hoacuc
Thành viên
Bài viết: 1597
|
|
« Trả lời #30 vào lúc: 18 Tháng Bảy, 2008, 05:31:56 am » |
|
RƯỢU... PHÍA SAU NHÀ VĂN
Horace (65-8 Trước CN, thi sĩ La Mã chuyên viết thơ tình - ND) từng viết rằng, nhà thơ thế kỷ thứ V, thành Athen, tên là Cratinus, trong một lần tự bào chữa cho thói hay quá chén của mình, đã tuyên bố: “Không có câu thơ nào hay, hoặc bất tử, mà lại được viết bởi những người chỉ uống nước lã”. Cratinus hoàn toàn không nói quá, ít ra là với trường hợp riêng cá nhân ông.
Truyền thuyết kể rằng, ông đã chết vì đau buồn sau khi nhìn thấy một thùng rượu nho thơm ngon, đong đầy, bị vỡ nát. Và các văn nhân đời sau đã tạc dạ ghi lòng nỗi niềm khôn giải đó của ông. Bất cứ nơi nào dính dáng đến chuyện bút nghiên, người ta đều coi rượu là biểu tượng của sự linh lợi hoạt bát, của trí tuệ mẫn cảm. Và từ đời này sang đời khác, hành động uống luôn được người đời sùng kính gần được như một tôn giáo.
Vì sao các nhà văn (từ vĩ đại tới xuềnh xoàng) lại cứ luôn coi uống là môn nghệ thuật thứ hai của đời họ? Thứ nhất, bởi rượu khích lệ họ, mớm cung cho họ, thậm chí tặng họ món quà vô giá là cảm hứng. Năm 1714, một đức giáo chủ trẻ xứ Alexander, trong một bức thư tỏ tình gửi một quý cô, đã khởi đầu thế này: “Nữ Thánh linh thiêng nhất của tôi... Xin hãy hiểu cho cái chứng cứ về sự chân thành của tôi với em: Tôi đã phải uống rất nhiều để nói được lên sự thật”. John Keats, nhà thơ lớn của Anh, đã mô tả trong một bức thư viết năm 1819 rằng, rượu vang đỏ “thanh tao” có thể dựng lên “những quả núi trong đầu óc con người”, và biến một người tầm thường thành nhà hùng biện xuất sắc ngang Hermes (một trong những vị thần núi Olympus, có tài thuyết phục - ND). “Một cốc vang nâu ngon”, Falstaff viết (không nghi ngờ gì nữa, ám chỉ Shakespeare, người hay uống món mỹ tửu này) “...sẽ đưa tôi vào cõi trí tuệ, sấy khô tôi ở đó khỏi mọi ngu ngốc và đần độn, đánh đuổi mọi e dè ám ảnh, làm cho tôi nhanh nhẹn, linh hoạt, quên hết ưu phiền, đi đứng ăn nói đáng yêu, và đặc biệt là cái lưỡi như thể được sinh ra mới, uyên bác vô cùng”. Chà, có lẽ vậy.
Rượu hiếm khi khiến nhà văn đánh giá thấp tài năng của mình. Và say sưa chính là lý do thuận tiện nhất: Thăng hoa thì kiểu gì chẳng là thăng hoa, ai đòi hỏi nguồn gốc? Nhưng có bao giờ bạn viết ra một chuỗi những điều tầm bậy? Vâng, có những người tệ như thế đấy.
Hart Crane (1899 -1932) là một thi sĩ Mỹ danh tiếng lẫy lừng. Nhưng ông cũng viết ra rất nhiều những bài thơ ẩm ương mà chúng ta không thể tưởng tượng được trong những ngày bị rượu đánh gục. Vào đầu những năm 1980, nhà văn Norman Mailer (1923-2007, hai lần đoạt giải Pulitzer, được coi là nhà cách tân của tiểu thuyết Mỹ - ND) được giám đốc Sergio Leone đặt viết một kịch bản phim. Mailer thể hiện quyết tâm của mình bằng cách ở lỳ trong một căn phòng khách sạn với một thùng whiskey. Theo lời một nhà chép tiểu sử, một lần Leone được người của khách sạn gọi đến để chứng kiến cảnh Mailer đang hát, nguyền rủa, và la hét giữa đám vỏ chai. Và ông đã ra về, ký quyết định thanh lý hợp đồng với văn sĩ một cách dứt khoát.
Nhưng nói chung thì các nhà văn khôn ngoan thường biết cách tranh thủ những lúc lâng lâng để sáng tác, trước khi Tửu vương nổi cơn túy cuồng. Kingsley Amis (1922 - 1995, nhà thơ, nhà tiểu thuyết Anh quốc, giải thưởng Somerset Maugham - ND), trong một cuộc trả lời phỏng vấn năm 1975, đã thổ lộ: “Một cốc Scotch là một tàu phá băng nguyên tử trong nghệ thuật”. Còn John Mortimer (1923 - kịch tác gia người Anh - ND) thì nói với tờ New York Times rằng, một muỗng sâm banh buổi sáng sớm cũng khiến đầu óc ông lồng được lên như ngựa vía. Một bạn chung dãy nhà của nhà văn Tennessee Williams (tên thật là Thomas Lanier Williams III, 1911-1983, kịch tác gia Mỹ, giải Pulitzer- ND) kể rằng, ông thường dậy sớm, tự rót cho mình một cốc martini, một chai vang đỏ, và một nồi tướng cà phê, rồi sáng tác hối hả, dựng cả người đánh máy của mình dậy khiến anh ta càu nhàu mãi không dứt.
Một số nhà văn thậm chí còn sử dụng chất cồn với những chiêu thức kỳ lạ hơn. Tennyson (1809-1892, nhà thơ được phong tước của Anh - ND), theo hồi tưởng năm 1893 của James Knowles, bạn thân ông, thì vẫn thường ngồi nhìn chằm chằm vào chai pooctô như nhìn một nhà tư vấn sáng suốt. Khi nhận được bức thư báo tin vinh quang tước phong, ông băn khoăn day dứt mãi, rồi quyết định viết sẵn 2 bức thư, một - chấp nhận, và bức kia từ chối. Sau đó, ông úp cả hai bức lên bàn, uống cạn một chai pooctô đầy, rồi trong cơn say rút hú họa lấy một bức. Đó là bức chấp nhận sắc phong của Triều đình Hoàng gia.
Cuộc đời văn nhân thì vẫn cô đơn muôn trùng, nhưng không có cây bút biết uống rượu nào than thở về điều đó. Trong cuốn hồi ký viết năm 1975 Nơi đây, cõi New York, tác giả Brendan Gill (1914-1997, nhà văn nổi tiếng thuộc khuynh hướng giải thần tượng Mỹ- ND) đã mô tả tòa soạn tạp chí Người New York (nơi ông làm việc trong hơn 40 năm) như một xã hội của những vĩ nhân suốt ngày lướt khướt. Một đồng nghiệp của ông cũng phải thừa nhận rằng, sự nôn oẹ, ngất ngưởng đối với các “nhà” tại đây thì cũng giống như cạo râu hay tắm nước nóng buổi sáng, chỉ là thủ tục trước khi đi làm mà thôi. Edmund Wilson (1895-1972, nhà văn, nhà phê bình văn học Mỹ- ND) vẫn thường uống trong bữa trưa đến khi không đứng được lên. Abbott Joseph Liebling (1904-1963, nhà báo nổi tiếng Mỹ với câu nói: “Tôi viết hay hơn những người viết nhanh hơn tôi, và tôi viết nhanh hơn những người viết hay hơn tôi”- ND) từng có lần vất vả lắm mới thoát chết trong một khách sạn đang cháy, mà vẫn không quên vơ lấy chai rượu ngon đang uống dở. Còn Wolcott Gibbs (1902-1958, cây truyện ngắn Mỹ) thì vẫn thường bị vợ phát hiện ra cảnh đi tắm biển với... những chai martini vùi dưới cát.
Nhưng cũng có thể có bóng tối xung quanh những chiếc chai. Theo John Irving (1942-, cây tiểu thuyết Mỹ- ND), sự suy nhược tàn tạ chính là hậu quả của Hemingway và Fitzgerald (hai đại danh trong làng văn Mỹ) sau những năm tháng “rửa óc trong rượu”. Và sự đáng tiếc này cũng đúng với William Faulkner, Eugene ONeill, và Dylan Thomas, những nhà tư tưởng trong lốt các tiểu thuyết gia. “Tôi là một con chiên Thiên Chúa, và tôi không thể tự tử được”, đó là lời của Jack Kerouac, “nhưng tôi đã định rồi, phải uống đến chết”. Điều ông nói đã được chứng thực, sau khi các bác sĩ khám nghiệm gan từ cái tử thi 47 tuổi đó.
Liệu có một nàng thơ (hay nàng văn) nào trong đám chai, lọ, thùng, hũ các kiểu? Christopher Hitchens, một sinh viên được giao nghiên cứu, và cũng rất có nhiều trải nghiệm trong lĩnh vực “bừng thức” này, nói rằng: “Mối liên hệ thì cũng... chẳng biết thế nào. Nhưng tôi thấy, chữ rượu mạnh hàm chứa trực giác ban sơ của khái niệm cảm hứng do người Hy Lạp phát hiện ra” (chơi chữ “spirit”- “tinh thần”, “linh hồn” cũng có nghĩa nữa là “rượu mạnh”- ND).
Tình trạng bung biêng, nếu không phải là nguồn gốc của sáng tạo, thì cũng tạo ra phút tinh hoa phát tiết cho não bộ để con người có những hành động khác thường. Nó lưu lại thứ ánh sáng chói lòa của cuộc sống dưới dạng bảng hòa màu êm ái. Nó làm dịu đi nỗi âu lo thống khổ, và kích thích những suy tư tích cực. Nó sưởi ấm tâm trí và làm tan ra những ý tưởng vốn lâu nay đóng băng trong tăm tối. Thành quả của rượu không cho con người sự thấu cảm, nhưng giúp chúng ta phát hiện ra hang ổ của nó. Và rượu có thể cho phép con người nghe lén được những tiếng nói rất mơ hồ ngay từ trong đáy tim mình.
Vấn đề chỉ còn là làm sao để tìm ra giá trị vàng giữa những cơn bừng tỉnh và chìm đắm lẫn lộn. Niềm tin của Cratinus rằng chỉ có những câu thơ dở mới được viết khi thiếu rượu ngon, thì có vẻ hơi quá phấn khích để tin. Nhưng những vần thơ hay nhất thì, không nghi ngờ gì nữa, sẽ vút lên khi rượu trong chai đang còn ở mức thấp, để thần Dionysus còn đủ vững vàng khiêu vũ theo các giai điệu nhiệm màu của tiếng đàn lia thần Apollo ban ra
JOSEPH TARTAKOVSKY* LÃ THANH TÙNG (dịch từ Latimes.com)
|