Đối với những ai đã chơi "trà tàu" thì ấm đất Nghi Hưng hay các loại trà cụ căn bản sẽ là những thứ không thể thiếu được. Mặc dù bộ môn trà đã được phổ biến trong dân gian Trung Quốc từ cuối đời Đại Đường cũng đã ngót nghét cả 1,200 năm rồi nhưng kỹ thuật ấm đất Nghi Hưng thật sự chỉ thịnh thành kể từ thế kỷ thứ 18 mà thôi.
Bộ ấm Nghi Hưng của Bí Bếp sưu tập
Nghi Hưng là tên gọi của một thành phố chuyên nghề làm đồ gốm không riêng những bình tách trà mà còn nhiều sản phẩm chạm trổ, điêu khắc mỹ thuật bằng đất sét Nghi Hưng khác nữa. Nghi Hưng nằm sát bờ hồ mang tên Đại Phú chảy ra sông Trường Giang, khoảng 120 cây số về hướng Tây Bắc của Thượng Hải. Đất sét thì có khắp mọi nơi, nhưng loại đất sét đỏ của Nghi Hưng thì có những đặc điểm phù hạp để nắn và nung làm ấm trà và các loại trà cụ khác không cần phải tráng men... mà hương vị trà không những được " bảo quản" mà còn " ngon" hơn nữa là khác!
ấm Nghi Hưng
Truyền thuyết kể rằng, vào triều Minh (thế kỷ 15), ấm đất Nghi Hưng đã được khởi tác bởi một nho sĩ có tên là Vũ Kỳ Sinh và các nghệ nhân khác mới bắt đầu lấy mẫu mà sáng tạo thêm sau đó. Thực tế thì ấm đất Nghi Hưng chỉ nỗi tiếng kể từ đời Thanh (cuối thế kỷ thứ 17). Những tác phẩm và kiểu mẫu của nghệ nhân mang tên như Huỳnh Mẫn Chương khởi tác cho đến nghệ nhân Trần Minh Quang (1768-1822) đã trở thành "mẫu mực" cho bao nghệ nhân sau nầy.
Ấm đất Nghi Hưng sau nầy trở nên đa dạng, đa hình và được xuất cảng sang khắp nơi. Một số bình tách Nghi Hưng cũng đã được tráng men và chạm trổ tinh vi để "xuất cảng". Ấm đất Nghi Hưng mẫu mã căn bản thì không thay đổi cho mấy trong qui cách thưởng thức trà tàu theo thể công phu. Nếu pha hồng trà dạng trà quấn (cuốn), ấm thường dùng có hình nhủ hoa, không chạm trổ tình tiết chi cả. Dung tích tốt nhất thì pha được 4-6 chén hột mít. Còn pha các loại trà nguyên lá (không cuốn) ví dụ như trà Bảo Chung, Bạch Hầu, hay Đông Phương Mỹ Nhân, thì loại ấm hình oval cỡ nữa nắm tay phụ nữ thì hạp hơn cả. Những loại ấm bình mà có lắm rườm rà, tình tiết thì thường chỉ dùng làm " kiểng" chứ không thực dụng cho việc pha trà tàu.
Nghệ nhân ấm trà Nghi Hưng thường chỉ "đạt" tay nghề sau nhiều "giai trình" khổ luyện rất nhiều năm... mà kỹ năng và kỹ thuật ủ đất, nặng, và nung bình vẫn luôn là những bí truyền trong mỗi gia đình nghệ nhân của vùng Nghi Hưng. Như Bí Bếp đã kể sơ, sau cuộc cách mạng văn hoá ở Trung Quốc vào thời 1960-1970' s... kỹ nghệ ấm trà Nghi Hưng cũng đã bị mai một rất nhiều mà số nghệ nhân " đạt" tay nghề gần như chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay. Hầu hết những ấm đất mà chúng ta thấy bày bán ở các chợ tại Trung Quốc, Hồng Kông, ngay cả San Francisco, Vancouver hiện nay là dạng " nhái" hay " mạo" giáng thể của ấm Nghi Hưng ngày trước!
Sau khoảng thời gian gần đây, người Hoa sống ở Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Mã Lai lại bắt đầu sưu tập các loại bình tách Nghi Hưng và làm giá thành căn bản " tăng vọt" khủng khiếp. Có một số ấm Nghi Hưng mà tác tạo bởi một số nghệ nhân tên tuổi... thì được bán ở giá từ $5,000-10,000USD một bình cũng không phải là chuyện hiếm có. Bí Bếp cũng mê sưu tập ấm đất Nghi Hưng... nhưng khả năng có hạn và bị một vài biến cố ngoài dự kiến nên...
Bí Bếp đã từng lê la một số vùng hẻo lánh của mạn Tây Bắc xứ Cờ Hoa, truy theo dấu chân của dân "coolies" người Hoa thời trước mà họ đã xây đường sắt từ miệt Oregon/Washington sang miền Đông... nhưng hầu như Bí Bếp vẫn luôn là người đến sau số " lái buôn" và " thợ săn" ấm Nghi Hưng chuyên nghiệp. Bí Bếp về Việt Nam cũng có "săn" thử nhưng đối tác với đám danh thương người Hoa từ Đài Loan hay Singapore lắm tiền, nhiều bạc thì... Bí Bếp chỉ tìm được một ấm đất Triều Châu và một ấm sành Nghi Hưng nhỏ từ Việt Nam... còn phần còn lại đều là ấm "nhái" mẫu sau nầy. Bí Bếp có được một vài người bạn giới thiệu một số mẫu ấm do một nghệ nhân tên tuổi trong nước tạo nên... nhưng Bí Bếp nhận thấy rằng... tay nghề của vị " nghệ nhân" đấy vẫn còn ư là " rất khiêm tốn" nếu so với một số ấm đất Nghi Hưng của thời trước!
Hai em nầy mua từ Sài Gòn
Bộ nầy Bí Bếp dùng ở sở làm
Đã lỡ " tản mạn" chuyện trà mà lơ là " sự cố" trà đạo của xứ Phù Tang có lẽ là thiếu sót khó được ACE chấp nhận hén! Thâu, đã lỡ thì lỡ luôn... mời ACE thông cảm mà nghe nốt nghen..
Như Bí Bếp có nhắc sơ trong mấy mục về trà đã đăng ở trang trước, trà đã theo chân một số tu sĩ Phật giáo và du nhập vào nước Nhật kể từ đầu thế kỷ thứ Tám... nhưng mãi đến khoảng đời Lý/Trần của mình (khoảng thế kỷ thứ 11-13), trà xanh mới được dùng rộng rãi hơn trong giới tu sĩ và quan quyền của xứ Phù Tang theo bài bản của kinh trà Trung Quốc.
Đạo Phật được du nhập vào xứ Phù Tang dần dà cũng thay đổi theo phái Zen, khác với đạo Phật ở Trung Hoa hay Việt Nam... và cách uống trà cũng thế! Mãi cho đến hậu bán của thế kỷ thứ 16, một tu sĩ người Nhật mang tên Murata Shoukou mới soạn cách uống trà theo thể " Zen" mà ngày nay chúng ta thường biết đến là " Trà Đạo" của người Nhật!
Trước khi " nhập đề" Bí Bếp xin sơ lược một số trà phổ thông của xứ Phù Tang thời nay:
Ấy... như ACE thấy... chỉ trong vòng 50 năm về trước... trà vẫn là một thứ uống thuộc dạng " xa xỉ" của con cháu Thái Dương Thần Nữ... hiếm đến độ họ phải trộn bo bo, phơi rong biển để làm trà giả mà uống, nên chuyện mí món trà cụ của xứ ta đã được họ giữ làm " quốc bảo" nên cũng chẵng có gì là lạ cho lắm nhễ... Bí Bếp có quen với một o Nhật... gốc bản " Samarai" chính hiệu. O Nhật ni là cháu ngoại của vị Đại Sứ Nhật ở Triều Tiên ngày trước (tương đương với chức Đô Hộ Sứ). O người Nhật ni cũng đã được huấn luyện đầy đủ bài bản về "chado" và cả một lô "do" truyền thống của dân Nhật gốc Samurai... Nhưng sau khi người bạn kể trên thưởng thức được bộ môn trà Tàu cùng Bí Bếp thì...
Qui cách uống trà thể "chado" thì bài bản như sau:
Trước nhất là họ xây một cái " chòi" riêng sau một góc vườn, chỉ dùng để uống trà mà họ gọi là cái "sukiya". Theo bài bản thì diện tích bên trong chòi phải rộng đủ chừng hơn 4 tấm chiếu mà họ gọi là tấm tatami (mỗi tấm có chiều dài khoảng 1X2 m) mà đủ cho khoảng năm người ngồi. Lý tưởng thì chòi uống trà được ngăn làm ba phòng. Phòng đầu tiên (yoritsuki là nơi khách ngồi để chờ chủ sửa soạn trà, rửa ráy bình tách, v.v. từ phòng trong (mizuya) trước khi họ được mời vào ngồi (hay đúng hơn thì là được quì gối) trên tấm chiếu tatami để chào qua hỏi lại rồi mới "uống" trà xanh. Bài bản thì họ dạy như thế... nhưng thực tế thì bất kỳ nơi nào mà thanh tịnh và thoáng thì họ đều sửa soạn trà theo lễ nghi để " chào" nhau được cả!
Một trà thất của người Nhật
Theo ý dạy của thầy Shoukou thì uống trà không hẵn là uống trà mà chính là một giai trình "thiền" hay "tịnh" của đạo Phật Zen. Thưởng thức trà kiểu Nhật thì phải luôn tôn trọng ba giai trình như sau: (1) Tinh thần phải "tịnh" và "thoải mái" để thưởng thức trà; (2) Vai vế và sự tương kính giữa khách và chủ phải luôn giữ gìn; (3) Một khi bước vào sukiya để thưởng thức trà thì không có chuyện phân biệt giai cấp.
Bài bản pha trà của "chado" thì họ qui định từng động tác một cụ thể và chắc chắn nhưng phải dịu dàng mà họ gọi là temae (mèn nghe sao giống như là Tỉ Mỉ theo tiếng Việt của ta.) Sau khi người chủ sửa soạn song các cái, anh ta (hoặc o ta) mới mời khách vào ngồi trong phòng sukiya. Để mở màn cách pha trà, người chủ mới lau sạch hộp đựng trà và các thìa gỗ (hay tre) dùng để múc trà bột (matcha). Sau đó, họ mới ngâm bình, tách, và chổi tre khuấy trà vào nước nóng (gần giống như cách người Hoa tưới nước sôi lên bình tách để tẩy). Sau đó, họ mới đổ nước vào một chậu riêng và lau khô bình tách và chổi khuấy bằng một khăn sạch. Sau khi giai đoạn làm sạch bình tách thực hiện xong, người chủ mới bắt đầu pha trà bằng cách múc một ít trà bột cho vào tách (tách cỡ ly café bên Mỹ) xong mới cho vào khoảng 1/4 nước nóng rồi người chủ dùng chổi tre khuấy cho lên nổi bọt xong lại tiếp tục pha trà cho mỗi người khách.
Nghi thức trà đạo
Mỗi lần nâng tách, họ phải xoay tách xong mới mời nhau. Họ "ực" xong mới lời qua tiếng lại để khen thưởng với nhau. Uống trà kiểu Nhật như thế nầy thì thật là lề mề, hương vị thì "chát ngắt" nhưng điều chính là sự "thanh tịnh" của chữ " thiền" chứ không phải họ đi tìm hương thơm hay vị ngọt của trà như thể trà tàu. Đối với Bí Bếp, cách uống trà của người Nhật gần giống như người Công Giáo đi lễ nhà thờ... cũng phải qua bao giai trình, cầu nguyện, ca hát, đứng, quỳ, ngồi.... rồi mới được lên rước mình thánh Chúa... và sau đó là "chấm dứt"!
Mèn.... vẫn tản mạn chuyện trà... Bí Bếp lại cám ơn các bác đã cho khá nhiều lộc đầu năm, thật là bất ngờ, nếu có được số bài ni sớm thì Bí Bếp đã phải đỡ tốn công chuyển dịch và "théc méc" cho mớ vốn liếng "Hán ngữ" quá ư là nghèo nàn của bản thân... Bàn lại "sự cố" trà ta... thì nhà nghề trà của dân mình thì còn quá ư là "phôi thai" nếu so với kỹ nghệ trà của Đài Loan, Trung Quốc, hay đám trà "túi" dạng Lipton mà Ấn Độ hay Mã Lai đã phát triển...
Trà ở Suối Giang
Xứ mình cũng tiếng là xứ sản xuất trà... cũng như bao thứ nông, lâm, ngư sản khác... Cách thức sản xuất, lề lối quản trị, rồi bảo quản, sang tiêu thụ, xuất cảng, v.v. thì lèo tèo vẫn còn sau lưng thiên hạ hay nôm na giọng nẫu là... "ngừ ta" xa lắc, xa lơ... Nào phải vì dân ta thiếu khả năng " mần ăn" hay vốn liếng tư duy hạn chế... mà cũng chỉ vì
(I am taking the Fifth according to " phố rùm" policy!)
Trà cho du khách ở Sa Pa
Bí Bếp xin tóm lược chuyện "trà" như thế nầy... Thú uống trà, theo sách vỡ và truyền thống thì được ghi nhận là một tạp tục đã từng phổ thông mà được giới "tao nhân mặc khách" đã đưa vào hàng " chiếu trên" cùng một số bộ môn chơi có tính cách "văn hóa" khác nếu không bị liệt vào hàng "tiểu tư sản hoặc phong kiến"! Về khía cạnh kinh tế, nghề trà Việt Nam vẫn còn lắm " tiềm năng" để phát triễn về khía cạnh tiêu thụ lẫn tạo thêm " công ăn việc làm" cho dân chúng ở trong nước. Về khía cạnh văn hoá ẩm thực... trà không những là một "lễ vật" không thể thiếu cho một lô lễ hội quan trọng (cưới, hỏi, tang chế, cúng kiến, biếu xén, v.v.) mà còn là một trò chơi có tiếng "tao nhã" mà chúng ta không những nên bảo tồn mà hãy "vực dậy" cho "xôm tụ" sau nầy.... Trò chơi trà ngày nay, chúng ta có thể "giản dị" hóa khá dễ dàng (nước lọc, ấm điện, điều nhiệt kế, trà cụ các loại) vì khả năng " kinh tế" trung bình nếu so với bộ môn " tửu" thì vẫn rẻ hơn nhiều... Cách uống trà... tốt nhất thì nên dùng " hồng trà" vào buổi sáng hoặc ban ngày (cho nhẹ tì) và uống " trà xanh" vào buổi tối (cho dễ ngủ)! Còn cho dân " khoái" ăn những thứ béo, bổ... thì những thể trà càng đậm thì càng tốt cho cái bao tử...
Bình trà ta
Còn ai " théc méc" chi những " tiểu tiết" khác của " trà" thi Bí Bếp đành xin hẹn lại một lúc khác hén!
TB: Mong các bác thư giản... từ từ Bí Bếp sẽ dán hình bổ sung cho bài tản mạn về trà nầy tiếp...