Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 05:38:13 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Kế sách giữ nước thời Lý - Trần  (Đọc 79083 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2008, 08:01:15 pm »


Tên sách: Kế sách giữ nước thời Lý-Trần
Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
Năm xuất bản: 1995
Số hoá: ptlinh, chuongxedap




Chỉ đạo nội dung:
Trung tướng, PGS, PTS HOÀNG PHƯƠNG

Tác giả:
Thượng tá LÊ ĐÌNH SỸ
PGS, PTS NGUYỄN DANH PHIỆT



                       Đoạt sáo Chương Dương độ
                       Cầm Hồ Hàm Tử quan
                       Thái bình tu trí lực
                       Vạn cổ thừ giang san.

                                                     TRẦN QUANG KHẢI

                  Dịch:

                       Chương Dương cướp giáo giặc
                       Hành Tử bắt quân thù.
                       Thái bình nên gắng sức,
                       Non nước ấy nghìn thu!





LỜI GIỚI THIỆU

Kế tục sự nghiệp của tổ tiên, nhân dân Việt Nam đang tập trung tinh thần và lực lượng vào việc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong kỉ nguyên mới - kỉ nguyên Độc lập, Tự do và Chủ nghĩa xã hội

Kế thừa truyền thống là quy luật của phát triển. Sức mạnh của truyền thống được phát huy dưới ánh sáng của đường lối đổi mới đang là động lực của công cuộc xây dựng sự giầu mạnh của Tổ quốc.

Tìm hiểu truyền thống, ôn lại những bài học của quá khứ giúp ta hiểu thêm những nhiệm vụ mới, giúp ta giải quyết đúng những vấn đề đang đặt ra với đất nước và xã hội. Ngược lại, từ những thắng lợi ngày nay, nhìn lại quá khứ, ta càng thấy rõ giá trị lớn lao của truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc ta, thấy rõ hơn những quy luật vận động của lịch sử và những nguyên nhân tạo thành sức mạnh của một dân tộc đất không rộng, người không đông, đã đương đầu thắng lợi chống lại mọi thế lực xâm lược, chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa nhưng vẫn có một bản sắc văn hóa, một lối sống riêng.

Với ý nghĩa ấy Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xuất bản cuốn:

KẾ SÁCH GIỮ NUỚC THỜI LÝ - TRẦN

nhằm góp phần vào công tác nghiên cứu khoa học và giúp bạn đọc hiểu thêm lịch sử, gợi những suy nghĩ về những vấn đề của sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Triều Lý (1009 - 1226) và Triều Trần (1226 - 1400) là hai triều đại lớn trong lịch sử dân tộc ta. Thời Lý - Trần được xem là một giai đoạn lịch sử oanh liệt nhất thời trung đại, giai đoạn mà dân tộc ta đã vươn lên mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, viết nên những trang sử chói lọi trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Tuy mỗi triều đại có những đặc điềm phát triển riêng, nhưng xét chung thục tiễn lịch sử của dân tộc các giai đoạn Lý-Trần, ta đều thấy, khi các triều đại đang lên, nhà nước phong kiến còn đóng vai trò tích cực, tồ tiên ta thường xuyên chăm lo xây dựng Tổ quốc, làm cho dân giầu nước mạnh, sẵn sàng đối phó với nguy cơ xâm lược.

Trong các thế kỉ XI và XIII, nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng các thế lực xâm lược lớn mạnh. Thế kỷ XI, quân dân Đại Việt đánh tan 30 vạn quân xâm lược Tống; thế kỷ XIII, trong vòng 30 năm (1258-1288), dân tộc ta ba lần đương đầu với những đạo quân xâm lược khét tiếng nhất thời đại là đế quốc Nguyên - Mông.

Thắng lợi vĩ đại của công cuộc chống giặc giữ nước thời Lý-Trần là kết quả tất yếu của cả quá trình chuẩn bị lực lượng, xây dựng tiềm lực đất nước. Điều đó chứng tỏ, những nhà lãnh đạo các vương triều thời Lý-Trần đã nắm chặt hai nhiệm vụ dựng nước và giữ nước, thi hành chính sách đối nội- đối ngoại đúng đắn. Hệ thống tư tưởng chính sách của ta có giá trị như những học thuyết.

Với tinh thần tôn trọng lịch sử, tôn trọng sự thật, các tác giả đã cố gắng vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô gích trong khi nghiên cứu, phân tích, và qua đó, làm sáng tỏ thêm những quy luật, những kế sách lớn, nhưng bài học kinh nghiệm hay của tổ tiên ta.

Cuốn KẾ SÁCH GIỮ NƯỚC THỜI LÝ-TRẦN gồm sáu chương và phần kết luận do hai tác và Lê Đình Sỹ và Nguyễn Danh Phiệt biên soạn và được phân công như sau:

- Lê Đình Sỹ các chương I, IV và V.
- Nguyễn Danh Phiệt các chương II, III và VI.

Cuốn sách ra mắt bạn đọc là kết quả của sự nỗ lực rất cao của các tác giả dưới sự chỉ đạo của Trung tướng Hoàng Phương, nhưng đây là vấn đề lớn của một giai đoạn lịch sử rất hào hùng của dân tộc ta, cho nên khó tránh khỏi thiếu sót. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia cùng với Viện Lịch sử quân sự và các tác giả mong nhận được ý kiến phê bình của bạn đọc, đặc biệt là các thuyết gia về giai đoạn lich sử này.

Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

   
                                                                                                    Tháng 12 năm 1994
   
                                                                                           NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
                                                                                             VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2008, 08:27:18 pm »


CHƯƠNG 1
NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI LÝ-TRẦN

I. LÃNH THỔ QUỐC GIA, VỊ TRÍ ĐỊA LÝ QUÂN SỰ

Nước Đại Việt thời Lý-Trần là một quốc gia dân tộc độc lập có chủ quyền. Lãnh thổ Đại Việt về đại thể là vùng Bắc Bộ và một phấn Trung Bộ ngày nay. Phía đông có biển và các hải đảo; phía bắc cùng biên giới với Trung Quốc ở vùng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây), lúc đó thuộc nhà Tống và nhà Nguyên đồng thời giáp với vương quốc Nam Chiếu (Đại Lý) ở vùng Vân Nam; phía tây giáp lãnh thổ các bộ tộc Lão Qua, Chân Lạp; phía nam giáp vương quốc Chăm Pa (Chiêm Thành). Từ khi giành được độc lập vào đầu thế kỷ X cho đến cuối thế kỷ XIV nhân dân Đại Việt đã trải qua một quá trình lâu dài, gian khổ của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Sau hơn 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, qua nhiều lần chia cắt, tách nhập, từ Nam Việt của Triệu Đà, đến Giao Chỉ bộ thời Hán, An Nam đô hộ phủ thời Đường, một phần lãnh thổ ở phía bắc nước ta bị phong kiến ngoại bang, bấy giờ là nhà Nam Hán, chiếm giữ. Từ khi Khúc Thừa Dụ nổi dậy năm 905, quyền tự chủ của dân tộc được lập lại trên phạm vi hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, tức vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ ngày nay. Các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê kế tiếp nhau củng cố nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Kinh đô nước ta thời Ngô là Cổ Loa (Đông Anh - ngoại thành Hà Nội). Thời Đinh, Lê, tên nước là Đại Cồ Việt, kinh đô ở Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình). Đinh Bộ Lĩnh chia nước thành 12 đạo hành chính, Lê Hoàn đổi đạo thành bộ và cho các hoàng tử, thân vương trấn trị ở các vùng. Dưới triều Tiến Lê, phía bắc, Lê Hoàn đánh tan quân Tống, phía nam, đánh bại quân Chiêm giữ yên bờ cõi. Cơ đồ nhà Tiền Lê được xây dựng vững vàng trên toàn bộ đất nước, bấy giờ chủ yếu là vùng trung du, đổng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ. Các vùng rừng núi xa xôi còn ràng buộc lỏng lẻo, giao cho thổ tù, châu mục bản địa coi giữ, dưới sự quản lý của triều đình. Tuy nhiên, biên giới phía đông bắc đất nước đã khá rõ ràng, vùng biên giới từ Vĩnh An (Móng Cái) đến Khâm Châu và từ Quan Lang (Ôn Châu) đến Ung Châu đã được hai bên Tống, Việt kiểm soát. Cương vực phía nam Đại Cồ Việt là Hoành Sơn (Kỳ Anh, Hà Tĩnh).

Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập nên vương triều Lý. Thấy Hoa Lư chật hẹp không phù hợp với kinh đô của một quốc gia độc lập đang trên đà phát triển, năm 1010, Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) dời đô ra thành Đại La và đổi tên là Thăng Long, để “mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau” (Chiếu dời đô). Từ đấy Thăng Long là kinh đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt, một lần nữa khẳng định sự trưởng thành của quốc gia độc lập tự chủ.

Nhà Lý rất quan tâm bảo vệ non sông gấm vóc toàn vẹn lãnh thổ và độc lập, tự chủ của dân tộc. Cuộc đấu  tranh vì chủ quyền lãnh thổ diễn ra dài lâu và liên tục. Phía bắc, nhà Tống thường xuyên mưu toan mở rộng lãnh thổ, nhiều lần cho quân xâm lấn và phát động chiến tranh xâm lược. Trong thời kì nhà Tống âm mưu chiếm giữ đất Quảng Nguyên (Cao Bằng), nhà Lý đã kiên trì đấu tranh, cho nên sau cuộc xâm lăng 1076-1077 hai năm, nhà Tống buộc phải trả lại Quảng Nguyên cho ta. Cương vực Đại Việt ở phía bắc từng bước ổn định. Biên giới từ Cao Bằng về phía đông lúc đó đã rõ ràng, gồm các châu Tây Bình, Lộc Bình và huyện An Viễn. So với ngày nay phía gần biển, lãnh thổ Đại Việt còn ăn sâu vào tỉnh Quảng Đông đến gần vịnh Khâm Châu1; còn phía tây Cao Bằng, cư dân Đại Việt sống thành từng động, sự ràng buộc của triều đình chưa chặt chẽ.

Thời nhà Trần, về cơ bản cương vực phía bắc Đại Việt không thay đổi. Sau những lần bị giặc Nguyên - Mông xâm lược, nhà Trần chú ý nhiều đến biên giới; việc kiểm soát các châu, động phía bắc và đông bắc càng chặt chẽ hơn thời Lý.

Ở phía nam, vương quốc Chiêm Thành thường đem binh thuyền quấy phả vùng biên giới và ven biển của ta. Các vua Lý, vua Trần đã nhiều lần phải động binh đánh dẹp. Trong đợt tiến công năm 1069, vua Chế Củ bị bắt, Chiêm Thành xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh. Đến đời Lý Thái Tông (1028 - 1054), lãnh thổ phía nam Đại Việt đã gồm cả nửa phần tỉnh Quảng Trị bây giờ. Năm 1075, Lý Nhân Tông cử Tể tướng Lý Thường Kiệt đi kinh lý vùng đất mới, vẽ bản đồ hình thể núi sông, rồi đổi châu Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh. Cư dân phía bắc được phép vào khai khẩn ruộng hoang và lập các trang hộ2. Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân (con vua Nhân Tông) cho vua Chiêm là Chế Mân. Chế Mân đem hai châu Ô và Lý dâng Đại Việt để làm lễ vật dẫn cưới.

Vua Anh Tông sai Hành khiển Đoàn Nhử Hài vào Ô, Lý để hiểu dụ đặt quan cai trị, cấp ruộng cho dân và thu thuế, đồng thời đổi tên hai châu đó thành Thuận Châu và Hóa Châu. Như vậy lãnh thổ Đại Việt vào đầu thế kỷ XIV đã vươn tới tỉnh Thừa Thiên ngày nay.

Xu hướng khai phá đất hoang để tăng diện tích cư trú và canh tác ra vùng biển vẫn được tiến hành liên tục. Vùng đất phù sa sông Hổng và các sông lớn khác dẩn dần trở thành đồng bằng và làng xóm của người Đại Việt. Chẳng hạn, vùng Bố Hải Khẩu đầu thế kỷ X hãy còn là đất biển, đến đầu thế kỷ XI, đã trở thành đồng ruộng trù phú. Năm 1038, Lý Thái Tông đã tới đây cày tịch điền. Đó là thị xã Thái Bình ngày nay. Dưới triều Lý - Trần, công cuộc khẩn hoang, trị thủy được tiến hành quy mô, đất canh tác ngày càng mở rộng, dân cư ngày một đông đúc. Điều này được phản ánh ở nhiều sử sách trong và ngoài nước.

Sách An Nam chí nguyên của Trung Quốc chép: “Xứ Giao Chỉ dân cư trù mật, đất không đủ cày cho nên người trước đắp đê cao ở hai bên sông ngòi để phòng nước lụt. Đất ở ven biển bị nước mặn lấn vào, bọn quý tộc thế gia muốn chiếm riêng đất đó, đều tự ý đắp đê để ngăn nước mặn rồi gieo trồng cày cấy bên trong, như thế là để yên dân và khai thác hết mối lợi của đất đai... Đê cao ba thước rộng năm trượng, đặt hà đê chánh và phó sứ để trông coi... Từ đó thủy tai không còn nữa mà đời sống dân được sung sướng, đất không bỏ sót nguồn lợi nào”3.

Chính vì thế lưu vực của các con sông lớn ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã trở thành địa bàn cư trú chủ yếu của cư dân thuở ấy. Nước Đại Việt vốn từ xưa đã bao gồm một cộng đồng dân tộc nhiều tộc người, trung tâm là người Việt. Ở vùng trung du và nhất là vùng núi là địa bàn sinh sống của các tộc khác như Mường, Tày, Thái, Mèo, Nùng, Dao, v.v.. Thời Lý, cư dân vùng rừng núi gần biên giới phía bắc là người Tày, Mán, Nùng... sinh sống. Họ cư trú thành từng động, bản do các tộc trưởng có uy tín đứng đầu. Bấy giờ, các dòng họ có thế lực như Tôn, Hoàng. Thân, Vi, Nùng. . . đã từng làm chủ các châu động. Triều đình Lý vừa dùng đức vừa dùng uy để vỗ về phủ dụ các tộc trưởng địa phương. Chính nhờ vậy mà họ đã có đóng góp lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược hồi thế kỷ XI. Như vậy từ thời Lý, Đại Việt đã là một quốc gia đa tộc có đa số, có thiểu số, phân bố khắp lãnh thổ gồm miền núi, trung du và đồng bằng. Tuy trình độ phát triển có khác nhau, nhưng từ sớm họ đã cố kết, đùm bọc, chung lưng, đấu cật cùng nhau dựng nước và giữ nước.

Sách Đảo di chí lược của Trung Quốc đời Nguyên có ghi: “Nước Đại Việt... đất rộng người đông, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần lớn phì nhiêu”4. Sách An Nam chí lược cũng phản ánh: Nước Đại Việt có “dân cư đông đúc”. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đời Lý thiên hạ chia thành 24 lộ; Hành khiển dâng số hộ gồm 3.300.100 đinh. Đời Trần chia nước thành 12 xứ; viện quan dâng số vàng, hạng đại nam và trung nam có 4.900.000 đinh, hạng hoàng nam có 2.104.300 đinh5. Như vậy, theo Nguyễn Trãi, thời Trần Đại Việt.đã có trên 7 triệu đinh nam (?) Bấy giờ, do nhu cầu cần nắm vững nhân đinh để tuyển quân, bắt phu và thu thuế, Nhà nước Lý - Trần quản lý chặt chẽ số người bằng phương pháp lập sổ hộ tịch. Phan Huy Chú cho biết, “buổi đầu đời Trần làm sổ hộ tịch, cứ hằng năm lại làm kế tiếp, phép làm rất rõ và kỹ vì noi theo phép cũ của nhà Lý nên như vậy”6. Tuy rằng sử sách xưa không ghi chép cụ thể dân số Đại Việt là bao nhiêu, nhưng chúng ta có thể đoán rằng dân số nước ta thời Lý - Trần khoảng từ 5 đến 7 triệu.

Theo sử cũ, Đại Việt là một xứ sở phồn thịnh. Đó là một nước, như Cao Hùng Trưng viết, ruộng đất màu mỡ, cấy lúa, trồng dâu và chăn nuôi đều thích nghi cả... Muối thì trắng sạch như tuyết. Cánh chim trả thì đỏ tía, đẹp mắt. Vàng thì sẵn ở các châu Phú Lương và Quảng Uyên. Hạt trai thì sáng, sẵn ở các xứ Tĩnh An và Vân Đồn. Còn san hô và đồi mồi thì sẵn ở trong biển”7. Sách Lịch triều hiến chương loại chí cho biết, “nước Đại Việt là nơi đô hội ở phương Nam, ruộng cấy lúa tốt, đất trồng dâu tốt, núi sẵn vàng bạc, biển sẵn châu ngọc, người ở đâu đến làm ăn buôn bán cũng làm giàu được cả”8.

Đất nước Đại Việt đông dân và giàu có, lại nằm ở một vị trí địa lý quan trọng, trên đường giao lưu từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, từ đất liền ra biển cả… đã lọt vào cặp mắt dòm ngó, đầy tham vọng của các thế lực xâm lược láng giềng hết thế kỷ này đến thế kỷ khác. Lịch sử đã để lại những bài học quý giá về mặt này. Phan Huy Chú viết: “Cái tiếng phong phú ấy đồn đi xa, nên Trung Quốc lúc nào cũng nghĩ cách chiếm đất nước mình, đặt làm quận huyện để cai trị đã từ lâu rồi. Lúc chưa lấy được thì nghĩ cách để lấy; lúc đã lấy được rồi thì không chịu bỏ ra nữa”9. Từ thế kỷ X, nước ta đã giành được độc lập, nhưng vẫn thường xuyên bị các thế lực phong kiến phương Bắc tìm cơ hội để thôn tính, đặt quyền cai trị và mở đường tiến xuống phía nam. Tham vọng biến Đại Việt thành các quận huyện nội thuộc vẫn chưa dứt trong tư tưởng của nhiều triều đại phong kiến thống trị ở Trung Quốc.

Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII, các triều đại Nam Hán, Tống và Nguyên đã bảy lần gây binh lửa xâm lược Đại Việt: nhà Nam Hán hai lần (các năm 931 và 938), nhà Tống hai lần (các năm 981 và 1075 - 1077), nhà Nguyên - Mông ba lần (các năm 1258, 1285 và 1288). Triều đại này bị đánh bại nhiều lần mới chịu thôi, thì triều đại sau trong các thế kỷ sau, lại nuôi tham vọng xâm lược mới. Nhà Nam Hán rồi nhà Tống thất bại, buộc vua Tống phải thốt lên: “Đừng thấy Giao Chỉ nhỏ mà xem thường” và đã có lúc chán chường: “Nước Giao Chỉ nhỏ, thủy thổ độc dữ, dân chúng gan lý liều chết, có lấy được cũng vô ích” (Tống sử), thế nhưng đến nhà Nguyên tham vọng bành trướng lại trỗi dậy, liên tục gây ra ba cuộc chiến tranh. Kết quả cả ba lần đều thất bại để rồi “việc Nam chinh luôn luôn như ngứa ngáy trong tim” Hốt Tất Liệt.

Ở mỗi cuộc chiến tranh, hoàn cảnh của kẻ thù một khác. Giặc Tống gây chiến tranh với Đại Việt trong lúc nội tình đang đầy rẫy khó khăn, muốn thông qua chiến tranh để ổn định nội trị. Giặc Nguyên - Mông xâm lược nước ta trong giai đoạn vó ngựa của chúng đã tung hoành khắp các lục địa Âu - Á. Dẫu trong hoàn cảnh nào, kẻ thù dân tộc luôn luôn là những thế lực xâm lược lớn mạnh gấp ta nhiều lần. Nhà Tống huy động 30 vạn quân cho chiến tranh, trong khi quân đội nhà Lý có hơn 10 vạn. Trong cuộc xâm lăng năm 1285, quân Nguyên đông hơn nửa triệu, còn triều đình nhà Trần lúc động viên cao nhất cũng chỉ có 30 vạn quân. Tuy nhiên, trong các cuộc chiến tranh nói trên, nhân dân ta đều giành thắng lợi, đó là kết quả của sự nỗ lực phi thường của cả dân tộc, không chỉ trong giai đoạn chiến tranh mà cả trong giai đoạn xây dựng đất nước. Trần Quốc Tuấn khái quát quy luật của cuộc kháng chiến chống Nguyên rằng: tóm lại, giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, lấy đoản chế trường là việc thường của binh pháp”10.

Cùng với nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, nước Đại Việt còn thường xuyên bị các thế lực phía nam quấy nhiễu, cướp phá. Thời Lý, năm 1069, quân Chiêm Thành quấy phá biên giới; năm 1128, Chân Lạp đem 2 vạn quân vào cướp Nghệ An; năm 1132, Chân Lạp và Chiêm Thành đánh phía nam, tiến đến tận Nghệ An... Thời Trần, quân Chiêm Thành liên tục trong các năm 1353, 1361, 1365, 1367, 1380, 1383, 1389 đã xâm lấn Hóa Châu, Lâm Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Oai. Đặc biệt nghiêm trọng dưới triều vua Chế Bồng Nga, quân Chiêm ba lần cướp phá kỉnh thành Thăng Long vào các trăm 1371, 1377 và 1378.

Tình hình đất nước và kẻ thù trên đây đòi hỏi dân tộc ta trong tiến trình xây dựng đất nước phải thường xuyên cảnh giác trước các thế lực xâm lược; lo sao cho đất nước luôn luôn có sẵn phương lược và đủ sức mạnh để bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
____________________________________________
1. Tây Bình là vùng thị xã Lạng Sơn, Lộc Châu, tức Lộc Bình ngày nay. Theo Quảng Đông chí, ở Khâm Châu có con sông mang tên gọi cửa người “An Nam”. Sử cũ ghi rằng, Mạc Đăng Dung đem các động Tư Lẫm, Cổ Sum, Liễu Cát, La Phù, Kim Lặc thuộc hai đô Như Tích và Chiêm Lãng hiến cho nhà Minh. Sách Khâm Châu chí chép, mấy châu ấy đời Tống là đất của họ Hạng người Việt. Đời Minh Tuyên Đức, đất ấy thuộc triều Lê, sau đó, Mạc Đăng Dung hiến cho vua Minh để cầu phong.
2. Châu Địa lý, đồi thành Lâm Bình, đời Trần Duệ Tông là Tân Bình, thời Lê Trung Hưng là Tiên Bình, gồm đất phủ Quảng Ninh và Lệ Thủy (Quảng Bình). Châu Bố Chính thời thuộc Minh, đổi là Trấn Bình, đời Lê chia thành hai châu Nội Bộ Chính và Ngoại Bố Chính thuộc Quảng Trạch, Bố Trạch và Tuyên Hóa (Quảng Bình). Châu Minh Linh đến đời Lê vẫn là Minh Linh, sau là đất Vĩnh Linh, Do Linh (Quảng Trị).
3. Cao Hùng Trưng An Nam chí nguyên, tài liệu dịch của Viện Lịch sử quân sự (VLSQS.).
4. Uông Đại Uyên: Đảo di chí lược, tri phục trai toàn thư, tr.3.
5. Nguyễn Trãi Toàn tập. Nxh Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969, tr 189.
6. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, Hà Nội, 1957, t.IV, tr.49.
7. Cao Hùng Trưng: An Nam chí nguyên, bản dịch, tư liệu VLSQS.
8. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, Hà Nội. 1961, t.I, tr.33.
9. Sđd. tr. 35.
10. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Sử học, Hà Nội, 1967, t.II, tr. 80.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2008, 11:50:08 pm »


II. CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

Sau chiến công lớn trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng vương và xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ. Từ đây một bộ máy chính quyền nhà nước trung ương được thiết lập và từng bước kiện toàn trên đất nước ta. Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân, xây dựng một nhà nước thống nhất. Từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV là một giai đoạn lịch sử quan trọng, trong đó nước Đại Việt đã có những bước tiến đáng kể trên lĩnh vực xây dựng hệ thống bộ máy nhà nước và củng cố cơ cấu xã hội - chính trị của nó.

Nhà nước phong kiến tập quyền Đại Việt gồm một hệ thống chính quyền các cấp từ triều đình đến tận các làng, xã. Triều đình trung ương là cơ quan tập trung quyền lực cao nhất trên mọi mặt hoạt động của đất nước, kiểm soát các địa phương trông qua hệ thống chính quyền các cấp.

Kế thừa sự nghiệp nhà Tiền Lê, nhà Lý xây dựng chính quyền theo lối chính quy. Đứng đầu là Vua, tiếp đến các đại thần văn, võ trong triều chia thành chín bậc1. Bộ máy hành chính địa phương gồm các phủ, lộ, huyện và các hương, giáp. Ở vùng xa có các châu, trại. Lý Thái Tổ chia nước thành 24 lộ và hai trại.

Sang thời Trần, nhà nước trung ương tập quyền được khôi phục và phát triển trên mọi phương diện. Các cơ quan hành chính và chuyên môn sớm được thiết lập, mở rộng và quản lý chặt chẽ hơn trước. Theo thể chế nhà Trần, bên cạnh kinh đô Thăng Long còn có phủ Thiên Trường, được xây dựng và bảo vệ gần như một kinh đô thứ hai. Đó là quê hương, là nơi ở của thượng hoàng. Nhà Trần thực hiện cải tổ hành chính, chia cả nước thành 12 lộ, hai trại và đặt thêm năm phủ, sáu châu. Ở các địa phương, những người nhiệm chức đến cấp xã đều nằm trong bộ máy chính quyền nhà nước2.

Hệ thống chính quyền nhà nước Lý - Trần về hình thức được mô phỏng theo mô hình Đường - Tống, nghĩa là theo mô hình một bộ máy quan liêu đông đảo từ trên xuống dưới, gồm hai bộ phận: quan lại trung ương (quan trong) và quan lại địa phương (quan ngoài). Tuy nhiên, sự mô phỏng đó cũng chi theo một chừng mực nhất định, chẳng hạn ở tên gọi các tước hiệu, phẩm hàm hay phẩm phục quan chức... còn việc tổ chức, tuyển mộ, sắp đặt và sử dụng quan lại của Đại Việt có nhiều điểm khác biệt. Tính độc lập, tự chủ ở lĩnh vực này thể hiện trên quan điểm của triều đình cũng như trên thực tế. Sử gia Ngô Sĩ Liên viết rằng: “Triều thần đời Minh Tông là Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh có ý muốn thay đổi chế độ quan lại. Vua nói: Nhà nước đã có phép tắc nhất định, Nam Bắc khác nhau, nếu nghe theo kế của kẻ học trò mặt trắng trên đường tiến thân thì sinh loạn ngay”3. Hoặc như vua Trần Nghệ Tông nói: “Triều trước dựng nước đã có pháp độ, không nên theo chế độ nhà Tống vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không phải noi nhau”4.

Nhà nước phong kiến Lý - Trần là nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phương Đông. Đứng đầu là vua, bên cạnh vua là một bộ máy quan lại gồm tầng lớp quý tộc quan lại văn, võ làm việc trong các cơ quan hành chính và chuyên môn.

Vua đứng đầu triều đình, có quyền lực tối cao trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự của đất nước.

Ở nước ta, cũng như nhiều nước phương Dông khác, vua là “thiên tử” (con trời), là người “thế thiên hành đạo” (thay trời trị nước). Trên danh nghĩa vua là đại diện của thượng đế trước nhân dân, đồng thời cũng là người đại diện của nhân dân trước thượng đế. Vua có uy quyền tuyệt đối trên các hoạt động xã hội, có quyền phong thần cho những người có công với nước, nhất là đối với những anh hùng giữ nước được nhân dân thờ phụng. Đó chính là một đặc điểm phương Đông, là sự kết hợp giữa vương quyền với thần quyền, giữa chính trị và tôn giáo.

Một quyền hạn to lớn, đồng thời cũng là một chức năng nặng nể của các vua thời Lý - Trần là chức năng quân sự. Ở lĩnh vực này các vua thường giữ vai trò là thủ lĩnh quân sự của cộng đồng dân tộc, là người có quyền quyết định trong việc tổ chức và phát động chiến tranh, hoặc xuống chiếu huy động quân đội trong nước đánh giặc. Khi có chiến tranh, vua hoặc các hoàng tử thường trực tiếp “tự làm tướng” cầm quân. Nhiều vị vua thời Lý - Trần đã thân chinh chỉ huy các đạo quân đi đánh Chiêm Thành quấy phá biên giới, hoặc thực hiện các cuộc hành quân lớn đánh dẹp các thế lực chống đối. Thậm chí, có những vị vua đã bỏ mình nơi trận mạc, như Trần Duệ Tòng hy sinh trên đất Chiêm năm 1377. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, chống Nguyên - Mông, các hoàng tử nhà Lý, hoặc các vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đã từng chỉ huy một cánh quân lớn đánh giặc. Vua Trần Anh Tông không ngại tuổi già đã thân cầm quân đi dẹp giặc Ngưu Hống. Vua muốn thực hiện chức năng và quyền uy của mình, đồng thời cũng để làm gương trước các quần thẩn, tướng sĩ trong việc trị nước và giữ nước. Ngay trong lúc đất nước thanh bình, các vua thời Lý - Trần vẫn thường xuyên xuống chiếu nhắc nhở các tướng sĩ không được lơ là việc phòng thủ, phải chăm lo luyện rèn binh sĩ, đóng chiến thuyền và rèn đúc vũ khí. Lý Nhân Tông, vị vua anh hùng đã kinh qua cuộc kháng chiến chống Tống, trước khi mất không quên dặn dò các đại thần: “nên sửa sang giáo mác để đề phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh lệnh ta dù nhắm mắt cũng không di hận”5. Vua Lý Anh Tông trước khi về già, cũng đã căn dặn thái tử thay mình trị vì đất nước: “Nước ta non sông gấm vóc, nhân tài tuấn kiệt, đất thiêng, châu ngọc bảo bối không cái gì không có, nước khác không thể nào ví được. Con hãy nên giữ gìn cẩn thận”6. Vua Trần Anh Tông khi biết tin Trần Quốc Tuấn bị bệnh nặng khó qua khỏi, đã đến bên giường bệnh lo lắng hỏi: “Chẳng may thượng phụ không qua khỏi, giặc phương Bắc lại sang, thì kế sách làm sao?”7. Các vị minh quân thời bấy giờ thường quan tâm nhiều đến việc lực chọn nhân tài, bạt dụng lương tướng, lập giảng võ đường không quên xuống chiếu cho các quý tộc tôn thất, các tướng lĩnh cao cấp phải năng nghiên cứu và học tập binh thư, binh pháp. Chính đích thân các vua Lý, vua Trần đã cùng các hoàng tử chuyên tập binh pháp, học cưỡi ngựa và bắn tên ở xạ đình để rèn luyện và nêu gương mình kể cả trong lúc hòa bình hoặc khi sắp có chiến tranh. Những điều trên đã chứng tỏ nhà nước Lý - Trần mà người đại diện là vua vẫn thường xuyên quan tâm và chăm lo đến nhiệm vụ giữ nước.

Sau vua là khối quý tộc, quan lại - tầng lớp thượng lưu trong bậc thang xã hội, trong đó, đại đa số là giới quý tộc tôn thất, nắm giữ tất cả những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước.

Dưới triều Lý, các hoàng tử, thân vương và công chúa được phong nhiều chức tước cao và được giao những trọng trách, nhất là trong lĩnh vực quân sự, như các chức đô thống, đại nguyên soái, đại tướng chỉ huy các đạo quân viễn chinh, phụ trách cấm binh bảo vệ kinh thành, có quyền xét xừ các vụ trọng án hoặc đi trấn trị ở các địa phương quan trọng. Các vương hầu được phái đi trấn trị, kiểm soát các châu, lộ chủ yếu, bảo đảm sụ trung thành về mặt chính trị của các địa phương đối với triều đình trung ương. Đối với các châu miền núi xa xôi, kể cả các vùng có các tộc người thiểu số, nhà Lý đã dùng chính sách “nhu viễn”, ràng buộc về hôn nhân, gả các công chúa (như Khâm Thánh, Thiên Dung, Bình Dương, Chiêu Thành, Trường Minh... ) rồi phong tước cho các tù trưởng địa phương. Những phò mã này đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp vua bảo vệ vùng biên giới. Phò mã Thân Cảnh Phúc có công lớn trong cuộc chiến tranh chống xâm lược Tống lần thứ hai.
_______________________________________
1. Từ nhất phẩm đến cửu phẩm, gồm chín bậc, có “chánh” và “tòng”, ví dụ chánh nhất phẩm, tòng nhất phẩm xuống đến chánh cửu phẩm tòng cửu phẩm.
2. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1242 “các xã, sách thì đặt chức đại, tiểu tư xã, từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người kiêm 3, 4 xã; cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan” Sđd, t.II, tr. 18-19.
3. Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Sử học, Hà Nội, 1967, t.I, tr. 145.
4. Sđd, t.I, tr. 158.
5. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd t.I, tr. 257
6. Việt sử lược. Nxb Văn-Sử-Địa, Hà Nội. 1960. tr. 152.
7. Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, t.II, tr. 81
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2008, 10:43:41 pm »



Dưới triều Trần, bộ máy quan lại được tổ chức quy củ và có hệ thống hơn triều Lý, gồm hai bộ phận quan trong (ở trung ương) và quan ngoài (ở địa phương). Tầng lớp quý tộc, tôn thất phát triển hơn và thể hiện rõ vai trò của mình trong sự nghiệp giúp vua giữ nước. Các vương hầu nhà Trần, ngoài việc nắm giữ những chức vụ chủ chốt ở triều đình, còn được phân phong đi trấn trị các vùng trọng yếu. Vương hầu có quyền lực lớn ở vùng mình trấn trị. Họ còn được phân phong thái ấp có phủ đệ và được tồ chức đội quân riêng. Lúc bình thường họ sống ở phủ đệ, lúc hữu sự họ về kinh đô. Sử thần Ngô Sĩ Liên chép: chế độ nhà Trần, vương hầu đều ở phủ đệ riêng tại các hương, khi có triều yết thì về kinh, xong việc lại trở về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (Hải Hưng), Thủ Độ ở Quắc Hương (Mỹ Lộc, Nam Hà), Quốc Chẩn ở Chí Linh (Hải Hưng)... Đến lúc vào triều làm tể tướng mới thống lĩnh tất cả việc thiên hạ...”1.

Các vương hầu quý tộc thời Lý - Trần được quyền trấn trị ở các địa phương, có thái ấp, điền trang và quân đội riêng. Yếu tố phân tán còn tồn tại trong xã hội phong kiến thời Lý - Trấn, nhưng nó luôn luôn bị hạn chế bởi tính chất xã hội cùng với những chính sách ràng buộc của nhà nước tập quyền. Vương hầu có quyển thừa ấm, tức kế tiếp được phong tước, nhưng không được tập chức. Họ không được quyền kế thừa thái ấp. Về nguyên tắc, ruộng đất ở thái ấp là quốc hữu, do nhà nước mà đại diện là vua quản lý. Trong nước, đại bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, giao cho làng xã quản lý, sử dụng, có nhiệm vụ nộp tô thuế. Như vậy xu hướng tập quyền là xu hướng chủ đạo, mạnh mẽ trong xã hội thời Lý - Trấn.

Chế độ phong kiến Lý - Trần mang đậm tính dân tộc chịu ảnh hưởng của lễ nghi phong kiến phương Bắc, nhưng tính chuyên chế chưa cao, khoảng cách giữa vua và tôi, giữa quý tộc và bình dân chưa thật lớn. Lối sống trong sinh hoạt chốn triều đình còn thể hiện tính dân chủ của cộng đồng. Trần Thánh Tông cho phép các vương hầu, tôn thất xong buổi chẩu vào trong cung điện và lan đình, cùng nhau ăn uống; hoặc khi tối trời không về thì đặt gối dài, chăn rộng cùng nghỉ liền giường với nhau, để tỏ tình thân ái; chỉ khi có lễ lớn, tân khách hay yến tiệc, mới phân biệt ngôi thứ.... Hoặc như Trần Quốc Tuấn đã từng nói với các tướng sĩ: “Lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười”. Điểu đó chứng tỏ sự đổng tâm, hòa thuận trong nội bộ chính quyền, làm tăng thêm sức mạnh của vương triều tạo điều kiện cố kết nhân tâm trong cả nước, nhất là khi cần huy động quân đội của các vương hầu quý tộc Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Năm Nguyên  Phong (đời Trần Thái Tông), giặc Nguyên sang cướp, vương hầu đều đem gia hầu và hương bỉnh, thổ hào sung vào đội quân cần vương; việc biến năm Đại Định2, vương hầu lại đem dân thôn trang sắm sửa nghi trượng để đón vua mới. Như thế, chế độ nhà Trần cũng làm tăng thêm được sức mạnh của cái thế “duy thành”, bảo vệ nhà nước”3.

Nhìn chung, tầng lớp quý tộc thời Lý - Trần là một đẳng cấp xã hội trẻ, đang độ phát triển. Xu hướng cát cứ của quý tộc chưa phải là hiện tượng phổ biến. Sự đối lập trong nội bộ chính quyền hoặc sự đối kháng giai cấp lúc đó chưa cao. Đặc điểm này đã tạo nên một không khí chính trị lành mạnh trong giới cầm quyền và trong cả nước nói chung, tạo nên thế mạnh cho chính quyền, cho cả nước trong mối quan hệ đối nội cũng như trước những thử thách ngặt nghèo cửa ngoại xâm.

Trong cấu trúc xã hội thời Lý - Trần, hệ thống cộng đổng làng xã đã đóng góp một vai trò rất quan trọng. Có thể coi đây là nền tảng là cơ sở của cả cấu trúc, trong đó bao gồm đông đảo những người nông dân và các thợ thủ công, tức thành phần chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, là nơi cung cấp nhân lực, vật lực cho công cuộc xây dựng sức mạnh phòng vệ đất nước.

Mỗi làng xã Đại Việt là một tế bào xã hội. Ở đó, những hộ nông dân sống quần tụ, gắn bó trong mối quan hệ vừa là thân tộc vừa là láng giềng. Trong điều kiện kinh tế hàng hóa chưa phát triển mạnh, các làng xã nông nghiệp còn tương đối khép kín, tự cung tự cấp. Ở đây bên cạnh một hệ thống chính quyền cấp xã mang tính chất nhà nước gồm các “quản giáp”, các xã trưởng, các đại hoặc tiểu tư xã - những người đại diện của chính quyền nhà nước, còn tồn tại song song một hệ thống quyền lực mang tính chất công xã cổ truyền do dân cử, gồm các bô lão, những già làng, những tộc trưởng có uy tín cùng tham gia quản lý làng, xã.

Khi đất nước thanh bình, khi nhà nước phong kiến còn thể hiện vai trò tích cực thì những người nông dân vẫn sống thuần hậu, chất phác và cần mẫn với việc đồng áng, họ tham gia các nghĩa vụ đối với nhà nước như đóng tô thuế, lao dịch và binh dịch. Một bộ phận tham gia các đội tuần đinh, dân binh làng xã. Họ là lực lượng vũ trang cơ sở, tồn tại dưới hình thức “tĩnh vi nông, động vi binh” (lúc yên là nông dân, lúc động là binh lính). Khi đất nước có chiến tranh, nông dân là lực lượng đông đảo nhất tham gia quân đội của nhà nước, hoặc các đội dân binh đánh giặc tại chỗ, với ý thức “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, cùng đánh giặc giữ làng giữ nước. Dĩ nhiên, tầng lớp binh dân - những người nông dân và thợ thủ công là đối tượng bóc lột, thống trị của giới quý tộc phong kiến, vì thế, khi chính quyền nhà nước kém hiệu lực, khi quý tộc quan lại trở lên tham nhũng hà khắc, thì chính họ, những người bình dân lại là lực lượng chủ yếu tham gia các cuộc “nổi loạn” của quần chúng. Trường hợp này đã diễn ra vào giai đoạn cuối thời Lý và cuối thời Trần.

Dưới cùng của bậc thang xã hội Đại Việt là tầng lớp nông nô, nô tỳ. Đây là di sản của xã hội cổ xưa. Đến thời Lý - Trần, nông nô, nô tỳ phát triển tương đối mạnh về số lượng. Lúc đó, tầng lớp quý tộc địa chủ đang là lực lượng quan trọng ủng hộ chính quyền và đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội, họ được nhà nước cho phép nuôi người phục dịch, chiêu mộ dân nghèo, người lưu tán khai phá đất hoang lập các trang trại. Hình thức kinh doanh nông nghiệp đó đã tạo ra tầng lớp lao động có địa vị thấp kém, bị phụ thuộc hoàn toàn về thân phận đối với chủ của mình. Nông nô, nô tỳ là lực lượng sản xuất trong các trang trại, nhưng khi cần họ trở thành lực lượng quân sự của các vương hầu quý tộc, họ tham gia bảo vệ trị an và đánh giặc giữ nước. Trong kháng chiến chống Nguyên, lực lượng gia nô, nông nô đã có những đóng góp đáng kể; nhiều chiến công của họ đã được lịch sử ghi nhận.

Trên đây là cấu trúc xã hội Đại Việt thời Lý - Trần. Cơ chế chính quyền nhà nước thời kỳ này được xây dựng và vận hành trên cơ sở cấu trúc xã hội đó.

Cùng với sự phát triển của chính quyền về mặt hành chính là quá trình kiện toàn chức năng lập pháp và hành pháp của nó. Ởnước ta, đến thời Lý - Trần, các hoạt động lập pháp của nhà nước đã xuất hiện và phát triển. Năm 1042, Lý Thái Tông ban hành bộ Hình thư - bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Sang thời Trần, bên cạnh bộ Quốc triều thống chế gồm 20 quyển, xác định các quy chế chính quyền, nhà nước còn tổ chức biên soạn và nhiều lần sửa đổi bổ sung bộ Hình thư của mình. Các bộ luật này đã thất truyền. Tuy nhiên, căn cứ vào các lệnh dụ của nhà vua, các việc làm cụ thể được sử sách ghi chép, có thể nghĩ rằng luật pháp thời Lý - Trần đã đề cấp đến nhiều lĩnh vực, trong đó có những chế định về quyền hạn và trách nhiệm của mỗi thành viên đối với xã hội, về nghĩa vụ binh dịch của các đinh tráng, về nghĩa vụ đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước, về chức năng của các loại quân trong việc bảo vệ chính quyền và biên giới Tổ quốc. Các hoạt động lập pháp ngày càng quy củ đó chứng tỏ nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời Lý - Trần ngày một ổn định, và hoàn bị để thực hiện tốt các chức năng của nó.

Công cuộc xây dựng đất nước thời Lý - Trần tiến hành trong hoàn cảnh nạn ngoại xâm luôn luôn là nguy cơ trực tiếp và thường xuyên. Trong giai đoạn này, đã diễn ra liên tục bốn cuộc chiến tranh giữ nước lớn. Đó là chưa kể đến những lần triều đình phải động binh xử lý các vụ xâm phạm biên giới của các lực lượng phàn lộng phía tây và nam Tổ quốc. Do đó, để củng cố nền thống trị của nhà nước phong kiến độc lập, tự chủ và đồng thời để tăng cường lực lượng quốc phòng sẵn sàng ứng phó với nguy cơ xâm lược của nước ngoài, chính quyền Lý - Trần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang của mình. Lực lượng vũ trang đó gồm có quân chính quy của triều đình, quân địa phương của các lộ, phủ, giả binh của vương hầu và dân binh, hương binh ở làng xã. Cấm quân là lực lượng quân đội thường trực nòng cốt của trung ương, được coi trọng phát triển và thường xuyên túc trực bảo vệ kinh đô. Quân đội nhà nước Đại Việt là quân đội chính quy, đã đạt đến một trình độ tổ chức, trang bị, huấn luyện và chỉ huy tốt. Các lực lượng vũ trang thời Lý - Trần đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền và đã lập nhiều chiến công rực rỡ trong công cuộc đánh giặc giữ nước.
___________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, t. II, tr. 32.
2. Năm 1369, Dương Nhật Lễ cướp ngôi vua Trần, tôn thất nhà Trần đem quân đón Trần Phủ ở Đà Giang về giết Nhật Lễ, lập vua Trần Nghệ Tông.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.156.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 08:30:41 pm »


III. NHỮNG THÀNH TỰU KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI

Trải qua hơn một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc thống trị, các mặt kinh tế, văn hóa dân tộc bị kìm hãm, thậm chí nhiều bộ phận bị xói mòn và bị hủy hoại. Thế kỷ thứ X là thế kỷ giành độc lập, là thời kỳ phục hưng dân tộc. Từ thế kỷ XI, công cuộc xây dựng đất nước bắt đầu bước vào quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát triển dân tộc và quốc gia phong kiến dân tộc. Nước Đại Việt thời Lý - Trần đã trở thành một quốc gia văn minh, thịnh vượng nối tiếng trong vùng Đông Nam Á.

Trong xã hội Lý - Trần, nền kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo và là cơ sở của mọi hoạt động trong nước. Chính quyển phong kiến coi trọng nghề nông và đề ra nhiều chính sách chăm lo phát triển nông nghiệp. Sức lao động và sức kéo trong nông nghiệp được nhà nước bảo vệ. Nông dân có ruộng cày, xóm làng ồn định. Quân lính được thay phiên nhau về tham gia sản xuất theo chính sách Ngụ binh ư nông.

Các công trình khẩn hoang và thủy lợi được tiến hành hằng năm, quy mô ngày một lớn. Thời Lý, nhiều đoạn đê quan trọng dọc theo những sông lớn, nhất là đê Cơ Xá (đê sông Hồng) được đắp. Năm 1248, triều Trần ra lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến bờ biển gọi là đê quai vạc. Đến đời Trần, hệ thống đê sông Hồng và các sông lớn ở Bắc Bộ và bắc Trung Bộ đã hoàn chỉnh. Chức hà đê chánh và phó sứ được đặt để quản lý và trông coi đê điều. Nhiều kênh ngòi được đào và khơi sâu thêm. Những công trình đó đã tạo ra những điều kiện tốt cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp. Sứ thần nhà Nguyên là Trần Phu đã ghi lại rằng: “Ở Đại Việt lúa mỗi năm chín bốn lần, tuy vào giữa mùa đông mà mạ vẫn mườn mượt1.

Từ thời Trần: nhà nước khuyến khích khai phá đất hoang lập thành các trang trại lớn. Các khu định cư và các vùng đất canh tác mới xuất hiện. Ở các lộ có đặt chức đồn điền chánh và phó sứ để quản lý, đôn đốc việc khẩn hoang. Năm 1266, vua xuống chiếu cho phép các vương, công chúa, phò mã, cung phi chiêu tập dân nghèo không có đất làm nô tỳ, đi khai hoang ven biển lập các điền trang. Thời kỳ này xuất hiện một loại hình kinh tế mới, đó là kinh tế điền trang.

Sự phát triển của kinh tế điền trang thái ấp cùng với việc cho phép các vương hầu quý tộc xây dựng phủ đệ và lực lượng vũ trang riêng vừa có ý nghĩa kinh tế vừa có ý nghĩa quân sự, càng tăng thêm thế nước, chính quyền có thêm lực lượng vật chất để bảo vệ vương quyền và phòng giữ đất nước.

Dưới thời Lý - Trần, các nghề thủ công trong nước được tạo điều kiện phát triển. Đó là những nghề truyền thống như dệt, gốm sứ, luyện kim, mỹ nghệ, chạm khắc, đúc đổng, v.v... Trong nông thôn Đại Việt xuất hiện những làng thủ công chuyên sản xuất những sản phẩm truyền thống của mình, như nghề dệt lĩnh ở Trích Sài (Hà Nội); nghề dâu ở Nghi Tàm (Hà Nội); nghề dệt ở Từ Sơn (Hà Bắc); nghề làm nón ở Ma Lôi (Hải Hưng)… Kinh thành Thăng Long có 61 phường, mỗi phường làm một nghề thủ công, phố xá buôn bán các sản phẩm ngày một sầm uất. Từ thời Lý, nhà nước đã áp dụng những biện pháp tạo điều kiện cho các nghề thủ công trong nước phát triển. Chẳng hạn, mở lớp dạy dệt gấm cho các cung nữ và khuyến khích dùng những sản phẩm thủ công nội địa. Năm 1040, Lý Thái Tông đã ra lệnh phát gấm vóc trong kho để may lễ phục cho vua quan, cấm mua gấm vóc của nhà Tống. Nghề dệt lụa của Đại Việt vì thế mà đã trở thành nổi tiếng trong vùng với đủ các thứ vải, lụa, gấm vóc, the đoạn... có nhiều màu sắc và họa tiết trang trí đặc sắc. Nhu cầu vải mặc và một số trang bị khác cho quân đội đã được nghề dệt trong nước cung cấp.

Nghề gốm sứ có truyền thống từ lâu đời, đến thời Lý đã tiến thêm một bước dài, cung cấp nhiều vật dụng cho cung đình và nhu cầu ở các làng xã. Nghệ thuật gốm sứ thời Lý - Trần mang đậm sắc thái dân tộc, có trình độ thẩm mỹ cao và đạt tới đỉnh cao trong lịch sử phát triển của nó.

Nghề khai mỏ và luyện kim, chủ yếu là đồng và sắt, đã cung cấp thỏa mãn nguyên vật liệu cho nhà nước đúc tiền, đúc chuông, tượng, các nông cụ cũng như các thứ binh khí, chiến cụ trang bị cho quân đội.

Đường giao thông thủy, bộ trong nước được mở mang và phát triển đồng thời với các phương tiện vận chuyển như các loại thuyền lớn, nhỏ, tạo điều kiện tốt không chỉ đối với sự phát triển giao lưu kinh tế mà còn cho công cuộc phòng giữ đất nước, là cơ sở tốt để nhà nước huy động, sử dụng khi có chiến tranh.

Một số trung tâm thương nghiệp xuất hiện như Tư Phố (Thanh Hóa), Long Biên (Hà Nội), Luy Lâu (Hà Bắc), Phố Hiến (Hải Hưng), Thăng Long - Kẻ Chợ, v.v... nhiều làng quê đã xuất hiện chợ búa. Nền kinh tế hàng hóa phát triển góp phần đẩy lùi yếu tố phân tán trong xã hội. Quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với các nước khác như Trung Quốc, Chiêm Thành, Java (Inđônêxia), Chân Lạp, Xiêm, Hồi Hột (vùng Tân Cương), v.v… được thực hiện chủ yếu qua đường biển và qua một số thương cảng lớn như Vân Đồn (Quảng Ninh) và một số cửa biển ở miền Trung. Sứ giả đời Nguyên, Trần Phu chép trong An Nam tức sự rằng: “Phủ Thanh Hóa... cách thành Giao Chỉ hơn 200 dặm, các phiên thuyền ở hải ngoại tụ tập ở đây, họp chợ ngay trên thuyền rất đông... Thật là một thị trấn lớn2. Đường biên giới đối với các quốc gia láng giềng cũng được mở, tạo điều kiện giao lưu buôn bán thuận tiện. Trên biên giới Tống - Lý đã xuất hiện các bạc dịch trường (chợ biên giới). Sách Trung Quốc Đảo di chỉ lược chép: “Đất Giao Chỉ nhiều vàng bạc, đồng, chì, thiếc, ngà voi, lông chim trả, nhục quế cau. Hàng trao đổi thì dùng các thứ như the, lĩnh các màu, lụa, vải thanh bố, lược ngà, giấy, đồng, sắt... Lưu thông sử dụng tiền đồng”. Nhà nước Lý - Trần không hạn chế ngoại thương, nhưng luôn luôn có những biện pháp quản lý rất chặt chẽ để đề phòng âm mưu do thám của người nước ngoài, nhằm bào vệ an ninh trong nước.

Những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế đã tạo ra những cơ sở vật chất vững vàng cho sự tồn tại quốc gia độc lập tự chủ và mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nền văn hóa dân tộc.

Trong xã hội thời Lý - Trần. người nông dân công xã vẫn bảo lưu những phong tục tập quán cổ truyền, vẫn duy trì quan hệ cộng đồng chặt chẽ, sớm kết hợp ý thức tình làng nghĩa xóm với ý thức quốc gia dân tộc, nước gắn liền với làng.

Yêu cầu của công cuộc giữ nước trong giai đoạn này đã thúc đẩy nền văn hóa phát triển mang đậm ý thức dân tộc. Thơ Nam quốc sơn hàLộ bố văn của Lý Thường Kiệt cùng với các sáng tác thời Trần như Hịch tướng sỹ của Trần Quốc Tuấn, các áng văn thơ của Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, v.v…, thể hiện sinh động chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng và niềm kiêu hãnh với sự nghiệp giữ nước oai hùng của dân tộc.
__________________________________________
1, 2. Trần Phu: An Nam tức sự, cương trung thi tập , q.2.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 08:33:55 pm »


Nền giáo dục Đại Việt đã có những thành tựu đáng kể. Năm 1070, nhà Lý xây dựng Văn Miếu và mở Quốc Tử Giám ở kinh thành làm nơi học tập cho con em các quý tộc quan lại. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên và từ đó những nhân tài đất nước từng bước được tuyển chọn qua thi cử để sung vào đội ngũ quan lại quản lý các cơ quan chuyên môn. Trong xã hội xuất hiện dần một từng lớp nho sĩ. Nhưng chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo mới chỉ bắt đầu. Thời Lý, Phật giáo vẫn chiếm ưu thế và các nhà sư vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị. Tuy nhiên, Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo đồng thời phát triển pha trộn nhau, kết hợp với những tín ngưỡng dân gian và tất cả đều bị chi phối bởi yêu cầu đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước.

Sang thời Trần, chế độ học tập và thi cử ngày càng chính quy hơn. Tại Thăng Long, Quốc học viện lúc đầu chỉ dành riêng cho con em quý tộc, quan lại, sau mở rộng cho giới nho sĩ vào học. Các địa phương đã có chức học quan, trường tư xuất hiện. Các thể lệ thi cử được điển chế hóa. Vì vậy, nho sĩ xuất hiện ngày càng đông, đẩy lùi dần địa vị của tầng lớp tăng lữ trên lĩnh vực chính trị và tư tưởng. Trong nước, xuất hiện nhiều nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, nhà quân sự...

Đỉnh cao của nền văn hóa thời Lý - Trần được thể hiện trong các giai -đoạn có chiến tranh giữ nước. Một nền khoa học và nghệ thuật quân sự tiến bộ nẩy sinh và vận dụng trong các cuộc kháng chiến chống Tống và chống Nguyên - Mông.

Các mặt khác như văn học nôm, nghệ thuật ca múa, nghệ thuật kiến trúc, tạo hình, có những bước phát triển đáng kể, đậm đà tính cách dân tộc và dân gian. Bên cạnh nền văn hóa cung đình còn tồn tại một nền văn hóa dân gian rất đa dạng và phong phú, phục vụ đời sống tinh thần của tầng lớp lao động. Ở các địa phương, các lễ hội truyền thống thể hiện tinh thần thượng võ như bơi thuyền, đánh vật, đấu gậy, cướp cù... rất thịnh hành. Các lễ hội thường gắn liền với việc nêu cao truyền thống đánh giặc giữ nước và suy tôn các vị anh hừng dân tộc, những người đã hy sinh vì sự nghiệp chống ngoại xâm.

Tóm lại, cũng như kinh tế, văn hóa thời Lý - Trấn cũng đạt đến một giai đoạn phát triển rực rỡ. Nhân dân Đại Việt đã phát huy những tinh hoa và giá trị của nền văn hóa cổ truyền, tiếp thu có sáng tạo những yếu tố tích cực của bên ngoài để xây dựng lên một nền văn hóa tiến bộ, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là nền văn hóa Thăng Long, nền văn hóa Lý - Trần bắt đầu phục hưng từ thế kỷ X và tiếp tục phát triển cho đến thế kỷ XV.



IV. NƯỚC ĐẠI VIỆT TRONG BỐI CẢNH CHUNG ĐÔNG NAM Á

So với các nước trong vùng, Đại Việt là một nước lớn về lãnh thổ và dân cư, một quốc gia thịnh vượng và có uy tín ở Đông Nam Á.

Bấy giờ Đại Việt có biên giới chung với Trung Quốc trong thời kỳ nhà Tống, nhà Nguyên (ở phía bắc), với Nam Chiếu (ở phía tây bắc); với Chiêm Thành (phía nam) và Lão Qua (Lào), Chân Lạp (ở phía tây); lại có biển Đông dài và rộng, có khả năng thuận tiện trong việc giao lưu với các nước lục địa và hải đảo trong khu vực.

Có quan hệ và ảnh hưởng lớn nhất với Đại Việt là nước Tống (960 1279), tiếp đó là Nguyên (1260 - 1368). Sau hơn 1000 năm vừa có đô hộ vừa có chống đô hộ, cuối cùng phong kiến Trung Hoa buộc phải chấp nhận nền độc lập của nước ta. Ngay từ buổi đầu giành lại độc lập nhà Đinh và nhà Tiền Lê đã khôn khéo tìm cách quan hệ giao hiếu với nhà Tống ở phương Bắc nhằm giữ yên nền độc lập tự chủ.

Nhà Lý xây dựng đất nước trong lúc nhà Tống đang gặp khó khăn về nội trị cũng như giặc giã ở phía bắc. Đến đời Tống Thần Tông cùng với Tể tướng Vương An Thạch, nhà Tống có ý đánh xuống phương Nam vừa để mở rộng lãnh thổ vừa để gây uy tín chính trị với hai nước Liêu và Tây Hạ. Chính vì thế triều đình Lý luôn luôn phải cảnh giác với nguy cơ bị xâm lược từ phía bắc. Nhà Lý thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo, chủ động cử sứ giả sang Tống, hằng năm vẫn triều cống và chấp nhận là phiên thần. Ngoài việc bang giao chính thức bằng các sứ bộ. hai nước Tống và Lý còn có sự giao dịch hằng ngày ở biên thùy.0020Trên những đường thông lộ lớn qua biên giới, sự buôn bán trao đồi giữa hai nước khá thịnh vượng và có tổ chức. Tuy vẫn coi Đại Việt là nhỏ mọn, nhưng sau thất bại năm 981, nhà Tống không còn coi thường nữa. Cả hai bên đều cảnh giác, sợ người ngoài lợi dụng sự buôn bán ở các bạc dịch trường để do thám lẫn nhau.

Từ 1075, Tống Thần Tông và Vương An Thạch chủ trương gây chiến tranh xâm lược Đại Việt. Kết quả Tống đã hai lần bị đại bại: ở Ung Khâm Liêm (năm 1075) và ở bắc sông Như Nguyệt (1077). Từ đó đối với Đại Việt, Tống có vẻ kính nể, không dám gây sự nữa. Còn nhà Lý vẫn chủ trương tiếp tục giao hiếu, cử các phái bộ sang cầu phong, xin kinh Đại Tạng và cống phương vật. Quan hệ Tống - Lý trở lại bình thường.

Bấy giờ, Đại Việt còn có quan hệ với các nước khác như Nam Chiếu ở Vân Nam, nước Liêu, Tây Hạ và Kim ở phía bắc. Lúc đó Tống rất sợ Liêu và Tây Hạ liên minh với Đại Việt. Do đó đã có lần sứ bộ của cả Liêu và Tống cùng đến, triều đình Lý phải cho họ ở cách biệt, tiếp đãi riêng, không cho người Tống biết.

Nhà Trần thay thế nhà Lý đúng dịp ở phương Bắc có họa người Tác Ta. Trung Quốc bị Mông Cổ xâm lược và triều Nguyên thành lập (1260). Chiếm được Trung Quốc, đế quốc Nguyên muốn tiến xuống phương Nam. Mặc dù quân xâm lược Mông Cổ đã thất bại vào năm 1258, quân Nguyên liên tiếp trong các năm 1285 và 1288 đã hai lần xâm lược Đại Việt, nhưng đều bị thất bại. Triều Trần đã thực hiện một chính sách đối ngoại vừa kiên quyết vừa khôn khéo, mềm dẻo trên lập trường bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đại Việt nhún nhường nhận làm phiên thuộc và triều cống để giữ gìn độc lập. Lúc đó, Đại Việt đã thành công trong đấu tranh quân sự và ngoại giao, buộc vua Nguyên phải bãi binh và từ bỏ ý chí xâm lược.

Sau những trận binh lửa, quan hệ giữa hai nước được thiết lập bình thường, việc thông thương trên đường biên giới được tự do. Độc lập dân tộc được giữ vững, nhưng nhà Trần luôn luôn cảnh giác và quan tâm nhiều đến vùng biên giới phía bắc và đông bắc Tổ quốc.

Đối với Chiêm Thành, Chân Lạp, ta vẫn giữ thái độ hòa hảo, nhưng khi biên cương bị xâm lấn thì kiên quyết trừng phạt để giữ vững bờ cõi.

Thế kỷ XI - XIII, nền kinh tế, chính trị Đại Việt ổn định và phát triển thịnh vượng. Nhiều nước khác trong vùng đã đến đặt quan hệ như Chân Lạp, Xiêm, Java, Malaixia... Một số nước xa như Hồi Hột cũng tìm đến. Thương gia nhiều nước đã đến buôn bán với ta. Triều đình Đại Việt luôn luôn cảnh giác và có những biện pháp quản lý chặt chẽ an ninh, nhưng vẫn tạo điều kiện cho thương nhân và khách thập phương buôn bán, đi lại thuận lợi. Đại Việt vẫn chủ trương giữ quan hệ hòa hiếu với tất cả các nước trong vùng.

Như vậy, nước Đại Việt thời Lý - Trần là một quốc gia độc lập, có thể chế chính trị ổn định, có nền kinh tế văn hóa phát triển. Sự phát triển đó khẳng định và củng cố những thành quả của dựng nước và giữ nước của dân tộc. So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Đại Việt là một quốc gia hùng cường. Địa vị và uy tín của nước nhà được nâng cao. Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vựcc đã làm tăng thêm sức mạnh cho nền quốc phòng, là tiền đề vật chất để nhà Lý và nhà Trần đề ra và thực hiện thành công những kế sách giữ nước của mình.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 08:40:00 pm »


CHƯƠNG II
XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN VỮNG MẠNH, THỰC HIỆN GIANG SƠN MỘT MỐI, VUA TÔI ĐỒNG LÒNG, CẢ NƯỚC GÓP SỨC

Vương triều Lý nói riêng, bộ máy nhà nước thời Lý - Trần nói chung, xuất hiện trên vũ đài lịch sử vào tháng 10 năm Kỷ Dậu ( 1009) bằng việc Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn tự lập ngôi vua tại kinh đô Hoa Lư.

Nhìn lại lịch sử hình thành tổ chức bộ máy nhà nước từ sau khi giành lại được nền độc lập tự chủ, vào đầu thế kỷ X, nếu như nhà nước thời Đinh ra đời trong dẹp loạn sứ quân, khôi phục nền thống nhất đất nước, thì nhà nước Tiền Lê (Lê Hoàn) ra đời từ chiến thắng quân xâm lược Tống lần thứ nhất. Như vậy, ngay từ thế kỷ đầu của kỷ nguyên mới nước Đại Cồ Việt đã vượt qua được những thử thách nghiêm trọng. Các nhà nước Đinh, Tiền Lê đã nối tiếp nhau tốn tại, phát triển, thực hiện chức năng quản lý xã hội, bảo vệ độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân.

Còn gì nguy hiểm cho bằng đối với một quốc gia là chia rẽ, phân tán từ bên trong và giặc ngoài rắp tâm xâm lấn. Một đất nước dù có truyền thống dựng nước lâu dài, giữ nước kiên cường đến đâu, nhưng một khi đã lâm vào tình trạng “vô chủ” thì khó bể bảo vệ được nền độc lập quốc gia. “Chủ” ở đây là bộ máy nhà nước, đại diện cho dân, chịu trách nhiệm trước dân, trước lịch sử về sự tồn vong và phát triển của quốc gia dân tộc.

Vương triều Lý xuất hiện, thay thế nhà Tiền Lê, đã thừa hưởng được một gia tài to lớn về phương diện tổ chức bộ máy nhà nước. Nhà nước thời Lý - Trần ra đời hoàn toàn không phải với hai bàn tay trắng như họ Khúc, họ Dương, họ Ngô. Đến lượt mình, các vua Lý vua Trần đã từng bước tiến hành những cải tổ quan trọng để xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh, xứng đáng với tầm vóc của thời đại. Nhà nước thời Lý - Trần không chỉ xây dựng nên nước Đại Việt với nền văn hóa Thăng Long rực rỡ, mà quan trọng hơn là chiến thắng thù trong, giặc ngoài bảo vệ độc lập dân tộc, yên bình xã hội, mở mang bờ cõi, tạo thế đứng vững chãi, hùng mạnh cho đất nước trong bối cảnh khu vực còn đầy biến động.


I. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ TRUNG ƯƠNG TẬP QUYỀN VỮNG MẠNH

Để có được một nhà nước mạnh, trong bối cảnh phát triển chậm chạp của xã hội trung đại, không thể là công việc của một thời gian ngắn tính bằng năm tháng, mà phải tính bằng thế kỷ. Đó là một quá trình phát triển từng bước, từ nhận thức lý thuyết đến hoạt động thực tiễn: trải dài qua bốn thế kỷ - từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV.

Nhà nước quân chủ ở nước ta hồi thế kỷ X tuy còn thô phác, đơn giản nhưng đã hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của mình. Đến lúc này, nhà nước đó đã tỏ ra bất cập trước yêu cầu mới của xã hội. Sau khi Lê Hoàn mất, nhà nước Tiền Lê thời Long Việt, Long Dĩnh lâm vào tình trạng chao đảo do nội bộ bất hòa, người kế nghiệp hèn yếu, ít tài, kém đức. Mầm loạn lạc phân tán phát sinh, do việc Lê Hoàn chia các con đi trấn trị ở các địa phương. tạo ra cảnh tranh giành ngôi báu sau khi nhà vua qua đời. Mầm phân liệt vừa xuất hiện đã kịp thời bị dập tắt khi Long Đĩnh giết Long Việt lên ngôi trong cùng năm 905. Công bằng mà nói, ông vua cuối cùng của vương triều Tiền Lê có làm được nhiều việc như dẹp nội loạn, đặt lại quan chế, giao hảo với nhà Tống, đào sông, mở mang đường sá vào vùng Châu Ái (Thanh Hóa), Châu Hoan (Nghệ - Tĩnh), đặt quan hệ buôn bán với nước ngoài (Trung Quốc). Lê Long Đĩnh tuy có nhiều cố gắng nhưng đã tỏ ra lúng túng trong việc tìm kiếm một đường hướng để hoàn thiện bộ máy nhà nước quân chủ do ông đứng đầu. Cuối cùng Lê Long Dĩnh đã chọn kiểu nhà nước phong kiến Trung Hoa, lấy vương triều Tống làm mẫu mực: “Đổi lại quan chế và triều phục của các quan văn, võ và tăng đạo theo đúng như nhà Tống” vào năm 10061. Một năm sau, vào năm 1007, lại sai người “đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh (chín kinh của nhà Nho) và kinh sách Đại Tạng (kinh sách nhà Phật). Nhà Tống ưng cho cả”2. Như vậy việc chủ động lựa chọn, tiếp thu mô hình tổ chức nhà nước phong kiến quân chủ trung ương tập quyền kiểu phương Đông không chỉ dừng lại ở sự sắp đặt về hình thức tổ chức, mà quan trọng hơn là ở lí thuyết cơ bản, đó là Nho giáo. Việc làm của Lê Long Đĩnh biểu thị một tinh thần tự giác đón nhận, tiếp thu thành tựu văn hóa văn minh của nhân loại trong tổ chức quản lý xã hội qua con đường giao lưu giữa các quốc gia trong khu vực vì mục đích xây dựng đất nước vững mạnh.

Lý Thái Tổ lên ngôi thay nhà Tiền Lê, chuyển đô từ Hoa Lư ra Thăng Long lập nên vương triều Lý tiếp theo là nhà Trần đã kiến thiết, xây dựng kinh đô mới, sắp đặt bộ máy nhà nước quân chủ theo hướng đã lựa chọn từ thời Lê Long Đĩnh.

Đó là một bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền từng bước đi vào quỹ đạo của học thuyết Nho giáo gồm một hệ thống tổ chức quản lý hành chính từ triều đình trung ương cho đến các lộ-châu-trấn, phủ-huyện, hương-giáp-xã.

Nhà nước thời Đinh, Tiền Lê với một hệ thống chính quyền đơn giản, qua nguồn tài liệu khan hiếm có thể nghĩ rằng chỉ gồm ba cấp: trung ương - đạo - giáp xã. Sự đơn giản đó còn thể hiện ở tổ chức bộ máy triều đình với một đội ngũ quan lại ít ỏi, buổi đầu có phân ban văn võ, phân nhiệm, nhưng chưa triệt để. Quan lại ở cấp đạo (10 đạo) có thể do nhà nước cắt cử, tuyển lựa từ đám thổ hào. Ở cấp hương - giáp, có lệnh trưởng, giáp trưởng đứng đầu giữ việc hộ tịch, đôn đốc các nghĩa vụ thu thuế và binh dịch mà mỗi thành viên phải đóng góp theo kiểu cống nạp. Một bộ máy nhà nước như vậy đã tỏ ra không còn phù hợp khi cơ sở xã hội công xã đã bước vào quá trình giải thể với sự xuất hiện của chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân - một yếu tố khá năng động, góp phần quan trọng thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử. Từ thế kỷ XI, sự phân hóa xã hội đã làm nẩy sinh những lợi ích của nhiều tầng lớp khác nhau mà nguyên tắc bình quân vốn có của công xã nông thôn không còn phù hợp. Nhà nước thô sơ hồi thế kỷ X không đủ khả năng và hiệu lực điều hòa lợi ích, giải quyết mâu thuẫn của một xã hội đang phát triển. Từ đó dẫn đến khả năng phân tán nhằm thiết lập những vùng thế lực làm suy yếu đất nước. Mặt khác, chiến tướng giặc Tống lần thứ nhất vào năm 980-981 diễn ra vào lúc nhà Tống mới thiết lập, còn đang trong quá trình đánh dẹp các thế lực cát cứ - tàn dư của cái gọi là “năm đời mười nước”. Đặc biệt nhà Tống còn tập trung đối phó với Liêu, Khiết Đan ở phía tây, Hạ ở phía bắc triền miên gần một thế kỷ. Cuộc kháng chiến chống giặc Tống lần thứ hai vào năm 1075 - 1077 dưới triều Lý diễn ra trong bối cảnh khác trước. Nhà Tống, thời Tống Thân Tông đã được củng cố, phát triển về mọi mặt với cuộc cải cách của Tể tướng Vương An Thạch. Trong hoàn cảnh đó, mặc dù tinh thẩn yêu nước, kiên quyết chống giặc ngoại xâm vốn là truyền thống quý báu của nhân dân ta, nhưng tồ chức nhà nước cỏn đơn giản, thô phác, quản lý lỏng lẻo của thời Đinh, Tiền Lê không đủ khả năng đánh thắng giặc ngoại xâm.

Nhà Lý với Lý Công Uẩn - người mở đầu thời đại Lý - Trần thoát thai từ cửa Phật, từng được học hành, “ham thích kinh sử”, thông qua sự giáo dục của nhà chùa. Từ một chức quan võ cỡ lớn: Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ dưới thời Lê Long Đĩnh, Lý Công Uẩn lên ngôi vua vào lúc 36 tuổi đời (tuổi Ất)3. Như vậy. người đứng đầu bộ máy nhà nước quân chủ mở đẩu thời đại mới đã tích hợp trong mình những yếu tố đặc trưng của thời đại: tắm mình trong cái nôi của Phật giáo, hấp thụ tri thức của học thuyết Nho giáo, trưởng thành từ nghiệp võ. Trong khi đó, những người cầm đầu nhà  nước hối thế kỷ X có chăng chỉ xuất thân từ nghiệp võ. Vị trí, vai trò của cá nhân người đứng đầu nhà nước bất kỳ ở đâu, vào thời nào cũng cực kỳ quan trọng, tác động không nhỏ - nếu không muốn nói là quyết định, đối với sự phát triển của đất nước. Ở trường hợp Lý Công Uẩn, nếu như thời đại đã hun đúc nên ông thì đến lượt mình, khi lên ngôi vua, ông đã tác động theo hướng tích cực, khẳng định sự lựa chọn đường hướng phát triển của lịch sử làm cho thời đại tỏa sáng với bản sắc độc đáo của đất nước và con người Đại Việt.
___________________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 1983, t.I, tr. 232.
2. Việt sử thông giám cương mục - Nxb Văn-Sử-Địa, Hà Nội, 1957: t.III tr.33. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, tr. 233 chép chỉ “xin kinh Đại Tạng”
3. Lý Công Uẩn (974-1028). Việt sử lược, Đại Việl sử kí toàn thư, Việt sử thông giám cương mục đều chép người Cổ Pháp, Bắc Giang, nay là Đình Bảng, Hà Bắc, mẹ là Phạm Thị. Riêng Đại Việt sử kí toàn thưViệt sử thông giám cương mục chép thêm bà Phạm Thị đi chơi chùa Tiên Sơn gặp thần nhân giao cấu sinh ra. Lên ba tuổi Lý Công Uẩn được nhà sư Lý Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp nhận làm con nuôi. Việt sử lược không chép điều này. Ba sách trần đều chép ông theo học ở chùa Lục Tổ (chùa Cổ Pháp ở Đình Bảng ) với nhà sư Vạn Hạnh.
      Trần Quốc Vượng dịch và chú thích sách Việt sử lược, dẫn sách Mộng Khê bút đàm của Thẩm Hoạt đời Tống, cho rằng có thể Lý Công Uẩn người đất Mân, gia quyến ông chạy sang nước ta sau khi đất Mân bị nhà Tống chinh phục (971) (Chú thích số 2, tr. 64 - Việt sử lược, NXB Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1960).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 08:44:08 pm »


Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời Lý-Trần, từ góc nhìn đã xác định, sẽ được đề cập đến ở hai mặt chủ yếu dưới đây:

1. Một bộ máy nhà nước tập quyền từ trung ương đến cơ sở được xây dựng từng bước và ngày càng vững mạnh.

Nhìn chung thời Lý-Trần, trải gần bốn thế kỷ, bộ máy quản lý đất nước từng bước được hoàn thiện về mặt tổ chức, bao quát khắp mọi cấp, mọi lĩnh vực, theo đó là một đội ngũ quan lại văn, võ từ không đến có được đào tạo với tước hiệu, chức vụ tương đối rõ ràng.

Về hệ thống tổ chức ở cấp trung ương, triều đình do nhà vua đứng đầu có phụ quốc thái sư (tương đương tể tướng), thái phó. Từ Trần Nhân Tông (1279-1293), đổi lại, gọi là tả hữu tướng quốc, trực tiếp giúp việc dân; còn việc quân có thái úy, thiếu úy. Dưới tướng quốc, có tả hữu tham tư chính sự, tri mật viện sư. Tổ chức sáu bộ đã dần dần hình thành. Dõi theo sử sách, thời Lý đã có bộ binh, bộ lễ; thời Trần có thêm bộ lại, bộ hình, đều do thượng thư, thị lang đứng đầu1. Cùng với các bộ có tổ chức viện, đài, sảnh, quán, các, ví như Nội mật viện (như Cơ mật viện sau này), hàn lâm viện (Viện từ hàn), Ngự sử đài (can gián, đàn hặc), Văn minh điện, Chiêu văn quán (Việc học tập.), Đăng văn viện (khám xét, tra hỏi), Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Bí thư các (cất giữ sách vở, giấy tờ), Tôn chính phủ (coi giữ hoàng tộc), Thái y viện (thuốc men, chữa bệnh), Thái chúc ty (tế tự), Quốc sử viện (chép sử)...

Về quan chức ở triều đình trong các tổ chức trên, Phan Huy Chú cho biết: Triều Lý đại lược văn võ đều có chín phẩm. Lấy ba chức thái (thái sư, thái phó, thái bảo), ba chức thiếu (thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo) cùng thái úy, thiếu úy và nội ngoại hành điện đô tri sự, kiểm hiệu bình chương sự, đều làm chức trọng yếu của văn võ đại thần. Ban văn có bộ thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị và trung thư thị lang, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư, điện học sĩ, hàn lâm học sĩ, vệ đại phu, thư gia các hỏa, thừa trực lang, thừa tín lang, đều là các chức quan trọng. Về võ có đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng, tướng quân các vệ, chỉ huy sứ, vũ vệ hỏa đầu cùng sáu binh tào vũ tiệp, vũ lâm.

Thời Trần cũng lấy ba chức thái, ba chức thiếu, thái úy, tư đồ, tư mã, tư không làm trọng chức của các đại thần văn võ. Về văn giai có những chức lục bộ thượng thư, tả hữu bộc xạ, tả hữu ty lang trung, tả hữu gián nghị đại phu, tri mật viện sự, khu mật tham chính, thiêm tri mật viện sự và các chức thị lang, lang trung, tham nghị ngự sử, đại phu, đại học sĩ, học sĩ... Về võ ban có các chức phiêu kỵ thượng tướng quân, kim ngô vệ đại tướng quân, vũ vệ đại tướng quân, phủ quân phó đô tướng quân, thân vệ tướng quân, điện soái đô áp nha, quản quân tiền độ sứ, đô thống chế2.

Dưới trung ương là cấp lộ, trấn, phủ, huyện, châu, do tri phủ, phán phủ, tri châu (thời Lý); an phủ, trấn phủ chánh phó, thông phán, thiêm phán, lệnh úy, chủ bạ (thời Trần) coi quản việc quân dân.

Cấp cơ sở là xã có tổ chức xã quan3 gồm: đại tư xã (ở xã lớn.), tiểu tư xã (ở xã nhỏ): đại toát. và xã trưởng, xã sử, xã giám.

Về nguyên tắc phân cấp trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước với các chức vụ như trên thì lộ trấn trực thuộc triều đình trung ương và thống thuộc phủ, phủ thống thuộc huyện, châu và cấp cơ sở là hương - giáp - xã. Tuy nhiên trong thực tế theo dõi danh sách 24 đơn vị trực thuộc trung ương, ngay từ năm đầu thời Lý, sử chép Lý Thái Tổ đã “đổi 10 đạo thành 24 lộ”4. Có lẽ con số 24 lộ không hẳn đã có ngay từ đầu. Mặt khác, cấp thứ hai trong hệ thống ngay từ thời Lý không chỉ mang tên gọi là “lộ” mà còn có “phủ” như phủ Phú Lương, phủ Trường Yên, phủ Nghệ An... “châu” như châu Phong, châu Chân Dăng, châu Lâm Bình, châu Bố Chính, châu Minh Linh, “đạo” như đạo Lâm Tây. Sang thời Trần cũng giữ 24 đơn vị ở thời Lý nhưng đã có sự thay đổi, tách nhập nhiều. Bên cạnh 9 lộ, 5 phủ, lại thấy xuất hiện tên gọi “trấn” như các trấn Quảng Oai, trấn Thiên Hưng, trấn Thái Nguyên, trấn Lạng Sơn, trấn Tuyên Quang, trấn Thanh Đô (Thanh Hóa), trấn Vọng Giang (Diễn Châu - Nghệ An ngày nay). Tên gọi “châu” không còn giữ ở cấp này.

Từ thực tế trên cho phép đi đến một nhận định tổng quát ở thời Lý - Trần trong quá trình xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước, ở cấp lộ, trấn có nhiều biến động, thay đồi. Cho dù có mang nhiều tên gọi giữa các cấp lộ, trấn và phủ, huyện, châu đến cuối đời Trần tên gọi phủ, huyện, châu dành cho cấp thứ ba, trong đó có khả năng phủ là một cấp trung gian vừa tồn .tại độc lập vừa kiêm nhiệm một số huyện, như sau này thường thấy, và cấp châu có lẽ tương đương cấp huyện dành cho các địa phương vùng biên viễn.

Bỏ qua những biến thiên trong sắp đặt theo hướng củng cố, mở rộng bộ máy nhà nước qua hai vương triều Lý - Trần, tóm lược từ những nét lớn, có thể dựng một sơ đồ bao quát về hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời Lý - Trần như sau:

Triều đình
Nhà vua
Phụ quốc thái sư, thái phó, tả hữu tướng quốc (văn ban)    Thái úy, thiếu úy (võ ban)



Bộ - đài - điện - quán - các - sảnh - viện - cục
Tam thái, tam thiếu, tư đồ, tư mã, thượng thư, hành khiển, thị lang, ngự sử, lang trung, học vĩ, kiểm úy, thượng tướng quân, đại tướng quân, tướng quân


Lộ - Trấn.
An phủ, trấn phủ chánh phó


Phủ - Huyện – Châu
Tri phủ, phán phủ, lệnh úy, chủ bạ


Hương - Giáp - Xã.
Đại tiều tư xã, đại toát xã trưởng, xã sử, xã giám.

Sơ đồ trên phản ánh hệ thống bộ máy nhà nước thời Lý - Trần, gồm bốn cấp từ trung ương đến địa phương đã hoàn chỉnh, chặt chẽ. Đây là một bước phát triển vượt bậc trong lịch sử.

Cần đặc biệt lưu ý vào thời Trần, xã quan có một bộ phận nằm trong hệ thống quan chức của nhà nước. Điều đó phản ánh nhà nước thời này đã đặc biệt quan tâm trực tiếp với tay quản lý đến cấp cơ sở gồm hương- giáp - xã thoát thai từ công xã nông thôn đang cần đưa vào nền nếp, khuôn khổ, vận hành theo qũy đạo chung của quốc gia phong kiến quân chủ trung ương tập quyền. Việc làm này hẳn không ngoài mục đích quản lý có hiệu lực vì lợi ích của đội ngũ cầm quyền đồng thời còn để sát dân, gần dân, động viên huy động toàn dân dựng nước, giữ nước có kết quả. Vai trò của hương, giáp, xã trong kháng chiến chống giặc Tống vào thế kỷ XI và ba lần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII đã chứng minh rõ điều đó.
________________________________________
1. Theo ghi chép của biên niên sử, thời Lý-Trần chưa thấy chép đến bộ hộ, bộ công. Không hiểu Phan Huy Chú căn cứ vào đâu để chép đời Trần đã có sáu bộ.
2. Xem Phan Huv Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, phần “Quan chức chí”. NXB Khoa học xã hột Hà Nội, 1962 t.I, tr. 443 - 446.
3. Cấp xã quan đặt từ năm 1242 thời Trần Thái Tông, đến năm 1397 thời Trần Thuận Tông thì bãi bỏ, chỉ giữ lại quản giáp, có lẽ như xã trưởng, xã giám, không thuộc hệ thống quan chức của triều đình.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II tr.243. Việt sử thông giám cương mục, sđd, t.III. tr.43.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 08:51:04 pm »


2. Chế độ tuyển lựa và yêu cầu phẩm chất đối với đội ngũ quan lại

Quá trình phát triển của bộ máy nhà nước thời Lý - Trần tất yếu kéo theo yêu cầu tuyển lựa, đào tạo đội ngũ quan lại các cấp.

Ít nhất trong 65 năm đầu thời Lý (từ 1010 đến 1075) có thi cử tuyển học vị minh kinh bác học và thi nho học. Chế độ nhiệm tử, bảo cử vẫn được áp dụng theo truyền thống từ trước. Nếu như chế độ bảo cử dựa vào tiêu chuẩn tuổi tác, tài năng và đức độ, thì chế độ nhiệm tử phải là con cái quan lại, chủ yếu ở hàng ngũ tông thất, công thần. Từ 1075 đến hàng thế kỷ tiếp theo khoa cử tuy đã xuất hiện, nhưng chưa đủ khả năng và cũng không dễ thay thế hoàn toàn chế độ bảo cử và nhiệm tử đã thành phương thức tuyển chọn quan lại truyền thống.

Vả lại học thuyết đạo trị Nho và tín điều tôn giáo Phật, Đạo, (chủ yếu là Phật) từ hai nguồn văn minh sông Hoàng (Trung Quốc) và văn minh sông Hằng (Ấn Độ) đã du nhập vào nước ta muộn nhất từ thế kỉ II sau công nguyên. Tuy nhiên, trong buổi đầu kỷ nguyên độc lập tự chủ thì Phật chứ không phải Nho giữ vị trí then chốt trong đời sống tinh thần của xã hội bao gồm cả đội ngũ cầm quyền và các tầng lớp thứ dân.

Câu chuyện Lý Công Uẩn thuở nhỏ học Nho tại chùa Lục Tổ cho phép nghĩ rằng nhà chùa với đội ngũ sư tăng, từ thế kỷ X là cái nôi phổ biến học thuyết Nho, bên cạnh Phật là chủ yếu. Nói một cách khác, trước khi khoa cử xuất hiện đã có một đội ngũ trí thức - tinh hoa của dân tộc, được đào tạo rèn luyện từ cửa phật, và đã giữ một vị trí quan trọng trong bộ máy quản lý nhà nước. Phật giáo in khá đậm trong tồ chức quản lỹ cũng như trong đời sống tâm linh xã hội, đó là nét đặc biệt trong sinh hoạt tinh thần của Đại Việt thời Lý - Trần.

Các vua Lý sùng Phật đã đành, sang thời Trần, các vua Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông đều là đệ tử của nhà Phật. Trần Nhân Tông từng xuất gia tu hành ở núi Yên Tử là đệ nhất tổ của thiền phái Trúc Lâm vào thế kỷ III.

Sùng Phật, trọng Phật hơn Nho đó là thực trạng của xã hội Đại Việt thời Lý-Trần. Không phải chỉ có nhà nước Lý-Trần sùng Phật, mà cả xã hội Đại Việt đã phục hưng, vận hành hài hòa trên cơ sở tư tưởng từ bi, bác ái, hỉ xả của đạo Phật. Tiếp thu Nho giáo để đào tạo đội ngũ quan lại, sắp đặt chính trị, xây dựng củng cố bộ máy nhà nước trung ương tập quyền thời Lý Trần biểu thị một bước tiến bộ, thức thời, phù hợp với bước tiến của lịch sử. Nhưng họ cũng khá sáng suốt, khôn ngoan, không vì tiếp thu cái mới mà phủ định, hoặc quay lưng lại với văn hóa, văn minh truyền thống vốn thấm đượm tinh thần nhân bản, được bổ sung thêm từ nguồn Phật giáo đang ngự trị trong đời sống tâm linh xã hội.

Việc tuyển chọn quan lại qua khoa cử được bất đầu từ năm 1076 thời Lý Nhân Tông, sử chép “Cất nhắc những người hiền lương có tài văn, võ cho quản quân dân1. Lê Văn Thịnh người đõ đầu khoa minh kinh bác học năm 1075 được chọn chầu vua học tập, giữ chức thị lang bộ binh và 10 năm sau giữ chức thái sư, vào năm 1085. Bên cạnh thi Nho học, nhà nước thời Lý - Trần còn tổ chức thi tam giáo: Nho, Phật, Đạo vào các năm 1195 (thời Lý), 1227, 1247 (thời Trần), ai đỗ được tuyển vào đội ngũ quan lại. Về sự kiện này, sử gia Phan Huy Chú có nhận xét: “Đời Lý - Trần, đều tôn chuộng Phật giáo và Đạo giáo, cho nên buổi ấy chọn người muốn được thông cả hai giáo ấy, dù là chính đạo hay dị đoan, đều tôn chuộng không phân biệt, mà học trò đi thi khoa ấy, nếu không học rộng biết nhiều thì cũng không thể đỗ được2.

Hơn một thế kỷ sau khi mở khoa thi, vào năm 1179, thời Lý Cao Tông sử chép việc khảo xét công trạng các quan chia làm ba loại:

1 - Siêng năng, tài cán nhưng không thông chữ nghĩa
2 - Có chữ nghĩa , tài cán
3 - Tuổi cao hạnh thuần, biết rõ việc xưa nay.

Cứ theo thứ tự mà trao cho chức vụ trị dân, coi quân3.

Điều này cũng dễ hiểu. Dầu sao thời Lý cũng chỉ mới mở có sáu khoa thi. Sang thời Trần các khoa thi mở nhiều hơn và có quy củ hơn. Ngay buồi đầu thời Trần, đã mở khoa thi Thái học sinh (tiến sĩ) vào năm 1232 và đã chọn tam khôi với học vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa vào năm 1247. Tuyển lựa quan lại qua khoa cử có phát triển, nhưng cho đến thế kỷ XIII -XIV vẫn còn những nho sinh chưa đậu đạt nhưng có tài cán cũng được tham dự quan trường. Phan Huy Chú cho biết: “Về dòng tôn thất có người do công lao danh vọng vào làm tướng, về phái nho học có người do văn chương, học vấn lên chúc tể, chỉ có tài là được cất đặt, không câu nệ về tu cách4. Cho nên bấy giờ các bậc đức tốt, tài cao đều được đưa dùng"5.

Như vậy tiêu chuẩn của đám quan lại trong bộ máy nhà nước thời Lý - Trần sau hàng thế kỷ củng cố, phát triển nổi lên hai điểm chủ yếu: tài cán - có đậu đạt hoặc chưa đậu đạt, và đạo đức - tuổi cao hạnh thuần giàu kinh nghiệm.

Để thanh lọc đội ngũ quan lại, thời Lý - Trần đã đặt ra phép khảo khóa. Năm 1051, Lý Thái Tông “định cho các quan văn võ làm việc mà không có tội lỗi được thăng chức tước theo thứ bậc khác nhau6. Hơn một nửa thế kỷ sau, vào năm 1162 thời Lý Anh Tông, sử chép: “Khảo khóa các quan văn võ, người nào đủ niên hạn khảo mà không có lỗi thì thăng trật, định làm phép thường, cứ chín năm là một kỳ khảo7. Sử còn chép việc khảo khóa vào các năm 1179, 1193 thời Lý. Thời Trần, sử chép một lần vào năm 1246 đời Trần Thái Tông: “xét duyệt các quan văn võ trong ngoài. Cứ 15 năm một lần xét duyệt, 10 năm thăng tước một cấp, 15 năm thăng chức một bậc. Chức quan nào khuyết thì chức chánh kiêm chức phó. Chánh phó đều khuyết thì lấy quan khác tạm giữ, đợi đủ hạn xét duyệt thì bổ chức ấy8.

Để hiểu thêm về yêu cầu của nhà nước đối với các thành viên trong bộ máy quản lý quốc gia, không thể không lưu ý đến hội thề ở miếu thờ thần Đồng Cổ đã thành thường lệ hàng năm thời Lý - Trần, xuất hiện lần đầu từ năm 1028, niên hiệu Thuận Thiên thứ 19 (năm cuối đời Lý Thái Tổ), đồng thời cũng là năm Thiên Thành thứ nhất đời Lý Thái Tông. Theo sử sách: tháng 3 âm lịch, Lý Thái Tổ băng hà, Lý Phật Mã kế vị, tức Lý Thái Tông. Lập tức ba người em của Phật Mã là Vũ Đức Vương, Đông Chính Vương, Dực Thánh Vương nổi loạn. Họ đã bị Lê Phụng Hiểu đánh dẹp. Trước khi ba vương làm phản, nhân việc nhà vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ9 báo cho biết để kịp thời dẹp loạn. Sự việc diễn ra đúng như trong mộng, nhà vua cho là linh nghiệm, bèn dựng miếu thờ bên hữu thành Đại La sau Chùa Thánh Thọ10, và các quan phải có mặt đầy đủ, cùng nhà vua uống máu ăn thề. Nội dung lời thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết11. Từ đó lấy ngày 4 tháng 4 hàng năm làm thành thường lệ. Việc làm này còn được tiếp tục ở triều Trần, bắt đầu từ năm 1227, nhưng nội dung lời thề có thay đổi: “Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này thần minh giết chết12. Trung là hạt nhân cơ bản của lời thề, đổng thời cũng là nội dung quan trọng của học thuyết Nho giáo. Đi đôi với trunghiếu. Thời Lý, lời thề xuất hiện trong bối cảnh sau vụ loạn ba vương chống lại việc làm của vua cha nên nhấn mạnh đến chữ hiếu. Sang thời Trần hội thề diễn ra trong một bối cảnh khác, yêu cầu xây dựng một nhà nước vững mạnh do một vương triều xuất thân từ dân chài ven biển cầm quyền. Yêu cầu về phầm chất của quan lại được thể hiện ở mối quan hệ với nhà vua - đối tượng phải phụng thờ, và với dân - đối tượng “chăn dắt”, cai quản. Các vua Trần, cụ thể là Trần Thái Tông tức Trần Cảnh có thể ít chữ nghĩa, và Trần Thủ Độ lại càng ít chữ nghĩa hơn, do đó không biết và cũng chưa quan tâm đến cặp đôi trung - hiếu đứng đầu trong tam cương của Nho giáo, đó là quân - thần, phụ - tử. Họ quan tâm đến họ (đòi hỏi lòng trung thành) và dân (đòi hỏi sự thanh liêm) hơn. Điều đặc biệt là nội dung lời thề này xuất hiện ngay từ buổi đầu thời Trần, nghĩa là vào lúc vương triều vừa mới thiết lập còn đang trong sáng với hàng loạt vua tài giỏi nối nhau cầm quyền, không phải đợi đến lúc suy thoái, cùng với sự tha hóa của vua quan. Nhìn chúng, nội dung thề Đồng Cổ hiện ra như một tuyên ngôn về yêu cầu của việc trị nước, quản dân của nhà nước thời Lý - Trần – một yêu cầu đúng, có giá trị lâu bền, nhằm xây dựng một quốc gia hùng cường thông qua một bộ máy quản lý vững mạnh.
______________________________________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.292.
2. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, phần “Khoa mục chí” Sđd, t.II, tr.152.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd , t.I, tr.350, 278, 345.
4. “tư cách” ở đây dùng để chi quy tắc bổ dụng, ví dụ xuất thân từ khoa cử, hay do hiền tài được bổ dụng.
5. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, phần “Nhân vật chí”. t.I, tr.232.
6, 7. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd , t.I, tr. 278, 345.
8. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd t.II tr. 19.
9. Núi Đồng Cổ nay thuộc xã Đan Nê, huyện Thiệu Yên, Thanh Hóa, có đền thờ thần Đồng Cổ.
10. Đền Đồng Cổ hiện nay là di tích lịch sử xếp hạng, thuộc quận Ba Đình, cạnh Hồ Tây, giữa đường Hoàng Hoa Thám và đường Thụy Khuê.
11. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, t.I, tr. 255
12. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd t. II, tr. 8.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2008, 08:54:23 pm »


II. ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, CHỐNG THÙ TRONG GIẶC NGOÀI

Nhiều tộc người cộng cư trên vùng lãnh thổ quốc gia Đại Việt. Trong đó, khối cư dân Việt - Mường chiếm tuyệt đại đa số ở những vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam và các thung lũng, nương đồi thuộc vùng rừng núi với trung tâm là Hòa Bình ngày nay, phía nam lan sang thượng du Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và phía bắc đến Vĩnh Phú. Ở biên thùy phía bắc là địa bàn cư trú chủ yếu của khối cư dân Tày - Nùng có cùng chung cội nguồn với người Tây Âu (Tây Việt) ở Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc ngày nay. Vùng tây - bắc là địa bàn của người Thái cổ, tiếp đến lớp người Thái sau này di cư đến muộn, kéo dài từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIV thuộc thời Lý-Trần. Khối Việt - Mường vốn chung cội nguồn, nhưng đo tác động của nhiều yếu tố, chủ yếu là môi trường sinh thái và chế độ chính trị kéo dài hàng chục thế kỷ sau công nguyên, kể cả từ thế kỷ X, đã dẫn đến sự chia tách về tên gọi. Khối Tày - Nùng với trung tâm là Cao Bằng, bắc Lạng Sơn ngày nay đã có lịch sử chung sức với người Lạc Việt dựng nên nước Âu Lạc, do Thục An Dương Vương - người Tày, làm vua, đóng đô ở Cổ Loa từ thế kỷ III trước công nguyên.

Từ thời Bắc thuộc, bọn thống trị đô hộ Hán - Đường đã dần dẩn thiết lập bộ máy cai trị đến quận huyện ở vùng đồng bằng châu thổ, còn ở vùng núi xa xôi của các tộc ít người vẫn áp dụng chính sách “cơ mi” (ràng buộc lỏng lẻo) giao cho tù trưởng trông coi. Sau khi giành lại được độc lập tự chủ, nhà nước thời Đinh, Tiền Lê cũng chưa đề ra được chính sách mới để quản lý vùng đất “cơ mi”. Phải đợi đến vương triều Lý trở đi, vấn đề quản lý, liên kết cộng đồng các tộc người trên lãnh thổ quốc gia Đại Việt mới được đặt ra một cách cấp thiết.

Bộ máy nhà nước triều Lý chỉ mới trực tiếp quản lý được vùng đồng bằng châu thổ, miền trung du và một phần thượng du. Ở các vùng biên viễn, núi rừng xa xôi triều Lý vẫn áp đụng chính sách “cơ mi” qua những biện pháp mềm dẻo và hình thức linh hoạt. Đối với các tộc ít người ở vùng thượng du, nhà nước cho quyền tự quản, do tù trưởng trông coi. Để thắt chặt mối quan hệ liên kết bên cạnh việc trao chức tước quyền hạn, nhà nước còn dùng quan hệ hôn nhân, gả công chúa cho các tù trưởng, qua vai trò của họ tập hợp cư dân thành một khối chung quanh nhà nước quân chủ trung ương tập quyền. Đây là chính sách đặc biệt của vương triều Lý. Sử chép từ năm 1036 thời Lý Thái Tông cho đến năm 1167 thời Lý Anh Tông, ít nhất có chín trường hợp gả công chúa cho tù trưởng các châu thuộc vùng trung - thượng du Bắc Bộ ngày nay. Đó là các trường hợp:

1. Năm 1029, Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục châu Lạng (vùng Lạng Sơn và một phần Bắc Giang) là Thân Thiệu Thái.

2. Năm 1036, Lý Thái Tông gả công chúa Kim Thành cho Lê Tông Thuận châu mục châu Phong (Vĩnh Phú).

3. Cùng năm trên gả công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai (?) là Hà Thiện Lãm.

4. …Ngọc Kiều cho châu mục họ Lê ở châu Chân Đăng (bắc Phú Thọ - Tuyên Quang)1.

5. Năm 1066, Lý Thánh Tông gả công chúa Thiên Thành cho Thân Đạo Nguyên2 châu Lạng (Lạng Sơn và một phần Bắc Giang)

6. Năm 1082, Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị Long (Chiêm Hóa, Tuyên Quang) là Hà Di Khánh.

7. Năm 1127, Lý Nhân Tông gả công chúa Diên Bình cho thủ lĩnh phủ Phú Lương (Thái Nguyên) là Dương Tự Minh.

8. Năm 1144, Lý Anh Tông gả công chúa Thiều Dung cho Dương Tự Minh3.

9. Năm 1167, Lý Anh Tông gả công chúa Thiên Cực cho châu mục châu Lạng là Hoài Trung Hấu.

Một khi đã lấy công chúa, các tù trưởng địa phương có quan hệ mật thiết với nhà vua như cha con. Như vậy, lãnh thổ và cư dân trong thực tế nhà vua giao cho con rể quản giữ.

Gả công chúa chỉ áp dụng ở một số trường hợp đặc biệt, phổ biến hơn là phong quan tước và giao cho quyền quản đất chăn dân. Có thể kể trường hợp điển hình của họ Nùng. Anh em Nùng Tồn Phúc, Tồn Lộc và em vợ là Dương Đạo đều thủ lĩnh các châu Thảng Do, Vạn Nhai, Vũ Lặc ở vùng Quảng Nguyên, Cao Bằng ngày nay, hàng năm họ có nhiệm vụ nộp đồ tiến cống bằng sản vật địa phương. Tồn Phúc giết các em, chiếm đất, xưng hoàng đế, lập vương quốc riêng. Năm 1039 Lý Thái Tông đem quân đánh dẹp, bắt được Tồn Phúc đem về Thăng Long. Nhà vua hạ chiếu: “Trẫm có thiên hạ, khắp trên đất, đâu đấy đều là tôi con, các phiên thần đều dâng lễ cống. Thế mà Tồn Phúc ở châu Thảng Do dám tự tôn tự đại, dựng nước riêng, tiếm xưng tôn hiệu, khuấy rối dân lành ở nơi biên giới...”, rồi truyền lệnh chém đầu ở chợ kinh đô4. Năm 1041, Trí Cao, con Tồn Phúc, lại nổi dậy, bị quân triều đình bắt về kinh đô. Lý Thái Tông tha tội, cho giữ đất cũ và cắt thêm các động Lôi Hỏa, Tư Lang, trao giữ chức châu mục. Năm 1043, vua lại gia phong cho Trí Cao hàm thái bảo - một tước vị lớn trong triều. Ân uy là vậy nhưng Trí Cao vẫn không từ bỏ ý định cát cứ, còn đánh sang đất Tống và bị người Tống đánh đuổi, chết ở Đại Lý vào năm 1053. Tuy nhiên, chính sách quản lý mền dẻo của nhà nước quân chủ thời Lý đã có tác dụng rất lớn trong việc giữ gìn an ninh, bảo vệ lãnh thổ nơi biên cương. Hai cha con phò mã Thân Thiệu Thái, Thân Đạo Nguyên đã xứng đáng với vai trò làm phên giậu, quản giữ vùng đất biên cương xung yếu ở Lạng Sơn ngày nay. Các châu mục, tù trưởng Nùng Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An, Lý Kế Nguyên có những đóng góp tích cực, huy động quân dân các tộc ít người sát vai cùng triều đình đánh giặc Tống vào năm 1076.
____________________________________________
1. Trường hợp này sử không ghi chép rõ năm gả, chỉ chép vào năm 1113 đời Lý Nhân Tông: Mùa hạ, tháng 6, phu nhân của châu mục châu Chân Đăng là công chúa họ Lý mất, thọ 72 tuổi. Bà tên là Ngọc Kiều con gái lớn của Phụng Càn Vương Nhật Trung (con Lý Thái Tông), được Thánh Tông nuôi ở trong cung, lớn lên phong làm công chúa, gả cho châu mục châu Chân Đăng (Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, t.I, tr.300). Chúng tôi ước đoán bà lấy chồng khoảng 19 – 20 tuổi, tức là khoảng năm 1060 (TG)
2. Thân Đạo Nguyên là con Thân Thiệu Thái và công chúa Bình Dương.
3. Trường hợp Dương Tự Minh như vậy được làm phò mã của hai triều Lý Nhân Tông và Lý Anh Tông.
4. Việt sử thông giám cương mục, NXB Văn-Sử-Địa, Hà Nội, 1957, t.III, tr.65.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM