Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:37:34 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh  (Đọc 173877 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 08:49:48 am »

Trong bối cảnh lịch sử chung của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Châu Á, Đông Nam Á nói riêng, với thời cơ thuận lợi giống nhau, Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam nổ ra đúng lúc, kịp thời cơ và thắng lợi triệt để. Do đó, ảnh hưởng của cuộc cách mạng này sâu rộng ở trong nước cũng như trên trường quốc tế. Thomass Hodgkin đã đánh giá: “Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam là một sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng tháng Mười Na. Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời trong mười lăm năm. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế độ thuộc địa. Nó đã nổ ra trong một thời điểm lịch sử kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai… Như vậy, cuộc Cách mạng tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kì mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”(1).

Đúng như vậy, Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam nổ ra sau Cách mạng tháng Mười Nga gần 30 năm là sự nối tiếp hợp quy luật trong thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội của loài người. Theo con đường cách mạng Nga, nhân dân Việt Nam đã rút ra bài học “thành công và thành công đến nơi” của cuộc cách mạng này - cuộc cách mạng lấy “dân là gốc”, có “Đảng vững bền” - đã “phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất"(2) để đấu tranh một cách sáng tạo, dũng cảm, chứ không phải làm theo một cách máy móc. Chúng ta đi theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng không vận dụng rập khuôn, giáo điều, vì “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như phương Tây”(3). Vì vậy, Cách mạng tháng Tám không thực hiện ngay nhiệm vụ cách mạng vô sản như trong Cách mạng tháng Mười Nga hoặc cần phải tiến hành ở các nước tư bản phát triển, mà nó lần lượt thực hiện các nhiệm vụ chiến lược: giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Các nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện tư tưởng về con đường cách mạng không ngừng, nhằm đạt tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, song, ở mỗi thời kì cách mạng Việt Nam phải hoàn thành nhiệm vụ chủ yếu của mình.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 là thắng lợi của đường lối đúng đắn về việc giải quyết hợp lí, có kết quả vấn đề dân tộcgiai cấp.

Đối với chúng ta, đi theo con đường cách mạng vô sản là nguyên tắc bất di bất dịch, nhưng trong chỉ đạo chiến lược có lúc phải tập trung giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, và như vậy cũng nhằm góp phần giải quyết nhiệm vụ giai cấp. Bởi vì “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi hỏi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(4). Qua thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã nâng quan điểm trên thành nguyên lí của thời đại: Không có gì quý hơn độc lập, tự do!

Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, thành công củ Cách mạng tháng Tám 1945 nói riêng và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nói chung xác nhận con đường cứu nước theo cách mạng vô sản là đúng đắn. Nó đảm bảo cho việc giành được độc lập hoàn toàn và triệt để, gắn liền với giữ vững chủ quyền quốc gia về nội trị cũng như ngoại giao, sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, không bị chia cắt và làm cơ sở cho việc xây dựng cuộc sống hạnh phúc, ấm no, tự do cho nhân dân. Bời vì “… nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”(5). Do đó, con đường cứu nước của nhân dân Việt Nam, dẫn tới thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, không chỉ là con đường riêng, là thắng lợi riêng của nhân dân Việt Nam. Các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, dù đi theo con đường mà mình lựa chọn vẫn không thể không thừa nhận ý nghĩa quốc tế và ảnh hưởng to lớn của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đối với việc giành thắng lợi ở những mức độ và hình thức khác nhau của nhiều dân tộc. Điều này cũng tương tự như ý nghĩa, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đối với sự phát triển của lịch sử thế giới: “Tấm gương Nga đã chỉ ra cho tất cả nước thấy một cái gì hoàn toàn căn bản về tương lai tất yếu và gần đây của họ”(6). Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên giành được thắng lợi ở Đông Nam Á, mà còn là một sự khích lệ, cổ vũ cho tất cả dân tộc bị áp bức về mặt tinh thần, tư tưởng. Nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc tin tưởng vững chắc vào khả năng của ban thân mình có thể đấu tranh giành độc lập, tự do và xây dựng đất nước.

Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ mở ra một thời đại mới trong lịch sử Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - mà còn đánh dấu kỉ nguyên độc lập, chủ quyền của các dân tộc, vốn bị áp bức dưới chế độ thực dân cũ và mới.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, tiếp đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đã góp phần to lớn vào quá trình phi thực dân hóa, góp phần vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước ở nhiều nước khác. Quá trình các nước giành độc lập, xây dựng đất nước diễn ra theo những con đường khác nhau, đạt đến những kết quả khác nhau, song vẫn có điểm gặp nhau ở chỗ độc lập và phồn vinh và ít nhiều tác động, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Tám. Càng phát triển về tương lai, nhìn lại quá khứ, suy nghĩ về thắng lợi của Cách mạng tháng tám, cách mạng Việt Nam nói chung, chúng ta càng thấy rõ tầm vóc của nó.


(1) Thomas Hogdkin: Cách mạng Việt Nam và một vài bài học, trích theo quyển Thế giới bàn về Việt Nam, tập 2, Viện Thông tin Lhoa học xã hội, Hà Nội, 1976. tr. 224.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 280.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, sđd, tr. 464.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 113.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, sđd, tr. 56.
(6) V. I. Lênin: Toàn tập, tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr. 4.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 08:53:40 am »

Nguyên nhân thắng lợi và tầm vóc lịch sử của Cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của những nhân tố khác quan và chủ quan.

Về khách quan:

- Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai làm cho chủ nghĩa đế quốc suy yếu. Đế quốc Pháp thống trị nước ta bị Đức chiếm đóng. Bọn thực dân ở Đông Dương bị Nhật đảo chính truất quyền cai trị.

- Khi Liên Xô tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc, những thắng lợi của Hồng quân Liên Xô tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức đã cổ vũ tinh thần nhân dân trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

- Cuộc đấu tranh chống phát xít của Đồng minh, của lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới, của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và Mĩ latinh, đặc biệt chiến thắng của Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đạo quân Quan Đông của Nhật buộc Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, tạo thời cơ khách quan thuận lợi cho nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền.

- Con đường Cách mạng tháng Tám phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người trong thời đại mới, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc

Về chủ quan:

- Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, đã trải qua hàng ngàn năm, đấu tranh dựng nước và giữ nước, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu truyền từ đời này sang đời khác. Nhân dân ta đã kế thừa và phát huy truyền thống quý báu đó. Đặc biệt từ khi có Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhân dân ta đoàn kết một lòng, không quản hi sinh, gian khổ, đứng lên cứu nước, cứu nhà.

- Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đề ra đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, theo nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

- Cách mạng tháng Tám diễn ra trong khoảng 15 ngày, nhưng sự chuẩn bị liên tục của Đảng trong suốt 15 năm, trải qua các phong trào cách mạng: 1930-1931, 1936-1939, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm cho Cách mạng tháng Tám. Nhất là sự chuẩn bị chu đáo, toàn diện của Đảng cho cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến năm 1945: chuẩn bị về đường lối, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng…

- Sự chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo, chủ động của Đảng, Hồ Chí Minh, các cấp bộ Đảng và Việt Minh trong Tổng khởi nghĩa: Xác định thời cơ phát động khởi nghĩa, sử dụng hình thức đấu tranh thích hợp, sử dụng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp lực lượng Trung ương với địa phương, chỉ đạo khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.

“Cách mạng tháng Tám thành công căn bản do lực lượng chính trị của nhân dân đã kịp thời nắm lấy cơ hội thuận tiện nhất, hội nghị giành chính quyền nhà nước. Nhưng nếu Đảng ta trước đó không xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập những khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị, và khi có điều kiện đã chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng không thể mau chóng giành được thắng lợi”(1).

Ý nghĩa lịch sử (trong nước và quốc tế của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam là vô cùng to lớn và ảnh hưởng của nó ngày một sâu rộng. Càng lùi xa về tương lai, Cách mạng tháng Tám sẽ tỏa sáng rực rỡ mà không một thế lực nào, một luận điệu nào có thể che phủ được. Ngay sau khi Cách mạng vừa thành công, bọn phản động trong và ngoài nước đã đua nhau xuyên tạc, phủ nhận ý nghĩa, tầm vóc lịch sử của sự kiện này. Một số nhà sử học phương Tây đã vội vàng “chứng minh” rằng, “Cách mạng tháng Tám là sự ăn may của cộng sản Việt Minh”. Theo họ, Việt Minh đã nhanh tay cướp lấy thành quả của Đồng minh chống phát xít, khi quân Đồng minh chưa vào Đông Dương giải giáp quân Nhật. Họ cố tình phủ nhận công lao của nhân dân Việt Nam, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào việc đánh bại phát xít Nhật và giành được độc lập, chứ không phải là “việc ăn may”. Một số bọn phản động trong nước trắng trợn vu cáo “Việt Minh đã cướp công của dân tộc trong Cách mạng tháng Tám”, bởi vì “Cách mạng tháng Tám là do tinh thần dân tộc lãnh đạo”. Đây là một luận điểm phi lí, xuyên tạc lịch sử.

Không một sự xuyên tạc nào có thể xóa nhòa, phủ nhận sự thật lịch sử. Ý nghĩa và tầm vóc của Cách mạng tháng tám còn sống mãi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam và nhiều dân tộc khác.


(1) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, ngày 5.9.1960. trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, sđd, tr. 145-146.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:20:02 pm »

2. Cách mạng tháng Tám 1945 trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam

Một sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn không chỉ đánh dấu biến chuyển trong quá trình phát triển xã hội từ trước đến nay mà còn đặt cơ sở rất quan trọng cho tiến trình tiếp theo. Lịch sử không bao giờ lặp lại nguyên xi những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, song trong những sự kiện vừa xảy ra chúng ta vẫn tìm thấy “bóng dáng, “tinh thần” của quá khứ. Do vậy, lịch sử không lặp lại, song là sự “lặp lại” trên cơ sở cái “không lặp lại”. Nếu lịch sử hiện tại chỉ là việc sao chép, lấy lại của quá khứ thì sẽ không có sự phát triển của xã hội. Lịch sử sẽ dường như “ngưng đọng”, không có sự tiến bộ và xã hội cũng sẽ tiêu vong. Ngược lại, nếu lịch sử không lặp lại gì hết chúng ta cũng không rút được bài học kinh nghiệm của quá khứ cho hiện tại và đoán định sự phát triển của tương lại.

Theo nguyên tắc phương pháp luận này, Cách mạng tháng tám 1945 là một sự kiện lịch sử to lớn của dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới, chưa hề xảy ra ở bất cử lúc nào trước đó và sau này cũng không hề có sự lặp lại nguyên xi như vậy. Tuy nhiên, như đã tình bày ở phần trước, nhiều điểm của các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939 ở Việt Nam, bước đi chung của Cách mạng tháng Mười Nga dường như là được “tái hiện” ở Cách mạng tháng Tám 1945 một cách cụ thể, với những nét đặc trưng riêng biệt. Sự lãnh đạo của Đảng, vai trò tích cực cách mạng của quần chúng nhân dân, của Mặt trận dân tộc thống nhất, lực lượng vũ trang, sự đoàn kết dân tộc (cả quốc tế)… được thể hiện cụ thể ở Cách mạng tháng Tám 1945. ở đây chúng ta nhận thấy bóng dáng của các sự kiện quá khứ song vẫn là những nét riêng của Cách mạng tháng Tám 1945.

Cách mạng tháng Tám 1945, khác với các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, tuy có sự kế thừa, là một cuộc Tổng khởi nghĩa toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng khi có thời cơ và đã thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng tháng Tám 1945 tuy đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga, song nhiệm vụ trực tiếp, chủ yếu trước mắt là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để tiến lên chủ nghĩa xã hội, chứ không tiến hành ngay cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đánh đổ chủ nghĩa tư bản, thiết lập chuyên chính vô sản. Vì vậy, tuy Cách mạng tháng Tám 1945 đã bùng nổ và thắng lợi, nhưng trong những mức độ nhất định, với những hình thức khác nhau, nhiệm vụ của Cách mạng tháng tám vẫn được tiếp tục khi thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của từng thời kì: bước đầu xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, kháng chiến chống thực dân Pháp rồi kháng chiến chống đế quốc Mĩ để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, rồi xây dựng chủ nghĩa xã hội khi đất nước thống nhất, đặc biệt trong thời kì đổi mới từ 1986 đến nay.

Chúng ta qua các thời kì nêu trên đã hiểu sự “tái hiện” và tác động của Cách mạng tháng Tám 1945 đối với mỗi thời kì, làm cơ sở, “bệ phóng” cho sự phát triển liên tục của lịch sử dân tộc từ sau 1945. Qua đó, chúng ta sẽ nhận thấy tầm vóc vĩ đại, tác động to lớn của Cách mạng tháng Tám 1945 đối với sự phát triển tiếp sau của lịch sử Việt Nam.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” - kinh tế suy yếu, nạn đói tiếp tục hoành hành, thiên tai dồn dập, thù trong giặc ngoài. Để giữ vững thành quả cách mạng trong điều kiện gian nguy như vậy thật vô cùng khó khăn, dường như “khó vượt qua”. Lời dạy của Lênin “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền lại càng khó khăn”. Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã chèo lái con thuyền vượt qua thác ghềnh, bão tố, tiếp tục đi lên.

Trong tình hình lúc bấy giờ phải tập trung giải quyết những khó khăn trước mắt, tập trung đánh bại các loại kẻ thù nguy hiểm nhất - “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm. Tuy nhiên đó là giải pháp tình thế trước mắt, điều quan trọng mà Đảng đặc biệt quan tâm là xây dựng chế độ dân chủ nhân dân sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Có xây dựng tốt chế độ dân chủ nhân dân mới có cơ sở vững bền để bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám. Việc giải quyết “những nhiệm vụ cấp bách” trước không phải chỉ là một giải pháp tinh tế mà ở mức độ nhất định, với hình thức thích hợp, thực hiện công cuộc xây dựng chế độ mới đem lại quyền lợi cơ bản cho nhân dân. Nhiều biện pháp giải quyết tình trạng khó khăn trước mắ cũng là chính sách lâu dài trong xây dựng xã hội mới, như tăng gia sản xuất, lập hội đồng canh, vv.

Việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân được tiến hành trên các mặt:

Về chính trị, thực hiện việc người dân có quyền tham gia chính quyền, tham gia thảo luận, quyết định mọi công việc trọng yếu của quốc gia, thông qua các đại biểu do mình lựa chọn, bầu ra. Công việc này là một biện pháp tích cực để giữ vững chính quyền đã giành được trong Cách mạng tháng Tám 1945. Việc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (6.1.1946), thông qua Hiến pháp đã hợp pháp hóa chính quyền cách mạng, do nhân dân làm chủ giành được, củng cố thành công của Cách mạng tháng Tám.

Về kinh tế, xóa bỏ mọi thứ thuế bất hợp lí của chế độ cũ, ra sức phát triển công, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, làm cho dân giàu, nước mạnh, thực hiện một mức độ nhất định giảm tô, chia ruộng đất cho dân cày, đẩy mạnh sản xuất… Đó là những biện pháp không chỉ chống “giặc đói” mà còn thực hiện phần nào nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã thắng lợi và còn tiếp tục triển khai.

Về văn hóa - giáo dục, hủy bỏ nền giáo dục nô lệ, thanh toán nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa, tạo mọi điều kiện cho mọi người phát triển tài năng. Công việc này vừa chống “giặc dốt” để người dân có điều kiện làm chủ đất nước, đồng thời chuẩn bị lâu dài cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về xã hội, chăm lo đời sống tinh thần, vật chất cho mọi người, ai cũng được hưởng quyền tự do bình đẳng, từng bước xóa bỏ bóc lột, bất công…

Thực hiện những công việc cơ bản như vậy mới thực sự hoàn thành con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xây dựng lực lượng hùng mạnh để tiến hành cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:25:14 pm »

Việc hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, thực hiện cải cách ruộng đất cũng là giai đoạn đầu của sự nghiệp cách mạng lâu dài, to lớn của nhân dân ta, tạo điều kiện để đưa đất nước tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng xuyên suốt và có tác động lẫn nhau. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đã thể hiện ngay khi xác định mục tiêu, chính sách của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”(1).

Đúng như vậy, khi xác định con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ ràng, chỉ có cách mạng vô sản mới thực sự giải phóng dân tộc và chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo vững chắc công cuộc giải phóng dân tộc. Đây là việc tiếp thụ và vận dụng sáng tạo luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hai giai đoạn cách mạng trong quá trình giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều này đã được khẳng định trong nhiều tài liệu, văn kiện của Đảng và Nhà nước ta… từ Đường cách mệnh, Chánh cương văn tắt đến Nghị quyết các Đại hội của Đảng, các bản Hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn; cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa”(2).

Mối quan hệ giữa hai cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa không phải thực hiện một các tuần tự, hết cuộc cách mạng này đến cuộc cách mạng khác. Trong khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã xây dựng những cơ sở để tiến lên chủ nghĩa xã hội và khi tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Miền Bắc được giải phóng tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn Miền Nam, trực tiếp tiến hành cuộc kháng chiến để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ. Giáo sư Nhật bản Singô Sibata (Shingo Shibata) đã nhận xét như sau: “Một trong những cống hiến quan trọng của cụ Hồ Chí Minh và của Đảng Lao động Việt Nam (tên Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1951-1976 - chúng tôi chú) là đã đề ra lí luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân… ý kiến chung về chủ nghĩa xã hội cho tới nay vẫn còn thịnh hành trong chủ nghĩa Mác là chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi chiến tranh đã chấm dứt… Họ (nhân dân Việt Nam - chúng tội chú) phải thực hiện cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn có chiến tranh. Theo tôi được biết, Đảng Lao động Việt Nam là Đảng đầu tiên trong các đảng mácxít trên thế giới áp dụng lí luận này”(3). Điều này làm rõ thêm mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa trong quá trình cứu nước và giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, nhằm “làm sao cho dân giàu nước mạnh”(4), “làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ”(5).

Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh như vậy hoàn toàn phù hợp với mục tiêu cứ nước và giải phóng dân tộc mà thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã đặt cơ sở cho việc thực hiện. Vì vậy, việc bảo vệ thành quả Cách mạng tháng tám 1945 là nhiệm vụ quan trọng. Bởi vì, có đấu tranh thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân đế quốc, giành được độc lập, tự do, mới có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Có thể nói, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự tiếp tục giải phóng con người khỏi mọi áp bức. Đó là công cuộc “giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người”.

Công cuộc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945 đảm bảo con đường cứu nước giải phóng dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra. Nó còn là điều kiện để bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám, chuẩn bị lực lượng đấu tranh chống bất cứ kẻ thù xâm lược nào muốn đặt ách thống trị trên nhân dân Việt Nam, trước mắt chủ yếu là thực dân Pháp, đang âm mưu đánh chiếm lại nước ta. Vì vậy, trong hơn một năm xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, nhân dân Việt Nam vừa bảo vệ thành quả Cách mạng tháng tám 1945, vừa chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mĩ (1945-1954). Thực tiễn của việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân sau Cách mạng tháng Tám càng khẳng định sự đúng đắn của con đường cứu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản ở Việt Nam xuất phát từ truyền thống yêu nước, đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam, từ thực tế đất nước và nguyện vọng của đông đảo nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay, một cách hợp quy luật. Mong muốn được sống độc lập tự do, hạnh phúc là nguyện vọng lâu đời không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của tất cả các dân tộc trên thế giới từ ngàn xưa đến nay.

Cho nên, con đường cứ nước và giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản không phải là con đường riêng của Việt Nam, cũng không phải là “sự áp đặt chủ quan” của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, như luận điệu sai lầm, xuyên tạc của những người thù địch, chống lại con đường mà nhân dân ta đang đi và kiên quyết đi đến đích cuối cùng.


(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 109.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, sđd, tr. 581.
(3) Trích trong Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Trường Đại học sư phạm Hà Nội I và Viện thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr. 82.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, sđd, tr. 226.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 591.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:27:24 pm »

Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội là con đường khó khăn, gian khổ vì phải đấu tranh lật đổ các lực lượng áp bức, thống trị, xây dựng cuộc sống mới: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên hiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc”(1). “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”(2).

Tuy trải qua nhiều khó khăn, gian khổ trên con đường cứ nước và giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản, nhưng nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thu nhiều thắng lợi huy hoàng. 15 năm, từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử nước ta và Đông Nam Á. Năm 1945, khi quân phiệt Nhật Bản đầu hàng không điều kiện Đồng minh, nhiều nước ở Châu Á nói chung, Đông Nam Á nói riêng có những điều kiện thuận lợi gần giống nhau để khởi nghĩa giành chính quyền. Nhưng vì sao Việt Nam lại khởi nghĩa thắng lợi, giành được chính quyền, xóa bỏ hoàn toàn chế độ thống trị cũ? Đó là vì có sự lãnh đạo của Đảng, dẫn dắt nhân dân ta với quyết tâm đi theo con đường cứu nước của cách mạng vô sản.

Ngay sau khi Cách mạng tháng tám thành công, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đi theo con đường cứu nước đã vạch ra, nhân dân ta được sự ủng hộ của nhân dân thế giới đã tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, buộc chúng phải rút khỏi 3 nước Đông Dương, chấm dứt chiến tranh xâm lược. Chủ nghĩa thực dân cũ bị giáng một đòn chí tử với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà Cách mạng tháng Tám đã đặt ra: bảo vệ độc lập dân tộc mà nhân dân ta đã giành được. Tinh thần Cách mạng tháng Tám, những thành tựu bước đầu trong xây dựng chế độ dân chủ nhân dân là những điều kiện cơ bản để nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đánh thắng thực dân Pháp, can thiệp Mĩ, giải phóng hoàn toàn Miền Bắc. Việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trong hơn năm đầu sau Cách mạng được tiếp tục tiến hành, mở rộng hơn trong việc xây dựng vùng tự do, tao thành hậu phương vững chắc cho chuộc kháng chiến chống Pháp. Sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân tiếp sau sức mạnh của Cách mạng tháng Tám 1945 tạo nên hợp lực to lớn trong kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) phát huy thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và dựa vào sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân được xây dựng ở vùng tự do - vùng hậu phương vững chắc.

Đế quốc Mĩ đã tiếp tay cho thực dân Pháp, trực tiếp can thiệp vào Đông Dương, dần dần hất chân Pháp, một mình tiến hành việc xây dựng chế độ thực dân mới ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Chúng đổ một lực lượng quân viễn chinh, bom đạn, nhiều phương tiện chiến tranh khác và sự “viện trợ” kinh tế để nuôi dưỡng các ngụy quyền, hòng bóp chết cách mạng ở Miền Nam Việt Nam; đánh phá ác liệt, dã man Miền Bắc để kéo lùi nhân dân ta “trở về thời kì đồ đá”, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn Miền Bắc với tiền tuyến lớn Miền Nam. Nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mĩ, nhiệt liệt ủng hộ Việt Nam, lên án ngay gắt đế quốc Mĩ xâm lược, nhưng cũng có người lo sợ nhân dân ta không đương đầu được với đế quốc Mĩ, khuyên ta “trường kì mai phục”, “hòa hoãn”, “tạm xuống thang”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta quyết tâm bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám 1945, đánh thắng giặc Mĩ xâm lược, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”.

21 năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước, theo con đường đã xác định, với cuộc tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Có thể nhận thấy trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, tinh thần Cách mạng tháng Tám 1945 nhiều lần được “tái hiện”, như cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, trong cuộc Tổng tiến công chiến lược 1972, đặc biệt trong mùa Xuân đại thắng 1975. Nhiều bài học, kinh nghiệm của cuộc Cách mạng tháng Tám được vận dụng sáng tạo có hiệu quả. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc là cơ sở quan trọng để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam.

Dĩ nhiên, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta, Đảng và Nhà nước ta không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm. Điều này đã được kịp thời nhận thấy và sửa chữa có hiệu quả. Cho nên không vì những sai lầm, khuyết điểm đã phạm phải để phủ nhận công lao của nhân dân và Đảng trong quá trình chiến đấu anh dũng; càng không thể vin vào đấy để khẳng định rằng con đường cứu nước giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là “sai lầm”, “cần xóa bỏ”.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 271.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, sđd, tr. 493.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:28:57 pm »

Con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã xác định, nhân dân ta tin tưởng trong cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ đi tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, kháng chiến thành công, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước xác nhận về lí luận và thực tiễn tính đúng đắn của nó. Song việc thực hiện con đường này còn chịu ảnh hưởng, sự chi phối của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác. Những yếu tố tích cực, tiến bộ thúc đẩy việc thực hiện con đường này đi tới thắng lợi. Những yếu tố tiêu cực, sai lầm khuyết điểm do trình độ nhận thức, quản lí, những tác động không lành mạnh của hoàn cảnh, của cơ chế thị trường… làm hạn chế thắng lợi, song hoàn toàn không ngăn cản bước tiến của nhân dân ta, không làm thay đổi bản chất con đường đã được lựa chọn. Cuộc đấu tranh để bảo vệ con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của chúng ta cũng là bảo vệ con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của chúng ta cũng là bảo vệ những thành quả của Cách mạng tháng Tám 1945, 30 năm kháng chiến chống ngoại xâm và xây dựng chủ nghĩa xã hội còn diễn ra gay go ác liệt. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, tinh thần, ý chí, bài học của Cách mạng tháng tám 1945 cổ vũ, soi sáng chúng ta vượt qua những khó khăn gian khổ để đạt được mục tiêu đã xác định. Việc Đảng và nhân dân Việt Nam đã nắm được thời cơ, kiên quyết hành động khi có thời cơ, quyết tâm vượt qua thác ghềnh đi tới thắng lợi… là những bài học còn nóng hổi của thời kì Cách mạng tháng Tám đối với chúng ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước ngày nay. Thắng lợi của Cách mạng tháng tám đã mở ra những thắng lợi to lớn tiếp theo. Lẽ nào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không phát huy tinh thần bài học của Cách mạng tháng Tám 1945 cho những thắng lợi mới?

Khẳng định con đường cứu nước đúng của nhân dân ta là sự nhận thức đúng đắn, khoa học, sự phát triển hợp quy luật của lịch sử, không dao động trước những biến đổi đang diễn ra trên thế giới. Khẳng định con đường cứu nước đã chọn là khẳng định những thành tựu đã đạt được, công lao của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc và nhân loại, không hề hoang mang trước “những thần kì” trong sự phát triển về kinh tế của những nước vốn là thuộc địa và phụ thuộc không đi theo con đường cứu nước như chúng ta.

Lịch sử đã chứng minh con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta hoàn toàn đúng đắn và vững tin vào sự tiếp tục trên con đường này.

*
*   *

Từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, hoàn thành việc bình định quân sự, xây dựng chế độ thống trị, tiếp đó là chế độ thực dân mới của đế quốc Mĩ ở Miền Nam Việt Nam, nhân dân ta đã chuyển qua nhiều con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Ngọn cờ Cần Vương trong đấu tranh chống Pháp xâm lược, theo tư tưởng phong kiến đã thất bại. Tư tưởng dân chủ nhân dân với sự hình thành của giai cấp tư sản dân tộc không đem lại thành công trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Sự lớn mạnh của phong trào công nhân trong nước, việc duy trì phong trào yêu nước, vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, sáng lập Đảng, cùng với những ảnh hưởng tích cực của phong trào cách mạng thế giới từ sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1971 đã xác định con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Con đường này đã đưa đến nhiều thắng lợi to lớn. Lịch sử đã xác nhận đây là con đường duy nhất đúng của nhân dân ta, phù hợp với xu thế phát triển thời đại và trong tương lai sẽ là con đường mà nhiều dân tộc khác cũng trải qua.

Cách mạng tháng Tám 1945 đánh dấu một mộc quan trọng trên con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn, xác định và nhân dân ta kiên quyết đi tới cuối cùng. Cách mạng tháng Tám 1945 đã nổ ra đồng loạt trong cả nước, ở thành thị cũng như nông thôn, ở đồng bằng cũng như vùng núi, hải đảo. Điều này thể hiện những đặc điểm bản chất của cuộc cách mạng này.

- Cách mạng tháng Tám nổ ra đồng loạt, nhanh chóng trong hầu hết cả nước và giành được thắng lợi hoàn toàn chứng tỏ sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, lòng tin tuyệt đối của quần chúng nhân dân vào Đảng, đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Nó thể hiện quá trình chuẩn bị lâu dài, liên tục, vững chắc, thận trọng.

- Cách mạng tháng Tám diễn ra và thắng lợi một cách tương đối hòa bình, ít tốn xương máu. Điều này chứng tỏ tài nghệ của Đảng trong lãnh đạo cách mạng, đã xác định đúng đường lối đấu tranh, chuẩn bị đầy đủ, nắm vững thời cơ và lãnh đạo nhân dân kiên quyết hành động.

- Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử nước ta, ở khu vực Đông Nam Á, mở đường cho những thắng lợi tiếp theo trong kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Cách mạng tháng Tám đã phát huy cao nhất vai trò của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc.

- Cách mạng tháng Tám 1945 góp phần to lớn vào sự phát triển của lịch sử thế giới, mở ra thời kì giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, xây dựng những quốc gia độc lập, tự do, phồn vinh, tiến bộ.

Những đặc điểm chung của Cách mạng tháng Tám thể hiện cụ thể ở diễn biến của các địa phương mà chúng ta sẽ tìm hiểu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:30:29 pm »

PHẦN THỨ HAI

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 -
TOÀN CẢNH

Cách mạng tháng Tám 1945 diễn ra trên hầu khắp đất nước và thu được thắng lợi to lớn trong một thời gian ngắn. Nét chung này được thể hiện cụ thể ở mỗi địa phương với những điểm riêng biệt, làm cho cách mạng mang tính phong phú, đa dạng.

Những bài viết về cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh sẽ làm rõ những nét riêng ở địa phương trong bối cảnh cuộc cách mạng diễn ra trong phạm vi cả nước.

Trong phần này, chúng tôi trình bày diễn biến của cuộc khởi nghĩa theo địa giới hành chính lúc bấy giờ (tỉnh cũ) của ba “kỳ” (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Nội dung bài viết ngắn gọn, không đi sâu vào chi tiết cuộc khởi nghĩa ở mỗi địa phương mà chỉ làm rõ các đặc điểm.

Trình bày cuộc khởi nghĩa ở các địa phương, chúng tôi vẫn dành cho các thành phố Hà Nội, Huế, Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) một số trang nhiều hơn để làm rõ vai trò, vị trí của các thành phố này trong Cách mạng tháng Tám 1945.

Đồng thời, để làm rõ nét đặc thù của mỗi tỉnh, trong một mức độ nhất định, chúng tôi đi sâu trình bày cuộc khởi nghĩa ở một huyện (huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định), ở một xã (xã Tam Hưng - Hà Đông, nay thuộc Hà Tây).

Cuối phần, một bản Niên biểu về cuộc khởi nghĩa tháng Tám của các tỉnh.

Vì khuôn khổ của sách nên không thể trình bày về cuộc khởi nghĩa ở tất cả các tỉnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:33:05 pm »

CAO BẰNG(1)

Cao Bằng thuộc khu Việt Bắc - một vị trí chiến lược quan trọng về quân sự và chính trị trong nước. Vì vậy, nơi đây đã từng diễn ra những cuộc đấu tranh quyết liệt chống ngoại xâm và sớm hình thành ở nhân dân các dân tộc truyền thống yêu nước và cách mạng.

Trong quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cao Bằng có một vai trò lớn. Năm 1972, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tuyển chọn một số thanh niên Cao Bằng ra nước ngoài học tập và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tháng 4.1930, chi bộ Đảng đầu tiên ở Cao Bằng được đồng chí Hoàng Đình Giong tổ chức. Trong những năm 1932-1935, dù bị thực dân Pháp đánh phá ác liệt, các tổ chức Đảng ở Cao Bằng vẫn giữ vững được phong trào cách mạng trong cả tỉnh. Nhiều chi bộ mới được thành lập ở Hòa An, Tính Túc, Hà Quảng, Quảng Uyên, Thạch An. Trong thời kì 1936-1939, cuộc đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ dấy lên mạnh mẽ ở Cao Bằng, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của hơn 500 đồng bào các dân tộc vào năm 1939.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (tháng 9.1930), Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (tháng 1.1941). Người đã quyết định lấy Cao Bằng làm căn cứ - đại bản doanh chỉ dạo cách mạng cả nước. Bởi vì, “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp sức với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát triển đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tấn công, lúc khó khăn có thể giữ”(1).

Ngày 8.2.1941, Bác Hồ về hang Pác Bó (Cao Bằng). Tại đây, Người đã chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ Tám tại Khuổi Nậm, định ra những phương hướng, chủ trương sáng suốt, cụ thể để phát triển phong trào cách mạng cả nước, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị Trung ương lần này đã xác định, chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng lúc bấy giờ.

Không chỉ lãnh đạo cách mạng trong nước, Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức, huấn luyện về chương trình Việt Minh cho phong trào cách mạng Cao Bằng, lấy đó làm thí điểm, rút kinh nghiệm cho cả nước.

Đến giữa năm 1941, Phong trào Việt Minh ở Cao Bằng cũng như của hai tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn phát triển mạnh mẽ. vì vậy, Hội nghị đại biểu ba tỉnh đã bầu Ban Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng để thống nhất lãnh đạo khu căn cứ địa đang hình thành.

Tháng 10.1941, theo chỉ đạo của đồng chí Hồ Chí Minh, đội vũ trang tập trung đầu tiên của Cao Bằng được thành lập. Đội gồm có 12 người, do Lê Quảng Ba chỉ huy. Đội có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan của Đảng, giữ vững giao thông liên lạc, tuyên truyền vận động quần chúng địa phương, giúp đỡ huấn luyện cho các đơn vị tự vệ trong vùng.

Nhiều “xã hoàn toàn Việt Minh” dần dần xuất hiện, tình thế “hai chính quyền song song tồn tại” ra đời, song thực chất, Mặt trận Việt Minh cơ sở đã thực hiện chức năng chính quyền cách mạng; bộ máy hành chính của địch đã rệu rã, tan vỡ. Về cơ bản, đây là hình thức “chính quyền hai mặt”, bên ngoài của địch, bên trong thuộc về cách mạng, vì hầu hết các hào lí đều là hội viên cứu quốc hay cảm tình cách mạng. Mỗi công việc của địa phương đều do Việt Minh điều hành, giải quyết. Việc luyện tập quân sự của thanh niên trai, gái trong xã được tiến hành công khai. Mỗi người tham dự huấn luyện một, hai đợt; mỗi đợt kéo dài từ 5-7 ngày. Đầu năm 1942, một lớp huấn luyện quân sự của tỉnh được tổ chức tại Khuổi Nậm trong vòng một tháng.

Từ phong trào luyện tập quân sự của quần chúng, Tỉnh ủy chọn một số người gửi đi học quân sự dài hạn ở nước ngoài. Tính đến tháng 10.1944, đã có 760 cán bộ được cử đi học, trong số này có nhiều người trở thành tướng lĩnh tài giỏi sau này, như Lê Quảng Ba, Lê Thiết Hùng, Bằng Giang…

Phong trào quần chúng được phát triển, củng cố, nhiều gương đấu tranh anh dũng bảo vệ cách mạng xuất hiện, tiêu biểu là tấm gương của Kim Đồng.

Sang năm 1943, những thắng lợi của Hồng quân Liên Xô ở mặt trận phía Đông làm cho quân Đức ngày càng suy yếu. Đây là điều kiện cho cách mạng giải phóng dân tộc các nước thuộc địa vùng dậy. Vì vậy, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định củng cố và phát triển Mặt trận Việt Minh, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa. Do đó, cần tổ chức ngay những “con đường quần chúng” từ Cao Bằng lên Bắc Kạn, Thái Nguyên, đánh thông mối liên lạc giữa Trung ương với miền xuôi. Con đường “Nam tiến” được thực hiện thắng lợi vào mùa đông 1943, chỉ trong vòng 8 tháng (từ tháng 2 đến tháng 10.1943). “Con đường quần chúng cách mạng” theo hướng “Nam tiến” được mở, nối liền Cao Bằng với Lạng Sơn, xuống Thái Nguyên rồi tiếp xuống miền xuôi. Việt Bắc, Cao Bằng nói riêng đã gắn với phong trào cách mạng trong cả nước.

Đến giữa năm 1944, sự thất bại của phát xít Đức đã hiện rõ, thời cơ giành chính quyền đã đến gần. Ngày 7.5.1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa khẩn cấp hơn.

Ngay 13.8.1944, Hội nghị Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng họp ở chân vách núi Lưỡng Sa (nằm giữa Hòa An và Nguyên Bình, Cao Bằng) quyết định khởi nghĩa, vì tình thế cách mạng ở khu vực đã chín muồi. Nhiều cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ, rời rạc đã diễn ra ở Lạng Sơn và bị địch khủng bố nặng nề.


(*) Người viết: TS. Bùi Thị Thu Hà, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 33.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:34:30 pm »

Tháng 10-1944, Ban Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chuẩn bị triệu tập cuộc hội nghị để định ngày khởi nghĩa thì được tin Hồ Chí Minh từ Trung Quốc đã về nước và sẽ đến thăm. Tại một địa điểm gần biên giới Việt - Trung, tiếp giáp xã Nà Xác (Hà Quảng, Cao Bằng), Hồ Chí Minh đã gặp Ban Liên lạc Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, đề nghị hoãn cuộc khởi nghĩa, vì quyết định khởi nghĩa mới xuất phát từ tình hình của địa phương chứ chưa căn cứ tình hình chung của cả nước. Nếu phát động khởi nghĩa thì sẽ gặp khó khăn, địch sẽ tập trung lực lượng đàn áp. Người chỉ rõ: thời kì hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới, song cần phải xây dựng lực lượng vũ trang để giữ vững phong trào và tiến tới khởi nghĩa . Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập trong khu rừng giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám thuộc châu Nguyên Bình (Cao Bằng). Sau khi thành lập, đội đánh thắng ở đồn Phai Khắt (ngày 25.12.1944) và đồn Nà Ngần (ngày 26.12.1944).

Sau khi đảo chính Pháp (9.3.1945), quân Nhật đánh đồn Pháp ở Nguyên Bình; quân Pháp ở Cao Bằng tháo chạy, định vượt biên giới sang Trung Quốc. Quân giải quyết từ khu rừng Phan Thanh (tổng Hoàng Hoa Thám) tiến xuống cánh đồng Kim Mã giữa ban ngày, được nhân dân vui mừng đón chào. Quân ta bố trí các ngả bao vây, chặn đường, kêu gọi, thuyết phục hoặc điều đình. Kết quả là nhiều toán lính ngụy đã tự giải tán, nhiều đồn trại lính dõng bị triệt hạ, những toán lính Pháp ở Trà Lĩnh, Mã Phục ngoan cố chống lại đã bị đánh tan và bị tước toàn bộ vũ khí.

Phong trào đấu tranh vũ trang ở Cao Bằng lan nhanh khắp tỉnh. Ngày 13.3.1945, quân Giải phóng và lực lượng du kích bao vây đồn Sóc Giang, giải phóng châu lị Hà Quảng. Ngày 18.3, giải phóng huyện Thông Nông; rồi lần lượt đến các huyện Hòa An, Nguyên Bình, Thạch An, Quảng Uyên, Trùng Khánh… Trong một thời gian ngắn, quân dân Cao Bằng thu được 4.000 súng trường, súng máy, súng cối và cả đại bác, cùng nhiều quân trang, quân dụng, lừa, ngựa. Phấn khởi trước chiến thắng, thanh niên Cao Bằng nô nức tòng quân và lập được 10 đại đội Giải phóng quân.

Trong đợt quân Nhật mở đợt tiến công lớn vào khu giải phóng Việt Bắc tháng 5.1945, quân dân Cao Bằng tiến công liên tiếp vào các đồn Nậm Nhũng, Đôn Chương, Đào Ngạn (Hà Quảng), Sóc Giang, Doanh Phán; đánh địch trên đường đi Nước Hai (Hòa An), ở Khuôn Luộc, Nà Bao (Nguyên Bình), ở bản Niên, Kéo Ái, Nậm Nàng (Thạch An).

Từ đầu tháng 5.1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về chiến khu Hoàng Hoa Thám, chọn Tân Trào (Tuyên Quang) làm căn cứ chỉ đạo cuộc khởi nghĩa đang chuẩn bị bùng nổ khắp nước. Để tạo chỗ đứng vững chắc cho cách mạng, Người chỉ thị thành lập Khu Giải phóng, bao gồm 6 tỉnh và vành đai ngoại vi rộng 40.000km2, với trên 1 triệu đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Khu giải phóng Việt Bắc là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam độc lập, tự do sẽ ra đời trong tương lại không xa.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ khởi nghĩa đã đến; nhân dân Cao Bằng, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đứng dậy đấu tranh.

Trong những ngày 17, 18 và 19.8.1945, quần chúng cách mạng và các lực lượng vũ trang Cao Bằng đã vây các đồn Sóc Giang, Nước Hai, thị trấn Trùng Khánh, Quảng Uyên… cắm cờ đỏ sao vàng xung quanh vị trí địch, kêu gọi chúng đầu hàng. Lực lượng khởi nghĩa tổ chức các cuộc mít tinh quần chúng, truy quét bọn phản động tay sai Nhật.

Đêm 18.8, quân Nhật ở Trùng Khánh rút chạy; ngày 19.8, quân Nhật ở Quảng Uyên cũng bỏ đồn chạy. Quần chúng cách mạng vây bắt viên tri châu Quảng Uyên và số lính bảo an còn lại, thu súng đạn.

Ngày 20.8, Ủy ban nhân dân lâm thời châu Quảng Uyên tổ chức mít tinh, ra mắt đồng bào và tuyên bố xóa bỏ chính quyền địch.

Ở Hòa An, một đại đội lính Nhật kéo ra bản Sảy, bị quân dâm cách mạng địa phương chặn đánh. Viên tri châu Hòa An và 60 lính bảo an mang súng ra hàng Việt Minh. Trước tình hình ấy, đại đội lính Nhật phải rút chạy ngay trong đêm 20.8.

Cùng trong đêm 20.8, quân Nhật ở Sóc Giang cũng bí mật xuyên rừng chạy về Đôn Chương, song trên đường rút chạy, chúng bị quân dân Cao Bằng phục kích ở Nậm Thông, Nà Lỏa; 20 tên bị tiêu diệt.

Quân Nhật đóng ở Nguyên Bình, Tĩnh Túc cũng hoảng sợ, rút chạy về Bắc Kạn qua đèo Côlia; song trên đường chúng bị quân dân Cao Bằng chặn đánh, nhiều tên bị tiêu diệt.

Chiều 21.8, Ủy ban nhân dân lâm thời Tĩnh Túc ra mắt nhân dân.

Ở Nguyên Bình, lính bảo an kéo ra hàng, mang theo 100 súng các loại. Sáng ngày 22.8, Ủy ban nhân dân lâm thời huyện ra mắt quần chúng trong cuộc mít tinh có nhiều người tham dự.

Cuộc khởi nghĩa thắng lợi ở các địa phương trong tỉnh, đêm 21.8 quân Giải phóng tiến vào thị xã Cao Bằng, buộc chính quyền thân Nhật phải bàn giao toàn bộ chính quyền cho cách mạng. Tuy vậy, quân Nhật đóng ở thị xã không chịu giao nộp vũ khí mà chúng đã chiếm của Pháp. Sau một cuộc điều đình gay go, chúng mới chấp nhận không can thiệp vào nội bộ Việt Nam và giao trả số vũ khí đã chiếm của Pháp.

Sáng ngày 22.8.1945, quân dân Cao Bằng tổ chức cuộc tuần hành thị uy lớn ở thị xã, rồi tiến hành mít tinh lớn tại chùa Phố Cũ. Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh và thị xã Cao Bằng ra mắt đồng bào.

*

Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã hoàn toàn thắng lợi ở Cao Bằng, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2011, 05:37:11 pm »

BẮC KẠN(*)

Bắc Kạn là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, nằm giữa trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, địa hình có nhiều thuận lợi về quân sự. Tuy đồng bào dân tộc ít người sống xa trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, tri thức còn nhiều hạn chế, nhưng có truyền thống yêu nước cách mạng. Vì vậy khi được giác ngộ, đồng bào đã quyết tâm đấu tranh theo đường lối cách mạng của Đảng.

Do ảnh hưởng của phong trào chung, trong những năm 1930-1931, đồng bào ở hai tổng Hà Vị, Nông Thượng và khu vực thị xã Bắc Kạn do Nguyễn Bông ở Xuất Hòa và ông Chỉ ở Cao Kỳ chỉ huy, tổ chức làm đơn tập thể lên Phủ toàn quyền Đông Dương về bọn thực dân Pháp và quan lại ức hiếp dân chúng.

Trong những năm 1936-1939, khi cao trào vận động dân chủ phát triển sâu rộng trong cả nước, ở Bắc Kạn diễn ra các cuộc đấu tranh của nhân dân chống việc bắt phu làm đường Bắc Kạn - Chợ Đồn, Bắc Kạn - Chợ Rã.

Đầu năm 1941, sau khi Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, từ một khu vực nhỏ hẹp ở Hà Quảng, phạm vi căn cứ địa cách mạng phát triển rộng cả 3 vùng: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn.

Từ cuối năm 1941 đầu năm 1942, phong trào Việt Minh ở Bảo Lạc (Cao Bằng) phát triển, ảnh hưởng mạnh mẽ đến phía bắc Chợ Rác. Cuối năm 1942, Ban Việt Minh liên xã Cao Minh gồm 3 xã Cao Tân, Cao Thượng, Cổ Linh ra đời, thu hút đông đảo nhân dân địa phương. Đây là tổ chức Việt Minh đầu tiên của tỉnh Bắc Kạn.

Để giữ vững cơ sở cách mạng, Việt Minh đã thành công lớp huấn luyện quân sự ở Nà Lai xã Cao Tân, Mê Sào xã Cổ Linh và Trà Vành xã Cao Thượng để xây dựng các đội tự vệ.

Năm 1943, đáp ứng yêu cầu hình thành con đường nối liền căn cứ Cao Bằng - Thái Nguyên, cũng như giữa các căn cứ với nhau, ta chủ trương xây dựng cơ sở cách mạng ở Bắc Kạn,. Trên con đường Nam tiến, các đội công tác xuất phát từ tổng Kim Mã (Cao Bằng) tiến vào Bắc Kạn theo 2 mũi: qua phía bắc Ngân Sơn đến Chợ Rã xuống Chợ Đồn và từ Nguyên Bình (Cao Bằng) qua Bằng Đức (Ngân Sơn) xuống Phủ Thông. Đoàn Nam tiến đi đến đâu xây dựng cơ sở cách mạng và lực lượng bán vũ trang đến đó, tiến tới thành lập các đội tự vệ

Các đội tự vệ làm nhiệm vụ bảo vệ cơ sở cách mạng, trừng trị bọn tay sai, ngăn chặn những cuộc càn quét khủng bố của địch, phong trào của tổng Chí Kiên (Bằng Đức) phát triển mạnh nhất.

Tại Chợ Rã, theo đường dây của họ hàng người Dao, các cán bộ Nam tiến đã nhanh chóng xây dựng cơ sở ở đây và vượt qua sự kiểm soát của địch đến vùng Tày - Nùng ở chân núi Phia Bjóc.

Con đường liên lạc các trung tâm cách mạng ở Việt Bắc được khai thông. Tháng 10.1943, hai đoàn Nam tiến và Bắc tiến gặp nhau ở Nghĩa Tá (Chợ Đồn); để kỉ niệm thắng lợi này, Nghĩa Tá được đặt tên là xã Thắng lợi.

Cuối tháng 3.1943, phong trào Việt Minh ở Bắc Kạn phát triển rộng khắp từ Ngân Sơn đến Chợ Rã, từ Bạch Thông đến Chợ Đồn. Trước sự lớn mạnh của phong trào ở Bắc Kạn nói riêng và ở Việt Bắc nói chung, vào cuối năm 1943 thực dân Pháp đã tiến hành khủng bố, đàn áp dã man. Tuy vậy, phong trào cách mạng ở Bắc Kạn vẫn được giữ vững. Nhiều tấm gương hi sinh anh dũng của cán bộ, đảng viên đã có sức cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các dân tộc trong việc chống nộp phạt, bắt bớ, thực hiện tốt khẩu hiệu; “không biết, không thấy cộng sản”, “không đầu hàng, không đầu thú”. Đồng bào bí mật che dấu nuôi dưỡng cán bộ cách mạng, nhiều gia đình ăn ngô, khoai, nhường gạo tiếp thế cho cán bộ.

Vượt qua những khó khăn do sự khủng bố gắt gao của địch gây ra, phong trào cách mạng ở Bắc Kạn nói riêng và ở Cao - Bắc - Lạng nói chung từng bước phục hồi và phát triển. Ngày 23.1.1944, Tỉnh ủy lâm thời Bắc Kạn được thành lập.

Thực hiện chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” ngày 7.5.1944 của Tổng bộ Việt Minh, tháng 7.1944, Ban Việt Minh Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh, xúc tiến chuẩn bị công việc khởi nghĩa.

Tháng 10.1944, tại Bó Lọn thuộc xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, trung đội tự vệ chiến đấu đầu tiên của châu được thành lập, tiến hành huấn luyện trong 20 ngày. Theo kế hoạch của ban Việt Minh Cao - Bắc - Lạng, nhân dân 3 tỉnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Công việc đang được thực hiện khẩn trương thì Hồ Chí Minh về nước, kịp thời hoãn cuộc khởi nghĩa, tránh được sự đổ máu không cần thiết vì lúc đó điều kiện chưa chín muồi.

Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập ngày 22.12.1944 tại Cao Bằng, trong đó có 5 chiến sĩ là người Bắc Kạn: Bế Văn Vạn, Hoàng Thái Sơn, Hoàng Kính Phát, Đường Mạc Thạch, Hoàng Thịnh.

Ở Bắc Kạn, dù đến trung tuần tháng 3.1945 vẫn chưa có tên Nhật nào xuất hiện, nhưng ngay sau khi được tin Nhật đảo chính Pháp thì bộ máy cai trị của Pháp lập tức bị tê liệt. Binh lính bỏ chạy khỏi thị xã, bọn quan chức dân sự bỏ trốn hoặc chờ Nhật đến để đầu hàng. Bọn tay sai của Pháp như rắn mất đầu.

Tại Cao - Bắc - Lạng, tuy chưa liên lạc được với Trung ương nhưng nhận rõ thời cơ ngàn năm có một đã đến, Ban Thường vụ liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng đã họp và quyết định:

1. Đánh đổ chế độ thống trị của Pháp ở nông thôn, lúc đó tùy nơi sẽ thành lập chính quyền nhân dân từ cấp xã đến cấp tỉnh.

2. Phân phối cán bộ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân về cùng đội vũ trang địa phương, tổ chức thêm những đơn vị giải phóng, chuẩn bị chống Nhật.

3. Phá hoại giao thông và làm vườn không nhà trống.

4. Không khiêu chiến quân Pháp bị Nhật đánh đuổi mà phải tích cực kêu gọi chúng cùng ta lập mặt trận chống Nhật.

Thực hiện nghị quyết đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy lâm thời Bắc Kạn, Ban chỉ huy Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Ban lãnh đạo chiến khu Hoàng Hoa Thám và Ban cán sự A.T.K, đồng bào các dân tộc trong tỉnh nổi dậy giành chính quyền. Khí thế cách mạng ở khắp nơi dâng lên như sóng cồn.


(*) Người viết: - ThS. Lê Văn Chiến, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Nông Thị Du, Sở Giáo dục - Đào tạo Bắc Kạn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM