Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:36:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh  (Đọc 173875 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #40 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2011, 07:53:18 am »

YÊN BÁI(*)

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), phong trào cách mạng toàn quốc phát triển mạnh mẽ. Tại Yên Bái, một số hoạt động cách mạng đã được tổ chức (thành lập tổ chức “Học sinh đoàn”, phân phát báo chí cách mạng; thành lập Hội ái hữu của công nhân đường sắt; tổ chức các cuộc đấu tranh của nông dân, tiểu thương đòi giảm thuế điền, thuế môn mài…).

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Trung ương Đảng đã tiến hành các hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11.1939), lần thứ 7 (11.1940), lần thứ 8 (5.1941), kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Đảng ta đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; đề ra các biện pháp đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, xúc tiến xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Nhiệm vụ xây dựng Đảng ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số được nhấn mạnh tại Hội nghị 6.

Đầu năm 1940, đồng chí Hoàng Ngọc Chương được Ban Cán sự Đảng khu D cử lên Yên Bái hoạt động nhằm xây dựng một số cơ sở ở thị xã và các vùng xung quanh. Một số hoạt động như rải truyền đơn, căng khẩu hiệu và cờ Đảng… cũng được tiến hành. Cùng thời gian đó ở khu vực Hiền Lương, Trấn Yên, một nhóm Thanh niên Phản đế cũng được tổ chức. Tuy nhiên, trong thời kì này các hoạt động cách mạng chỉ mới ở bước đầu. Do sự khủng bố của địch, phong trào cách mạng ở Yên bái bị tổn thất và tạm thời lắng xuống, nhưng nhân dân vẫn hướng về Đảng, về cách mạng. Đây là điều kiện thuận lợi để Đảng ta xây dựng và phát triển phong trào cách mạng trong các thời kì sau này. Đầu năm 1943, trước những biến chuyển mới của tình hình thế giới, Đảng một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta lúc này là chuẩn bị khởi nghĩa. Vấn đề cán bộ cũng đặt ra và hết ức cấp bách. Trong tình hình đó “Trung ương chủ trương phải xây dựng cho được phong trào cách mạng ở Yên Bái làm nơi dừng chân cho các đồng chí ở miền xuôi lên hoạt động và làm trạm đón các đồng chí vượt ngục Sơn La ra; hai là xây dựng căn cứ cách mạng, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương”(1).

Tháng 5-1944, Ban cán sự Đảng Phú Thọ được thành lập đã chỉ đạo xây dựng đường dây liên lạc với chi bộ nhà tù Sơn La cũng như tổ chức cho cán bộ học tập chính trị và luyện cách đánh du kích.

Đầu năm 1945, hơn 200 tù chính trị ở Sơn La được trả tự do đã được cán bộ và quần chúng vùng Vần - Hiền Lương bố trí nơi ăn, chỗ ở và bảo vệ an toàn cho đến khi Ban Thường vụ Trung ương Đảng phân công đi các địa phương tham gia lãnh đạo phong trào chống Nhật cứu nước. Đêm 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Ngày 12.3.1945, quân Nhật tấn công lên Yên Bái, quân Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng Nhật. Bọn tay sai Nhật thực hiện nhiều chính sách mị dân, lừa bịp như mở lớp dạy võ Nhật, lập đội lính “Đại Đông Á” ở thị xã Yên Bái, tổ chức viếng mộ Nguyễn thái Học… nhưng bản chất phát xít tàn bạo của chúng nhanh chóng bị vạch trần trước ánh sáng.

Để phát triển phong trào cách mạng ở Yên Bái và Phú Thọ trong điều kiện tình thế cách mạng đã xuất hiện, đầu tháng 5.1945 Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử đồng chí Ngô Minh Loan lên phụ trách xây dựng khu căn cứ cách mạng Vần - Hiền Lương.

Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Việt Minh, cán bộ ta vừa đi sâu vận động nông dân vừa đẩy mạnh vận động tầng lớp trên tham gia ủng hộ cách mạng. Đến giữa năm 1945, cơ sở của Mặt trận Việt Minh đã được mở rộng tới hàng chục làng của phủ Trấn Yên và châu Văn Chấn. Các đoàn thể cứu quốc như Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… được thành lập ở nhiều nơi. Một số làng lập được đội tự vệ, ban đầu chủ yếu làm nhiệm vụ tuyên truyền xung phong. Sự phát triển của phong trào cách mạng và khí thế của quần chúng có tác dụng lôi kéo một số người thuộc tầng lớp trên. Các hào lí ủng hộ và tham gia cách mạng (chánh tổng Lương Ca, chánh hương hội Nang Sa…).

Ngoài Chi bộ Ban lãnh đạo chiến khu, đến tháng 5.1945 Chi bộ Đảng thị xã Yên Bái được tổ chức gồm 3 đồng chí. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên ở Yên Bái, có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào cách mạng ở thị xã - trung tâm đầu não chính trị, quân sự của địch ở địa phương.

Ngày 14.6.1945, đội du kích Âu Cơ (gồm 23 chiến sĩ) được thành lập tại chùa Hiền lương. Ngay sau khi thành lập, đội du kích Âu Cơ đã đánh thắng liền hai trận ở Vần (20.6.1945) và Đèo Giang (27.6.1945) làm nức lòng nhân dân địa phương, cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng Nhật cứu nước.

Ngày 30.6.1945, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng liên tỉnh Yên Bái - Phú Thọ. Cùng ngày, Ủy ban quân sự cách mạng được thành lập, có nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức các hoạt động quân sự làm nòng cốt cho phong trào quần chúng và các cuộc khởi nghĩa. Trước khí thế cách mạng của nhân dân, chính quyền tay sai Nhật từ tỉnh đền cơ sở lung lay, rệu rã, hàng loạt lính bảo an bỏ ngũ mang theo vũ khí về với nhân dân, điều kiện để khởi nghĩa từng phần ở các châu, phủ và cơ sở đã chín muồi. Trước tình hình ấy, tháng 7.1945 Ban cán sự Đảng Liên tỉnh Yên Bái - Phú Thọ đã kịp thời đề ra các chủ trương mới:

“1. Gấp rút xây dựng lực lượng chính trị, tổ chức các đoàn thể cứu quốc, củng cố vững chắc khu căn cứ cách mạng để từ đó mở rộng các hoạt động ra các vùng.

2. Tập trung du kích thành các trung đội, để lại một bộ phận nhỏ bảo vệ khu căn cứ còn phần lớn tiến vào Văn Chấn hoạt động, từ đó mở rộng địa bàn đi các châu phủ khác. Trong hoạt động, các trung đội vũ trang lấy tuyên truyền xung phong là chủ yếu, vận động và hỗ trợ nhân dân đánh phá các kho thóc của giặc, vận động chính quyền tay sai Nhật các cấp tự giải tán.

3. Nhanh chóng thành lập ủy ban cách mạng lâm thời ở các xã trong khu căn cứ và vùng mới được giải phóng, tổ chức du kích, tự vệ ở những nơi đó”(2).

Thực hiện chủ trương trên, các lực lượng vũ trang được tổ chức thành 9 trung đội và theo ba mũi tiến vào Nghĩa Lộ, kết hợp vũ trang tuyên truyền với việc thành lập các đoàn thể cứu quốc, thu giữ vũ khí của quân địch bỏ chạy và phá các kho thóc chia cho nhân dân.

Ngày 6.7.1945, các đơn vị du kích tiến vào Nghĩa Lộ. Do sự thuyết phục của cơ sở Việt Minh ở đây, tri châu Văn Chấn cùng viên Quản bảo an binh đã ra đầu hàng cách mạng. Ngày 8.7.1945, tại cuộc mít tinh của quần chúng, cách mạng đã tuyên bố xóa bỏ bộ máy thống trị của địch, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời châu Văn Chấn. Đây là huyện đầu tiên của Yên Bái được giải phóng và lập được chính quyền cách mạng.

Tại Lục Yên, ngày 8.7.1945 các lực lượng cách mạng tiến vào châu lị, viên tri châu bỏ chạy, lính bảo an xin hàng. Ngày 10.7.1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời châu Lục Yên được thành lập. Ủy ban đã nhanh chóng lập các đoàn thể cứu quốc và tự vệ ở các xã, lấy thóc thu được của địch chia cho nhân dân.

Tại Yên Bình, ngày 12.6.1945, Quân giải phóng phối hợp với tự vệ các xã đá phá kho thóc chợ Ngọc, bức hàng đơn vị lính bảo an đóng ở đồn Gạo, trừng trị tên tay sai phản động ác ôn Nguyễn Văn Khang. Đầu tháng 7.1945, hầu hết các xã ở phủ Yên Bình đều tổ chức được chính quyền cách mạng. Tri phủ Nguyễn Văn Hậu bỏ trốn, lính ở phủ viết giấy đầu hàng Việt Minh. Ngày 14.7.1945, ta tiếp nhận sự đầu hàng của địch, chính quyền cách mạng được thành lập. Sau đó, Nhật cho quân chiếm lại phủ Yên Bình và lập lại chính quyền tay sai mới, nhưng sau khi quân Nhật rút đi thì chính quyền này cũng sụp đổ. Ngày 9.8.1945, tri phủ Nguyễn Đình Sâm đã phải đầu hàng cách mạng.

Từ cuối tháng 7. 1945, nhận thấy chính quyền tay sai Nhật ở các nơi có dấu hiệu tan rã, ta đã điều các đơn vị đi giải phóng châu Văn Bàn (5.8.1945) và châu Than Uyên (7.8.1945).


(*) Người viết: ThS. Trần Nam Trung, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ Yên Bái, tập I (1930-1975), 1996, tr. 36.
(1) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ Yên Bái, tập I (1930-1975), 1996, tr. 49.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #41 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2011, 07:55:37 am »

Như vậy, chỉ trong vòng hơn một tháng (từ 6.7.1945 đến 9.8.1945), quân dân tỉnh Yên Bái đã lật nhào toàn bộ chính quyền tay sai của phát xít Nhật ở các châu, phủ, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Quân Nhật và bọn tay sai chỉ còn giữ được thị xã tỉnh lị. Tinh thần của chúng dao động, sa sút nghiêm trọng, đây là cơ hội rất thuận lợi để nhân dân Yên Bái vùng lên giành chính quyền ở tỉnh lị.

Ngày 13.8.1945, dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa, Ủy ban quân sự cách mạng Yên Bái đã chủ động đề ra kế hoạch giành được chính quyền ở tỉnh lị gồm 2 bước:

Bước 1: Dùng lực lượng vũ trang, có lính trong tại bảo an binh giúp đỡ tước vũ khí của đơn vị này đem trang bị cho các đội vũ trang và tự vệ thị xã.

Bước 2: Huy động quần chúng thị xã và vùng xung quanh, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, đấu tranh buộc quân Nhật để ta giải tán chính quyền tay sai của chúng, lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Nếu quân Nhật ngoan cố chống lại ta sẽ dùng lực lượng vũ trang tiến công tiêu diệt .

Ngày 15.8.1945, bốn trung đội vũ trang của ta đã tập kết ở hữu ngạn sông Hồng, đối diện với thị xã, chuẩn bị thuyền, mảng sẵn sàng hành động. Chi bộ Đảng và tự vệ thị xã được giao nhiệm vụ dẫn đường cho các đơn vị và vận động quần chúng phối hợp hành động. Cùng ngày, quân Nhật tỏ ý muốn đàm phán với Việt Minh. Sáng 16.8.1945, tại dinh tri phủ Trấn Yên cuộc đàm phán giữa đại diện lực lượng cách mạng và đại diện quân Nhật được tổ chức nhưng cả hai bên đều không đạt được thỏa thuận. Đêm 16 rạng sáng 17.8, Ủy ban quân sự cách mạng lệnh cho 4 trung đội vũ trang vượt sông Hồng vào trại lính bảo an tước vũ khí địch, đem phân phát cho tự vệ và các trung đội vũ trang. Ngay sau đó đã xảy ra xung đột quyết liệt giữa lực lượng vũ trang ta với quân Nhật (từ sáng đến chiều ngày 17.8). Tối 17.8, lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được đưa tới Yên Bái. Ban cán sự Đảng đã họp khẩn cấp, chủ trương huy động quần chúng vào thị xã đấu tranh chính trị kết hợp với áp lực vũ trang để giành chính quyền; thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái và chuẩn bị tiếp quản thị xã tỉnh lị.

Sáng ngày 18.8.1945, tỉnh trưởng Yên Bái cho người làm cờ trắng mang thư đề nghị phía cách mạng ngừng bắn và đàm phán với phía Nhật. Phía ta đồng ý và tổ chức cuộc đàm phán vào lúc 14 giờ ngày 19.8 ở dinh tỉnh trưởng. Tại cuộc đàn phá ta đưa ra hai yêu cầu:

1. Quân đội Nhật không được can thiệp vào việc lập chính quyền Việt Minh ở tỉnh Yên Bái.

2. Quân đội Nhật đi lại ở thị xã Yên Bái phải báo cáo cho quân đội Việt Minh biết, nếu đi bằng ô tô, xe máy phải cắm hai lá cờ, cờ Nhật và cờ Việt Minh.

Đại diện quân Nhật đã chấp nhận các yêu cầu này. Với thành công của lần đàm phán này, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Yên Bái đã toàn thắng. Sáng 20.8.1945, các đơn vị vũ trang cách mạng đã vào tiếp quản toàn bộ thị xã Yên Bái. Sáng 22.8.1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Yên bái được thành lập và ra mắt quần chúng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đã tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, công bố các chính sách của Mặt trận Việt Minh và kêu gọi nhân dân các dân tộc trong tỉnh đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ chính quyền cách mạng, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, từng bước xây dựng cuộc sống mới.

Do các thế lực phản động Việt Nam Quốc dân Đảng theo chân quân Tưởng kéo vào Lào Cai ngăn chặn cuộc khởi nghĩa của nhân dân ở đây, Tỉnh ủy Yên Bái đã phái một đơn vị vũ trang và cán bộ lên Lào Cai tiếp quản chính quyền song quân Tưởng chặn lại ở phố Lu.

*

Cách mạng tháng Tám ở Yên Bái nằm trong diễn biến chung của cuộc Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước đồng thời lại mang những đặc điểm riêng do điều kiện lịch sử cụ thể của Yên Bái. Về mặt hình thái của cách mạng, Cách mạng tháng Tám ở yên Bái đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa.

Cũng giống như ở các địa phương trong toàn quốc, Cách mạng tháng Tám ở Yên Bái diễn ra tương đối hòa bình, việc giành chính quyền ở các châu, phủ được thực hiện nhanh chóng và hầu như không gặp sức kháng cự của quân địch. Xung đột vũ trang chỉ xảy ra ở tỉnh lị Yên Bái với quân đội Nhật, nhưng ngay sau đó Ban cán sự Đảng và Ủy ban quân sự cách mạng đã tiến hành thương lượng với quân Nhật, giành thắng lợi cho cách mạng với thương vong, đổ máu ít nhất.

Cách mạng tháng Tám ở Yên Bái diễn ra trong những du kích khó khăn riêng của Yên Bái: không phải là trung tâm chính trị, quân sự của cả nước, xa sự chỉ đạo của Trung ương, Ban cán sự Đảng mới thành lập với số đảng viên rất ít, lực lượng vũ trang mới hình thành, trang bị thô sơ và kinh nghiệm còn non yếu. Tuy nhiên, Ban cán sự Đảng và Ủy ban quân sự cách mạng đã thể hiện sự nhạy bén về chính trị và tính chủ động sáng tạo của mình trong thực tiễn cách mạng. Dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương nhưng Ủy ban quân sự cách mạng đã kịp thời đề ra kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị rất sớm (13.8.1945). Do nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, đi sâu đi sát với thực tế cách mạng địa phương, chủ động sáng tạo và kiên quyết cách mạng nên “chỉ với 7 đảng viên mà Ban cán sự Đảng đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Yên Bái thành công”(2).


(1) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ Yên Bái, tập I (1930-1975), 1996, tr. 55.
(2) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ Yên Bái, tập I (1930-1975), 1996, tr. 63.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #42 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2011, 08:07:16 am »

BẮC GIANG(*)

Bắc Giang là địa phương có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm. Từ ngày Đảng ra đời, phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển ngày càng mạnh mẽ. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (9.1939), thực hiện chủ trương của Đảng, Bắc Giang nhanh chóng triển khai lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.

Tháng 8.1940, đồng chí Trần Quốc Hoàn (Xứ ủy viên) và một số đồng chí khác được Xứ ủy Bắc Kỳ cử về tăng cường cho phong trào cách mạng tỉnh Bắc Giang. Ban cán sự tỉnh Bắc Giang được thành lập do đồng chí Trần Quốc Hoàn làm trưởng ban.

Ngay khi phát xít Nhật tiến vào Lạng Sơn và khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra (9.1940), Ban cán sự tỉnh đã họp mở rộng tại phủ Lạng Thượng (nay là thị xã Bắc Giang) vào tháng 10.1940. Hội nghị nhận định: Nếu quân Nhật tiến nữa thì Bắc Giang sẽ trở thành tiền tuyến, bọn Pháp sẽ lúng túng; đó là dịp thuận lợi để ta cướp vũ khí địch. Hội nghị đề ra mấy công tác cấp bách:

1. Nhanh chóng triển khai các mạng lưới cơ sở bí mật và các tổ chức quần chúng cách mạng. Tuyên truyền vạch mặt phát xít Nhật.

2. Tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, sắm sửa vũ khí, vận động binh lính địch trở về với cách mạng, tổ chức đánh úp đồn địch để gây thanh thế và hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn.

Các kế hoạch đã vạch ra trong hội nghị được khẩn trương thực hiện. Yên Thế được chọn để nghiên cứu chuẩn bị lập chiến khu.

Đầu năm 1944, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ chủ trương xây dựng khu an toàn thứ II (ATK II) ở hai bên bờ sông Cầu gồm ba huyện: Hiệp Hòa (Bắc Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Kết quả là đến giữa năm 1944, Trung ương đã công nhận ba huyện nói trên là An toàn khu, trong đó có cơ quan của Trung ương, trạm liên lạc, nhà in, vv.

Đêm 9.3.1945, Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Bộ máy cai tri của thực dân Pháp ở Bắc Giang nhanh chóng hạ vũ khí đầu hàng Nhật. Ngay sau khi lật đổ Pháp, Nhật đã bắt tay vào xây dựng chính quyền tay sai từ tỉnh đến huyện.

Chiều 12.3.1945, đồng chí Lê Thanh Nghị, đặc phái viên của Trung ương và đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh, trưởng Ban cán sự tỉnh, đi dự hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng và đến nam Hiệp Hòa. Đồng chí Lê Thanh Nghị phổ biến Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và trực tiếp lãnh đạo phong trào ở chiến khu Hiệp Hòa (Bắc Giang). Đồng chí đã quyết định phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền cấp xã, phá kho thóc giải quyết nạn đói, động viên tinh thần cách mạng của quần chúng, mở đầu cho cuộc khởi nghĩa từng phần ở Bắc Giang.

Ngay tối 12.3.1945, một cuộc mít tinh toàn xã Xuân Biều (Hiệp Hòa) được tổ chức tại đình làng với sự tham gia của 70 tự vệ chiến đấu và trên 300 quần chúng.

Tại cuộc mít tinh, cán bộ cách mạng công bố lệnh thủ tiêu chính quyền địch ở xã, lập Ủy ban Dân tộc giải phóng làm nhiệm vụ của chính quyền cách mạng. Đây là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở cấp xã đầu tiên của tỉnh Bắc Giang và cũng là thắng lợi đầu tiên của việc vận dụng sáng tạo chỉ thị ngày 12.3.1945 của Ban Thường vụ Trung ương về khởi nghĩa từng phần tạo điều kiện tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Sau cuộc mít tinh giành chính quyền ở xã Xuân Biều (Hiệp Hòa) thắng lợi, khí thế cách mạng trong tỉnh dâng cao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh, nhân dân trong tỉnh liên tiếp phá các kho thóc của Nhật, Pháp ở Vát (Hiệp Hòa), Chàng (Việt Yên)… Chính quyền địch ở nhiều xã hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng lần lượt được thành lập ở Vân Xuyên, Lạc Yên, Hoàng Liên, Trung Định (Hiệp Hòa), Ca Sơn (Phú Bình), vv.

Trong hai ngày 16 và 17.3.1945, Ban cán sự tỉnh Bắc Giang họp hội nghị tại Đồng Điều (Yên Thế). Hội nghị đã rút kinh nghiệm những diễn biến cách mạng sau ngày 9.3.1945, phổ biến chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước trong toàn tỉnh.

Từ phong trào cách mạng, đội du kích thoát li đầu tiên của tỉnh đã ra đời (1.4.1945). Lực lượng vũ trang cách mạng phối hợp với quần chúng nhân dân mở các cuộc tấn công vào các đồn địch ở Bố Hạ (18.3.1945), Đình cả (2.3.1945), Nhã Nam (15.4.1945), vv.

Trong lúc phong trào cách mạng tỉnh Bắc Giang đang lên cao, Trung ương Đảng họp Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại làng Liễu Ngạn, tổng Hoàng Vân (Hiệp Hòa) từ ngày 15 đến 20.4.1945 để thảo luận cụ thể công tác chuẩn bị khởi nghĩa.

Ngày 18.5.1945, các đại biểu Ủy ban dân tộc giải phóng các xã trong huyện Hiệp Hòa họp bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng cấp huyện và quyết định tạm chia ruộng đất của đồn điền Cọ, Vát cho nhân dân, đồng thời thực hiện giảm tô 25%.

Những sự kiện trên đã làm cho chính quyền địch ở Hiệp Hòa hoang mang cực độ, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền huyện đã đến. Tối 1.6.1945, lực lượng tự vệ chiến đấu dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh tiến vào chiếm huyện lị. Bọn địch ở các đồn còn lại bỏ chạy về Phú Bình. Toàn huyện Hiệp Hòa được giải phóng.

Trung tuần tháng 6.1945, Ban cán sự tỉnh đã triệu tập hội nghị cán bộ toàn tỉnh. Hội nghị đã nhận định, đánh giá phong trào cách mạng trong tỉnh và thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ thay thế Ban cán sự. Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh làm bí thư.

Sau hội nghị, phong trào cách mạng trong tỉnh tiếp tục dâng cao. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ 1.6.1945 đến 20.7.1945), lực lượng cách mạng đã lần lượt giành chính quyền ở các huyện Hiệp Hòa, Việt Yên, Yên Thế, Lục Ngạn, Yên Dũng, tạo điều kiện thuận lợi tiến lên khởi nghĩa chính quyền toàn tỉnh.


(*) Người viết: Nguyễn Quốc Vương, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #43 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2011, 08:08:56 am »

Được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, mặc dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa, các đồng chí lãnh đạo địa phương căn cứ vào chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã không do dự, chớp thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh.

Biết tin Nhật sẽ giao chính quyền tỉnh cho bọn Đại Việt, vào ngày 18.8.1945, một số cán bộ phụ trách huyện Việt Yên và Yên Dũng đã họp tại Song Khê (Yên Dũng), quyết định giành chính quyền tỉnh trước khi phát xít Nhật và bọn tay sai hành động. Kế hoạch khởi nghĩa được vạch ra:

1. Chọn một số cán bộ và tự vệ cùng ba đồng chí lãnh đạo khu vực (Ninh Văn Phan, Hồ Công Dự, Trương Văn Nhã) đột nhập vào dinh tỉnh trưởng, bắt tỉnh trưởng phải đầu hàng.

2. Huy động các đội tự vệ phục sẵn trên hữu ngạn sông Thương sẵn sàng nổ súng khi phải chiến đấu.

3. Huy động tự vệ và quần chúng biểu tình thị uy trên hữu ngạn sông Thương để uy hiếp địch.

4. Gửi thư báo cho các đồng chí Nguyễn Trọng tỉnh, Hà Thị Quế, Nguyễn Thanh Bình nhanh chóng đem quân về tiếp viện đề phòng xung đột vũ trang.

5. Trung lập bọn Nhật.

Sáng 18.8.1945, hai đồng chí Hồ Công Dự và Ninh Văn Phan cùng một đội tự vệ đột nhập dinh tỉnh trưởng, buộc tỉnh trưởng Vũ Ngọc Đĩnh đầu hàng, đồng thời báo cho viên sĩ quan chỉ huy quân Nhật biết tin Việt Minh đã chiếm tỉnh lị và yêu cầu Nhật phải điều đình ngay với Việt Minh. Viên sĩ quan Nhật buộc phải chấp nhận những điều kiện mà ta đưa ra.

1. Việt Minh hoàn toàn làm chủ tỉnh Bắc Giang, giữ gìn trật tự an ninh trong tỉnh.

2. Quân Nhật đóng ở các nơi trong tỉnh phải rút về tập trung tại Cầu Lồ (Lục Ngạn) và phủ Lạng Thương, không được mang vũ khí ra phố, không được chuyển thóc đi nơi khác.

Trong khi ta đang điều đình với Nhật thì lực lượng khởi nghĩa tỏa đi chiếm các công sở, quần chúng cùng tự vệ tuần hành thị uy khắp các ngả đường. Các đồng chí Hoàng Hà Châu, Nguyễn Thanh Bình… cũng đa đem lực lượng tiến về hỗ trợ.

Ngày sau khi khởi nghĩa thắng lợi, Tỉnh ủy quyết định thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Bắc Giang, do đồng chí Nguyễn Thanh Bình làm Chủ tịch.

Chiều 21.8.1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại sân vận động phủ Lạng Thương để chào mừng chính quyền mới. tại cuộc mít tinh, đồng chí Nguyễn Thanh Bình đã tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các cấp, giới thiệu chương trình Việt Minh, kêu gọi nhân dân tham gia và bảo vệ chính quyền cách mạng. Sau đó cuộc mít tinh chuyển thành tuần hành biểu dương lực lượng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh, chỉ trong một thời gian ngắn (từ 18 đến 21.8.1945), nhân dân Bắc Giang đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Thắng lợi ấy là kết quả tổng hợp của những nhân tố khác quan và chủ quan. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng, quá tình chuẩn bị lực lượng cách mạng là những nhân tố đóng vai trò quyết định.

*

Cách mạng tháng Tám ở Bắc Giang nằm trong diễn biến chung của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm toàn quốc nhưng nó cũng cũng mang những đặc điểm riêng do bối cảnh lịch sử địa phương quy định.

Cũng như các địa phương khác trong cả nước, cuộc Cách mạng tháng Tám ở Bắc Giang đi từ khởi nghĩa từng phần lên Tổng khởi nghĩa. Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, ở Bắc Giang đã diễn ra khởi nghĩa từng phần giành chính quyền, mở đầu là cuộc nổi dậy giành chính quyền của nhân dân xã Xuân Biều (Hiệp Hòa), Ca Sơn (Phú Bình)… Tiếp theo, chính quyền cách mạng cấp huyện cũng lần lượt được thành lập ở Hiệp Hòa, Việt Yên, Yên Thế, Lục Ngạn, Yên Dũng. Những thắng lợi này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền toàn tỉnh.

Cách mạng tháng Tám ở Bắc Giang diễn ra tương đối hòa bình, ít đổ máu, không có xung đột vũ trang lớn. Trước sức mạnh to lớn của lực lượng cách mạng, chính quyền địch hầu như tê liệt không còn khả năng kháng cự. Lực lượng quân Nhật đóng ở phủ Lạng Thương (nay là thị xã Bắc Giang) đã phải án binh bất động, tạo điều kiện tho cho cách mạng thành công, tránh được đổ máu.

Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Bắc Giang diễn ra rất nhanh chóng, nhưng để có được thắng lợi đó, Đảng bộ, nhân dân Bắc Giang đã phải trải qua quá trình chuẩn bị lực lượng, tập dượt đấu tranh lâu dài, gian khổ qua các thời kì cách mạng suốt 15 năm (1930-1945). Ở địa phương đã sớm xây dựng được cơ sở cách mạng rộng khắp trong toàn tỉnh, lực lượng vũ trang cách mạng được quan tâm xây dựng. Các khu an toàn, căn cứ cách mạng ở Hiệp Hòa, Yên Thế sớm được xây dựng và liên tục củng cố vững chắc tạo địa bàn đứng chân cho phong trào cách mạng phát triển trong tỉnh, là nơi bảo vệ Đảng, cách mạng trong tình thế khó khăn tránh sự khủng bố gắt gao của kẻ địch.

Trong quá trình lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, Đảng bộ Bắc Giang đã thể hiện rõ sự chủ động, sáng tạo trong việc nắm bắt tình hình, vận dụng đường lối, chỉ thị của Trung ương Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, thúc đẩy cách mạng tiến lên đi đến thắng lợi. Khi Nhật đảo chính Pháp (93.1945), Ban cán sự tỉnh đã vận dụng sáng tạo chỉ thị ngày 12.3.1945 cua Ban Thường vụ Trung ương Đảng, phát động quần chúng khởi nghĩa từng phần, tạo tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Mặc dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa, nhưng khi biết tin Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng minh, các đồng chí lãnh đạo địa phương đã chớp thời cơ phát động quần chúng nhân dân Tổng khởi nghĩa. Do vậy, Bắc Giang đã trở thành một trong những địa phương giành được chính quyền tỉnh lị sớm nhất cả nước trong Cách mạng tháng Tám.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #44 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2011, 08:11:37 am »

BẮC NINH(*)

Bắc Ninh có vị trí chiến lược quan trọng trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Trong đấu tranh cứu nước chống Pháp, Bắc Ninh là một căn cứ địa cách mạng để Đảng ta hoạt động ở Hà Nội. Từ năm 1930 trở đi, phong trào cách mạng Bắc Ninh phát triển sâu rộng qua các thời kì và có nhiều đóng góp lớn. Vì vậy, khi thực dân Pháp tiến hành phát xít hóa bộ máy thống trị ở Đông Dương, đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, nhưng chúng không ngăn cản nổi phong trào đấu tranh sục sổi và nhiều cơ sở cách mạng trong tỉnh vẫn được giữ vững. Từ 1939 đến 1941, các cơ sở Đảng được phục hồi. Nhiều tổ chức nhằm tập hợp đông đảo quần chúng như Thanh niên cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc… đã ra đời. Tháng 1.1941, Ban cán sự Đảng Bắc Ninh được thành lập. Đây là bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng.

Bước sang năm 1943, phong trào cách mạng tiến nhiều bước mới, cơ sở Đảng phát triển sâu rộng ở nhiều nơi. Một hệ thống các cơ sở hình thành dọc đường số 1: từ Yên Viên đến Từ Sơn, Từ Sơn lên Lim, qua sông Đuống sang Thuận Thành. Tháng 5.1944, thi hành chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” của Tổng bộ Việt Minh, nhiều nơi trong tỉnh thành lập các đơn vị tự vệ chiến đấu, hăng say luyện tập. Trạm sửa chữa vũ khí Từ Sơn nhỏ bé được chuyển vào làng Chè đã trở thành một xưởng sửa chữa, chế tạo vũ khí có quy mô tương đối lớn. Nhiều cuộc đấu tranh chống Nhật - Pháp, chống quan lại cường hào đã nổ ra ở Trung Mầu (Tiên Du), Dương Quang (Thuận Thành)…

Ngày 9.3.1945, giữa lúc Nhật nổ súng đảo chính Pháp, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đã họp tại chùa làng Đồng Kỵ, sau chuyển về chùa làng Đình Bảng (Tiên Du), do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Đến trưa ngày 12.3.1945, Hội nghị kết thúc và đưa ra bản chị thị lịch sử: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trong lúc hội nghị đang diễn ra, tại Trung Mầu (Tiên Du) quần chúng đã vùng dậy đấu tranh giành chính quyền, tổng lí trong làng phải mang nộp bằng, triện. Ủy ban dân tộc giải phóng làng Trung Mầu được thành lập.

Ngày 11.3.1945, hơn 500 đồng bào các giới thuộc huyện Tiên Du kéo đi biểu tình giữa ban ngày, thu hút nhiều người ra nghe diễn thuyết. Đoàn biểu tình còn giương cao khẩu hiệu “Đánh đuổi giặc Nhật”, “Phản đối chính quyền bù nhìn thân Nhật”… Cũng trong ngày này, tại chợ Húc (Tiên Dù) diễn ra cuộc mít tinh công khai có chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Đây là cuộc mít tinh công khai có tuần hành thị uy đầu tiên trong cao trào kháng Nhật cứu nước, chuẩn bị khởi nghĩa ở tỉnh Bắc Ninh. Lực lượng cách mạng lớn lên nhanh chóng và Ban cán sự Đảng Bắc Ninh đã đưa ra một số chủ trương cụ thể nhằm đẩy mạnh cao trào kháng Nhật - khởi nghĩa từng phần - trong lịch sử (từ tháng 3.1945 đến ngày 16.8.1945):

“1. Đẩy mạnh phong trào phá kho thóc của Nhật, Pháp, Việt gian để cứ đói cho dân.

2. Huy động lực lượng quần chúng, tự vệ chống trả quyết liệt phát xít Nhật và tay sai thu thuế thóc tạ.

3. Phát triển nhanh chóng các tổ chức cứu quốc và Mặt trận Việt Minh.

4. Tích cực xây dựng lực lượng vũ trang.

5. Hết sức chú trọng công tác đào tạo cán bộ.

6. Tiếp tục chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền cấp cơ sở.

7. Thẳng tay trừng trị bọn Việt gian phản động, trộm cướp… giữ gìn trật tự an ninh”(1).

Không khí của thời kì tiền khởi nghĩa diễn ra rất sôi nổi. Phong trào phá kho thóc chia cho dân diễn ra ở nhiều nơi: Chùa Dâu, Thanh Phương, Châu Thị, Phù Ninh… Đội tự vệ của làng Long Khám, Đông Sơn (Tiên Du) đã tước súng của lính bảo an (6.1945). Cuộc đấu tranh của nhân dân làng Lôi Châu (Lang Tài) chống địch khủng bố diễn ra rầm rộ. Tình thế cách mạng đang đến gần: quân Nhật đóng trong thành Bắc Ninh không dám làm gì, lính bảo an thì sẵn sàng ngả về phía cách mạng khi thấy lực lượng nhân dân lớn mạnh. Bộ máy chính quyền của địch từ xã đến tỉnh tỏ ra vô cùng hoang mang, lo sợ, rệu rã. Trong khi đó, các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh ngày càng thu hút nhiều lực lượng tham gia. Ta đã nắm được các tri phủ, tri huyện.

Chính vì vậy, ngày 16.8.1945, Tỉnh ủy do đồng chí Trần Đình Nam làm Bí thư, đã chỉ thị cho các huyện: chuẩn bị lực lượng giành chính quyền. Nhanh chóng nắm bắt được chủ trương trên, 2 giờ chiều ngày 17.8.1945 lực lượng tự vệ của làng Hoài Trung, Hoài Thượng (Tiên Du) cùng quần chúng, dưới sự chỉ huy của cán bộ địa phương tiến vào huyện đường, ra lệnh cho tri huyện, nha lại và binh lính nộp vũ khí, giấy tờ, sổ sách. Sau đó, tự vệ kéo cờ đỏ sao vàng lên, canh giữ huyện lị. Ít ngày sau, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Tiên Du được thành lập. Việc chiếm huyện lị Tiên Du đã mở màn cho cuộc khởi nghĩa trong toàn tỉnh Bắc Ninh.


(*) Người viết: Đào Thu Vân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Hà Bắc: Lịch sử Đảng bộ Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Bắc (tập 1 - sơ thảo), Hà Bắc, 1987, tr. 94.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #45 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2011, 08:13:22 am »

Ngày 18.8.1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở phủ lị Gia Lâm (nay thuộc Hà Nội). Một số cán bộ ở đây đã huy động lực lượng tự vệ của tổng Lời, Đặng Xá tới bao vây, đột nhập phủ lị từ hai phía: cổng trước, cổng sau. Binh lính trong phủ xin đầu hàng, viên tri phủ định chạy trốn nhưng không thoát. Lực lượng cách mạng thu giữ sổ sách, giấy tờ và giải thích chính sách khoan hồng của Việt Minh. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ Gia Lâm được thành lập sau ngày khởi nghĩa không lâu.

Cũng trong ngày 18.8.1945, lực lượng tự vệ và quần chúng các làng Phù Lưu, Tam Lư… kéo đến phủ lị Từ Sơn. Lính bảo an định rút chạy về tỉnh lị nhưng bị chặn lại. Đội tự vệ biết chúng đã hoang mang, dao động nên kiên trì thuyết phục, cuối cùng bọn lính xin đầu hàng. Mấy hôm sau, Ủy ban nhân dân cách mạng phủ Từ Sơn được thành lập.

Ngày 19.8.1945, khởi nghĩa ở huyện lị Yên Phong nhanh chóng giành thắng lợi, vì trước khi chiếm huyện lị ta đã gửi thư cho tri huyện,vừa thuyết phục vừa bắt buộc y đầu hàng. Sáng 19.8.1945, tri huyện tập trung hết súng đạn, sổ sách chờ ta vào tiếp nhận.

Sáng ngày 20.8.1945, theo kế hoạch cuộc khởi nghĩa sẽ diễn ra ở tỉnh lị Bắc Ninh. Tại vùng Thị Cầu, Đáp Cầu và các xã xung quanh, các đoàn tự vệ được trang bị súng, dao, kiếm, gậy tấp nập kéo đến tập trung trên các phố Ninh Xá, Tiền An. Không khí khởi nghĩa bao trùm mọi nẻo đường, con phố. Điều kiện chiếm tỉnh lị chín muồi, lệnh xuất quân của đồng chí Nam (Bí thư Tỉnh ủy) truyền về Long Khám (nơi tập trung lực lượng nòng cốt của cuộc khởi nghĩa). Ngay trưa hôm đó, lực lượng tự vệ và quần chúng từ huyện Tiên Du lên tiến vào tỉnh lị. Đông đảo quần chúng từ đường 1, đường 16, đường 18 giương cao biểu ngữ, cờ sao tiến vào thị xã rồi tỏa đi chiếm các công sở, trại lính và huyện lị Võ Giàng. Một đơn vị tự vệ do không nắm chắc kế hoạch khởi nghĩa đã tiến đánh trại lính Nhật trong thành Bắc Ninh, nhưng được uốn nắn kịp thời nên không có tổn thất lớn. Đến chiều tối, lực lượng khởi nghĩa chiếm được trại bảo an binh, sở cảnh sát, kho bạc và dinh tỉnh trưởng. Một bộ phận vào lấy súng trong kho của trại bản an binh, phân phát cho lực lượng tự vệ và mở cửa trại giam đón người của ta ra. Đến tối 20.8.1945, cờ đỏ sao vàng tung bay trước dinh tỉnh trưởng, báo hiệu cuộc khởi nghĩa đã hoàn toàn thắng lợi. Ngay trong đêm đó, Ủy ban cách mạng lâm thời được thành lập, do đồng chí Trần Đình Nam làm chủ tịch; các đội tự vệ kiểm soát chặt chẽ nhiều đường phố, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, giữ vững an ninh trong tỉnh lị. Cuộc khởi nghĩa ở tỉnh lị Bắc Ninh đã được chuẩn bị chu đáo, nổ ra đúng lúc và thành công nhanh gọn trong vòng 1 ngày.

Trong ngày 20.8.1945, khởi nghĩa cũng diễn ra và giành thắng lợi ở huyện Gia Bình và phủ lị Thuận Thành. Ngày 21.8.1945, hàng nghìn người xông vào huyện lị Lang Tài bắt viên đội chỉ huy. Cán bộ huyện phụ trách cuộc khởi nghĩa tuyên bố: Từ nay chính quyền thuộc về nhân dân”. Cũng trong ngày 21.8.1945, khởi nghĩa ở huyện Văn Giang (nay thuộc Hưng Yên) giành thắng lợi.

Tin thắng lợi từ tỉnh Bắc Ninh đã lan truyền nhanh chóng đến huyện Quế Dương (nay là Quế Võ). Dưới sự lãnh đạo của cán bộ Việt Minh, đông đảo quần chúng nhân dân đã kéo tới dự mít tinh ở núi Thành Rền rồi tiến sang huyện lị nhận sự đàu hàng của tri huyện, binh lính. Hôm đó là ngày 22.8.1945. Cuộc khởi nghĩa ở Quế Dương đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền bù nhìn thân Nhật trên toàn tỉnh Bắc Ninh.

*

Cuộc khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám 1945 trên toàn tỉnh Bắc Ninh đã diễn ra nhanh chóng, ít đổ máu và giành thắng lợi từng bước từ cấp xã, cấp huyện lên cấp tỉnh. Nơi thành lập chính quyền sớm nhất là làng Trung Mầu (Tiên Du, 10.3.1945) và muộn nhất là huyện Quế Dương (22.8.1945). Thắng lợi trên là vô cùng to lớn và kì diệu, xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản sau:

1. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã sớm nhận được sự chỉ đạo của Xứ ủy, Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ.

2. Đội ngũ đảng viên được tôi luyện, “thử lửa” qua quá trình đấu tranh bền bỉ và luôn trung thành với Đảng, nhạy bén, sáng tạo trong hành động,

3. Nắm vững tinh thần của bản chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Ban cán sự Đảng Bắc Ninh đã tiến hành lãnh đạo khởi nghĩa từng phần ở nhiều nơi và khi thời cơ xuất hiện đã nhanh chóng chuyển lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.

4. Nhân dân Bắc Ninh biết kế thừa, phá huy truyền thống đấu tranh, đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #46 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2011, 08:16:08 am »

PHÚ THỌ(*)

Phú Thọ là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hiến. Các vua Hùng đã chọn nơi đây làm đất đóng đô của nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Trải qua các thời kì lịch sử, nhân dân Phú Thọ luôn phát huy truyền thống của cha ông, đoàn kết một lòng, kiên cường, dũng cảm trong xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Truyền thống đó càng được nhân lên gấp bội khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng. Tháng 3.1940, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ được thành lập và tập hợp đông đảo lực lượng đứng lên chống ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945 và tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân, đế quốc đến thắng lợi hoàn toàn.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (9.1939), phong trào cách mạng Phú Thọ bị khủng bố gắt gao nên phải chuyển vào hoạt động bí mật. Có những cơ sở bị địch phá đi phá lại nhiều lần, như cơ sở Thái Ninh, Kinh Kê, Cổ Tiết, Nam Cường, Sóc Đăng. Nhưng chỉ sau một thời gian tạm lắng, với sự ủng hộ, giúp đỡ tích cực của nhân dân và tinh thần dũng cảm kiên cường của các chiến sĩ cộng sản, các cơ sở Việt Minh dần dần được phục hồi và phát triển.

Sau ngày 9.3.1945, hậu quả chính sách thống trị của bọn đế quốc đã gây nạn đói nặng nề ở Phú Thọ và các tỉnh phía Bắc. Phong trào đấu tranh của nhân dân Phú Thọ lại bùng lên mạnh mẽ.

Thực hiện chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” từ ngày 12.3.1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, các tổ chức Đảng trong toàn tỉnh Phú Thọ đã vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị và quân sự với địch, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.

Từ tháng 5.1945, hàng vạn quần chúng nhân dân trong tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng, đã lần lượt phá các kho thóc của Nhật, chia cho dân nghèo cứu đói. Phong trào diễn ra mạnh mẽ, nhất là ở các huyện Hạ Hòa, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Lâm Thao. Song song với phong trào phá kho thóc của Nhật, các cuộc biểu tình đòi cứu tế, chống thu thuế cũng diễn ra rầm rộ trên khắp địa bàn tỉnh. Qua phong trào này, lực lượng quần chúng được tập dượt đấu tranh và làm tê liệt chính quyền của địch ở cơ sở.

Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng các chiến khu cách mạng, làm căn cứ bàn đạp cho cuộc Tổng khởi nghĩa, Xứ ủy Bắc kỳ cử cán bộ đến Vần - Hiền Lương, vùng giáp ranh hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái để xây dựng chiến khu du kích, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Chiến khu Vần - Hiền Lương (còn gọi là chiến khu Âu Cơ) ra đời vào tháng 5.1945, do Ban cán sự Đảng Phú - Yên (Phú Thọ - Yên Bái) lãnh đạo. Vào giữa tàng 5.1945, đội du kích Âu Cơ được thành lập, ban đầu chỉ có 15 người, sau phát triển tới 100 người được biên chết thành 4 trung đội. Lực lượng du kích được trang bị súng trường, mã tấu và cả súng máy cướp được của địch. Địa bàn chiến khu không chỉ bó hẹp ở Hiền Lương mà còn phát triển ra 12 làng thuộc tỉnh Phú Thọ và 7 làng thuộc Yên Bái. Chiến khu bao gồm một vùng tương đối rộng ở phía bắc tỉnh Phú Thọ, phía nam tỉnh Yên Bái và đông nam Nghĩa Lộ. Đây là nơi có nhiều đầu mới giao thông quan trọng với vùng Tây Bắc, địa hình hiểm trở và có một vành đai đồng ruộng màu mỡ ven sông Hồng bao bọc. Do đó, chiến khu Vần - Hiền Lương giữ một vị trí hết sức quan trọng cả về quân sự và kinh tế.

Sau khi chiến khu Vần - Hiền Lương hình thành, tháng 6.1945, hai căn cứ du kích Vạn Thắng (Cẩm Khê) và Phục Cổ (Yên Lập) được thành lập. Sau một thời gian, cả hai căn cứ đều hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự liên tỉnh Phú - Yên. Cán bộ quân sự của chiến khu Vần - Hiền Lương được giao nhiệm vụ giúp đỡ, huấn luyện về chính trị và quân sự cho lực lượng du kích ở hai căn cứ này. Từ đó mỗi căn cứ đều thành lập những đội du kích. Đây là lực lượng nòng cốt cho Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám 1945 và là những đơn vị tiền thân của lực lượng vũ trang tỉnh Phú Thọ sau này.

Căn cứ du kích Phục Cổ (Yên Lập) thành lập vào tháng 6.1945, do một số đồng chí trong cơ sở Cát Trù - Thạch Đê tham gia xây dựng. Ảnh hưởng của phong trào cách mạng trong căn cứ lan nhanh ra các vùng xung quanh, thu hút được cả sự ủng hộ của tổng lí địa phương. Quân số trong căn cứ gồm 2 trung đội (khoảng 70 người) được trang bị giáo mác và trên 30 khẩu súng.

Với địa bàn hoạt động ngày càng được mở rộng, lại được sự ủng hộ tích của nhân dân địa phương, lực lượng vũ trang và các căn cứ, chiến khu đã tổ chức nhiều hoạt động chính trị và quân sự, tiến dần từ thấp đến cao. Lực lượng cách mạng đã buộc tri châu Trấn Yên phải trả tự do cho những người bị bắt và nộp vũ khí cho Việt Minh; tổ chức đánh chiếm các kho thóc của Nhật ở Vân Hội, Tề Lễ, Chí Chủ… Ngày 26.6.1945, du kích chiến khu Hiền Lương phục kích ở gò Cây Vải tiêu diệt 4 tên lính Nhật, làm thất bại cuộc tấn công của địch vào căn cứ.

Để chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền, các địa phương trong tỉnh đã ra sức xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc. Công tác xây dựng lực lượng và chuẩn bị điều kiện tiến tới Tổng khởi nghĩa càng được đẩy mạnh, từ khi có đội quân Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân khu giải phóng Việt Bắc về hoạt động tại địa phương. Ở những nơi có đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân về hoạt động, lực lượng tự vệ địa phương càng có điều kiện tiến hành trấn phản, trừ gian, hỗ trợ Mặt trận Việt Minh, xây dựng các đoàn thể cứu quốc. Ở những nơi lực lượng cách mạng hoạt động mạnh, chính quyền tay sai của Nhật bị tê liệt, mất hiệu lực. Phong trào xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc đã phát triển nhanh trong toàn tỉnh. Nhân dân tự nguyện mua sắm vũ khí trang bị cho lực lượng tự vệ địa phương. Vì thế, ở nhiều huyện khi thời cơ đến, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh lực lượng tự vệ đã cùng nhân dân khởi nghĩa, lật đổ chính quyền xã và huyện. Tình hình này đã tạo nên hình thái khởi nghĩa từng phần trước ngày Tổng khởi nghĩa toàn quốc. Mặt khác, lực lượng tự vệ địa phương còn là một nguồn bổ sung cho lực lượng du kích chiến khu và cùng với độ quân chính trị của quần chúng cách mạng tạo thành một lực lượng hậu thuẫn, nhân lên sức mạnh và thanh thế cho phong trào Việt Minh của tỉnh.


(*) Người viết: Đinh Hữu Thiện, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #47 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2011, 08:18:43 am »

Trong những ngày sục sôi khí thế cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng và Mặt trận Việt Minh, lực lượng du kích các căn cứ và chiến khu được nhân dân ủng hộ đã khởi nghĩa lật đổ chính quyền tay sai Nhật.

Ngày 30.7.1945, du kích giải phóng cùng với cơ sở cách mạng địa phương đánh phá Phù Ninh, bắt tri huyện, nha lại, tước khí giới, thiêu hủy hồ sơ, phá kho thóc chia cho dân nghèo.

Ngày 2.8, du kích chiến khu Âu Cơ tiến đánh Hạ Hòa, tước khí giới, tịch thu tài sản. Tri huyện xin hàng và nộp hồ sơ, sổ sách.

Ngày 11.8, đội du kích Vạn Thắng đánh phá huyện Thanh Sơn. Ngày 17.8, huyện Cẩm Khê, phủ Thanh Bạ khởi nghĩa. Cả hai viên tri huyện, tri phủ đều bỏ trốn, bọn nha lại và binh lính đầu hàng, giao nộp toàn bộ sổ sách, đồng triện và các tài sản khác cho lực lượng cách mạng.

Ngày 18.8, khởi nghĩa ở huyện Tam Nông và châu Yên Lập.

Ngày 20.8, khởi nghĩa ở huyện Hạc Trì và phủ Lâm Thao.

Ngày 22.8, khởi nghĩa ở huyện Thanh Thủy; đây là huyện khởi nghĩa cuối cùng của tỉnh Phú Thọ.

Tính đến ngày 22.8.1945, tất cả 11 phủ, châu, huyện của tỉnh Phú Thọ đều tiến hành khởi nghĩa thành công. Chính quyền tay sai Nhật bị đập tan, chính quyền cách mạng được thiết lập. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện đều diễn ra nhanh gọn, thuận lợi ít đổ máu.

Sau khi khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện, chính quyền cách mạng và huyện bộ Việt Minh huy động lực lượng tự vệ tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh và cử cán bộ về các làng xã lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời làng xã trong huyện. Ban cán sự liên tỉnh Phú - Yên tập trung lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền cấp tỉnh và thị xã Phú Thọ.

Ở thị xã Phú Thọ vào những ngày tháng 8.1945, lực lượng của địch còn đông với nhiều vũ khí và âm mưu chống phá cách mạng đến cùng. Bọn Nhật thu quân ở Đoan Hùng và các tỉnh lân cận về tập kết ở tỉnh lị. Trong những ngày 22 và 23.8, chúng vẫn cho quân đến các phố khủng bố và uy hiếp nhân dân, tước súng của một bộ phận bảo an binh vì nghi lực lượng này theo Việt Minh. Bộ máy chính quyền bù nhìn (tỉnh trưởng, bảo an binh), mặc dù hoang mang dao động, nhưng vẫn được bọn Nhật tiếp sức. Bọn Việt gian Đại Việt ngoan cố làm tay sai cho Nhật chống phá cách mạng. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa ở tỉnh gặp khá nhiều khó khăn trở ngại, không nhanh chóng, thuận lợi như khởi nghĩa ở các huyện.

Tuy vậy, lực lượng cách mạng của toàn tỉnh, gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã đủ mạnh; trong thị xã, cơ sở và phong trào cách mạng được duy trì và phát triển; các huyện trong tỉnh đã khởi nghĩa thắng lợi, nhiều tỉnh phụ cận, nhất là thủ đô Hà Nội cũng đã khởi nghĩa; hơn nữa, lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương đã về đến tỉnh ngày 21.8. Tất cả những yếu tố đó tạo nên sức mạnh to lớn uy hiếp kẻ thù, tạo thuận lợi cho công cuộc khởi nghĩa của tỉnh.

Chiều ngày 23.8, tại đền Đõm (thị xã Phú Thọ), Ủy ban khởi nghĩa triệu tập hội nghị quân sự đặc biệt toàn tỉnh, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang trong tỉnh, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ Phú Thọ đã tiến hành khởi nghĩa. Hội nghị cùng đề ra các biện pháp nhằm huy động đông đảo lực lượng quần chúng biểu dương sức mạnh, làm hậu thuẫn cho cuộc khởi nghĩa. Hội nghị lựa chọn các đại biểu thành lập chính quyền cách mạng tỉnh. Nghị quyết của hội nghị mau chóng được truyền đi khắp nơi trong tỉnh. Nhân dân và các đơn vị tự vệ các huyện Thanh Ba, Lâm Thao, Thanh Thủ, Cẩm Khê, Phù Ninh được điều động về thị xã cùng với du kích các chiến khu chuẩn bị khởi nghĩa.

Đêm 23.8, Hội nghị đại biểu các lực lượng cách mạng toàn tỉnh họp tại đình làng Can Du ở thị xã Phú Thọ, thông qua chủ trương khởi nghĩa và cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh. Ngày 24.8, truyền đơn, biểu ngữ kêu gọi nhân dân ủng hộ Mặt trận Việt Minh rải ở khắp các phố trong thị xã. Một cuộc mít tin lớn được tổ chức tại bãi Tây (nay là khu trường Sa Đéc và trường tiểu học Hùng Vương). Cuộc mít tinh chuyển thành cuộc tuần hành thị uy diễu qua các phố. Những khẩu hiệu: “Thành lập chính quyền nhân dân cách mạng”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”, “Đả đảo bọn quân phiệt Nhật hiếu chiến”… vang khắp thị xã. Việc làm đó của ta nhằm :làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh”(1).

Tối ngày 24.8.1945, Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh họp phân công các ủy viên phụ trách tiếp quản các cơ quan của ngụy quyền và quyết định đổi tên là Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Phú Thọ. Sáng 25.8.1945, cùng với đông đỏ quần chúng nhân dân, các lực lượng vũ trang tỉnh Phú Thọ tham gia giành chính quyền tỉnh thắng lợi ở thị xã Phú Thọ. Sau đó, tại sân vận động thị xã Phú Thọ, một cuộc mít tinh được tổ chức, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của tỉnh chính thức ra mắt được sự chứng kiến của hàng vạn người.

“Ngày 25.8.1945 cắm một mốc son chói lọi của lịch sử tỉnh ta và lịch sự Đảng bộ. Đó là ngày chấm dứt ách thống trị phong kiến tồn tại hàng nghìn năm và ách thực dân dài hơn sáu chục năm, ngày ra đời của chính quyền cách mạng, chính quyền của dân, do dân, vì dân”(2).

*

Nhân dân Phú Thọ qua nhiều thế hệ đã anh dũng vùng lên đấu tranh suốt nghìn năm Bắc thuộc, sau đó là chống Pháp, đuổi Nhật, nhưng phải đến Cách mạng tháng Tám 1945, họ mới được đổi đời, mới thực sự trở thành người làm chủ vận mệnh mình, quê hương đất nước mình. Từ đây, nhân dân Phú thọ cùng cả nước bước vào cuộc sống mới trong độc lập, tự do dưới chính thể dân chủ cộng hòa, mở đầu cho kỉ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Phú Thọ tự hào về trang sử Cách mạng tháng Tám của mình và tự hào vì đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi huy hoàng trong Cách mạng tháng Tám của mình.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 429.
(1) Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập 1 (1939-1968), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 124.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #48 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2011, 07:42:54 am »

PHÚC YÊN(*)

Phúc Yên là một tỉnh trung du miền núi phía bắc, vừa có rừng núi, vừa có đồng bằng Yên Lãng, Đông Anh kế cận với Hà Nội và các tỉnh miền xuôi (Đông Anh trước đây thuộc Phúc Yên sau sáp nhập vào Hà Nội). Đặc điểm ấy đặc Phúc Yên vào vị trí là cửa ngõ nối liền đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nội với Việt Bắc. Đây là một trong những điều kiện làm cho Phúc Yên sớm được ảnh hưởng phong trào cách mạng của cả miền ngược và miền xuôi. Do đó, trong thời kì Cách mạng tháng Tám, Phúc Yên là một bộ phận An toàn khu của Trung ương Đảng và căn cứ địa cách mạng toàn quốc.

Qua các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, nhân dân Phúc Yên có nhiều đóng góp cho sự lớn mạnh của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chuẩn bị lực lượng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng trong toàn quốc, cũng như ở Phúc Yên. Từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1940, Pháp đã tung mật thám, binh lính, quan lại, cường hào đi vây lùng liên tiếp trên 20 lần ở hầu hết các cơ sở cách mạng trong tỉnh.

Giữa lúc khó khăn, Đảng bộ tỉnh nhận được Nghị quyết Trung ương 6 quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ cuộc vận động dân chủ sang vận động giải phóng dân tộc. Cuối năm 1939, do chủ trương chuyển trọng tâm công tác từ thành thị về nông thôn, nên Đảng bộ tỉnh Phúc Yên đã được Trung ương và Xứ ủy tăng cường một số cán bộ về chỉ đạo.

Tháng 9.1940, Nhật đánh chiếm Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng, dâng nước ta cho Nhật. Ở Phúc Yên, ngay từ đầu năm 1941, trên 1000 lính Nhật vào chiếm đóng. Hàng vạn quần chúng lao động bị bắt đi phu, xây dựng hệ thống hầm vũ khí núi Dược Thượng (Đa Phúc), làm sân bay Hương Gia - Nội Bài (huyện Kim Anh). Hàng vạn mẫu lúa, ngô bị Nhật bắt nhổ để trồng đay, lạc, thầu dầu.

Trước tình hình đó, quần chúng nhân dân được Đảng bộ tuyên truyền giác ngộ, đã sôi nổi tham gia phong trào phản đến. Đến những năm 1943-1944, đã có hàng chục cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân chống địch thu thóc đề-pô, bắt phá lúa, ngô để trồng đay, thầu dầu.

Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Tại Phúc Yên, chiều tối 9.3, một toán lính Nhật từ sân bay Hương Gia - Nội Bài kéo lên thị xã chĩa súng vào tòa sứ, trại giám binh và gửi tối hậu thư cho Pháp. Chỉ sau một tiếng đồng hồ, Pháp đã đầu hàng. Giữa lúc đó, Đảng bộ đã nhận được chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 12.3.1945 về “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng bộ Phúc Yên được tăng cường lực lượng lãnh đạo, nhằm thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu của thời kì tiền khởi nghĩa:

1. Phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh, cấp thiết giải quyết nạn đói trước mắt.

2. Làm tan rã chính quyền địch và thành lập chính quyền cách mạng.

3. Gấp rút chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa.

Cao trào kháng Nhật cứu nước và không khí sửa soạn khởi nghĩa của nhân dân Phúc Yên để giành chính quyền diễn ra hết sức sôi động. Lực lượng cách mạng của tỉnh đã lớn mạnh và làm chủ đại bộ phận địa bàn của nông thôn. Cán bộ, đảng viên cũng như quần chúng cứu nước đã được rèn luyện, trong thực tế đấu tranh trực diện với địch và sẵn sàng thực hiện lệnh khởi nghĩa] của Đảng. Trên mặt trận Thái Bình Dương, quân Nhật đã đầu hàng Đồng minh.

Khi biết tin Nhật đầu hàng Đồng minh, chiều ngày 18.8.1940, chi bộ nhà máy xe lửa Đông Anh đã tổ chức một cuộc tuần hành vũ trang nhằm thăm dò thái độ của địch và chuẩn bị tinh thần để chiếm huyện lị. Ngày 21.8.1945, Đội công tác của Trung ương phụ trách vùng an toàn khu Đông Anh phối hợp với chi bộ nhà máy tổ chức một cuộc mít tinh toàn quyền để lập chính quyền và giải giáp bọn Nhật còn đóng ở ga nhưng chúng không chịu hạ vũ khí. Cán bộ lãnh đạo của huyện đã quyết định dùng vũ lực để tiêu diệt. Hôm sau, bọn Nhật kéo một đại đội từ cầu Đuống lên Đông Anh để trả thù. Nhưng chính quyền cách mạng đã chủ động chuyển về nông thôn (làng Cổ Loa) và có kế hoạch cho quần chúng đấu tranh chống địch đàn áp, nên tránh được thiệt hại, bảo vệ được chính quyền.

Từ 19 đến 20.8.1945, cuộc khởi nghĩa ở Phúc Yên liên tiếp nổ ra khắp các huyện còn lại và khu vực thị xã. Đặc biệt cuộc đấu tranh ở thị xã Phúc Yên diễn ra vô cùng gay go, phức tạp, vì lực lượng khởi nghĩa phải đối phó với sự can thiệp của quân Nhật.

Sáng 18.8.1945, Ban cán sự Đảng tỉnh Phúc Yên được tin Nhật đầu hàng, tin Hà Nội có một cuộc biểu tình lớn. Ngay chiều tối 18.8, Ban cán sự tỉnh đã triệu tập Hội nghị cán bộ cấp xã, huyện, thị xã họp tại làng Chi Đông (huyện Kim Anh) để quyết định chủ trương khởi nghĩa. Lúc này tuy chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng do sự quán triệt tinh thần chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nên Đảng bộ đã có cơ sở để xác định Nhật đầu hàng tức là thời cơ giành chính quyền đã đến. Đồng thời, qua tin tức Hà Nội biểu tình càng làm cho Đảng bộ thấy rõ cần phải tranh thủ thời cơ, tiến hành khởi nghĩa.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Văn Ninh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #49 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2011, 07:43:51 am »

Căn cứ vào tình hình lực lượng giữa ta và địch, Hội nghị Ban cán sự tỉnh nhận định:

- Tại các huyện lị ta có thể giành chính quyền một cách thuận lợi vì địch suy yếu không đủ sức kháng cự. Còn ở thị xã, địch có khả năng đối phó với đại đội bảo an binh, nhưng tinh thần quân lính của chúng cũng đã bị rung động.

- Ngay lúc bắt đầu họp Ban cán sự, tỉnh cũng đã biết bọn Đại Việt huy động một số thanh niên định lên chiếm tỉnh lị, nhưng Hội nghị cho rằng: ta có khả năng làm tan rã hàng ngũ của bọn Đại Việt bằng cách trấn áp bọn cầm đầu, lôi kéo thanh niên sang hàng ngũ Việt Minh, vì số quần chúng đó chỉ nhất thời bị địch lợi dụng.

- Hội nghị quyết định tập trung toàn bộ lực lượng quần chúng, huy động hết thảy các đội tự vệ vũ trang để khởi nghĩa ở thị xã Phúc Yên vào ngày 19.8.1945, Trên đường lên chiếm tỉnh lị, có thể tranh thủ lấy ngay huyện lị Kim Anh để có thêm vũ khí đối phó với địch ở thị xã. Còn huyện Yên Lãng thì giao cho một số cơ sở giành chính quyền sau khi đã khởi nghĩa ở tỉnh lị về.

- Về việc chiếm tỉnh lị, Hội nghị quyết định sử dụng những biện pháp chủ yếu: huy động lực lượng quần chúng biểu tình vũ trang kết hợp với các đơn vị tự vệ làm nòng cốt, tiến hành bao vây kêu gọi địch đầu hàng. Nếu địch chống lại, ta tiếp tục bao vây bằng vũ trang, chặn mọi nguồn tiếp tế, đẩy mạnh công tác binh vận làm tan rã quân lính địch.

Cuối cùng, Hội nghị cử Ủy ban khởi nghĩa, do đồng chí Vũ Ngọc Linh, đại diện Ban cán sự tỉnh, làm chủ tịch và 3 ủy viên phụ trách quân sự, tuyên truyền và hành chính. Hội nghị kết thúc ngay trong đêm 18.8.1945 để các đại biểu kịp thời về địa phương tập trung lực lượng.

Từ mờ sáng 19.8.1945, theo sự phân công của Ủy ban khởi nghĩa, đơn vị tự vệ làng Chi Đông đã hoàn thành việc chiếm huyện lị Kim Anh một cách nhanh gọn và đem số vũ khí lấy được (12 súng) lên tham gia khởi nghĩa ở tỉnh lị.

Trưa ngày 19.8.1945, lực lượng quần chúng biểu tình vũ trang lên tới hàng vạn người, vây chặt hai nơi chủ yếu của địch là trại Bảo an binh và dinh Tỉnh trưởng. Ta dùng áp lực thị uy của quần chúng để kêu gọi bọn chỉ huy Bảo an binh giao vũ khí, nhưng chúng ngoan cố không chiu đầu hàng. Tỉnh trưởng cũng họp bàn với một số quan lại để tình cách đối phó. Khi đại biểu cách mạng vào yêu cầu chúng giao chính quyền, thì Tỉnh trưởng từ chối, nói “Phải xin lệnh của Khâm sai”. Lực lượng tự vệ của ta tiến công vào tước súng của binh lính, buộc Tỉnh trưởng đầu hàng, giao toàn bộ tài liệu, kho bạc, nhà dây thép và 38 khẩu súng. Tỉnh trưởng bù nhìn đầu hàng, nhưng những tên cầm đầu Bảo an binh vẫn tìm cách dựa vào Nhật để chống lại cách mạng. Ngày 21.8.1945, cuộc khởi nghĩa mới giành được thắng lợi. Tuy nhiên, về sách lược, ta lập “chính quyền liên hiệp” với các thế lực thân Nhật. Ngày 27.8, các phần tử phản động Việt Nam Quốc dân Đảng câu kết với bọn cầm đầu Bảo an binh tiếp tục chống lại cách mạng nhưng đã bị đánh tan. Ngày 30.8, chính quyền mới hoàn toàn về tay nhân dân.

Cùng ngày khởi nghĩa ở tỉnh lị Phúc Yên, các cơ sở thuộc huyện Yên Lãng, Đa Phúc… cũng kịp thời nổi dậy đấu tranh giành chính quyền.

*

Tóm lại, tiến trình của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Phúc Yên diễn biến hết sức gay go, quyết liệt. Hầu hết các huyện, xã đều phải dùng áp lực chính trị và vũ trang mới lật đổ được chính quyền của địch. Nhân dân thị xã Phúc Yên phải chiến đấu đổ máu mới giành được thắng lợi. Điều đó chứng tỏ rằng, cuộc khởi nghĩa ở Phúc Yên đã sử dụng cả bạo lực chính trị và vũ trang, trong đó, hình thức đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định chủ yếu.

Cùng với sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với vũ trang, cuộc khởi nghĩa ở Phúc Yên còn thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa đấu tranh ở nông thôn và thành thị. Tại Phúc Yên, cuộc khởi nghĩa bắt đầu ở xã, huyện, lên tỉnh, rồi lại từ tỉnh trở về huyện, xã và cuối cùng kết thúc thắng lợi ở tỉnh lị. Hình thái cách mạng chung toàn tỉnh là khởi nghĩa nông thôn tới thành thị, trong đó lực lượng cách mạng ở nông thôn giữ vai trò trọng yếu nhất.

Cuộc khởi nghĩa ở Phúc Yên đã kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, giữa nông thôn với thành thị; đồng thời thể hiện nổi bật sự chỉ đạo kiên quyết, kịp thời của Đảng bộ và tinh thần dũng cảm đấu tranh của quần chúng nhân dân. Mặc dù phải khắc phục sự đứt liên lạc với trên, phải chiến đấu đổ máu ác liệt trước sự phản kháng của kẻ địch, nhưng hàng chục vạn quần chúng đã cùng với Đảng bộ hoàn thành nhiệm vụ khởi nghĩa một cách anh dũng. Thắng lợi vẻ vang đó của Đảng bộ và nhân dân Phúc Yên kinh qua 15 năm rèn luyện trong đấu tranh dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng và không ngừng phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất chống phong kiến, đế quốc do cha ông để lại.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM