bào Nùng, Tày vào ở.

Chúng còn hình thành những khu tập trung Công giáo di cư với tổng số năm vạn người trên các vị trí xung yếu: Xung quanh Blao - Di Linh của Lâm Đồng, Tùng Nghĩa, Phú Hội và dọc đường 21 kéo dài của Tuyên Đức. Ở Đắc Lắc, địch cũng cấy khoảng năm vạn dân di cư từ miền Bắc vào.

Địch di dân bố trí theo ý đồ: kết hợp kinh tế với quân sự dọc các trục giao thông quan trọng như đường 14, 20, 11 và các điểm xung yếu quanh thị xã Buôn Ma Thuột. Điều đó đã làm thay đổi mật cự dân cư và địa hình, địa thế ở đây.

Qua đó, chúng tạo thêm thế và lực để chống phá phong trào cách mạng, khống chế, đàn áp nhân dân; nhưng đồng thời cũng khơi sâu mâu thuẫn giữa nhân dân với chúng. Mâu thuẫn giữa bọn ngụy thân Pháp và thân Mỹ cũng nổi lên gay gắt. Sư đoàn 5 (Nùng) không chấp hành lệnh hành quân của Diệm, án binh bất động. Lực lượng bảo an Com-măng-đô ở Ninh Thuận làm binh biến, kéo lên rừng lập căn cứ chống lại Diệm… Ngược lại, cũng có số tuyên bố ly khai, tướng Hinh ngả theo Diệm, chống nhau kéo dài hàng tháng. Cuối năm 1955, Mỹ truất phế Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên. Ngô Đình Diệm tiến hành đánh dẹp giáo phái, thực hiện độc tài chuyên chính. Đối với những người kháng chiến, Diệm bắt trình diện, bắt làm giấy quy thuận, bắt quản chế, kết hợp mua chuộc và đe dọa ép làm việc cho chúng. Chúng đặc biệt chú ý điều tra nắm rõ số cán bộ, đảng viên còn sống bất hợp pháp ngoài địa hình để dùng mọi thủ đoạn triệt tiêu cho hết.

Âm mưu và thủ đoạn của địch rất trắng trợn và thâm độc, nhưng công tác chuyển hướng chỉ đạo của ta trong giai đoạn mới còn đơn gián, chắp vá. Công tác tư tưởng nặng nhấn mạnh một chiều nội dung pháp lý Hiệp định Giơ-ne-vơ. Công tác tổ chức mới tiến hành một bước sắp xếp ở cơ sở chưa đi sâu nghiên cứu hướng dẫn nội dung công tác và phương châm, phương pháp hoạt động, nhất là biện pháp đối phó trong tình hình địch khủng bố, đàn áp trắng trợn.

Mặc dù vậy, ở các vùng rừng núi sâu thuộc miền Tây các tỉnh đồng bằng và nam Tây Nguyên, lúc đầu địch chưa đủ sức với tới, nên còn nhiều sơ hở. Ta đã kịp thời tranh thủ, tích cực thâm nhập nhân dân tuyên truyền phát động, xây dựng và phát triển mở rộng cơ sở.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:09:55 pm »

Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, củng cố và phát triển lực lượng, duy trì phong trào

Ở cực nam Trung Bộ, với khí thế chiến thắng liên tục nhiều tháng sau ngày đình chiến, nhân dân ở hầu hết các huyện đều tổ chức mít tinh, biểu tình mừng hòa bình, mừng thắng lợi, biểu thị sự đoàn kết thống nhất của nhân dân xung quanh Đảng và Bác Hồ, biểu dương sức mạnh của lực lượng quần chúng đồng bào từ nông thôn đến thành thị.

Với khẩu hiệu: Hoan nghênh Hội nghị Giơ-ne-vơ, mừng hòa bình, đòi Mỹ - Diệm nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, không được trả thù những người kháng chiến cũ, hàng vạn người đã xuống đường biểu tình ở các nơi như: Tam Giác, Ngã Hai, Phan Rí (Bình Thuận), Dư Khánh, Đông Tây Giang, Phú Quý, An Xuân, khu Dân Sinh II (Ninh Thuận), Trường Lạc, Thanh Minh (Khánh Hòa), v.v.

Một số nơi địch đàn áp trắng trợn. Ở Bình Thuận, chúng đã xả súng bắn vào đoàn biểu tình ở Ngã Hai làm 70 người chết và bị thương. Tại Ninh Thuận, địch bắt anh Hồ Bắc Đàn tra tấn đến chết, đàn áp cuộc biểu tinh ở An Xuân, đưa quân xuống khủng bố giải tán khu Dân Sinh I của những người kháng chiến cũ tại sông Nhị Hà. Nhân dân bất bình xô xát với binh lính và kéo thẳng lên huyện đấu tranh buộc địch phải tiếp nhận yêu sách.

Sau ngày 15 tháng 10 năm 1954 (ngày cực nam Trung Bộ) hoàn thành việc chuyển quân tập kết ra Bắc, địch công nhiên chuyển qua phản kích phong trào. Thế là những cuộc đấu tranh chống bắt bớ, khủng bố, trả thù người kháng chiến… đòi thi hành điều 14c của Hiệp định nổ ra khắp nơi. Điển hình là phong trào chống địch khủng bố, bảo vệ các anh: Kinh, Chi, Mỹ, Phát ở huyện Hàm Tân (đây là bố đồng chí đi kháng chiến về ở địa phương bị địch bắt đánh đập tra tấn). Hàng ngàn quần chúng kéo đến xã, huyện đấu tranh, đưa đơn đến Ủy ban Giám sát Quốc tế tố cáo, buộc chúng phải trả lại tự do cho các anh .

Hưởng ứng phong trào Hòa Bình dấy lên từ Sài Gòn, Chợ Lớn, nhân dân các thị xã Đà Lạt, Nha Trang, Phan Thiết đã hội họp bàn tán công khai xung quanh các khẩu hiệu: Hoan hô đình chiến, ủng hộ Hòa Bình. Ở miền núi và các vùng giải phóng ở đồng bằng nhân dân đấu tranh giằng co không cho địch lập chính quyền.

Đầu năm 1955, ta phát động phong trào đấu tranh đòi lập lại quan hệ bình thường Bắc - Nam, nhất là đòi để cho nhân dân hai miền được thư từ đi lại thăm viếng nhau, tạo không khí thuận lợi cho việc Hiệp thương tổng tuyển cử.

Ngày 6 tháng 6 năm 1955, Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố đề nghị chính quyền miền Nam hiệp thương để bàn việc chuẩn bị tổng tuyển cử như Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định. Nhưng ngày 16 tháng 7 năm 1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố: Diệm không ký Hiệp định, nên bất cứ về phương diện nào, chúng cũng không bị ràng buộc. Ngày 20 tháng 7 năm 1955 chúng bày trò biểu tình chống hiệp thương dùng lưu manh, côn đồ, đập phá trụ sở Ủy ban Giám sát Quốc tế ở Sài Gòn.

Để thực hiện chỉ thị đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, tháng 8 năm 1955, Liên tỉnh họp (có các đồng chí Tỉnh ủy Bình Thuận tham dự) ở rừng Ngang khu Lê Hồng Phong để bàn nội dung, hình thức, khẩu hiệu đấu tranh. Sau đó, từ tháng 9 đến tháng 10, cuộc đấu tranh ở các tỉnh diễn ra sôi nổi mạnh mẽ, đều khắp với nhiều hình thức và quy mô khác nhau: từ truyền đơn, khẩu hiệu đến đơn từ, kiến nghị thực hiện gặp bọn cầm quyền. Hình thức cao nhất ngừng sinh hoạt (xe không chạy, chợ không họp, mọi người nghỉ việc ở lại trong nhà): Ninh Thuận có Dư Khánh, Phú Quý - Phan Rang; Bình Thuận có Phan Rí, Phú Long, Phan Thiết, v.v. Hình thức đấu tranh này đã gây tác động mạnh đối với địch.

Nhưng qua các phong trào trên cũng đã biểu hiện khuyết điểm là: bộc lộ lực lượng khá nhiều, khẩu hiệu nêu ra còn cứng nhắc, nặng về khẩu hiệu chính trị, nhẹ khẩu hiệu dân sinh, dân chủ, không lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia, cũng không phân hóa, tranh thủ được nhiều người trong hàng ngũ địch. Vì vậy sau đó Liên tỉnh đã hướng dẫn từng tỉnh kiểm điểm uốn nắn lại cho sát hợp.


(1) Sau đó chúng dùng thủ đoạn bí mật tắt thủ tiêu, riêng đồng chí Kinh thoát chết, phải hoạt động bất hợp pháp, sau này đồng chí hy sinh trong lúc đi công tác.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:11:39 pm »

Ở nam Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng: thời gian đầu sau khi có Hiệp định, địch chưa làm gì nhiều, tề ngụy phần lớn là số cũ của Pháp còn lại không thích Diệm và thấy ta đã thắng Pháp nên cũng nghe theo ta. Ở mảng bắc Đắc Lắc, nơi có những lõm căn ứ du kích khá mạnh, cán bộ ta đã bám được các buôn làng, tuyên truyền, phát động quần chúng, xây dựng phát triển cơ sở tại Madrak, Cheo Reo, Buôn Hồ. Ở đây ta còn nắm được cả số tề mới. Thực tế, địch chỉ mới kiểm soát được các thị xã, thị trấn.

Mảng nam của Đắc Lắc từ đương 21 trở vào, hầu hết còn là vùng trắng. Đội của đồng chí Bảy Biên (còn lại năm đồng chí) đã cố gắng học nói thông thạo tiếng dân tộc, ăn ở sinh hoạt cùng với nhân dân nên đã gây được cơ sở năm xã đông nam Đắc Min.

Bộ phận vào họp pháp ở Buôn Ma Thuột từ cuối năm 1954 đã lập được thế đứng và hoạt động trong thị xã không những xây dựng được cơ sở trong nội thị mà còn phát triển ra các buôn, các đồn điền phụ cận Buôn Ma Thuột, đã xây dựng được một số cơ sở tiếp tế, phục vụ có hiệu quả cho các lực lượng bất hợp pháp bên ngoài.

Phong trào đấu tranh chính trị đòi quan hệ bình thường Bắc Nam, đòi hiệp thương tổng tuyển cử bằng hình thức truyền đơn, khẩu hiệu, chủ yếu diễn ra ở các thị trấn, thị xã. Tại Buôn Ma Thuột, cuối năm 1955 ta đã huy động được gần bảy trăm quần chúng xuống đường đấu tranh trực diện đòi hiệp thương, tổng tuyển cử, chống các chính sách hà khắc của Ngô Đình Diệm. Địch tìm cách dập tắt, nhưng cuộc đấu tranh vẫn kéo dài gần một năm.

Tại các vùng rừng núi miền Tây các tỉnh cực nam Trung Bộ: ta bám vào đồng bào các vùng căn cứ cũ, ra sức củng cố và tranh thủ thời gian địch còn sơ hở, nhanh chóng mở rộng cơ sở đều khắp và phát triển thêm cơ sở ở một số buôn làng thuộc hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức.

Đến năm 1956, địch mới củng cố được tề ở những buôn xã giáp ranh đồng bằng, còn các vùng cao, rừng sâu, chúng mới tổ chức thám báo dưới dạng thương lái để thâm nhập nắm tình hình.

Phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia, nâng cao được khí thế quần chúng, làm cho ngụy quyền cơ sở nhiều nơi hoang mang, dao động, không dám hành động táo tợn như trước. Nhưng rõ ràng là đối với kẻ thù tàn bạo, đấu tranh chính trị, bằng lý lẽ đơn thuần không thể ngăn chặn được những hành động trắng trợn, thâm độc của chúng. Lãnh đạo chừng nào còn quá tin vào pháp lý của Hiệp định Giơ-ne-vơ, chưa thấy hết bản chất phản động, ngoan cố của địch, có lúc đã dốc sức đấu tranh, làm bộc lộ lực lượng nòng cốt nên đã bị địch đánh phá, gây nhiều tổn thất nặng nề.

Từ tháng 2 năm 1955, Ngô Đình Diệm đề ra chính sách “Tố cộng”, một chính sách cực kỳ phản động nằm tiêu diệt tận gốc phong trào cách mạng miền Nam.

Đối với cực nam Trung Bộ, lúc đầu chúng lấy Bình Thuận là nơi có phong trào mạnh hơn làm trọng điểm. Đợt đầu, chúng bắt nhân dân học tập đường lối “Cách mạng Quốc gia”, suy tôn Ngô Đình Diệm, xuyên tạc đường lối Cách mạng của ta, phủ nhận công lao của kháng chiến, của Bác Hồ, và o ép quần chúng gia nhập phong trào “Cách mạng Quốc gia” một tổ chức chính trị phản động của chúng.

Trước những hoạt động đàn áp trắng trợn của địch, nhân dân, nhất là giai cấp công nhân, nông dân lao động đã đấu tranh rất kiên cường và đã khôn khéo dùng những lý lẽ rất sắc bén mà chúng không sao bắt bẻ được để đập lại những luận điệu xuyên tạc, vu khống của địch, và ca ngợi công lao của kháng chiến.

Đầu năm 1956, địch tiếp tục “Tố cộng” đợt hai mạnh hơn, với chủ trương “làm sạch cộng sản” trên từng vùng, xong vùng này chuyển sang vùng khác, theo phương châm “diệt tận gốc, bóc tận rễ, “thà giết lầm còn hơn bỏ lọt”.

Tháng 3 năm 1956, Mỹ - Diệm công khai xóa bỏ Hiệp định Giơ-ne-vơ, tổ chức bầu cử Quốc hội riêng lẻ, ban hành hiến pháp mới, bầu Diệm làm Tổng thống. Thừa dịp này, bọn phản động địa phương càng ra sức đánh phá phong trào Cách mạng mạnh hơn.

Các chiến dịch “Tố cộng” tiến hành ở nhiều nơi như Phan Đình Phùng ở Hàm Tân (tháng 11 năm 1955), Đinh Tiên Hoàng ở khu Lê (tháng 1 năm 1956), Trương Tấn Bửu ở miền Đông Nam Bộ ra đến Tánh Linh (tháng 12 năm 1956). Với khẩu hiệu: Khuấy nước đọng bùn”, “Tát nước bắt cá”, nói là lớp học tập “Tố cộng” nhưng thực chất là những trại giam cầm, tra tấn, nhục hình, ép buộc mọi người khuất phục, phải tố cáo lẫn nhau, phải nhận những công lao thành tích kháng chiến là tội lỗi, những người đi tham gia kháng chiến là phản bội phải xé cờ Đảng, ly khai Đảng. Chúng dồn dân miền núi Tánh Linh xuống giáp ranh đồng bằng, mặc dù nhân dân ở đây đã đấu tranh giằng co rất quyết liệt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2011, 03:12:23 pm »

Nhiều đảng viên, cơ sở và quần chúng tỏ ra kiên cường, bất khuất, chịu đựng tra tấn, đánh đập, tù đày, chứ nhất định không khai báo, không tố Đảng. Có những đồng chí đã công khai vạch trần tội ác của bọn Việt gian bán nước, lợi dụng diễn đàn “Tố cộng” để tố lại địch; có người đã bị chúng bắn ngay tại chỗ hoặc dẫn đi bí mật thủ tiêu.

Em Thanh ở Bình Lâm (Hàm Thuận) đi liên lạc bị địch bắt, tra tấn đến tàn phế nhưng nhất định không khai. Những học sinh lứa tuổi mười hai, mười ba bị bắt học tập “Tố cộng” bị dọa nạt, đánh đập, nhưng nhất định không chịu nghe theo địch: hô khẩu hiệu đả đảo lãnh tụ ta và và hoan hô Ngô Đình Diệm.

Đặc biệt, có nhiều chị em phụ nữ có chồng đi tập kết hoặc thoát ly, bị chúng bắt phải ly khai chồng, bắt phải lấy chồng khác và hành hạ đủ điều, nhưng đã dũng cảm chống lại, vạch trần bộ mặt dã man của chúng, thà chịu đánh đập, tù tội chứ nhất định không chịu phản bội Cách mạng, không chịu để mất tiết hạnh, nhân cách và phẩm giá của người phụ nữ.

Qua gần hai năm “Tố cộng” (từ đầu năm 1955 đến cuối 1956) ở cực nam Trung Bộ, địch gây cho ta tổn thất, khó khăn rất lớn, nhất là ở đồng bằng. Tổ chức Đảng bị vỡ, tan rã, cán bộ, đảng viên bị bắt và hy sinh nhiều, quần chúng thì bị địch kìm kẹp gắt gao, phong trào bị đẩy lùi. Tính chưa đầy đủ, chúng đã giết hại, tù đày trên tám trăm cán bộ, đảng viên và người kháng chiến cũ, bắt bớ, giam cầm nhiều cơ sở cách mạng; cướp lại gần chín mươi phần trăm ruộng đất cách mạng đã chia cho nông dân trong kháng chiến.

Mặc dù bị dìm trong máu và nước mắt, phong trào đấu tranh chống “Tố cộng” vẫn duy trì, dai dẳng, âm ỉ và có lúc, có nơi quyết liệt. Cán bộ bên ngoài bị tiêu hao tổn thất, gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn cố bám các địa bàn, tìm cách liên hệ với quần chúng, móc nối lại cơ sở và chỉ đạo phong trào, được quần chúng nuôi dưỡng, đùm bọc. Bên cạnh những tấm gương kiên trung của biết bao cán bộ, đảng viên đã có tác dụng củng cố lòng tin của quần chúng đối với Đảng và tiền đồ của Cách mạng, cũng có kẻ đầu hàng, phản bội, gây thiệt hại cho Cách mạng, bị quần chúng nguyền rủa.

Qua năm 1957, địch tiếp tục “Tố cộng” đợt ba. Chúng đánh phá cả bên trong lẫn bên ngoài. Tháng 5 năm 1957, Diệm đưa ra đạo luật “Đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, cho tay chân bên dưới thẳng tay bắn giết bất kể ai miễn là chúng cho là Cộng sản, hoặc có dính dáng đến Cộng sản, đến cách mạng; tăng cường xây dựng bộ máy hành chính theo lối cảnh sát, tổ chức ngũ gia liên bảo, phụ nữ liên đới, thanh niên cộng hòa và có mạng lưới mật báo viên dày đặc để theo dõi kiểm soát chặt chẽ quần chúng.

Trước tình hình đó, số cán bộ xã có hoạt động phải bị bật ra ngoài địa hình, hoặc phải tránh lánh đi nơi khác, không còn mấy người bám được trong dân. Hoạt động của lực lượng bất hợp pháp bên ngoài hết sức khó khăn, nhưng vẫn chấp hành theo phương châm đã đề ra là khéo công tác, khéo che giấu lực lượng, hết sức lợi dụng mọi khả năng hợp pháp…

Trong khi địch tập trung đánh phá ở đồng bằng, thì ở miền Tây các tỉnh và nam Tây Nguyên, ta đã tranh thủ phát triển cơ sở, mở rộng phong trào. Nhất là ở Đác Lắc, cán bộ ta đã cùng ăn cùng ở với nhân dân, làm tốt công tác dân vận, thực hiện nghiêm túc chính sách dân tộc của Đảng, khéo tranh thủ tề ngụy và lớp trên. Nhờ vậy đã mở được phong trào cán bộ ít bị tiêu hao.

Nhưng lúc địch chuyển trọng điểm đánh phá lên miền núi, tiến hành càn quét, dồn dân vào khu tập trung, kiểm soát chặt từng buôn, ấp thì phong trào gặp khó khăn. Ở Madrak đông Cheo Reo, nhiều buôn dân chạy vào rừng sâu sống bất hợp pháp, nhưng sau một thời gian bị địch truy lùng và gặp nhiều khó khăn trong đời sống nên phải trở về lại vùng địch, vừa làm ăn, vừa đấu tranh từng bước với địch để giữ gìn đời sống, đoàn kết đấu tranh để tự bảo vệ mình.

Tháng 4 năm 1957, địch triển khai thực hiện chính sách dinh điền, một mặt gom dân tại chỗ, một mặt tiếp xúc, cưỡng bức dân ở đồng bằng miền Trung lên, lập những khu tập trung lớn trên các vùng xung yếu ở Tây Nguyên để khai thác vùng đất đai màu mỡ, xây dựng các đồn điền cho gia đình họ Ngô và những tên cầm đầu ngụy quân, ngụy quyền, dùng đồng bào các dinh điền để bảo vệ các trục giao thông quan trọng và các căn ứ quân sự của chúng.

Quần chúng đấu tranh giằng co rất quyết liệt, nhiều người đã nằm lăn ra đường để ngăn chặn các đoàn xe, nhưng địch vẫn lùa bắt chở đi được hàng vạn dân. Đến năm 1958, riêng nam Tây Nguyên địch đã lập được ở Đắc Lắc 43 dinh điền năm vạy bản ngàn dân, và nhiều dinh điền ở các huyện Hoài Đức, Tánh Linh (Bình Thuận) Di Linh, Bảo Lộc (Lâm Đồng) với hàng chục vạn dân.

Từ đấy bắt đầu một cuộc đấu tranh mới, giằng co, dai dẳng của đồng bào Thượng cũng như Kinh, chống địch gom xúc dân, và đòi giải quyết đời sống trong các khu tập trung, các “địa điểm dinh điền” song song với cuộc đấu tranh chống các hoạt động “Tố cộng”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM