Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 02:42:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh  (Đọc 174004 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:38:45 pm »

Sau ít ngày gấp rút chuẩn bị, các đơn vị vũ trang Bắc Kạn phối hợp với các đơn vị Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã nổ súng tiến công địch ở nhiều nơi, hỗ trợ đồng bào các dân tộc xóa bỏ chính quyền tay sai, thành lập chính quyền cách mạng.

Tại Ngân Sơn, phong trào cách mạng của nhân dân phát triển mạnh nên bộ máy thống trị của địch tan rã từng mảng. Trước tình hình khách quan thuận lợi, ngày 20.3.1945, một đơn vị Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân kết hợp với các đơn vị vũ trang địa phương từ nhiều hướng tiến về châu Ngân Sơn. Trước sự hoang mang của tên đồn trưởng Pháp và bọn lính, để tránh đổ máu ta kêu gọi quân địch cùng hợp tác với Việt Minh đánh Nhật; bọn địch phải chấp nhận yêu cầu của ta và đưa quân vào vị trí do ta quy định. Ngày 21.3, lực lượng quân sự cuối cùng của địch ở Ngân Sơn bị phá bỏ, 16 xã thuộc Ngân Sơn được giải phóng, nhân dân đã giành chính quyền từ tay địch. Ngân Sơn đi đầu trong các châu huyện của tỉnh về việc đập tan bộ máy thống trị của địch.

Tại Chợ Rã, ngày 19.3.1945 tự vệ và lực lượng vũ trang khu Thiện Thuật chặn đánh Pháp ở Pò Mò thuộc xã Bằng Thành, buộc chúng phải giao nộp cho ta 30 súng các loại và nhiều chiến lợi phẩm. Ngày 23.3.1945, các đơn vị vũ trang địa phương tiến vào giải phóng Chợ Rã. Được sự giúp đỡ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Ủy ban lâm thời Chợ Rã được thành lập. Đây là Ủy ban lâm thời đầu tiên ở Bắc Kạn.

Ở Chợ Đồn, lực lượng vũ trang được bổ sung hai tiểu đội tự vệ mới thanh lập và phát triển thành hai trung đội, trung đội tự vệ chiến đấu được trang bị vũ khí tốt để đánh chiếm các đồn bốt, tiêu diệt lực lượng quân sự địch; một trung đội tự vệ khác làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, tước khí giới lính dõng, thu bằng triện, xóa bỏ chính quyền địch. Đêm 28.3.1945, trung đội tự vệ chiến đấu dưới sự chỉ huy của trung đội trưởng Vũ Yến tiến đánh đồn Tổng Quận xã Bình Trung. Trước khí thế cách mạng của quần chúng, quân địch hoang mang bỏ chạy, phần lớn xin đầu hàng lực lượng cách mạng. Lực lượng tự vệ đánh đồn nhanh gọn, không tốn xương máu. Tiếp đó lực lượng tự vệ chiến đấu và nhân dân giải phóng khu mỏ Ban Thi và tiêu diệt địch ở các xã Nghĩa Tá, Yên Nhuận, Bằng Lãng, Ngọc Phái, vv. Bộ máy thống trị ở Chợ Đồn bị xóa bỏ. Đến ngày 30.3.1945, đại bộ phận châu Chợ Đồn được giải phóng, ủy ban lâm thời lần lượt ra đời. Trên cơ sở đó, đầu tháng 4.1945, Ủy ban nhân dân lâm thời châu Chợ Đồn chính thức thành lập.

Ở Na Rì, ngày 28.3.1945 một trung đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân kết hợp với đơn vị vũ trang địa phương và nhân dân tiến đánh châu lị, tên tri châu hoảng sợ bỏ chạy, lính đồn Yến Lạc tự động đầu hàng.

Tại Bạch Thông, được sự giúp đỡ của Cứu quốc quân và cán bộ đặc phái của Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, các đơn vị tự vệ vũ trang và nhân dân nổi dậy cướp chính quyền, làm tan rã bộ máy thống trị và tay sai của chúng ở các xã Vi Hương, Quân Bình, vv.

Ngày 17.3.1945, quân Nhật chiếm đóng lại thị xã và một số vị trí quan trọng khác. Từ hạ tuần tháng 3 đến đầu tháng 4.1945, chúng đưa quân đi chiếm một số châu lị, thị trấn và các vị trí trọng yếu về quân sự và chính trị như Nà Cù, Lục Bình, Phủ Thông… xây dựng hệ thống đồn bốt, cứ điểm trải rộng suốt trục đường số 3, nhưng không làm thay đổi được tình thế.

Ngày 18.5.1945, Đảng bộ và nhân dân Bắc Kạn vinh dự được đón và bảo vệ Hồ Chí Minh trên đường từ Cao Bằng về Tân Trào. Người đã dừng lại thăm một số đơn vị vũ trang và đồng bào các huyện Ngân Sơn, Chợ Đồn, Chợ Rã và có những chỉ thị quý báu đối với Đảng bộ và nhân dân Bắc Kạn về những mặt công tác cấp bách, như xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, tăng cường lực lượng vũ trang, vv.

Sau hai tháng chiếm đóng tại thị xã Bắc Kạn, quân Nhật thất bại trong việc thành lập chính quyền tay sai. Trung tuần tháng 5.1943, quân Nhật mở cuộc càn quét vào vùng giải phóng, các căn cứ cách mạng thuộc khu vực giáp giới các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Chúng tiến quân theo 3 hướng, trong đó cánh quân thứ ba từ thị xã Bắc Kạn tiến công Chợ Rã, Chợ Đồn. chúng tiến hành bao vây càn quét vùng hồ Ba Bể, hàng nghìn lính bảo an chia làm bốn mũi tham gia tấn công. Nhân dân Bắc Kạn thực hiện “vườn không nhà trống”, quyết tâm tiêu diệt địch. Tại Chợ Rã, tự vệ các xã Nam Mẫu, Khang Ninh đã dũng cảm phục kích quân Nhật khiến chúng phải rút lui sau ba ngày chiếm đóng.
 
Tiếp đó, các trận phục kích địch ở Cao Kỳ (7.5), Bản Pè (11.5), Nà Hoan (22.5) và nhiều trận đánh quân tiếp viện ở Chợ Mới đã tiêu diệt nhiều địch và thu được nhiều vũ khí.

Những thành tích của quân và dân Bắc Kạn qua các trận tập kích, phục kích, chống càn trong tháng 3 và 4.1945 thể hiện tinh thần chủ động táo bạo đánh địch, đánh dấu bước trưởng thành của phong trào cách mạng Bắc Kạn, tạo cơ sở vững chắc tiến tới Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ơ Bắc Kạn hoang mang, chúng bắt đầu bỏ các đồn bốt nhỏ về cố thủ tại thị xã và các đồn lớn như Phủ Thông, Nà Cù và muốn điều đình với cách mạng. Trong tình thế như vậy, theo chủ trương của Ủy ban khởi nghĩa, các đơn vị Giải phóng quân, du kích tự vệ và quần chúng vũ trang vây chặt tỉnh lị không cho quân Nhật rút chạy. Chúng đã cử phái viên ra Phặc Chàng, thuộc xã Dương Quang đề nghị thương lượng. Ban chỉ huy đơn vị Giải phóng quân đã đến gặp đại diện Nhật ở sân bay thị xã.

Cuộc thương lượng diễn ra vào ngày 19.8.1945, phía Bắc Kạn có các đồng chí Thu Sơn, Hải Phong còn phía địch có tên chỉ huy quân Nhật và Đinh Ngọc Phụng. Ta nói rõ chủ trương và chính sách nhân đạo của Việt Minh, yêu cầu quân Nhật tự giác nộp vũ khí và không can thiệp vào công việc nội bộ của cách mạng Việt Nam.

Tuy quân Nhật còn tỏ ra chần chừ, nhưng trước thái độ kiên quyết của ta, chúng phải cử người đưa đoàn vào thị xã ngay đêm 19.8.

Sáng ngày 20.8, chỉ huy quân Nhật giao cho cách mạng toàn bộ hồ sơ, bộ máy chính quyền tay sai, kho tàng, công sở.

Sáng ngày 21.8, ta tiếp quản thị xã, giải tán trại bảo an binh, tuyên bố xóa bỏ chính quyền cấp tỉnh của địch.

Ngày 25.8, diễn ra cuộc mít tinh hàng vạng người tại sân vận động thị xã, tuyên bố chính thức xóa bỏ chính quyền địch ở Bắc Kạn. Chính quyền cách mạng được thành lập và Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh ra mắt nhân dân.

*

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Bắc Kạn diễn ra nhanh chóng và hoàn toàn thắng lợi, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong đấu tranh giành độc lập tự do của Đảng bộ và nhân dân Bắc Kạn. Thắng lợi của khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng là một minh chứng hùng hồn thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống đoàn kết, tự lực tự cường, sáng tạo của nhân dân các dân tộc Bắc Kạn dưới sự chỉ đạo của Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:42:20 pm »

LẠNG SƠN(*)

Lạng Sơn là cửa ngõ phía Đông Bắc của đất nước. Với địa hình phức tạp, đa dạng, hiểm yếu, Lạng Sơn trở thành một vị trí chiến lược quan trọng trong việc xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả nước trong thời kì vận động giải phóng dân tộc (1939-1945). Được sự quan tâm, giúp đỡ và chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, cùng với sự nỗ lực cố gắng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lạng Sơn, từ trước năm 1945 phong trào cách mạng ở đây đã phát triển vững chắc. Quá trình xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ở Lạng Sơn là một bộ phận khăng khít của Cách mạng tháng Tám trong cả nước. Mở đầu cho cao trào cách mạng 1939-1945 là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9.1940).

Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 11.1940) chủ trương khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền; vì vậy, vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng và căn cứ địa cách mạng chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang được đề ra như một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết. Trung ương đã quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn, thành lập căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Trên cơ sở đội du kích Bắc Sơn, đội Cứu quốc quân I ra đời, có tác dụng to lớn đối với phong trào cách mạng ở Lạng Sơn. Tiêu hao lực lượng địch, vừa chiến đấu vừa phát triển lực lượng, mở rộng địa bàn hoạt động, nâng cao trình độ hợp đồng tác chiến; góp phần vào việc mở rộng căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, làm chỗ dựa vững chắc cho lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh chống khủng bố của kẻ địch, bảo vệ lực lượng, bảo vệ cơ sở cách mạng.

Khởi nghĩa Bắc Sơn có tác dụng trực tiếp, tích cực cổ vũ tinh thần đoàn kết đấu tranh cách mạng của nhân dân trong tỉnh. Việc sử dụng hình thức vũ trang giành chính quyền của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã trở thành bài học sâu sắc trong quá trình chuẩn bị lực lượng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945 ở Lạng Sơn.

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5.1941), dưới dự chỉ đạo của Trung ương và Tổng bộ Việt Minh, hội nghị liên tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn được triệu tập và cử ra ban Việt Minh liên tỉnh để thống nhất chỉ đạo phong trào. Được sự chỉ đạo sát sao của Ban Việt Minh liên tỉnh, hàng loạt cơ sở Việt Minh ở Lạng Sơn đã được xây dựng, ban đầu ở một số xã, châu miền núi và ngày càng mở rộng, với nòng cốt là đảng viên trung kiên còn lại sau thời gian khủng bố khốc liệt của thực dân Pháp. Càng đến gần những ngày khởi nghĩa giành chính quyền, phong trào Việt Minh càng mở rộng, phát triển mạnh, có những xã, châu Việt Minh hoàn toàn. Mặt trận Việt Minh ở Lạng Sơn thực sự là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, trở thành một lực lượng chính trị quần chúng phát triển mạnh mẽ, đóng góp to lớn vào quá trình đấu tranh cách mạng ở Lạng Sơn, đặc biệt là trong cao trào kháng Nhật cứu nước và trong quá trình khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng, trở thành nhân tố chủ yếu cùng với lực lượng vũ trang quyết định thắng lợi của cách mạng.

Từ trong phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Lạng Sơn, cùng với sự phát triển của lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang ở Lạng Sơn đã phát triển trưởng thành và lớn mạnh không nừng, trở thành lực lượng nòng cốt quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Ngày 15.5.1945, Việt Nam Giải phóng quân ra đời, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của lực lượng cách mạng Việt Nam, lực lượng vũ trang Lạng Sơn nói riêng. Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân Lạng Sơn từ 1939 đến 1945 chứng tỏ vai trò to lớn của lực lượng vũ trang cách mạng, quyết định sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở tỉnh nhà. Lực lượng vũ trang cách mạng ở Lạng Sơn là một trong những cơ sở cho Đảng ta xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước; là lực lượng đi đầu trong quá trình củng cố, xây dựng cơ sở cách mạng, mở rộng căn cứ địa cách mạng, bảo vệ cơ sở cách mạng, trừng trị đích đáng bọn phản động ác ôn; đồng thời là tiền đề để Đảng xây dựng lực lượng ba thứ quân ở giai đoạn cách mạng sau này.

Từ cuối năm 1944, đầu năm 1945, được sự tăng cường chỉ đạo của Tổng bộ Việt Minh, Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng và sự vận động, tổ chức tích cực của Cứu quốc quân từ căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, các đội vũ trang tuyên truyền chiến đấu lần lượt được thành lập ở nhiều địa phương của Lạng Sơn như Hội Hoan (Thoát Lãng), Thụy Hùng (Văn Uyên), Chí Minh (Tràng Định)… Cùng với sự ra đời của các đội vũ trang cách mạng, các căn cứ du kích cũng được thành lập. Giữa các căn cứ có đường dây liên lạc với nhau, tạo thành hệ thống liên hoàn các căn cứ và liên hệ chặt chẽ với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, do Trung ương trực tiếp chỉ đạo.

Cuối năm 1944 đầu năm 1945, cục diện chiến tranh thế giới thứ hai đã có những thay đổi theo chiều hướng có lợi cho lực lượng dân chủ, phe Đồng minh giành được những thắng lợi liên tiếp. Trên các chiến trường  Châu Âu và Thái Bình Dương, bọn phát xít Đức, Nhật thất bại dồn dập và có nguy cơ bị tiêu diệt. Ở Đông Dương, trong khi phong trào đấu tranh của nhân dân ta đang ngày càng lớn mạnh, thì mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng sâu sắc.

Đúng như dự đoán của Đảng ta, đêm 9.3.1945, Nhật nổ súng đánh Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Sau vài cuộc chống cự yếu ớt, quân Pháp ở Đông Dương đã đầu hàng Nhật. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Bọn Pháp, mặc dầu có hàng vạn quân trong tay, nhưng khi bị Nhật lật chỉ làm có hai việc: chạy trốn và đầu hàng”(1). Nhật tuyên bố giúp cho nền độc lập của các dân tộc Đông Dương, nhưng thực chất là lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Chúng đã lập ra chính phủ bù nhìn thân Nhật Trần Trọng Kim đứng đầu, bộ máy cai trị cũ về cơ bản vẫn được sử dụng.

Sau khi đánh bại quân Pháp ở Lạng Sơn, bọn phát xít Nhật vẫn duy trì hệ thống chính quyền tay sai cũ do Pháp tổ chức, Tổng đốc Linh Quang Vọng vẫn được Nhật giữ làm tỉnh trưởng bù nhìn.

Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng ta đã đề ra chủ trương “phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa”(2). Thực hiện chủ trương của Đảng, tháng 3.1945, Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chỉ thị cho các Đảng bộ và cơ sở Đảng địa phương: Nhân lúc này lập tức lật đổ bộ máy thống trị thực dân, tùy từng vùng, từng điều kiện mà giành chính quyền ở xã, châu, tỉnh. Ở Lạng Sơn, được sự chỉ đạo phối hợp của Cứu quốc quân, từ tháng 4 đến tháng 7.1945, dưới sự tổ chức trực tiếp của các chi bộ Đảng, các Ban Việt Minh ở các châu Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng, Bằng Mạc, Tràng Định, Thoát Lãng, Điềm He, quần chúng cách mạng đã lần lượt nổi dậy giành chính quyền thắng lợi.


(*) Người viết: Đinh Hữu Thiện, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nam.
(1) Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, hồi kí, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr. 194.
(2) Văn kiện Đảng (25.1.1939 – 2.9.1945), Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1963, tr. 474.
« Sửa lần cuối: 23 Tháng Tám, 2011, 07:07:38 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:45:01 pm »

Ngày 19.8.1945, tại Đồng Mỏ (Ôn Châu), dưới sự chỉ đạo của Ban Việt Minh châu, được sự tăng cường của lực lượng vũ trang chủ lực của tỉnh, quần chúng cách mạng đã nhất tề nổi dậy, tiến công quân Nhật, làm chủ châu lị. Ôn Châu được hoàn toàn giải phóng, mở đầu cho việc giành chính quyền thắng lợi trong toàn tỉnh. Cùng ngày, tại Hữu Lũng lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng nổi dậy làm chủ phố Mẹt (sào huyệt của Nhật ở Hữu Lũng), cách mạng thắng lợi nhanh chóng.

Trên đà thắng lợi đó, ngày 21.8, quân dân Thất Khê nổi dậy làm chủ phố Thất Khê, giải phóng hoàn toàn Tràng Định. Ngày 22-8, giải phóng Thoát Lãng.

Trước khí thế của quần chúng cách mạng, ngày 24.8 tại Ba Xã (châu Điềm He), Tỉnh ủy họp và đề ra chủ trương: “Nhân lúc này phải nhanh chóng giải phóng tỉnh lị, lập chính quyền cách mạng”(1). Cùng ngày, Ban chỉ đạo khởi nghĩa của tỉnh được thành lập và quyết định huy động lực lượng vũ trang cách mạng và quần chúng nhân dân từ nhiều hướng tiến vào thị xã khởi nghĩa giành chính quyền.

Như vậy, cùng với lực lượng chính trị hùng hậu của quần chúng, lực lượng vũ trang Giải phóng quân kiên cường anh dũng làm nòng cốt; được sự chỉ đạo kịp thời và sáng suốt của Tỉnh ủy và Tỉnh bộ Việt Minh, từ ngày 13 đến 25.8.1945 nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã chớp thời cơ nổi dậy giành chính quyền. Tuy nhiên, chính quyền cách mạng vừa giành được trong ngày 25.8 thì ngày hôm sau (26.8), quân Tưởng từ bên kia biên giới (với danh nghĩa thay mặt quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật) lũ lượt kéo vào Lạng Sơn.

*

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tháng 8.1945 ở Lạng Sơn phản ánh đường lối đúng đắn và nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Trong đó, vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng và căn cứ địa là chủ trương chiến lược đồng thời là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thắng lợi của cách mạng. Do điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử ở Lạng Sơn có nhiều điểm khác so với các địa phương khác, vì vậy quá trình xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền 1945 có những điểm nổi bật riêng. Đó là:

- Lạng Sơn là một trong những tỉnh xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang và căn cứ địa cách mạng sớm ở khu vực phía Bắc Tổ quốc. Sở dĩ có được điều đó, bời vì cách mạng Lạng Sơn phát triển trong điều kiện khá thuận lợi. Nơi đây có địa hình hiểm trở, địa bàn cơ động chiến lược; nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống đấu tranh bất khuất, nên ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy vai trò, vị trí to lớn của Lạng Sơn đối với cách mạng cả nước. Đảng luôn quan tâm, chỉ đạo trực tiếp phong trào cách mạng ở đây.

- Lực lượng cách mạng ở Lạng Sơn được hình thành và phát triển trước tiên ở những vùng sâu, vùng biên giới Việt - Trung, vùng xa trung tâm tỉnh lị, nơi cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số, sau đó lang sang các địa bàn khác trong tỉnh. Trên thực tế, địch đã ra sức xây dựng hệ thống đồn bốt và lực lượng tay sai, nhưng ở những nơi vùng sâu vùng xa phòng thủ của chúng có phần lơi lỏng, chủ quan, thậm chí có nơi không kiểm soát nổi. Ngược lại những vùng cao, xa, vùng sâu lại là nơi thuận lợi cho cách mạng xây dựng lực lượng để từ đó phát triển xuống vùng thấp hơn.

- Lạng Sơn là chiếc nôi của cuộc khởi nghĩa vũ trang và ra đời lực lượng vũ trang cách mạng. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27.9.1940) đã nổ tiếng súng đầu tiên báo hiệu thời kì đấu tranh vũ trang mới của dân tộc Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn tuy chưa giành được thắng lợi quyết định nhưng “đã ra đời đứa con đầu lòng của lực lượng vũ trang cách mạng - Đội Du kích Bắc Sơn”(2).

- Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai - một trong những căn cứ địa đầu tiên của cách mạng Việt Nam - ra đời trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Sự ra đời của căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai là một chủ trương sáng suốt của Đảng ta, phù hợp với yêu cầu phải xây dựng lực lượng bảo vệ cơ sở cách mạng.

Trong quá trình chuẩn bị lực lượng cách mạng ở Lạng Sơn tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang diễn ra sớm và ngày càng mạnh mẽ. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn là sự kết hợp giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị để giành chính quyền.

Quá trình xây dựng, chuẩn bị lực lượng cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945 ở Lạng Sơn là một bằng chứng lịch sử góp phần khẳng định rằng, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Lạng Sơn cũng như trong cả nước, không thể có được, nếu không có sự chuẩn bị chu đáo, toàn diện trong 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939-1945. Nhờ có sự chuẩn bị đầy đủ đó trong suốt 15 năm của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lạng Sơn, nên Cách mạng tháng Tám ở Lạng Sơn mới có đủ thực lực và sức mạnh khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng. Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Lạng Sơn đã góp phần to lớn, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp cách mạng.


(1) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lạng Sơn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn 1930-1945 (tái bản lần thứ nhất), 1998, tr. 88.
(2) Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 43.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2011, 10:04:47 am »

TUYÊN QUANG(1)

Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, có vị trí chiến lược thuận lợi trong việc thông thương với các tỉnh Việt Bắc và vùng đồng bằng. Vì vậy, Tuyên Quang sớm trở thành một căn cứ cách mạng vững chắc. Đồng bào các dân tộc Tuyên Quang đã cùng nhân dân cả nước đấu tranh đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập.

Bước sang năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai có nhiều chuyển biến có lợi cho lực lượng hòa bình dân chủ, đặc biệt là đối với cách mạng các nước thuộc địa. Tuyên Quang cũng nằm trong sự chuyển biến mau lẹ của tình hình toàn quốc, song có nét riêng. Đầu năm 1945, địa bàn hoạt động cách mạng được mở rộng ở hầu hết các địa phương.

Phong trào cách mạng phát triển mạnh ở các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa, thanh thế của Việt Minh ngày càng sâu rộng trong đồng bào các dân tộc.

Ngày 9.3.1945, phát xít Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng và sau đó ra chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Tại Tuyên Quang, quân Pháp bỏ chạy trước lúc quân Nhật tiến vào thị xã, chính quyền tay sai của Pháp ở các địa phương tán loạn, hoang mang, không khí cách mạng trong quần chúng càng thêm sôi sục. Thời cơ cách mạng đã đến, thời điểm giành chính quyền cho các địa phương ở khu vực Tuyên Quang đang độ chín muồi.

Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Phân khu ủy phân khu Nguyễn Huệ đã triệu tập cuộc họp cán bộ tại Khuổi Kẹn (xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương hiện nay) vào ngày 10.3.1945, do đồng chí Song Hào chủ trì. Sau khi phân tích tình hình, cuộc họp đã thống nhất nhận định: Nhật, Pháp bắn nhau chứng tỏ hai kẻ thù của dân tộc đều bị suy yếu. Đây là thời cơ thuận lợi để phát động nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Ban chỉ huy đã chọn Thanh La (tức Minh Thanh) làm nơi thử nghiệm, “bắt mạch” sự phản ứng của kẻ địch.

Ngay đêm đó, quân khởi nghĩa tập trung lực lượng kéo vào tước vũ khí của lính dõng ở tổng Thanh La, bọn tổng lí, kì hào run sợ, đem giấy tờ, triện đồng, súng đạn nộp cho quân cách mạng.

Ngay hôm sau (11.3.1945), quân khởi nghĩa tổ chức mít tinh ở đình Thanh La kêu gọi nhân dân ủng hộ cách mạng, đoàn kết vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Đoàn người dự mít tinh đã biến thành đoàn biểu tình kéo về huyện lị Sơn Dương. Ngày 15.3, lực lượng địch ở đồn Đăng Châu (huyện lị Sơn Dương) ngoan cố chống cự bị lực lượng ta tiêu diệt, huyện lị Sơn Dương được giải phóng, châu Tự Do ra đời. đây là cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra sớm ở nước ta sau khi Nhật đảo chính Pháp, đồng thời với cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi).

Một bộ phận lực lượng tiếp đó tiến lên giải phóng huyện lị Chiêm Hóa (28.3.1945) thành lập châu Khánh Thiện, giải phóng huyện lị Na Hang (4.1945), châu Xuân Trường được thành lập

Đến giữa tháng 5.1945, ta giải phóng một số xã thuộc huyện Yên Sơn và sau đó giải phóng huyện lị Hàm Yên (15.5.1945).

Tháng 5.1945, Bác Hồ về Tân Trào chọn làm nơi đặt đại bản doanh cho cách mạng. Bởi vì, Tân Trào có cơ sở cách mạng tốt, địa hình tốt, có thể trở thành một trung tâm liên lạc với miền xuôi, miền ngược và ra nước ngoài. Bác Hồ ở lại nhà một gia đình cơ sở xóm Kim Lộng trong ít ngày rồi chuyển lên một chiếc lán nhỏ làm trên sườn một quả đồi.

Cho đến tháng 6.1945, chính quyền cách mạng được thành lập ở hầu hết các nơi (trừ thị xã Tuyên Quang). Vùng giải phóng được mở rộng nối liền các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa, Na Hang sang các vùng Đại từ, Định Hóa (Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Kạn). Đây là cơ sở thuận lợi để khu giải phóng Việt Bắc được thành lập ngày 4.6.1945 và Tân Trào được chọn làm thủ đô của khu giải phóng. Đây là hỉnh ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam dân chủ cộng hào sau này. Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng được thành lập. Chính quyền nhân dân trong toàn khu giải phóng được xây dựng, củng cố qua tổ chức bầu cử theo phổ thông đầu phiếu. Nhân dân trong khu giải phóng được hưởng các quyền tự do, dân chủ. Đầu tháng 7.1945, ở Tân Trào đã khai giảng Trường Quân chính kháng Nhật, nhằm đào tạo trung đội trưởng và chính trị viên trung đội.

Quân Nhật tổ chức nhiều cuộc tấn công vào khu giải phóng. Riêng ở vùng Tuyên Quang, chúng bị phục kích nhiều lần trên con đường từ Thái Nguyên sang Tuyên Quang. Vào trung tuần tháng 5.1945, quân Nhật tiến từ ba mặt đánh sâu vào khu căn ứ ở giữa sông Lô và quốc lộ số 3. Một mặt chúng tiến đánh từ Bắc Kạn lên Chợ Rã, sang Chợ Đồn; mặt khác, chúng hành quân từ Vĩnh Yên, Thiện Kế lên Sơn Dương, rồi từ Tuyên Quang tiến vào để cùng nhau lên theo hướng Thanh La. Một cánh khác, từ Thái Nguyên, Phấn Mễ và Chợ Mới tiến đánh Chợ Chu.

Các cánh quân của Nhật tấn công khu giải phóng, song chủ yếu đánh vào Tân Trào nói riêng, Tuyên Quang nói chung nhưng chúng đã bị chặn đánh và bị thất bại. Nổi bật trong trận Đèo Chấn, gần Thanh La, chúng đã vấp phải sự kháng cự anh dũng của một tiểu đội Giải phóng quân, phối hợp với một trung đội dân quân, tất cả chỉ được trang bị vài khẩu súng trường, đã tiêu diệt 60 tên Nhật.

Ở Tân Trào, Bác Hồ làm việc rất khẩn trương, vì Người nhận định thời cơ cách mạng đã đến, phải chuẩn bị Tổng khởi nghĩa toàn quốc để giành chính quyền. Vào lúc bấy giờ, Bác bị sốt nóng, người gầy yếu, hốc hác hẳn, có lúc nói mê. Thuốc men trị bệnh chẳng có gì, ngoài mấy viên thuốc cảm và kí ninh, sau nhờ một ông lang người Tày dùng một thứ củ trong rừng, đốt cháy hòa vào cháo loãng và trị được cơn sốt. Trong lúc ốm, khi nào tỉnh, Bác cũng luôn căn dặn phải nắm lấy thời cơ và kiên quyết hành động để giành được chính quyền. Muốn có lực lượng, Bác căn dặn: “Lúc nào cũng phải chú trọng xây dựng chi bộ, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và phần tử trung kiên. Trong chiến tranh du kích lúc phong trào lên, ta phải hết sức phát triển, vừa phát triển vừa xây dựng căn cứ cho thật vững chắc, để đề phòng lúc khó khăn mới có chỗ đứng chân được”(1).

Trước tình hình phát xít Nhật đến ngày thất bại hoàn toàn, Bác Hồ, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh quyết định triệu tập cuộc hội nghị ở Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa khi quân Nhật đầu hàng.

Trong những ngày giữa tháng 8.1945 ở Tân Trào đã diễn ra Hội nghị toàn quốc của Đảng (14.8.1945) và Đại hội Quốc dân (16-17.8.1945) quyết định việc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Chiều 16.8.1945, một đơn vị Giải phóng quân làm lễ xuất phát tiến về Nam ở dưới cây đa Tân Trào. Nhân dân các dân tộc Tuyên Quang cùng nhiều đại biểu đến dự Quốc dân Đại hội đã tiễn bộ đội lên đường chiến đấu.

Ngay đêm 16.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Tuyên Quang được thành lập, thông qua kế hoạch giải phóng thị xã. Ngày 17.8.1945, lực lượng giải phóng thị xã bao gồm lực lượng vũ trang địa phương, đội tự vệ mỏ than và các xã lân cận đã nhanh chóng chiếm các vị trí quan trọng như trại bảo an binh, sở kiểm lâm, bưu điện, ngân hàng…

Đến ngày 21.8.1945, Tuyên Quang đã được giải phóng, song quân Nhật còn đóng ở thị xã chưa chịu nộp vũ khí. Quần chúng nhân dân lại đổ ra đường phố cùng lực lượng vũ trang bao vây, uy hiếp trại lính Nhật. Lực lượng địch ngoan cố chống cự, song đến ngày 24.8.1945 buộc phải đầu hàng. Thị xã Tuyên Quang được hoàn toàn giải phóng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập, đồng chí Nguyễn Công Bình được cử làm chủ tịch.

*

Cuộc Cách mạng tháng Tám ở Tuyên Quang nhanh chóng giành thắng lợi bởi những nguyên nhân cơ bản sau:

- Tình hình trong nước và địa phương có những thuận lợi cơ bản, cơ quan Trung ương đóng tại địa phương nên kịp thời chỉ thị cho Đảng bộ địa phương lãnh đạo nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần đúng thời cơ.

- Đảng bộ cơ sở chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương.

- Phong trào cách mạng đã phát triển mạnh ở các huyện, xã; quần chúng cách mạng ở tư thế sẵn sàng vùng dậy đấu tranh, tập hợp được đông đảo nhân dân các dân tộc, đoàn kết, chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Chính quyền địch ở địa phương khủng hoảng, suy yếu.


(*) Người viết: TS. Đỗ Hồng Thái, Trường Đại học Thái Nguyên.
(1) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 196.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2011, 10:07:01 am »

THÁI NGUYÊN(*)

Thái Nguyên là một tỉnh miền núi; phía tây giáp Tuyên Quang, phía đông giáp Lạng Sơn và Bắc Giang, phía bắc giáp Bắc Kạn, phía nam giáp Hà Nội và Vĩnh Phúc.

Trước 1945, Thái Nguyên có 1 thị xã, 7 huyện: Định Hóa, Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên. Ở đây có nhiều tộc người sinh sống, trong đó đông hơn cả là người Kinh, Tày, Nùng…

Trong quá trình vận động Cách mạng tháng Tám 1945, Thái Nguyên là một trong số những vùng quan trọng về quân sự và chính trị. Hai huyện Phổ Yên và Phú Bình là nơi đặt cơ quan Trung ương. Cả vùng Thái Nguyên thuộc khu căn cứ địa của cách mạng, sau trở thành khu giải phóng Việt Bắc (từ 4.6.1945) cùng với Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang. Nhiệm vụ cách mạng ở đây là: bảo vệ cơ quan lãnh đạo cách mạng cả nước, trừ Việt gian phản động, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa.

Từ sau hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11.1939) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương, Thái Nguyên thành lập các đội tự vệ ở các thôn xóm, mỗi đội có từ 16 đến 20 người. Các lớp huấn luyện quân sự được tổ chức tại Phú Bình, Võ Nhai, Phổ Yên… Những hoạt động cách mạng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: ở Đại Từ có các lò đúc vũ khí dưới hình thức là rèn nông cụ, ở Võ Nhai có các kho trữ gạo, muối, có nơi ẩn tránh an toàn cho cán bộ, chiến sĩ du kích khi bị địch truy lùng khủng bố. Ở hầu hết các xã đã có cơ sở cách mạng, lực lượng cách mạng, cảm tình cách mạng gồm các thành phần xã hội: công nhân các mỏ than (Phấn Mễ, Làng Cẩm), tá điền trong đồn điền của người Pháp (Yên thuận, Đại Từ), sư trụ trì của các chùa (chùa Mai Sơn - Phú Bình) và một số kì hào, lí dịch… Trong đó, các xã huyện ở Võ Nhai, Đồng Hỷ và ở phía nam Thái Nguyên có phong trào cách mạng mạnh mẽ hơn cả. Những hoạt động cách mạng ở đây có sự phối hợp kịp thời với các vùng Lạng Sơn, Bắc Giang, Hà Nội. Ở Phú Lương và Phổ Yên có các cơ sở in ấn, toàn soạn báo Cờ giải phóng sau là báo Bắc Sơn, báo Cứu quốc.

Tháng 9.1940, Nhật kéo vào Đông Dương. Ngày 22.9.1940, Nhật đánh Lạng Sơn, quân Pháp ở đây chạy dài. Nhân dân Bắc Sơn nổi dậy tước vũ khí của quân Pháp, giành chính quyền được một thời gian ngắn. Sự kiện này tác động đến tình hình ở Thái Nguyên. Sau khi đàn áp khởi nghĩa Bắc Sơn, lập lại chính quyền, quân Pháp câu kết với Nhật ra sức khủng bố nhân dân Bắc Sơn và cả vùng Võ Nhai, Phú Bình, Phổ Yên ở Thái Nguyên.

Sang năm 1941, đội du kích Bắc Sơn được thành lập, đã kết hợp với lực lượng du kích ở Tràn Xá, Võ Nhai tiếp tục mở rộng hoạt động ra các vùng khác ở cả Thái Nguyên và Lạng Sơn. Đội du kích Võ Nhai trở thành lực lượng vũ trang nòng cốt của Thái Nguyên và cả vùng căn cứ Việt Bắc.

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (28.1.1941), Mặt trận Việt Minh được thành lập (19.5.1941). Các “Hội cứu quốc” mà nòng cốt là “Cứu quốc quân” ở Thái Nguyên lần lượt ra đời và hoạt động với nhiều hình thức phong phú: đấu tranh với chính quyền Pháp, đưa yêu sách, truyền đơn, dương biểu ngữ, treo cờ đỏ búa liềm.

Thực dân Pháp đặc biệt chú ý đến Võ Nhai và đội du kích Võ Nhai. Chúng tiến hành khủng bố gắt gao, nhiều cán bộ, chiến sĩ bị bắt, bị sát hại; nhiều dân thường bị giết. Mọi hoạt động của dân làng bị kiểm soát trong các trại tuyên truyền Na Nheo và Tràng Xá, không được liên lạc với bên ngoài.

Nhưng Thái Nguyên cùng với Tuyên Quang, Lạng Sơn được chọn làm nơi tiến hành đấu tranh vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở chính trị quan trọng vào bậc nhất ở khu vực phía Bắc. Mọi hoạt động cách mạng ở đây có thể nhận được sự chỉ đạo kịp thời từ phía căn cứ địa cách mạng. Vùng này khá xa trung tâm cai trị của Pháp ở Hà Nội. Có sự phối hợp của lực lượng Việt Minh, các hoạt động của nhân dân đều khắp, cờ đỏ thường xuyên xuất hiện ở thị xã, huyện lị, các khu mỏ. Những đội du kích Võ Nhai sau một thời gian tạm lánh sang Cao Bằng, Trung Quốc để tránh sự khủng bố của địch cũng trở về Thái Nguyên để kịp thời nắm bắt và chỉ đạo các phong trào cách mạng.

Năm 1943, Ủy ban Việt Minh ở các tỉnh Cao - Bắc - Lạng phối hợp với đội du kích Bắc Sơn, Võ Nhai mở hướng phát triển lực lượng về xuôi. Tháng 5.1943, kế hoạch đánh Chợ Đồn, Chợ Rã (Bắc Kạn) của ta thắng lợi, liên lạc giữa Thái Nguyên với Bắc Kạn và Cao Bằng được nối liền. Tháng 9.1944, có 12 chiến sĩ cách mạng ở nhà tù Chợ Chu đã vượt ngục thành công, bổ sung vào đội ngũ cán bộ cách mạng nòng cốt. Tháng 11.1944, một cuộc khởi nghĩa lớn nổ ra ở Võ Nhai, sau chuyển thành hoạt động chiến tranh du kích để bảo toàn lực lượng.


(*) Người viết: - ThS. Trần Thị Hòa, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- TS. Đỗ Hồng Thái, Trường Đại học Thái Nguyên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2011, 10:09:40 am »

Chiến tranh du kích phát triển trên diện rộng. Sau khi đồn Chợ Chu bị hạ, đội Cứu quốc quân Thái Nguyên đánh lên Chiêm Hóa (Tuyên Quang), đánh sang Tam Đảo, Vĩnh Yên, Phú Thọ. Chính quyền nhân dân được thành lập trên một vùng rộng lớn.

Ngày 22.12.1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành lập. Đường liên lạc của cách mạng cả nước đã thông suốt từ Việt Bắc về xuôi. Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương được truyền đi nhanh chóng. Nhật tăng cường đưa quân lên căn cứ Việt Bắc của ta, bóc lột nhân dân nặng nề hơn trước làm cho nạn đói càng thêm trầm trọng ở vùng miền núi Thái Nguyên.

Thực hiện khẩu hiệu mà Trung ương Đảng đã nêu: “Đánh đuổi phát xít Nhật”, “thành lập chính quyền cách mạng”, nhiều xã thôn đã từ giành chính quyền bộ phận. Riêng ở Võ Nhai, nhân dân ở hai làng tập trung Na Pheo và Tràng Xá từ bỏ về làng cũ lập chính quyền nhân dân của mình.

Nhưng việc giành chính quyền ở các huyện lị, thị xã thì gặp khó khăn. Quân Nhật rất ngoan cố, có lực lượng đông, đóng ở nhiều đồn. Từ 4.6.1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập. Thái Nguyên là một trong số 6 tỉnh (cùng với Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang) thuộc khu này - khu căn cứ địa của cả nước. Bên cạnh còn có một số vùng như Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên… Quân Nhật và lực lượng và tay sai là lính lê dương, lính khố xanh cũng dựa được vào một số phần tử Đại Việt vẫn muốn tiêu diệt bằng được khu căn cứ Việt Bắc này. Khi bị đánh mạnh chúng ố thủ trong đồn, khi có thời cơ chúng lại đánh vào chiến khu. Vì vậy các lực lượng vũ trang, du kích ở Thái Nguyên phải chiến đấu quyết liệt với địch trong thế giằng co ở nhiều nơi. Nhân dân phải chịu nhiều tổn thất, thiệt hại.

Đến giữa tháng 4.1945, sau quá trình đấu tranh tích cực của nhân dân, du kích, các huyện Võ Nhai, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương đã thuộc quyền kiểm soát của lực lượng ta, ủy ban nhân dân cách mạng được thành lập. Sau đó, quân Nhật lại lần lượt chiếm lại các vùng này. Chúng tàn sát nhân dân, truy lùng cán bộ, chiến sĩ cách mạng. đánh vào các cơ sở cách mạng của ta, đòi ta phải “hợp tác” với chúng. Những cuộc chiến đấu gay go ác liệt với quân Nhật và tay sai vẫn tiếp diễn ở nhiều nơi: Đại Từ, Ký Phú, Cát Nê, Núi Hồng (Đại Từ); Chợ Chu, Khuôn Câm, Quán Vuông, Địch Mán, Phổ Ngữ, Na Mao… (Định Hóa); La Hiên, Đình Cả, Đèo Khế, Lịch Sơn, Sa Lung (Võ Nhai); Thác Nhái, Phúc Thuận, Sơn Cốt, đồn điền Chã… (Phổ Yên), Kha Sơn (Phú Bình).

Tháng 8.1945, quân Nhật ở Châu Á đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện. Bọn Nhật ở Đông Dương trở nên bất động, lực lượng tay sai cho Nhật cũng trở nên hoang mang. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát lệnh Tổng khởi nghĩa với tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.

Quân Nhật ở Thái Nguyên bắt đầu chuyển sang cố thủ hoàn toàn. Kết hợp với lực lượng Giải phóng quân, các tầng lớp nông dân, công nhân, trí thức, du kích quân tích cực đấu tranh, bao vây đồn địch.

Ngày 17.8, vùng mở Làng Cẩm giành được quyền làm chủ. Chiều ngày 18.8, một cuộc diễu binh, tuần hành lớn từ các ngả đường kéo về sân vận động thị xã, tuyên bố ủng hộ Giải phóng quân, đánh bại quân Nhật. Quân Nhật không dám chống lại.

13 giờ ngày 19.8.1945, 3 đại đội Giải phóng quân đã có mặt ở làng Thịnh Đán (ngay thuộc phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên). Lực lượng quân giải phóng vào khoảng 450 người, được tổ chức thành một chi đội do đồng chí Lâm Cẩm Như (tức Lâm Kính) làm chi đội trưởng(1). Bộ chỉ huy trận đánh gồm hai đồng chí Võ Nguyên Giáp và Trần Đăng Ninh.

Quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên có khoảng 120 tên, trong đó có từ 60 đến 70 tên đóng tại trại lính khố xanh cũ và dinh Công sứ Pháp trên đồi cao, có công sự kiên cố. Số còn lại đóng ở các điểm lẻ trong những ngôi nhà gạch lớn, kiên cố, như nhà Gôchiê, Ti liêm phóng, kho gạo và đồn điền Gia Sàng. Ngoài ra, khoảng hơn 400 lính bảo an, với hơn một trăm lính cơ, cảnh sát, đóng ở trại lính tây cũ, bảo vệ dinh Tỉnh trưởng, Huyện trưởng Đồng Hỷ.

Hai giờ chiều ngày 19.8.1945, một cuộc mít tinh quần chúng tập hợp hơn năm ngàn người trong thị xã và các xã lân cận của Đồng Hỷ, diễn ra tại sân vận động thị xã. Tiếp đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình biểu dương lực lượng, đi đầu là đội vũ trang tuyên truyền. Đồng bào hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo phát xít Nhật”, “đả đảo bọn bù nhìn tay sai”, “ủng hộ Việt Minh”. Đoàn biểu tình rầm rộ kéo qua các phố, một số trí thức, quan lại cũng tham gia. Quân Nhật trong thị xã “án binh bất động”. Cuộc biểu dương lực lượng kết thúc vào khoảng 17 giờ. Ngay sau đó đội tự vệ trừ gian thị xã truy bắt gần 40 tên tay sai thân Nhật và xử bắn bên vệ sĩ của Cung Đình Vận.

Các đoàn thể quần chúng, nhất là Hộ Phụ nữ Cứu quốc, Hội thanh niên Cứu quốc tích cực chuẩn bị cơ sở hậu cần để đón Quân Giải phóng.


(1)   Đồng chí Lâm Kính là cháu đích tôn cụ Nguyễn Thượng Hiền.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2011, 10:11:02 am »

Tối ngày 19.8.1945, Bộ chỉ huy Quân giải phóng họp chung với cán bộ lãnh đạo tỉnh để thống nhất lực lượng và kế hoạch hoạt động chung “khởi nghĩa giải phóng thị xã Thái Nguyên”. Ban Tỉnh ủy lâm thời Thái Nguyên được thành lập, gồm các đồng chí Nhị Quý, Trung Đình, Hoàng Thế thiện, Đào An Thái, Nguyễn Thị Tân.

Vào 22 giờ ngày 19.8 Bộ chỉ huy bàn xong kế hoạch tác chiến, 24 giờ (cùng ngày) bộ đội được lệnh xuất quân, chiếm lĩnh các vị trí chiến đấu; 4 giờ 30 phút ngày 20.8, các trận địa bố trí xong và sẵn sàng chiến đấu.

Sở chỉ huy đặt tại đình Hàng Phố. Trong khi Quân Giải phóng bao vây quân Nhật thì đại đội tự vệ Phú Bình đã đánh chiếm đồn điền Gia Sàng và tiến vào thị xã.

Lúc 5 giờ 30 phút ngày 20.8.1945, Bộ chỉ huy Quân Giải phóng gửi tối hậu thư cho Tỉnh trưởng Bùi Huy Lượng, nhưng y chần chừ không trả lời.

Trung đội trưởng Lương Thịnh dẫn đầu một trung đội Giải phóng quân tấn công vào dinh Tỉnh trưởng, bắt Bùi Huy Lượng, tên chỉ huy lính bảo an và toàn bộ trung đội bảo vệ. Bùi Huy Lượng buộc phải trao chính quyền cho Ủy ban khởi nghĩa; chỉ huy bảo an binh cũng ra lệnh cho tất cả binh lính đầu hàng, nộp toàn bộ vũ khí cho Quân Giải phóng (gần 600 súng trường, một số súng máy và đạn dược). Trong hơn 400 lính bảo an, khoảng 60 binh sĩ tự nguyện tham gia Quân Giải phóng. Phần lớn số còn lại xin về quê; họ được cấp tiền ăn và giấy đi đường.

Đánh chiếm xong trại lính bảo an, Quân Giải phóng tập trung lực lượng tiến công quân Nhật trong trại lính khố xanh. Đúng 7 giờ 30 phút, Quân Giải phóng nhất loạt nổ súng vào cứ điểm của địch. Nhiều lính Nhật trong trại bị bắn chết. Cuộc đọ súng quyết liệt giữa ta và quân Nhật kéo dài trong 30 phút. Ta ngừng bắn để thương lượng. Cuộc đàm phán kéo dài hơn một giờ. Phía Nhật viện cớ là sẽ phải nộp vũ khí cho quân Đồng minh, không muốn giao cho ta, âm mưu của chúng là kéo dài thời gian để chờ viện binh từ Hà Nội lên.

Bộ chỉ huy Quân giải phóng đặt điều kiện cho phía Nhật nếu đến 2 giờ chiều không trả lời dứt khoát sẽ bị tấn công. Đề phòng quân Nhật tráo trở, sở chỉ huy được chuyển ngay về Nhà Đèn thị xã. Bọn Nhật không chấp hành tối hậu thư. 2 giờ chiều quân ta nổ súng đánh Nhật trong trại lính khố xanh,tiêu diệt 3 ổ đề kháng của địch ở Ti liêm phóng, kho gạo và nhà Gôchiê, diệt nhiều tên, thu toàn bộ vũ khí. Quân Nhật hoàn toàn bị vây hãm trong trại.

Ngay chiều 20.8.1945, một cuộc mít tinh quần chúng được tổ chức tại sân vận động thị xã. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, thay mặt Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, tuyên bố xóa bỏ chính quyền của Nhật và tay sai, thành lập chính quyền nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên, thực hiện các chính sách của Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời do đồng chí Lê Trung Đình làm Chủ tịch, ra mắt quần chúng nhân dân, đánh dấu sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên.

Ngày 23.8.1945, hội nghị lãnh đạo tỉnh họp quyết định thành phần Ủy ban nhân dân tỉnh gồm có đồng chí Lê Trung Đình làm Chủ tịch, các đồng chí Ma Đình Tương, Đặng Đức Thái, Phạm Đình Huệ làm Phó Chủ tịch; các đồng chí Lương Đình Oánh, Hoàng Thế Thiện, Chu Quốc Hưng, Lê Phương, Phạm Hoài, Trường Sơn làm ủy viên.

Ngày 28.8.1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở sân vận động thị xã; hàng vạn nhân dân các huyện trong tỉnh về dự lễ ra mắt chính thức Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh.

Sau khi chính quyền tỉnh được thành lập, Quân Giải phóng tiếp tục bao vây quân Nhật. Các đoàn thể cứu quốc thị xã vừa mới được tổ chức, bắt tay ngay vào hoạt động củng cố chính quyền cách mạng và xây dựng cuộc sống mới.

Tối ngày 22.8.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào về đến thị xã Thái Nguyên, gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo tỉnh và căn dặn những việc cần làm của chính quyền cách mạng non trẻ.

Bị quân và dân thị xã siết chặt vòng vây và tiến công, quân Nhật không có lương ăn và thiếu nước uống nên ngày 24.8.1945, phải chấp nhận một số điều kiện: giao nộp vũ khí ở các đồn lẻ Hùng Sơn (Đại Từ), La Hiên (Võ Nhai), trừ số vũ khí ở thị xã chờ xin lệnh cấp trên, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân ta.

Ngày 25.8.1945, Tổng khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi trong cả tinh. Phái viên Bộ Tư lệnh Nhật cùng phái viên Bộ tham mưu của ta ở Hà Nội lên Thái Nguyên để giải quyết, quân Nhật chịu chấp nhận các điều kiện, giao nộp vũ khí cho Quân Giải phóng, còn binh lính thì được ta phụ trách đưa về Hà Nội. Tỉnh Thái Nguyên đã hoàn toàn được giải phóng.

*

Chế độ thực dân thống trị trong gần 80 năm và chế độ quân chủ hàng ngàn năm đã bị nhân dân Thái Nguyên cùng đồng bào cả nước xóa bỏ. Một kỉ nguyên mới bắt đầu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2011, 10:14:51 am »

SƠN LA(*)

Sơn La là một tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Tây Bắc Bắc Bộ, nơi có nhiều đồng bào các dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó đồng bào Thái chiếm đa số. Sơn La có một vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.

Năm 1930, thực dân Pháp cho mở rộng nhà tù Sơn La(1) gấp ba lần và đổi tên thành ngục Sơn La để chứa tù chính trị từ dưới xuôi lên đây giam giữ. Chúng âm mưu tách rời các chiến sĩ cách mạng với nhân dân và phong trào cách mạng, lợi dụng sự bất đồng về ngôn ngữ giữa nhân dân các dân tộc với các chiến sĩ cách mạng và thời tiết khắc nghiệt của vùng rừng núi Tây Bắc để giết dần giết mòn và làm nhụt ý chí của các chiến sĩ cách mạng. Nhưng chính nhà tù này đã trở thành cái nôi của phong trào cách mạng Sơn La, nơi ra đời chi bộ cộng sản đầu tiên ở Sơn La (12.1939), với vai trò lãnh đạo và chỉ đạo phong trào cách mạng của địa phương như một Đảng bộ.

Từ sau khi ra đời, cùng với rất nhiều các hoạt động khác, chi bộ nhà ngục Sơn La đặc biệt chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ, vận động đồng bào và xây dựng các tổ chức quần chúng cách mạng ở địa phương. Đến đầu năm 1943, chi bộ đã bí mật thành lập hai tổ chức Thanh niên cứu quốc ở tỉnh lị và châu Mường La. Đây là tổ chức cách mạng đầu tiên ở Sơn La do các chiến sĩ cộng sản trong nhà ngục Sơn La gây dựng nên với nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, xây dựng và phát triển tổ chức cách mạng ở địa phương, đặc biệt trong thanh niên Thái.

Dưới sự dìu dắt, lãnh đạo của chi bộ và các chiến sĩ cách mạng trong nhà ngục Sơn La, hai tổ Thanh niên cứu quốc này đã hoạt động tích cực, có hiệu quả và phát huy ảnh hưởng rộng lớn trong quần chúng nhân dân, mở rộng địa bàn hoạt động sang xã Mường Chanh (châu Mai Sơn).

Sự kiện Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương (9.3.1945) đã tạo điều kiện cho toàn bộ tù nhân ở nhà ngục Sơn La được thoát ngục, trở lại hoạt động và bổ sung một nguồn cán bộ lớn cho Đảng. Đồng chí Lê Trung Toản sau khi thoát ngục được Xứ ủy điều ngay trở lại Sơn La để chỉ đạo phong trào cách mạng của tỉnh. Phong trào cách mạng Sơn La đã phát triển nhanh chóng, toàn tỉnh có trên 60 cơ sở cách mạng. Ở hầu khắp các châu như Mường La, Mai Sơn, Thuận Châu, yên Châu và tỉnh lị đều thành lập các Hội thanh niên cứu quốc. Châu Phù Yên vừa chịu ảnh hưởng của phong trào cách mạng từ chiến khu Vần - Hiền Lương (thuộc hai tỉnh Yên Bái - Phú Thọ) vừa được các cán bộ Việt Minh của Kỳ bộ đến đây tuyên truyền, giác ngộ, xây dựng cơ sở cách mạng nên đã thành lập được hai tổ chức là Hộ thanh niên yêu nước Phù yên và Hội thanh niên cứu quốc Vạn Yên cùng một đội vũ trang tự vệ. Riêng xã Mường Chanh của châu Mai Sơn được xây dựng thành căn cứ địa cách mạng của cả tỉnh với cả 8 bản đều có cơ sở cách mạng, thành lập được trung đội du kích vũ trang Mường Chanh và Hội người Thái cứu quốc.

Cả tỉnh Sơn La lúc này duy chỉ còn Mộc Châu là chưa xây dựng được cơ sơ cách mạng, do vị trí cách xa tỉnh lị, lại là cửa ngõ của tỉnh Sơn La nên bị thực dân Pháp, sau là phát xít Nhật biến thành tấm bình phong ngăn cách phong trào cách mạng ở tỉnh với các tỉnh lân cận. Mặc dù có chịu ảnh hưởng ít nhiều phong trào cách mạng tỉnh Hòa Bình, song do ở Mộc Châu tổ chức Đại Việt quốc gia liên minh(2) hoạt động ráo riết nên phong trào cách mạng không phát triển được.

Như vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, phong trào cách mạng ở Sơn La đã phát triển rộng khắp; công tác xây dựng lực lượng chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa đã tương đối hoàn tất. Căn cứ địa Mường Chanh đã được xây dựng vững chắc, quần chúng nhân dân được tập hợp đông đảo dưới ngọn cờ của Việt Minh, các Hội thanh niên cứu quốc, Hội thanh niên yêu nước, Hội người Thái cứu quốc… đã phát huy vai trò và ảnh hưởng to lớn, xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, giác ngộ được nhiều chức dịch của địa phương. Các đôi vũ trang và tự vệ chiến đấu được thành lập ở hầu hết các châu, tích cực luyện tập quân sự và cùng nhân dân thu nhặt, sắm sửa, chế tạo vũ khí.

Trước khí thế của phong trào cách mạng trong toàn tỉnh lên cao, đồng chí Lê Trung Toản và các đồng chí lãnh đạo địa phương quyết định khởi nghĩa giành chính quyền ở Mường Chanh, hình thành khu giải phóng, sau đó phối hợp với các cơ sở cách mạng tiến hành khởi nghĩa ở các châu Mai Sơn, Thuận Châu, thành lập khu du kích rộng lớn để tạo điều kiện khi thời cơ đến sẽ phát động Tổng khởi nghĩa trong toàn tỉnh.


(*) Người viết: Ths. Phạm Thị Tuyết, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Nhà tù Sơn La được thực dân Pháp xây dựng từ năm 1908 trên đồi Khau Cá để giam giữ tù thường phạm và những người chống đối lại “Nhà nước bảo hộ” Pháp.
(2) Đại Việt quốc gia liên minh là một tổ chức thân Nhật và do Nhật dựng lên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2011, 10:15:52 am »

Kế hoạch đang được xúc tiến thì đồng chí Lê Trung Toản bị lộ phải trở về Trung ương. Hai đồng chí Cầm Minh và Chu Văn Thịnh được cử về Trung ương xin chỉ thị. Về tới Hòa Bình, hai đồng chí được bố trí tham gia lớp huấn luyện “Trường Sơn du kích kháng Nhật” tại chiến khu Quang Trung. Đến ngày 18.8.1945, khi lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương và Xứ ủy về tới chiến khu Quang Trung, hai đồng chí lập tức trở lại Sơn La để lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền.

Nhưng ngay từ trước đó, tại một số nơi ở Sơn La các đồng chí lãnh đạo ở địa phương đã chủ động phát động nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.

Tại châu Phù Yên, trước khí thế khởi nghĩa ở các vùng lân cận, trong hai ngày 22 và 23.7.1945, được sự hỗ trợ của chi đội Giải phóng quân chiến khu Vần - Hiền Lương, các lực lượng tại chỗ đã phối hợp với quần chúng nhân dân địa phương nổi dậy khởi nghĩa tạo thành khí thế cách mạng sục sôi, gây áp lức với chính quyền địch và lực lượng binh lính, buộc chúng phải nhanh chóng đầu hàng. Ngày 23.7.1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở châu Phù Yên hoàn toàn thắng lợi. Đây là châu đầu tiên của tỉnh Sơn La giành được chính quyền. Chính quyền cách mạng lâm thời được thành lập.

Tại xã Mường Chanh, mặc dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương và Xứ ủy, nhưng các đồng chí lãnh đạo ở địa phương đã quyết định phát động nhân dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 19.8.1945, lực lượng khởi nghĩa bao gồm trung đội du kích Mường Chanh và đông đảo quần chúng nhân dân kéo đến bao vây nhà chánh phìa Cầm Văn Mở. Chánh phìa đi vắng, nhưng trước áp lực của lực lượng khởi nghĩa, ông pằn Cầm Văn Bao đã đầu hàng, trao ấn tín và tài liệu cho cách mạng. Khởi nghĩa ở Mường Chanh giành thắng lợi, chính quyền cách mạng lâm thời được thành lập.

Hai đồng chí Cầm Minh và Chu Văn Thịnh lên tới Sơn La thì được tin Mường Chanh đã khởi nghĩa giành thắng lợi. Đồng chí Cầm Minh được cử về Mường Chanh chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở châu lị Mai Sơn, Yên Châu để phối hợp giải phóng tỉnh lị. Đồng chí Chu Văn Thịnh lên tỉnh lị triệu tập cuộc họp Ban lãnh đạo khởi nghĩa (tối 21.8.1945) để bàn định khởi nghĩa khởi nghĩa trong toàn tỉnh.

Từ ngày 22 đến ngày 26.8.1945, khởi nghĩa đã diễn ra ở hầu hết các địa phương còn lại của tỉnh Sơn La, với lực lượng nòng cốt là các đội vũ trang cùng đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh.

Tại châu Mường La, đêm 26.8.1945, lực lượng vũ trang được trang bị vũ khí cùng đông đảo quần chúng nhân dân kéo đến bao vây nhà tri châu Bế Văn Điềm buộc phải đầu hàng, trao nộp ấn tín và ra lệnh giải tán binh lính. Chính quyền cũ bị xóa bỏ, nhưng chính quyền cách mạng ở châu Mường La chưa được thành lập, lực lượng cách mạng tạm thời giao quyền quản lí hành chính cho Bế Văn Điềm. Cũng ngay trong đêm 22.8, quân khởi nghĩa đã bao vây và đột nhập vào nhà riêng của tỉnh trưởng Cầm Ngọc Phương buộc y phải đầu hàng, ra lệnh giải tán lính khố xanh và giao nộp vũ khí cho cách mạng. Khởi nghĩa ở châu Mường La hoàn toàn thắng lợi.

Tại Thuận Châu, một đội quân gồm 20 chiến sĩ được trang bị súng đạn từ Mường La kéo lên Thuận Châu, trên đường đi đã phối hợp với lực lượng khởi nghĩa của bản Lầm và bản Tranh Đấu cùng tiến về châu lị Thuận Châu, kêu gọi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Khoảng 2 giờ sáng ngày 23.8.1945, quân khởi nghĩa đã bao vây châu đường buộc bọn tri châu Bạc Cầm Quý đầu hàng, trao nộp ấn tín và giải tán binh lính. Ủy ban cách mạng lâm thời châu Thuận Châu được thành lập, cử Bạc Cầm Quý làm chủ tịch.

Tại Châu Mai Sơn, sau khi khởi nghĩa ở Mường Chanh giành được thắng lợi, ngày 22.8.1945, đội vũ trang khởi nghĩa ở Mường Chanh cùng đông đảo quần chúng nhân dân phối hợp với đội thanh niên vũ trang Yên Châu đang huấn luyện tại đó kéo đến bao vây châu đường buộc tri châu Cầm Văn Chiêu phải đầu hàng, trao nộp ấn tín, giải tán binh lính và nộp hết vũ khí đạn dược cho cách mạng. Ủy ban lâm thời châu Mai Sơn được thành lập do ông Cầm Văn Minh làm chủ tịch.

Tại Yên Châu, ngày 23.8.1945, sau khi khởi nghĩa giành được chính quyền ở châu lị Mai Sơn, đội thanh niên vũ trang Yên Châu và một bộ phận lực lượng vũ trang Mường Chanh do Hoàng Luông và Hoàng Sáy chỉ huy đã kéo xuống Yên Châu. Đến Chiềng Đông, quân khởi nghĩa đã bao vây nhà tên phìa Cầm Văn Keo buộc phải đầu hàng, giao nộp vũ khí. Sáng ngày 24.8.1945, quân khởi nghĩa tiếp tục kéo xuống châu lị, bao vây châu đường, trại lính cơ và nhà riêng tri châu Bạc Cầm Huy buộc phải đầu hàng, trao nộp ấn tín, vũ khí, giải tán binh lính. Chính quyền cũ bị xóa bỏ, nhưng chính quyền cách mạng Yên Châu chưa được thành lập mà tạm thời giao cho Hoàng Luông phụ trách.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2011, 10:17:01 am »

Tại tỉnh lị Sơn La, mặc dù tỉnh trưởng Cầm Ngọc Phương đã đầu hàng, trao nộp ấn tín cho cách mạng, nhưng trên đồi Khau Cả, tại các tòa Chánh sứ và Giám binh một đại đội quân Nhật và một đại đội lính bảo an còn chốt giữ, chúng vẫn làm chủ tỉnh lị. Lúc đầu lực lượng khởi nghĩa thực hiện chủ trương thương thuyết với quân Nhật, buộc chúng phải đầu hàng, giao nộp vũ khí và rút khỏi Sơn La, nhưng chúng không nghe. Ngày 23.8.1945, sau khi giành được chính quyền ở Mường La và Mai Sơn, lực lượng khởi nghĩa của hai châu phối hợp tiến về tỉnh lị bao vây đồi Khau Cả, các ngả đường và một số mục tiêu quan trọng. Trước sức mạnh của quân khởi nghĩa và áp lực của cách mạng, ngày 25.8.1945, ông Lò Văn Mười, Trưởng trại bảo an binh, đã được ta cảm hóa từ trước, mở cửa trại xin hàng, giải tán binh lính và giao nộp vũ khí. Trước tình thế đó, quân Nhật cũng phải chấp nhận đầu hàng, nộp vũ khí và ngay đêm đó rút về Hà Nội. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Sơn La về cơ bản đã hoàn toàn thắng lợi.

Ngày 26.8.1945, một cuộc mít tinh long trọng do Việt Minh tổ chức được tiến hành trên đồi Khau Cả với sự tham gia của hàng ngàn quần chúng nhân dân. Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập cùng Ban cán sự Việt Minh tỉnh đã ra mắt đồng bào.

Tại Mộc Châu, tin khởi nghĩa thắng lợi ở miền xuôi và trong tỉnh dồn dập bay về làm cho Mộc Châu sôi động. Tầng lớp thống trị ở địa phương hoang mang lo sợ. Lợi dụng lúc giao thời, tổ chức Đại Việt quốc gia liên minh giả danh Việt Minh kéo đến bao vây nhà bố chánh Sa Văn Minh định cướp chính quyền. Nhận rõ bản chất của bọn này, lại có lực lượng vũ trang rất mạnh trong tay nên Sa Văn Minh kiên quyết không đầu hàng. Đến đầu tháng 9.1945, khi lực lượng quân khởi nghĩa, do Đinh Công Đốc chỉ huy, từ Hòa Bình lên tới Mộc Châu, âm mưu giả danh Việt Minh bị bại lộ, lại đang ở thế yếu nên bọn Đại Việt đã quy hàng, giải tán lực lượng. Đinh Công Đốc do có quan hệ thông gia nên được Sa Văn Minh đón tiếp tử tế. Sau đó quân khởi nghĩa của Đinh Công Đốc được lệnh rút về Hòa Bình nhận nhiệm vụ mới, nên ở Mộc Châu bố chánh Sa Văn Minh vẫn nắm chính quyền cai tri, chính quyền cách mạng chưa được thành lập.

Sau khi Cách mạng tháng Tám đã thành công trong cả nước, ngày 28.9.1945, đoàn cán bộ của Tổng bộ Việt Minh lên tới Mộc đã thuyết phục được Sa Văn Minh đầu hàng, giải tán chính quyền cũ và đi theo cách mạng. Đầu tháng 10.1945, Ủy ban cách mạng lâm thời Mộc Châu được thành lập. Đến đây Cách mạng tháng Tám ở Sơn La đã thắng lợi hoàn toàn.

*

Mặc dù đến đầu năm 1943 ở Sơn La mới ra đời tổ chức cách mạng đầu tiên do chi bộ nhà tù Sơn La thành lập, trước cách mạng tháng Tám 1945 Sơn La cũng chưa có một tổ chức cơ sơ Đảng nào của địa phương, nhưng phong trào cách mạng ở Sơn La phát triển rất nhanh chóng và không kém phần sôi nổi. Dưới sự tổ chức, lãnh đạo của chi bộ nhà tù Sơn La và một số phái viên của Trung ương, phong trào cách mạng ở Sơn La đã từng bước được xây dựng và trưởng thành. Các tổ chức quần chúng cách mạng và nhân dân các dân tộc Sơn La đã tích cực xây dựng lực lượng, đẩy mạnh phong trào, chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết cho khởi nghĩa giành chính quyền theo đúng chủ trương, đường lối chỉ đạo chiến lược của Đảng.

Vai trò của các cán bộ lãnh đạo địa phương được thể hiện khá rõ nét trong suốt quá trình vận động cách mạng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Sơn La. Các đồng chí đã quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ trương của Đảng trong việc xây dựng và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng ở nông thôn một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc, tích cực chuẩn bị lực lượng, chủ động, sáng tạo chớp thời cơ phát động nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Không những tuyên truyền, vận động, giác ngộc cách mạng cho đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thành lập những tổ chức đoàn thể quần chúng và mặt trận, tổ chức những hình thức đấu tranh phù hợp với tình hình của địa phương mà các cơ sở cách mạng còn triệt để vận động, cảm hóa được một bộ phận thuộc tầng lớp trên của xã hội cũ.

Cách mạng tháng Tám ở Sơn La diễn ra dưới hình thức từ khởi nghĩa từng phần (ở Phù Yên, Mường Chanh) tiến lên Tổng khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Điểm nổi bật của khởi nghĩa ở Sơn La là sự kết hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị với thuyết phục và tranh thủ, trong đó đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang đóng vai trò chủ yếu, sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp kẻ thù nhưng lại ít gây đổ máu.

Cũng do điều kiện địa lí, lịch sử và một số điều kiện chủ quan, khách quan lúc bấy giờ nên quá trình vận động cách mạng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Sơn La diễn ra không đồng đều giữa các địa phương. Có những nơi phong trào cách mạng phát triển rất mạnh (tỉnh lị, Mường La, Mai Sơn, Phù Yên) nhưng lại có những nơi phong trào cách mạng chưa phát triển được (Mộc Châu). Đa số các châu trong tỉnh Sơn La đều chịu ảnh hưởng của trung tâm phong trào cách mạng là tỉnh lị, nhưng một số nơi khác lại chịu ảnh hưởng của phong trào cách mạng các tỉnh lân cận (Phù Yên, Mộc Châu). Khởi nghĩa giành chính quyền ở Sơn La đã diễn ra thắng lợi ở tỉnh lị và hầu hết các châu, duy chỉ còn Mộc Châu chưa giành được chính quyền về tay nhân dân. Có những nơi khi khởi nghĩa giành thắng lợi đã xóa bỏ chính quyền cũ, thành lập được chính quyền cách mạng (Phù Yên, Thuận Châu, Mai Sơn, tỉnh lị), cũng có nơi chính quyền cũ đã bị xóa bỏ nhưng chính quyền mới chưa được thành lập (Mường La, Yên Châu). Có những nơi chính quyền mới được thành lập nhưng lại giao cho các chức dịch cũ của địa phương quản lí (Mường La, Thuận Châu). Đây là một nét đặc thù và cũng là một trong những hạn chế của Cách mạng tháng Tám ở Sơn La.

Mặc dù còn những hạn chế nhất định nhưng Cách mạng tháng Tám ở Sơn La thành công đã mang lại ý nghĩa lịch sử sâu sắc và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, góp phần cùng các địa phương trong cả nước làm nên thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Chín, 2011, 09:40:48 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM