Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:37:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh  (Đọc 173882 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #140 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2011, 02:27:41 pm »

21.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị Bắc Kạn, Tuyên Quang, Nam Định, Nghệ An, Ninh Thuận, Phúc Yên.
- Tại Bắc Kạn: đến tháng 8.1945, phần lớn Bắc Kạn đã được giải phóng, quân Nhật chỉ còn chiếm giữ thị xã và một vài thị trấn, phủ lị; ngày 19.8, Phủ Thông giải phóng; ngày 20.8, quân Nhật rút khỏi thị xã; ngày 21.8, chính quyền về tay nhân dân.
- Tại Tuyên Quang: đến tháng 6.1945, có 7 huyện giành được chính quyền: Chiêm Hóa, Hàm Yên, Yên Bình, Na Hang…; đêm 16 - 17.8, lực lượng vũ trang nổi dậy làm chủ thị xã, nhưng quân Nhật chiếm lại; đến 21.8, thị xã Tuyên Quang hoàn toàn giải phóng.
- Tại Nam Định: ngày 17.8, giành chính quyền ở huyện Trưc Ninh; ngày 18.8, huyện Nam Trực; ngày 20.8, huyện Ý Yên, Vụ Bản, Nghĩa Hưng, Xuân Trường; ngày 21.8, thành phố Nam Định và huyện Mỹ Lộc giành được chính quyền.
- Tại Nghệ An: ngày 18.8, huyện Quỳnh Lưu giành được chính quyền; ngày 19.8, huyện Hưng Nguyên; ngày 21.8, thị xã Vinh giành chính quyền thắng lợi; ngày 22.8, Nghĩa Đàn; ngày 23.8, Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn; ngày 25.8, Nghi Lộc, Yên Thành; ngày 26.8, các huyện Con Cuông, Vĩnh Hòa, Tương Dương, Quỳ Châu giành được chính quyền.
- Tại Ninh Thuận: ngày 21.8, khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Phan Rang và Bảo Tháp (Tháp Chàm); sau đó, các huyện, tổng trong tỉnh giành chính quyền.
- Tại Phúc Yên: ngày 19.8, thị xã Phúc Yên và các huyện Kim Anh, Đa Phúc… tiến hành khởi nghĩa; ngày 21.8, giành được chính quyền ở tỉnh lị.

22.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh Cao Bằng, Hưng Yên, Kiến An, Tân An.
- Tại Cao Bằng: ngày 19 - 20.8, lần lượt các châu lị Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Trùng Khánh, Quảng Uyên, Thạch An quân Nhật rút chạy, lực lượng cách mạng nắm chính quyền; tối 22.8, quân giải phóng kéo vào thị xã giải tán chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Tại Hưng Yên: ngày 14.8, huyện Phù Cừ giành được chính quyền; ngày 16.8, Khoái Châu; ngày 17.8, Mỹ Hòa, Tiên Lữ; ngày 20.8, Kim Động; ngày 21.8, Vạn Lâm; ngày 18.8, tại thị xã Hưng Yên lực lượng cách mạng làm chủ một phần thường xuyên; đến 22.8, chính quyền hoàn toàn thuộc về cách mạng.
- Tại Kiến An: ngày 12.7, huyện Kim Sơn giành được chính quyền; ngày 15.8, huyện Kiến Thụy giành được chính quyền; ngày 17.8, huyện Tiên Lãng, An Dương, An Lão, Thủy Nguyên; ngày 21.8, lực lượng cách mạng nổi dậy ở thị xã; ngày 22.8, cách mạng làm chủ hoàn toàn.
- Tại Tân An: ngày 22.8, giành chính quyền tại thị xã Tân An, buổi chiều khởi nghĩa thắng lợi ở các quận Châu Thành, Thủ Thừa; ngày 23.8, quận Mộc Hóa giành chính quyền.

23.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Thừa Thiên - Huế, Hải Phòng, Hà Đông, Hòa Bình, Quảng Bình, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu, Quảng Trị, Lâm Viên.
- Tại Thừa Thiên - Huế: ngày 18.8, huyện lị Phong Điền, Phú Lộc giành chính quyền; ngày 22.8, các huyện Hương Thủy, Hương Trà, Phú Vang, Quảng Điền giành chính quyền thắng lợi; ngày 23.8, lực lượng cách mạng đã biến cuộc biểu tình của ngụy quyền tổ chức thành cuộc tuần hành thị uy giành chính quyền trong toàn thành phố.
- Tại Hải Phòng: ngày 23.8, giành chính quyền thắng lợi ở thành phố.
- Tại Hà Đông: ngày 16.8, khởi nghĩa thắng lợi ở các huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức, Chương Mỹ; ngày 18.8, giành chính quyền ở các huyện Thanh Trì, Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên; ngày 20.8, lực lượng cách mạng nổi dậy ở thị xã; đến 23.8 hoàn toàn làm chủ được thị xã.
- Tại Hòa Bình: ngày 20.8, châu lị Vụ Bản giành được chính quyền; ngày 23.8, giành chính quyền ở thị xã Hòa Bình; ngày 26.8, châu Lương Sơn giành được chính quyền.
- Tại Quảng Bình: đêm 22.8, khởi nghĩa bùng nổ ở thị xã Đồng Hới; ngày 23.8, chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân; cùng ngày, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở tại các huyện lị Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa.
- Tại Quảng Trị: khởi nghĩa giành chính quyền trong cả tỉnh.
- Tại Bình Định: khởi nghĩa giành chính quyền bắt đầu từ thị xã Quy Nhơn, ngày 23.8, chính quyền thuộc về nhân dân; tiếp đó, các huyện An Nhơn, Phù Cát, Tuy Phước lần lượt giành chính quyền.
- Tại Gia Lai: ngày 22.8, khởi nghĩa giành chính quyền ở thị trấn An Khê; ngày 23.8, giành được chính quyền ở thị xã Plâyku.
- Tại Bạc Liêu: ngày 23.8, quần chúng biểu dương lực lượng trên các đường phố thị xã Bạc Liêu làm cho bộ máy chính quyền địch tan rã, Ủy ban giải phóng dân tộc tỉnh lên nắm chính quyền, nhân dân nổi dậy tại thị trấn Cà Mau từ 21.8, đến 25.8 mới giành được chính quyền.
- Tại Lâm Viên: ngày 21.8, khởi nghĩa thắng lợi tại Cầu Đất; ngày 22.8, giành chính quyền ở Đran; ngày 23.8, thị xã Đà Lạt khởi nghĩa, quân khởi nghĩa chiếm dinh Tổng đốc, lập chính quyền cách mạng.

24.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh Hà Nam, Quảng Yên, Đắk Lắk, Phú Yên, Gò Công.
- Tại Hà Nam: ngày 20.8, khởi nghĩa thắng lợi tại các huyện lị Duy Tiên, Lý Nhân, Kim Bảng; ngày 22.8, khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Bình Lục, Lạc Thủy; ngày 24.8, tại thị xã Phủ Lý ngụy quyền đầu hàng và trao chính quyền cho cách mạng.
- Tại Quảng Yên: ngày 24.8, lực lượng cách mạng nhanh chóng làm chủ thị xã và các huyện lị bởi vì bộ máy chính quyền địch tại đây đã cơ bản tan rã từ tháng 7.1945.
- Tại Đắk Lắk: ngày 17.8, khởi nghĩa nổ ra ở đồn điền Cađa rồi nhanh chóng lan rộng ra toàn tỉnh; ngày 20.8, lực lượng cách mạng đã cơ bản làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột, nhưng ngày 24.8 mới chính thức phát động khởi nghĩa giành chính quyền.
- Tại Phú Yên: ngày 20.8, quần chúng nhân dân ở thị xã Sông Cầu nổi dậy khởi nghĩa; ngày 24.8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở tỉnh lị; ngày 25.8, các huyện lị Đồng Xuyên, Tuy An, Tuy Hòa khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
- Tại Gò Công: ngày 23.8, trước khí thế cách mạng của quần chúng, tỉnh trưởng Gò Công tự trao chính quyền cho Ủy ban dân tộc giải phóng; ngày 24.8, chính quyền cách mạng được thành lập.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Chín, 2011, 02:32:54 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #141 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2011, 02:32:06 pm »

25.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại thành phố Sài Gòn và các tỉnh lị Chợ Lớn, Gia Định, Bình Thuận, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Bến Tre, Tây Ninh, Sa Đéc, Kon Tum, Lạng Sơn, Phú Thọ, Sơn La.
- Tại Thành phố Sài Gòn: tối 20.8, Việt Minh tổ chức mít tinh trong thành phố kêu gọi khởi nghĩa; ngày 24.8, nhiều cuộc biểu tình tuần hành diễn ra trên đường phố; ngày 25.8, lực lượng cách mạng hoàn toàn làm chủ thành phố.
- Tại Chợ Lớn: ngày 24.8, Cần Giuộc, Cần Đước giành được chính quyền; ngày 25.8, các quận của Chợ Lớn đồng loạt khởi nghĩa giành chính quyền cùng với thành phố Sài Gòn.
- Tại Gia Định: Sau khi hỗ trợ cho cuộc nổi dậy ở thành phố Sài Gòn, lực lượng quần chúng cách mạng kéo về giành chính quyền ở thị xã Gia Định cùng ngày 25.8.
- Tại Bình Thuận: trước sức ép của cách mạng, chính quyền địch hoàn toàn tan rã; từ 23 đến 25.8, toàn bộ chính quyền cấp tỉnh thuộc về cách mạng; sau khi thị xã Phan Thiết giành chính quyền thắng lợi, các huyện lị Tuy Phong, Hòa Đa, Phan Lý giành chính quyền; ngày 29.8, huyện cuối cùng giành chính quyền là Hàn Tân.
- Tại Long Xuyên: ngày 24.8, thị trấn Chợ Mới khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi; ngày 25.8, giành chính quyền tại thị xã Long Xuyên.
- Tại Vĩnh Long: ngày 25.8, thị xã Vĩnh Long và quận Tam Bình giành được chính quyền; ngày 26.8, giành chính quyền ở quận Trà Ôn; ngày 27.8, ở Chợ Lách; ngày 28.8, Ủy ban nhân dân tỉnh được thành lập.
- Tại Bà Rịa: ngày 25.8, giành được chính quyền ở tỉnh lị, Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh được thành lập.
- Tại Thủ Dầu Một: ngày 24.8, khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra ở thị trấn Bến Cát, Hớn Quản, Bà Rà, Tân Uyên, nhà máy xe lửa Dĩ An và một số đồn điền lớn; ngay 25.8, quần chúng làm chủ thị xã Lộc Ninh, chính quyền cách mạng thành lập.
- Tại Bến Tre: chiều 25.8, lực lượng cách mạng làm chủ thị xã; ngay đêm đó, các quận trong tỉnh đều nổi dậy giành chính quyền.
- Tại Trà Vinh: ngày 25.8, thị xã Trà Vinh và các huyện lị Càng Long, Cầu Ngang, Trà Cú, Tiểu Cần lần lượt khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
- Tại Tây Ninh: đêm 25.8, lực lượng cách mạng khởi nghĩa giành chính quyền tại thị xã và các quận khác.
- Tại Sa Đéc: sáng 25.8, thị xã Sa Đéc và quận lị Cao Lãnh khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
- Tại Kon Tum: ngày 25.8, lực lượng vũ trang từ Gia Lai kéo sang phối hợp với quần chúng nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã.
- Tại Lạng Sơn: đến tháng 8.1945, hầu hết các vùng nông thôn của tỉnh và 2 châu lị, huyện lị đã được giải phóng; ngày 24.8, lực lượng vũ trang tiến vào thị xã hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền vào ngày 25.8; nhưng ngày 26.8, lực lượng cách mạng lại rút khỏi thị xã để tránh đụng độ với quân Tưởng từ Trung Quốc sang.
- Tại Phú Thọ: ngày 15.8, huyện Phú Ninh giành chính quyền; ngày 17.8, Cẩm Khê, Thanh Ba, Đoan Hùng; ngày 18.8, Yên Lập, Tam Nông; ngày 20.8, Lâm Thao, Hạc Trì, Việt Trì; ngày 22.8, Thanh Thủy; ngày 25.8, thị xã Phú Thọ Giành được chính quyền.
- Tại Sơn La: tháng 7.1945, Nghĩa lộ là châu lị đầu tiên được giải phóng; ngày 22.7, Phủ Yên; ngày 22.8, các huyện Mường La, Thuận Châu, Mường Thanh giành được chính quyền; ngày 25.8, tỉnh lị Sơn La khởi nghĩa giành chính quyền; tháng 10.1945, châu lị Mộc Châu mới giành được chính quyền cách mạng.

26.8.1945
Khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh Cần Thơ, Châu Đốc, Biên Hòa, Hòn Gai.
- Tại Cần Thơ: sáng 26.8, 20 vạn nhân dân thị xã và các vùng lân cận họp mít tinh, Ủy ban dân tộc ra mắt nhân dân và tuyên bố chính quyền về tay cách mạng.
- Tại Châu Đốc: ngày 22.8, thị trấn Hồng Ngự giành được chính quyền; ngày 24.8, quận Tân Châu; chiều 26.8, nhân dân thị xã Châu Đốc nổi dậy giành chính quyền; ngày 27.8, huyện Tịnh Biên và Tri Tôn khởi nghĩa giành thắng lợi.
- Tại Biên Hòa: sau khi tham dự khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Sài Gòn (25.8), lực lượng cách mạng của Biên Hòa kéo về giành chính quyền tại thị xã, đến chiều 26.8 giành thắng lợi
- Tại Hòn Gai: ngày 26.8, lực lượng cách mạng kết hợp với các đơn vị vũ trang của chiến khu Trần Hưng Đạo tấn công làm chủ thị xã, chính quyền cách mạng thành lập.

27.8.1945
Khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh lị Rạch Giá.
- Tại Rạch Giá: ngày 27.8, 60.000 quần chúng nhân dân từ các vùng nông thôn và nhân dân thị xã được vũ trang nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền; sau đó, các quận huyện trong tỉnh lần lượt giành được chính quyền.

28.8.1945
Khởi nghĩa giành hành quân tại các tỉnh lị Đồng Nai Thượng và Hà Tiên, cơ bản kết thúc cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước.
- Tại Đồng Nai Thượng: ngày 28.8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi tại thị xã Di Linh.
- Tại Hà Tiên: ngày 28.8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi tại thị xã.

Như vậy, trong vòng nửa tháng (từ 14 đến 28.8.1945), cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi cả nước đã căn bản hoàn thành. Chỉ còn một số tỉnh lị do những điều kiện khách quan nên chưa giành được chính quyền: thị xã Vĩnh Yên bị lực lượng Quốc Dân Đảng chiếm giữ; các tỉnh lị Hà Giang, Lào Cai, Móng Cái bị quân đội Tưởng Giới Thạch chiếm đóng; tỉnh lị Lai Châu bị tàn quân Pháp từ Lào quay về chiếm giữ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #142 vào lúc: 01 Tháng Mười, 2011, 08:58:48 am »

PHẦN THỨ BA

GIÁO DỤC TINH THẦN
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM CHO THẾ HỆ TRẺ

Cách mạng tháng Tám vừa kế tục truyền thống đấu tranh bảo vệ Tổ quốc giải phóng dân tộc của tổ tiên, vừa để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho các thế hệ sau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Vì vậy, vấn đề giáo dục cho thế hệ trẻ hiểu biết về Cách mạng tháng Tám, chống những luận điệu xuyên tạc lịch sử theo kiểu “diễn biến hòa bình” là một việc làm cần thiết. Phải làm cho hiểu rằng, cha ông ta đã đổ biết bao xương máu để lật đổ ách thống trị của thực dân đế quốc, để xây dựng một cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bậc tiền bối cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào Đảng đã lãnh đạo cách mạng thành công và lần đầu tiên làm cho “nhân dân lao động trở thành người chủ của bản thân mình và của vận mệnh đất nước”(1).

Giáo dục niềm tin cho thế hệ trẻ là một nội dung quan trọng của việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”(2). Bọn phản động càng ra sức tấn công làm xói mòn lòng tin của thế hệ trẻ. Mất lòng tin sẽ mất phương hướng hành động, dễ đi sai đường lạc lối. Chỉ có niềm tin mới đem lại sức mạnh, vượt qua khó khăn, thể hiện tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc…

Những bài viết ở phần này sẽ tập trung vào chủ đề giáo dục tinh thần Cách mạng tháng Tám cho thế hệ trẻ.



(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 53.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 510.
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Mười, 2011, 09:05:00 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #143 vào lúc: 01 Tháng Mười, 2011, 09:03:27 am »

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU
VỀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

TRẦN VIẾT LƯU(*)

Ngay khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận sứ mệnh lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc, theo con đường cách mạng vô sản. Đây cũng là việc chấm dứt sự lãnh đạo phong trào yêu nước, giành độc lập dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản dân tộc, tiểu tư sản.

Phong trào cách mạng 1930-1931 mở đầu cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua 15 năm (1930-19450 trải qua những cao trào 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, đã trải qua nhiều gian khổ, hi sinh, mất mát, song cuối cùng đã giành thắng lợi.

Thắng lợi này thể hiện tính cách mạng và khoa học trong quan điểm đường lối của Đảng, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Mục tiêu chiến lược cách mạng, được Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (“Chính cương vắn tắt, “Sách lược vắn tắt”) khẳng định không thề thay đổi. Song trong quá trình lãnh đạo, do tình hình cụ thể, mục tiêu đấu tranh từng thời kì mà Đảng có sự chỉ đạo chuyển hướng chiến lược cho phù hợp với yêu cầu cách mạng, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược. Đó là tính nguyên tắc kết hợp với sự sáng tạo, linh hoạt trong lãnh đạo của Đảng.

Điểm qua toàn bộ quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng trong suốt 15 năm (1939-1945), chúng ta sẽ nhận thúc đúng con đường đấu tranh giải phóng dân tộc đưa tới Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi.

Giới hạn trong phạm vi, nội dung bài viết, chúng tôi nêu một số văn kiện của Đảng từ sau cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để nêu rõ vai trò có tính quyết định của Đảng đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.

Năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, đế quốc Pháp ra sức đàn áp cách mạng, quân phiệt Nhật kéo vào Đông Dương. Trong tình hình và tương quan lực lượng chung, Pháp và Nhật câu kết với nhau để chia phần bóc lột nhân dân Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương đã sớm phát hiện mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa “hai con chó tranh nhau gặm một mẩu xương” và dự đoán chúng sẽ “cắn xé” nhau để một mình chiếm đoạt “miếng mồi béo bở”.

Mâu thuẫn đi tới lật đổ nhau giữa Pháp và Nhật là cơ hội thuận lợi cho nhân dân Việt Nam giành độc lập.

Dự đoán của Đảng đã được thực tế xác nhận là đúng đắn, khi Nhật tiến hành đảo chính Pháp. Trong bối cảnh ấy, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương đã họp ngay tối ngày 9.3.1945 và thông qua chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Qua Chỉ thị này, chúng ta nhận thấy sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Trung ương Đảng. Sau khi phân tích đúng đắn nguyên nhân dẫn tới cuộc đảo chính, Chỉ thị khẳng định “Phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo”. Chỉ thị này là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Mặt trận Việt Minh, các Hội Cứu quốc tích cực khẩn trương chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa khi có thời cơ.

Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã tạo điều kiện cho cao trào chống Nhật, cứu nước phát triển sâu rộng trong cả nước. Khởi nghĩa từng phần trở thành “một làn sóng dân lên cuồn cuộn”, như nhận định của Tổng Bí thư Trường Chinh. Phong trào đấu tranh vũ trang diễn ra ở Ba Tơ (Quảng Ngãi), ở 6 tỉnh miền núi phía Bắc; nhiều tỉnh khác đều tích cực chuẩn bị khởi nghĩa theo đường lối chủ trương của Đảng. Do hoạt động khởi nghĩa từng phần thắng lợi mà một khu vực rộng lớn gồm các tỉnh Việt Bắc, một bộ phận trung du, đồng bằng miền Bắc, miền Trung được giải phóng, nhân dân thực sự làm chủ quê hương để tiến tới giải phóng đất nước.

Trong cao trào chống Nhật, cứu nước, Hội nghị quân sự cách mạng của Đảng, hợp từ 15 - 20.4.1945, tại huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa: phát triển lực lượng vũ trang, bán vũ trang, lập Việt Nam Giải phóng quân, cử Ủy ban quân sự cách mạng.

Với sự phát triển của phong trào chống Nhật, cứu nước, theo đề nghị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, khu giải phóng được thành lập. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Việt Minh, nhân dân khu giải phóng thực sự làm chủ quê hương, khi thực hiện “Mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh”.

Từ đầu tháng 8.1945, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến lớn, sau khi phát xít Đức, Italia đầu hàng vô điều kiện và quân phiệt Nhật ngày càng thất bại trên khắp chiến trường.

Khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, Đảng ta nhận định đây là thời cơ “nghìn năm có một” để cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra và trong một thời gian ngắn, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tiến hành Hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội quốc dân Tân Trào, thành lập Ủy ban khởi nghĩa, ra Quân lệnh số 1 kêu gọi toàn dân đứng lên khởi nghĩa. Hồ Chí Minh cũng gửi “Thư kêu gọi khởi nghĩa” đế đồng bào cả nước, kêu gọi đoàn kết, dũng cảm tiến lên, dưới ngọn cờ của Việt Minh.

Sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Đảng rõ ràng là một nhân tố quan trọng, quyết định sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Nếu lúc bấy giờ chỉ một phút chần chừ, một sai sót nhỏ trong chủ trương, đường lối thì chúng ta đã bỏ mất cơ hội để giành thắng lợi lịch sử này.

Sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là một sự thực, thế mà cũng có một vài người do nhận thức sai lệch, những kẻ phản bội, phá hoại cố tình phủ nhận vai trò của Đảng, công lao to lớn của Hồ Chí Minh. Không thể phủ nhận được cuộc Cách mạng tháng Tám, một số người ra sức xuyên tạc lịch sử: “Sau khi Nhật đầu hàng, cuộc khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 đã đưa Việt Minh đến chỗ chiếm trọn chính quyền trên toàn lãnh thổ”(1).

Để hiểu rõ hơn sự lãnh đạo của Đảng, công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc hơn các văn kiện của Đảng thời kì này. Ở đây, chúng tôi giới thiệu một số tài liệu, văn kiện chủ yếu để tham khảo.


(*) TS. Ban Khoa giáo Trung ương.
(1) Băng Phong: Sử - Địa các lớp đệ nhất, Nhà xuất bản Học đường Sài Gòn, 1970, tr. 54.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #144 vào lúc: 01 Tháng Mười, 2011, 09:12:01 am »

NHẬT - PHÁP BẮN NHAU
VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA CHÚNG TA


(Chỉ thị Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
Ngày 12.3.1945)

I. Nhận xét tình hình

a) Cuộc chính biến nổ ra: Tám giờ 25 tối hôm 9-3-1945, Nhật nổ súng bắn Pháp; chiếm các thành phố lớn và địa điểm quân sự quan trọng. Sức kháng chiến của Pháp yếu, Pháp sẽ bại, vì ba lẽ:

1 - Không có tinh thần chiến đấu;

2 - Thiếu võ khí tinh xảo;

3 - Không thống nhất hành động với lực lượng chống Nhật của nhân dân Đông Dương.

b) Tính chất và mục đích cuộc chính biến: Chính biến ngày 9-3-1945 là một cuộc đảo chính, mục đích là truất quyền Pháp, tước khí giới của Pháp, chiếm hẳn lấy Đông Dương làm thuộc địa riêng của chủ nghĩa đế quốc Nhật.

c) Nguyên nhân cuộc chính biến: Cuộc chính biến ngày 9-3-1945 có ba nguyên nhân dưới đây:

1 - Hai con chó đế quốc không thể ǎn chung một miếng mồi béo như Đông Dương.

2 - Tàu, Mỹ sắp đánh vào Đông Dương. Nhật phải hạ Pháp để trừ cái hoạ bị Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ.

3 - Sống chết Nhật phải giữ lấy cái cầu trên con đường bộ nối liền các thuộc địa miền Nam Dương với Nhật; vì sau khi Phi Luật Tân bị Mỹ chiếm, đường thuỷ của Nhật đã bị cắt đứt.

d) Cuộc khủng hoảng chính trị do cuộc đảo chính của Nhật gây ra: Ngay bây giờ, chúng ta đã nhận rõ mấy hiện tượng sau này, biểu hiện một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc:

1 - Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử.

2 - Chính quyền Pháp tan rã.

3 - Chính quyền Nhật chưa ổn định.

4 - Các từng lớp đứng giữa hoang mang.

5 - Quần chúng cách mạng muốn hành động.

II. Điều kiện mới do tình thế mới gây ra

1. Những điều kiện khởi nghĩa chưa thực chín muồi: Mặc dầu tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa thực chín muồi. Vì:

a) Cuộc kháng chiến của Pháp quá yếu và cuộc đảo chính của Nhật tương đối dễ dàng; nên tuy giữa hai bọn thống trị Nhật, Pháp có sự chia rẽ đến cực điểm; tuy hàng ngũ bọn Pháp ở Đông Dương hoang mang, tan rã đến cực điểm; nhưng xét riêng bọn thống trị Nhật, ta thấy chúng chưa chia rẽ, hoang mang, do dự đến cực điểm.

b) Các từng lớp nhân dân đứng giữa tất nhiên phải qua một thời kỳ chán ngán những kết quả tai hại của cuộc đảo chính, lúc ấy mới ngả hẳn về phe cách mạng, mới quyết tâm giúp đỡ đội tiền phong.

c) Trừ những nơi có địa hình, địa thế, có bộ đội chiến đấu không kể, nói chung toàn quốc, đội tiền phong còn đang lúng túng ở chỗ sửa soạn khởi nghĩa, chưa sẵn sàng chiến đấu, chưa quyết tâm hy sinh.

2. Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi. Ba cơ hội tốt dưới đây sẽ giúp cho những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương chín muồi một cách mau chóng và một cao trào cách mạng nổi dậy:

a) Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng).

b) Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước).

c) Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật).

III. Chiến thuật của Đảng thay đổi

1. Hàng ngũ kẻ thù và Đồng minh quân có chỗ thay đổi: Cuộc đảo chính của Nhật mang lại những thay đổi lớn dưới đây:

a) Đế quốc Pháp mất quyền thống trị ở Đông Dương, không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt ta nữa mặc dầu ta vẫn phải đề phòng cuộc vận động của bọn Đờ Gôn định khôi phục quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương.

b) Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương.

c) Bọn Pháp kháng chiến đang đánh Nhật là đồng minh khách quan của nhân dân Đông Dương lúc này.

2. Khẩu hiệu chính thay đổi và toàn bộ chiến thuật thay đổi: Cương quyết tẩy trừ những khẩu hiệu và hình thức tranh đấu cũ, chuyển qua những hình thức tuyên truyền, tổ chức và tranh đấu mới. Đặc biệt chú ý những điều dưới đây:

a) Đem khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật!” thay cho khẩu hiệu “ Đánh đuổi Nhật, Pháp!”… chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật.

b) Chuyển trục tâm tuyên truyền vào hai vấn đề:

1. Giặc Nhật không giải phóng cho ta; trái lại, tăng gia áp bức bóc lột ta.

2. Giặc Nhật không thể củng cố chính quyền ở Đông Dương và nhất định chúng sẽ chết.

c) Thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và tranh đấu cho hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa; động viên mau chóng quần chúng nhân dân lên mặt trận cách mạng, tập dượt cho quần chúng mạnh dạn tiến lên tổng khởi nghĩa.

d) Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá phách, cho đến những hình thức cao như biểu tình thị uy võ trang, du kích.

đ) Sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện (ví dụ khi quân Đồng minh bám chắc và tiến mạnh trên đất ta).

IV. Thái độ ta đối với cuộc kháng chiến của Pháp và việc lập mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương

1. Cuộc kháng chiến của Pháp tương đối tiến bộ: Cuộc kháng chiến của Pháp tuy có mục đích là giành giật quyền lợi đế quốc với Nhật; nhưng ta rất tán thành nó. Vì đứng về khách quan mà xét, nó đánh kẻ thù chính của ta là đế quốc phát xít Nhật nó có tính chất tương đối tiến bộ.

2. Những điều kiện làm cơ sở cho Mặt trận dân chủ thống nhất kháng Nhật ở Đông Dương: Bọn Pháp kháng chiến có thể cùng nhân dân cách mạng Đông Dương đứng trong Mặt trận dân chủ thống nhất kháng Nhật ở Đông Dương được, nếu họ thừa nhận bốn điều kiện của Đảng đã đề ra từ năm 1943 và sửa lại như dưới đây:

1) Những người ngoại quốc chống Nhật ở Đông Dương phải thừa nhận quyền dân tộc độc lập hoàn toàn và tức khắc của nhân dân Đông Dương.

2) Những lực lượng kháng Nhật của người ngoại quốc ở Đông Dương và cách mạng Đông Dương phải thống nhất hành động về mọi mặt, kể cả mặt quân sự. Sự thống nhất hành động ấy phải lấy nguyên tắc bình đẳng tương trợ làm nền tảng.

3) Các chính trị phạm người Đông Dương và người ngoại quốc đều được tha bổng.

4) Chính phủ cách mạng… bảo đảm sinh mệnh tài sản cho những người ngoại quốc chống phát xít Nhật ở Đông Dương và cho họ được hưởng quyền tự do cư trú và buôn bán.

3. Đánh Nhật trước đã! Tuy nhiên không phải trong bất cứ trường hợp nào ta cũng ôm khư khư cả bốn điều kiện trên đây một cách máy móc và bỏ lỡ cơ hội thực hiện cuộc liên hiệp hành động cùng người Pháp đánh Nhật trên đất Đông Dương. Cho nên ta sẵn sàng bắt tay những người Pháp thành thực chống Nhật đến cùng và hiện đang bắn nhau với Nhật; và ta hô hào họ giúp khí giới cho ta để cùng ta đánh Nhật trước đã! Như thế không phải là ta bỏ quyền dân tộc độc lập. Trái lại, ta nhận rõ rằng: rốt cuộc khẩu hiệu “dân tộc độc lập” do sức mạnh của quần chúng võ trang mà quyết định, chứ không phải do lời hứa hẹn của bọn Pháp kháng chiến mà quyết định.

4. Thực hiện thống nhất hạ tầng: Nhưng nếu bọn Pháp kháng chiến không tán thành bốn điều kiện trên kia, cũng không giúp khí giới cho ta đánh Nhật, thì bổn phận ta là phải vận động thống nhất với hạ tầng quân đội kháng chiến của Pháp, kéo những phần tử kiên quyết chống phát xít, có xu hướng quốc tế, thống nhất hành động với ta đánh Nhật, hoặc mang võ khí của đế quốc Pháp chạy sang phe ta, vượt qua đầu bọn võ quan ích kỷ và không triệt để, đặng cùng ta thực hiện Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #145 vào lúc: 01 Tháng Mười, 2011, 09:15:14 am »

V. Công việc cần kíp

1. Về tuyên truyền
a) Khẩu hiệu: Chống chính quyền của Nhật và của bọn Việt gian thân Nhật. Nêu khẩu hiệu “Chính quyền cách mạng của nhân dân”.

b) Hình thức: Chuyển qua những hình thức tuyên truyền cổ động mạnh bạo hơn, như: mít tinh diễn thuyết có cờ, bǎng, áp phích, truyền đơn, bươm bướm. Tổ chức những cuộc hát đồng thanh và thao diễn. Tổ chức những cuộc triển lãm sách báo, tranh ảnh, võ khí, vv.

c) Thực hiện tuyên truyền xung phong: Thành lập những đội “tán phát xung phong” võ trang đi phát thật nhiều tuyên ngôn Việt Minh về tình hình Nhật, Pháp bắn nhau và các thứ truyền đơn, bươm bướm hay sách báo. Đặc biệt chú trọng dán áp phích cho nhiều và nǎng giới thiệu lá cờ Việt Minh với quốc dân.

Thành lập các đội “tuyên truyền xung phong” võ trang công khai diễn thuyết các nơi.

2. Về tranh đấu

a) Khẩu hiệu tranh đấu: gắn khẩu hiệu đòi cơm áo, chống thu thóc, thu thuế với khẩu hiệu “Chính quyền cách mạng của nhân dân”.

b) Thuật vận động tranh đấu: Bám lấy nạn đói mà cổ động quần chúng lên đường tranh đấu (tổ chức những cuộc biểu tình đòi gạo, đòi ǎn hay phá những kho gạo thóc của đế quốc).

c) Hình thức tranh đấu: Chuyển qua những hình thức tranh đấu cao hơn: tổng biểu tình tuần hành, bãi công chính trị; mít tinh công khai, bãi khoá; bãi thị; bất hợp tác với Nhật về mọi phương diện; chống thu thóc không nộp thuế.

Huy động đội tự vệ tước võ khí của binh lính bại trận, đào ngũ, dao động mất tinh thần.

Phát động du kích ở những nơi có địa hình, địa thế.

d) Đề phòng Nhật đàn áp. Hai trường hợp:

1 - Nếu Nhật về đàn áp, bắt bớ ở một làng nào, thì huy động cả làng và các làng xung quanh nổi trống, mõ, ốc, tù và, bắn súng, làm sức thanh viện, xua đuổi chúng; đồng thời mai phục đánh tháo cho những người bị bắt.

2 - Nếu Nhật đem quân đánh phá khu du kích thì đội quân du kích phải khéo dùng chiến thuật hoá chẵn thành lẻ, hoá lẻ thành chẵn, phối hợp với nhân dân đằng sau quân địch, đánh phá, nhiễu loạn, làm cho chúng phải rút lui.

3. Về tổ chức

a) Mở rộng cơ sở Việt Minh:

- Thành lập những ban “tổ chức xung phong” đi gây cơ sở cứu quốc ở những nơi chưa có phong trào.

- Dùng những hình thức tổ chức đơn sơ như bảo an, nhân dân tự vệ đội, nghĩa dũng đoàn, vũ dũng đoàn, uỷ ban hàng xã, uỷ ban trật tự nhà máy, vv., rồi do những hình thức ấy gây ra cơ sở cứu quốc nhanh chóng.

- Đặc biệt chú ý phát triển các đội tự vệ cứu quốc và thanh niên cứu quốc.

b) Tổ chức quân sự.

- Tổ chức thêm nhiều bộ đội du kích và tiểu tổ du kích.

- Thành lập những cǎn cứ địa mới.

- Thống nhất các chiến khu và thành lập “Việt Nam cứu quốc quân”.

- Tổ chức “Uỷ ban quân sự cách mạng” (tức Uỷ ban khởi nghĩa) để thống nhất chỉ huy du kích các chiến khu.

c) Tổ chức chính quyền:

- Thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng ở các nhà máy, mỏ, làng, ấp, đường, phố, trại lính, trường học, công tư sở, vv. Những uỷ ban này vừa có tính chất Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật rộng rãi, vừa có ý nghĩa “tiền chính phủ” của đồng bào trong các xí nghiệp, các làng, vv.

- Thành lập “Uỷ ban nhân dân cách mạng” và “Uỷ ban công nhân cách mạng” ở những vùng quân du kích hoạt động.

- Thành lập “Uỷ ban nhân dân cách mạng Việt Nam” theo hình thức một Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

4. Về huấn luyện

Chú ý hai điều:

a) Đề phòng phong trào lan rộng mà kém ǎn sâu, nên tổ chức đến đâu phải thực hành huấn luyện theo “Chương trình huấn luyện Việt Minh” đến đó.

b) Các cuộc tuyên truyền và tranh đấu đều có tính chất quân sự hoá, nên việc huấn luyện quân sự cho cán bộ các cấp và đội trưởng các đội tự vệ là rất cần.

VI. Sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng minh

1. Khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, không phải ta có thể phát động tổng khởi nghĩa ngay tức khắc. Phải đợi cho quân Đồng minh không những bám chắc mà còn tiến được trên đất ta. Đồng thời phải chờ quân Nhật kéo ra mặt trận ngǎn cản quân Đồng minh để phía sau tương đối sơ hở; lúc đó phát động tổng khởi nghĩa mới có lợi.

2. Nơi nào quân Đồng minh đổ bộ, phải vận động nhân dân biểu tình hoan nghênh, uý lạo họ và võ trang quần chúng, thành lập dân quân, cùng quân Đồng minh chiến đấu. Nếu nơi ấy có bộ đội du kích của ta hoạt động, thì bộ đội phải tìm cách liên lạc với quân Đồng minh để cùng họ thực hiện việc đánh Nhật theo kế hoạch chung. Nhưng luôn luôn phải giữ quyền chủ động trong việc tác chiến.

3. Còn ở các vùng sau lưng quân địch trong khắp nước thì phải vận động quần chúng ra đường biểu tình hoan hô quân Đồng minh và đặc biệt xem xét nhất cử nhất động của quân Nhật đặng báo tin cho quân ta và quân Đồng minh rõ; đồng thời thực hiện một phần công tác phá hoại ở những nơi cần thiết. Khi nào có lệnh phát động tổng khởi nghĩa thì nổi dậy tất cả, đánh phá tan nát các đường giao thông, vận tải của giặc Nhật; đánh chiếm các kho tàng, đồn trại của Nhật, đánh chẹn các đội quân tuần tiễu và vận tải của Nhật, làm cho chiến tranh du kích càng lan tràn ra khắp nước, đến tận các thành phố.

4. Và ngay bây giờ phát động du kích, chiếm cǎn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai chủ động trong việc đánh đuổi quân ǎn cướp Nhật Bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng minh một cách tích cực.

5. Song dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa của ta; vì như thế là ỷ lại vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ, và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp nǎm 1940, và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân Đồng minh chưa đổ bộ; cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi.

*

Các đồng chí!

Hãy giương cao lá cờ chói lọi của Đảng; gắng vượt mọi khó khǎn nguy hiểm, thực hành chỉ thị trên đây. Thắng lợi cuối cùng nhất định về tay chúng ta!

Ngày 12.3.1945                           
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương 

Lưu tại Kho Lưu trữ                                                Trích theo Văn kiện Đảng - Toàn tập, tập 7, 1940-1945
Trung ương Đảng              Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000, tr. 364-373
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Mười, 2011, 11:30:06 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #146 vào lúc: 01 Tháng Mười, 2011, 09:17:01 am »

THƯ KÊU GỌI TỔNG KHỞI NGHĨA

Hỡi đồng bào yêu quý!

Bốn năm trước đây, tôi có thư kêu gọi đồng bào ta đoàn kết. Vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được ĐỘC LẬP, TỰ DO.

Hiện nay quân đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nước. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) có hàng chục triệu đội viên, gồm đủ các từng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán. Trong Việt Minh đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt trai, gái, già, trẻ, lương, giáo, giàu, nghèo.

Vừa đây Việt Minh lại triệu tập "Việt Nam quốc dân đại biểu đại hội", cử ra ỦY BAN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG VIỆT NAM để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập.

Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay.

Đó là một điều khiến cho đồng bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng.

Nhưng chúng ta chưa thể cho thế là đủ. Cuộc tranh đấu của chúng ta đương còn gay go, dằng dai. Không phải Nhật bại mà bỗng nhiên ta được giải phóng, tự do. Chúng ta vẫn phải ra sức phấn đấu. Chỉ có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập.

Việt Minh là cơ sở cho sự đoàn kết, phấn đấu của dân tộc ta trong lúc này. Hãy ra nhập Việt Minh, ủng hộ Việt Minh, làm cho Việt Minh rộng lớn mạnh mẽ.

UỶ BAN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG VIỆT NAM cũng như Chính phủ lâm thời của ta lúc này. Hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước.

Như vậy thì Tổ quốc ta nhất định mau được độc lập, dân tộc ta nhất định mau được tự do.

Hỡi đồng bào yêu quý!

Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.

Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ.

Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!

Tháng 8 năm 1945
HỒ CHÍ MINH    

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, xuất bản lần thứ hai,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 553-554.

LỆNH KHỞI NGHĨA

(Quân lệnh số I của Ủy ban khởi nghĩa)

Hỡi quân dân toàn quốc!

12 giờ trưa ngày 13-8-1945, phát-xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật đã bị tan rã tại khắp các mặt trận. Kẻ thù chúng ta đã ngã gục.

Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh!

Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!

Mang nhiệm vụ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa toàn quốc cho đến toàn thắng, Ủy ban khởi nghĩa đã thành lập.

Hỡi các tướng sĩ và đội viên Quân giải phóng Việt Nam!

Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa các bạn hãy tập trung lực lượng, kíp đánh vào các đô thị và trong trận của quân địch; đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước võ khí của chúng! Đạp qua muôn trùng trở lực, các bạn hãy kiên quyết tiến!

Hỡi nhân dân toàn quốc!

Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo Quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù.

Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!

Tổ quốc đang đòi hỏi những hy sinh lớn lao của các bạn!

Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!

Ngày 13 tháng 8 năm 1945, 11 giờ đêm
ỦY BAN KHỞI NGHĨA            

Lưu tại Kho Lưu trữ                                                                            Trích theo Văn kiện Đảng - Toàn tập
Trung ương Đảng                         tập 7, sđd, tr. 421-422
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Mười, 2011, 11:21:49 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #147 vào lúc: 01 Tháng Mười, 2011, 09:18:01 am »

NGHỊ QUYẾT CỦA TOÀN QUỐC HỘI NGHỊ
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG


(Ngày 14 - 15.8.1945)



III. Chủ trương của ta

1. Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới.

2. Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi việc đều phải nhằm vào ba nguyên tắc:

a) Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính.

b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy.

c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội.

3. Mục đích cuộc chiến đấu của ta lúc này là giành quyền độc lập hoàn toàn.

4. Khẩu hiệu tranh đấu lớn lúc này là:

- Phản đối xâm lược!


- Hoàn toàn độc lập!

- Chính quyền nhân dân!

5. Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê. Thành lập những ủy ban nhân dân và những nơi ta làm chủ.

6. Thi hành 10 chính sách Việt Minh như dưới đây:

a) Phản đối xâm lược; tiễu trừ Việt gian. Lập nên một nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, hoàn toàn độc lập.

b) Vũ trang nhân dân chống Nhật. Mở rộng quân giải phóng Việt Nam.

c) Tịch thu tài sản của lũ giặc nước và của Việt gian, tùy trường hợp để làm của chung hay chia cho dân nghèo.

d) Bỏ hết thuế khóa, phu dịch cho đế quốc đặt ra.

đ) Thực hiện quyền tự do dân chủ và quyền phổ thông tuyển cử. Thừa nhận quyền dân tộc bình đẳng nam nữ bình quyền.

e) Chia lại ruộng công, làm cho dân nghèo có ruộng cày cấy; giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ.

g) Thi hành luật ngày làm 8 giờ; đặt luật xã hội bảo hiểm; cứu tế nạn dân.

h) Thành lập và mở rộng nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích và giúp đỡ công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp. Lập quốc gia ngân hàng.

i) Chống nạn mù chữ, cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ học. Đào tạo các hạng nhân tài.

k) Thân thiện với các nước coi trọng nền độc lập của Việt Nam.

7. Đối với các hạng người ngoại quốc ở Đông Dương:

a) Đối với Nhật: Tước võ khí, tịch thu tài sản; kẻ nào chống lại thì trị, bắt được thì nhốt vào trại giam chung, đối đãi tử tế; cảm hóa những phần tử tương đối tốt dùng vào việc tuyên truyền.

b) Đối với Pháp: Bảo vệ sinh mệnh, tài sản (trừ bọn Pháp gian thân Nhật).

c) Đối với Hoa kiều: Bảo vệ sinh mệnh, tài sản và thân thiện. Riêng với Hán gian, giao cho các đoàn thể kháng Nhật Hoa kiều xử trí.

d) Đối với Anh, Mỹ: Thân thiện.

8. Đối với các hạng Chính phủ bù nhìn, trong khi chờ đợi chỉ thị cụ thể của Đảng phải vận động quần chúng phản đối và nêu cao khẩu hiệu chính quyền nhân dân.

9. Đối với các hạng quân Đồng minh vào Đông Dương

a) Đối với quân Đờ Gôn vào nước ta, trong lúc đợi chỉ thị cụ thể của Đảng, phải tránh xung đột quân sự; song nơi nào chúng vào phải làm vườn không nhà trống đồng thời phải chỉ huy quần chúng biểu tình phản đối mưu mô của Pháp khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương.

b) Đối với quân Mỹ, Anh, Tàu vào nước ta thì trong lúc đợi chỉ thị của Đảng:

- Tránh xung đột. Giao thiệp thân thiện.

- Tiêu cực đề kháng bằng cách vườn không nhà trống nếu họ xâm phạm đến quyền lợi của ta; huy động toàn lực quần chúng biểu tình nêu khẩu hiệu “Việt Nam hoàn toàn độc lập”.

IV. Vấn đề ngoại giao
 
1. Về mặt ngoại giao, tuy chúng ta đã cố gắng nhiều, nhưng mãi đến giờ, đối với Tàu vẫn chưa có kết quả tốt; đối với các nước Đồng minh khác, tuy việc ngoại giao có tiến, nhưng cách mạng Việt Nam vẫn chưa giành được một địa vị trên trường quốc tế.

2. Hiện nay, về chính sách ngoại giao, chúng ta cần phải nhận định cho rõ hai điều này:

a) Sự mâu thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh, Pháp và Mỹ, Tàu về vấn đề Đông Dương là một điều ta cần lợi dụng.

b) Sự mâu thuẫn giữa Anh, Mỹ, Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương.

3. Chính sách chúng ta là phải tránh cái trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh (Tàu, Pháp, Anh, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt Chính phủ của Pháp Đờ Gôn hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện dân tộc.

Bởi vậy cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ chống lại mưu mô của Pháp định khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương và mưu mô của một số quân phiệt Tàu định chiếm nước ta.

4. Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi giữa ta và Đồng minh.

5. Đối với các nước nhược tiểu và dân chúng Tàu và Pháp, chúng ta phải liên lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của họ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #148 vào lúc: 01 Tháng Mười, 2011, 09:19:39 am »

V. Việc tuyên truyền cổ động

1. Phương hướng phải nhằm để tuyên truyền: nêu những khẩu hiệu chính động viên tinh thần cứu quốc; nêu cao nguyện vọng của dân tộc: quốc gia hoàn toàn độc lập; đả phá xu hướng cho rằng Đồng minh vào Đông Dương và Nhật đổ là nhiệm vụ chiến đấu của dân ta hết.

2. Công tác tuyên truyền cổ động phải làm ngay:

- Phát truyền đơn và dán áp phích, giải thích chủ trương của Đoàn thể.

- Phát bươm bướm và dán áp phích nêu 10 chính sách của Việt Minh.

- Phát truyền đơn chỉ rõ cho quần chúng tự động tổ chức dân quân và bầu Uỷ ban công nhân ở cá

c xí nghiệp. Uỷ ban nhân dân ở các làng, vv.

- Truyền tin, đặt ca.

- Dùng rađiô, loa truyền thanh (haut parleur) lưu chuyển để tuyên truyền.

- Mở rộng khắp nơi việc võ trang tuyên truyền và xung phong tuyên truyền.

- Họp mít tinh để động viên tinh thần nhân dân chống xâm lược giành độc lập.

- Đưa quần chúng ra đường biểu tình thị uy võ trang, đòi độc lập.

- Năng ra thông cáo về tin thức thế giới và trong nước để loan báo nhanh chóng những tin tức chính trị quan trọng và những thắng lợi của ta.

- Báo chí ra cho đều và cho mau kỳ và tránh những khuyết điểm như: thiếu mục hiệu triệu các từng lớp nhân dân, báo Đảng và báo Việt Minh hay ra trùng nhau.vv.

- Chỉnh đốn bộ tuyên truyền Trung ương, các xứ và khu giải phóng theo nguyên tắc dưới đây: bộ biên tập các báo chí ít phải có một số người chuyên trách; mỗi tờ báo phải có thông tin viên chịu trách nhiệm ở mỗi tỉnh.

- Mỗi tỉnh phải có một cơ quan ấn loát và vật liệu, cơ kiện để in truyền đơn, biểu ngữ, thông cáo, vv.

- Đặt quốc ca và định dấu hiệu cho quốc gia Việt Nam.
 
VI. Nhiệm vụ quân sự (Coi thông cáo riêng)

1. Định kế hoạch tác chiến để thi hành ngay:

- Điều kiện đánh - nơi nào cần và ăn chắc thì đánh.

- Nguyên tắc đánh - quân sự và chính trị phải phối hợp.

- Chiến thuật đánh - định cách tiến công, phòng thủ, thoái lui.

a) Tiến

1 - Mục đích tiến đánh cho quân giặc những đòn chí tử, tiêu diệt lực lượng của chúng, chớp lấy những căn cứ chính (cả các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào.

2 - Công việc phải làm ngay để tiến:

- Tập trung lực lượng vào những chỗ cần thiết để đánh;

- Làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh;

- Định phương hướng tiến công;

- Chuẩn bị các việc thi hành sau khi chiếm được nơi nào.

b) Thoái

1 - Mục đích thoái: giữ gìn đội ngũ; bảo toàn thực lực;

2 - Chuẩn bị kế hoạch rút lui về quân sự và chính trị (về quân sự: định các khu vực rút lui và đường liên lạc giữa các khu vực ấy hay từ những khu vực ấy ra biên giới. Về chính trị nếu tình thế trở nên gay go bất lợi thì phải rút vào bí mật; chỉ để một bộ phận công khai lợi dụng những khả năng hợp pháp mà hoạt động; chuẩn bị tinh thần dân chúng vượt mọi khó khăn và đề phòng âm mưu phá hoại của địch).

2. Chỉnh đốn và phát triển bộ đội - Thống nhất tên: quân giải phóng Việt Nam - thống nhất biên chế; cải tổ - thống nhất khẩu lệnh- kỷ luật (định thể lệ thưởng phạt) - cải thiện công tác chính trị trong bộ đội - tổ chức thêm những bộ đội mới. Chỉnh đốn bộ đội tự vệ chiến đấu và tiểu tổ du kích để thành lập quân giải phóng ở ngoài khu giải phóng.

3. Định rõ các chiến khu - địa giới các chiến khu toàn quốc và nhiệm vụ mỗi chiến khu ấy - giúp đỡ ngay những chiến khu ấy.

4. Lập bộ tư lệnh - thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc và Uỷ ban hành động chỉ huy các chiến khu.

5. Đào tạo cán bộ quân sự - lập thêm trường quân chính - thống nhất chương trình dạy.

6. Võ khí - tước võ khí của quân Nhật - tiếp tục chế thêm.

7. Thành lập Uỷ ban khởi nghĩa để thống nhất chỉ huy cuộc chiến đấu.
 
VII. Nhiệm vụ kinh tế

1. Mục đích: Làm sao cho có lương thực và những thứ cần dùng cho sự chiến đấu, dù trong hoàn cảnh gay go cũng không thiếu.

3(1). Lập Uỷ ban kinh tế và tài chính chuyên môn ở các vùng chiếm được và định kế hoạch cho ủy ban ấy.


(1) Trong tài liệu không có mục số 2.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #149 vào lúc: 01 Tháng Mười, 2011, 09:21:17 am »

VIII. Vấn đề giao thông

1. Phải đặc biệt chủ trương củng cố giao thông giữa các xứ và các cấp đảng bộ.

2. Tích cực tổ chức giao thông trong các ngành vận tải.

3. Lập ban giao thông chuyên môn và giúp đỡ đầy đủ cho họ làm tròn nhiệm vụ.
 
IX. Vận động các giới và các đảng phái

1. Vận động các giới

Công vận - Chú trọng công nhân đường giao thông, công nhân các ngành kỹ nghệ điện, nước, nhà in, công nhân tư gia, vv. Chú ý tổ chức “Công giáo công nhân cứu quốc hội” ở những nơi có nhiều công nhân đi đạo, tái bản báo Lao động.

Nông vận - “Nông dân cứu quốc hội” có thể thống nhất đến toàn quốc.
Binh vận - Vận động binh lính bản xứ, thuyết phục binh lính bản xứ giải ngũ; đặc biệt chú trọng vận động binh lính Đồng minh nếu họ vào đông ở nước ta.

Thanh vận - Thống nhất thanh niên các xứ; gắng tổ chức ủy ban thanh vận ở các thành phố. Vận động thanh niên hướng đạo.

Phụ vận - Thành lập ủy ban phụ vận các xứ. Gắng ra tờ báo phụ nữ và các tài liệu tuyên truyền phụ nữ.

Vận động văn hóa - Chú trọng vận động văn hóa các thành phố lớn. Thống nhất việc vận động văn hóa toàn quốc.

Vận động thương gia - Lập “Việt Nam thương gia cứu quốc hội”.

Vận động phú hào - Báo chí phải năng nói đến quyền lợi phú hào. Mở rộng các tổ chức “Việt Nam cứu quốc hội” trong các tầng lớp phú hào.

Vận động công chức và quan trường - Gắng thành lập những nhóm “Bạn Việt Minh”, nhóm “Quan trường yêu nước” và “Việt Nam chức viên cứu quốc hội”.

Vận động đồng bào theo đạo - “Mở rộng Việt Nam công giáo cứu quốc hội”. Cố cảm hóa quần chúng các hội Phật thầy và Cao Đài.

2. Vận động các đảng phái

- Ủng hộ việc gây dựng lại “Việt Nam Quốc dân Đảng”.

- Hết sức giúp đỡ “Việt Nam Dân chủ Đảng”.
 
X. Vấn đề cán bộ

1. Trung ương cũng như các xứ ủy phải có ban chuyên môn để đào tạo cán bộ. Mỗi tỉnh chí ít phải có một huấn luyện viên chuyên môn.

2. Phải quý cán bộ và giữ gìn cán bộ.

3. Phân phối cán bộ cho hợp lý; dùng cán bộ cho đúng.

4. Năng kiểm tra cán bộ.

5. Hết sức nâng đỡ các cán bộ quần chúng (cán bộ Việt Minh).

6. Đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ địa phương và cán bộ dân tộc thiểu số.
 
XI. Vấn đề Đảng

1. Thống nhất Đảng

a) Thống nhất tổ chức: tiếp tục công việc đang làm.

b) Thống nhất chính trị: chống tả khuynh, hữu khuynh (chỉ thị riêng cho các xứ, nhất là cho Nam Kỳ).



3. Phát triển và củng cố Đảng

- Tổ chức đảng viên mới, tùy địa phương định thời gian dài hay ngắn cho mỗi đồng chí ít ra giới thiệu một đảng viên mới; kiểm soát và thi hành.

- Tổ chức các chi bộ xí nghiệp - phải tổ chức đảng trong quân giải phóng Việt Nam (trung đội làm đơn vị tổ chức).

- Thi hành kỷ luật đối với các đảng viên phạm lỗi nặng từ trước đến nay (nếu cần thì công bố).

- Khai trừ những phần tử hủ hóa thoái lui.

4. Đảng và Việt Minh phải tổ chức phân minh. Vạch rõ hệ thống tổ chức liên lạc của Đảng và Việt Minh phải phân biệt.

5. Định chương trình mở lớp huấn luyện của các đảng viên và cán bộ đảng, các đảng bộ từ tỉnh trở lên thì mở lớp để kinh thường huấn luyện cán bộ của cấp ấy. T.U. phải đặc biệt mở lớp huấn luyện cán bộ - Cán bộ phải bắt buộc chịu huấn luyện theo chương trình phổ thông của Đảng.

6. Tờ báo Đảng bắt buộc mỗi kỳ phải có mục huấn luyện chủ nghĩa - theo lối sơ giải. In nhiều tài liệu huấn luyện chủ nghĩa.

7. Các cấp đảng bộ phải luôn luôn tự chỉ trích.

Thông qua ở toàn quốc hội nghị ngày 15.8.1945

Lưu tại Kho Lưu trữ                                                                            Trích theo Văn kiện Đảng - Toàn tập
Trung ương Đảng                         tập 7, sđd, tr. 425-433
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Mười, 2011, 09:35:34 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM