Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 07:06:18 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh  (Đọc 173891 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #150 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2011, 05:03:33 pm »

XÂY DỰNG NIỀM TIN VÀ QUYẾT TÂM ĐI THEO CON ĐƯỜNG
MÀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐÃ GIÀNH ĐƯỢC THẮNG LỢI

TRỊNH ĐÌNH TÙNG(*)
TRẦN ĐỨC MINH(**)

Trong giáo dục thế hệ trẻ, giáo dục niềm tin đúng một cách vững chắc là yêu cầu quan trọng. Ở mọi thời đại, con người đều có lòng tin một điều gì mà họ tôn thờ; đặc biệt trong xã hội có giai cấp, mỗi một người thuộc về một tầng lớp nào đấy lại được bồi dưỡng, giáo dục, xây dựng một lí tưởng nhằm xác định cho mình một nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn, phát triển tình cảm lành mạnh. Tuy nhiên, giai cấp thống trị vì quyền lợi của mình đã hướng nhân dân lao động vào một lòng tin, một lí tưởng sai lầm, phản động. Chúng làm cho mọi người thực hiện một cách mù quán phương châm “hãy tin rồi sẽ biết”. Khi nhân dân vùng lên đấu tranh để làm chủ thực sư thì họ cũng xác định một niềm tin vững chắc. Gia cấp công nhân với sự lãnh đạo của Đảng chân chính của mình đã giáo dục cho nhân dân, thế hệ trẻ một niềm tin tự giác, sáng suốt để hành động đúng, theo hướng “biết để tin”.

Vì vậy, việc giáo dục niềm tin, xây dựng lí tướng đúng được tiến hành trên cơ sở hiểu biết khoa học, tiếp thụ một cách chủ động, tự giác. Đồng thời với nhận thức tư tưởng đúng sẽ bồi dưỡng vốn tri thức, văn hóa, khoa học và làm cơ sở cho những hành động thực tiễn có hiệu quả cao. Về điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong thời gian không xa, đạt được đỉnh cao của khoa học và kĩ thuật”(1).

Những nguyên tắc sư phạm nên trên được vận dụng vào việc giáo dục cho học sinh lòng tin và quyết tâm đi theo con đường mà Cách mạng tháng Tám đã giành thắng lợi.

Để xây dựng niềm tin và lí tưởng như vậy, trước hết phải làm cho thế hệ trẻ nắm vững những kiến thức cơ bản về Cách mạng tháng Tám. Ở đây cần ghi nhớ lời dạy của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đối với việc dạy học lịch sử để khắc phục một thiết sót “kinh niên” là giáo dục tư tưởng một cách chung chung, lí thuyết và không dựa vào cơ sở khoa học: “Nhất định chúng ta cần dạy sử chứ không thể ba hoa về “chính trị”. Ở đây ta không cần nói chính trị nữa, cả lịch sử nước ta là một sự cổ vũ vô cùng sâu xa. Dạy sử cho tốt thì sẽ tạo ra thanh niên say mê và tự hào về dân tộc mình một cách đúng đắn, không hề tự kiêu, không hề nảy sinh chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”(2).

Cần hiểu rõ “không cần nói chính trị nữa” không có nghĩa là việc giáo dục lịch sử được tiến hành một cách “khách quan chủ nghĩa”, theo lí luận của các nhà sử học tư sản. Lênin đã khẳng định, trong xã hội có giai cấp không thể có khoa học xã hội “vô tư”, một loại khoa học “phi đảng”, mà bao giờ nó cũng mang tính đảng. “Không cần nói chính trị nữa” phải được hiểu là tránh việc nói chung chung, cứ lặp đi lặp lại như “nhân dân ta rất anh hùng”, “Đảng ta rất vĩ đại” mà không làm cho người nghe có hình ảnh cụ thể về “anh hùng”, “vĩ đại”. Do đó, “việc giáo dục tư tưởng” như vậy không có tác dụng, thậm chí còn gây hậu quả xấu đối với việc giáo dục lịch sử.

Việc giáo dục tư tưởng, niềm tin, lí tưởng trong giáo dục lịch sử, trước hết phải làm cho thế hệ trẻ có biểu tượng về quá khứ, tức là những hình ảnh cụ thể, chân xác về các sự kiện đã xảy ra, những nhân vật lịch sử, đúng như nó đã tồn tại. Kiến thức lịch sử không gắn chặt vào tâm trí, không có tác dụng về tư tưởng, tình cảm, biến thành hành động là những kiến thức “vô hình”, “vô hồn”, không tạo nên các biểu tượng, làm cơ sở cho việc giáo dục.

Vậy, chúng ta cần “tái hiện”, “làm sống” lại ở thế hệ trẻ những sự kiện nào của Cách mạng tháng Tám để giáo dục tư tưởng, nội dung giáo dục niềm tin nói riêng để họ kế tục sự nghiệp cha ông trong công cuộc dựng nước và giữ nước hiện nay.

Cũng như mọi sự kiện lịch sử khác, Cách mạng tháng Tám là một loại sự kiện đa dạng, phong phú, nhiều mặt, bao gồm nhiều sự kiện, tạo nên cuộc cách mạng vĩ đại này. Học lịch sử không phải là biết nhiều sự kiện, lấy đó làm tiêu chí để đánh giá trình độ học vấn, mà là nắm vững những sự kiện cơ bản (không thể thiếu được, chính xác, tiêu biểu) để hiểu sâu sắc về quá khứ. Trên cơ sở ấy, tiến hành giáo dục tư tưởng, định hướng cho hành động.


(*) PGS.TS. Trường đại học Sư phạm Hà Nội.
(**) PGS.TS. Trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, sđd, tr. 403.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #151 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2011, 05:05:16 pm »

Để giáo dục lòng tin cho thế hệ trẻ, theo chúng tôi, có thể tập trung vào một số kiến thức cơ bản sau đây.

Thứ nhất, hiểu biết đúng về con đường cứu nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc, Đảng ta đã khẳng định và nhân dân ta đã kiên trì thực hiện thắng lợi từng bước, trước hết cho Cách mạng tháng Tám.

Với con đường cứu nước, cuộc đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đã thoát khởi sự khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo, mở ra một triển vọng to lớn đi tới thắng lợi tất yếu. Chỉ sau 15 năm, kể từ khi Đảng ra đời (1930-1945), cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và ở Đông Nam Á đã thành công.

Sự thật lịch sử là như vậy, nhưng trong gần 60 năm qua, kể từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, nhiều kẻ đã cố tình xuyên tạc lịch sử, hoặc chưa hiểu đúng, sâu sắc lịch sử nên đã cố tình, hay nhận thực sai về con đường dẫn tới thắng lợi và bản thân cuộc cách mạng vĩ đại này. Một số cho Cách mạng tháng Tám thành công chẳng qua là “sự ăn may” của Việt Minh, nhân lúc Nhật vừa thua trận, quân Đồng minh chưa “ thực thi sứ mệnh giải giáp Nhật ở Đông Dương”(?). Từ đó không ít kẻ xem sự bùng nổ của Cách mạng tháng Tám 1945 là một hành động “phi pháp”, vi phạm những thỏa thuận của Đồng minh về “chế độ ủy thác” và ngăn cản “nhiệm vụ giải giáp quân Nhật của Đồng minh”. Một số người nghiên cứu lịch sử thời kì Mĩ và chính quyền Sài Gòn thống trị Miền Nam (1954-1975) đã phủ nhận công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc chuẩn bị và lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng thắng lợi. Họ cho rằng “những người cộng sản đã “đánh cắp” thành quả của nhân dân trong Cách mạng tháng Tám”, bởi vì “tinh thần dân tộc đã lãnh đạo cách mạng thành công”. Tệ hơn nữa, họ còn bôi nhọ, xuyên tạc lịch sử bằng vu cáo “những người cộng sản đã phản bội Cách mạng tháng Tám 1945, phản bội cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân tiếp đó rồi chia cắt đất nước”.

Gần đây, một số người mang danh “nhà sử học” ở hải ngoại cùng với những tên phản động quốc tế tung ra các luận điệu xảo trá, nhằm phủ nhận con đường cứu nước đúng đắn dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1945-1975). Họ quy kết Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là “những kẻ hiếu chiến”, “dùng bạo lực để giành và giữ quyền lực chuyên chế”, gây nhiều hi sinh, tổn thất to lớn cho dân tộc. Một số người khác tập trung trong những cái gọi là “câu lạc bộ dân chủ”, những “hội phục quốc” đang hoạt động ở nước ngoài, chủ yếu ở Mĩ, đang tìm cách phủ nhận vai trò, công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo Cách mạng tháng Tám giành được thắng lợi. Dù buộc lòng phải thừa nhận Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp cho sự thành công của Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, Mĩ thì họ cũng khẳng định “con đường giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội đã lỗi thời!”, “vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã lỗi thời, phải nhường quyền lãnh đạo cho kẻ khác” (dĩ nhiên đó là bọn phản bội Tổ quốc, chống phá cách mạng”.

Lịch sử là sự thực khách quan, là chân lí không ai có thể bẻ gãy, xuyên tạc, phủ nhận. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng, những thủ đoạn nham hiểm của chiến lược “diễn biến hòa bình”, đánh vào thế hệ trẻ, sinh sau các sự kiện lịch sử của Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, du nhập lối sống đồi trụy, xa rời văn hóa, truyền thống dân tộc… những luận điểm ấy không phải không có tác hại nhất định, mà có khi còn nghiêm trọng. Điều nguy hiểm nhất là làm xói mòn niềm tin vào Đảng, Bác Hồ, vào con đường xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong sự kiện giải phóng dân tộc và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc.

Vì vậy, cần có những hình thức giáo dục trong nhà trường, chủ yếu qua các môn lịch sử, văn học, giáo dục công dân…, những hình thức giáo dục ngoài nhà trường qua sách báo, các phương tiện truyền thông đại chúng để cung cấp cho thế hệ trẻ những hiểu biết về Cách mạng tháng Tám, những sự kiện liên quan. Qua đó, giáo dục cho họ niềm tin vào con đường Cách mạng được xác định, tự hào về Cách mạng tháng Tám, củng cố lòng tin vào Đảng, Bác Hồ… Chống lại những luận điệu xuyên tạc lịch sử, mọi hình thức “diễn biến hòa bình”, biến niềm tin thành hành động cụ thể trong học tập, lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #152 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2011, 05:07:32 pm »

Thứ hai, hiểu biết về vai trò của quần chúng và cá nhân trong diễn biến Cách mạng tháng Tám, để giáo dục cho thế hệ trẻ lòng tin yêu đối với nhân dân, với Bác Hồ và các chiến sĩ cách mạng nói chung, những người trực tiếp tham gia, lãnh đạo Cách mạng tháng Tám.

Trong Cách mạng tháng Tám, vai trò của quần chúng nhân dân thể hiện cụ thể trong việc xây dựng các vùng giải phóng, căn cứ địa cách mạng, trong chiến đấu. Tuy quần chúng có sức mạnh to lớn, không một thế lực nào có thể ngăn cản, song trong những trường hợp, điều kiện, bối cảnh lịch sử nhất định, tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng không có lợi cho nhân dân và có thể hứng chịu những tổn thất to lớn. Không có tinh thần, quyết tâm chiến đấu, được tổ chức và lãnh đạo tốt thì khó thu được thắng lợi. Điều này giúp cho thế hệ trẻ nhận thức rằng, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân nhất định sẽ thành công, nhưng cũng phải trải qua nhiều gian khổ, hi sinh, những tổn thất nặng nề, to lớn.

Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, tuy diễn ra tương đối hòa bình, khi mà lực lượng của nhân dân trong cả nước được chuẩn bị khá đầy đủ, được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và tiến hành trong thời cơ thuận lợi, song không phải là không gặp khó khăn, thậm chí đổ máu. Ở một số địa phương, do phản ứng điên cuồng, tuyệt vọng của quân Nhật và bọn phản động, mà xung đột vũ trang đã xảy ra, như ở Thái Nguyên, Đông Anh (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Phúc Yên), Quảng Ngãi, Lộc Ninh (Thủ Dầu Một nay thuộc Bình Dương)…

Nói rộng hơn, trên con đường cứu nước mà Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh đi tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã trải qua bao nhiêu hi sinh, tổn thất trong các cao trào và khởi nghĩa. Cao trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, nhiều quần chúng và chiến sĩ cách mạng đã bị quân thù bắn giết, tù đày, chết dần trong các nhà tù - địa ngục trần gian của bọn đế quốc. Chỉ có lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của quần chúng, nền tảng tư tưởng của liên minh công nông vững bền, dưới sự lãnh đạo của Đảng mới có thể đủ tinh thần, nghị lực, sức mạnh chống lại kẻ thủ hung bạo. Hình tượng chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh được diễn đạt trong câu thơ chiến đấu xuất hiện lúc bấy giờ “Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng”.

Trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, cuộc nổi dậy của binh lính Đô Lương, kẻ thù đã dìm nhân dân ta trong biển máu với những hành động đàn áp, giết chóng vô cùng man rợ của thời trung cổ, nhưng vẫn không bóp chết được tinh thần, ý chí, sức mạnh chiến đấu của ho.

Tiêu biểu cho tấm gương anh hùng bất khuất của nhân dân ta trong thời kì 1930-1945, đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là Chủ tịch Hồ Chí Minh, các anh hùng liệt sĩ như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần và bao nhiêu chiến sĩ cách mạng có tên và không biết tên khác.

Qua cuộc đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong phong trào vận động giải phóng dân tộc và Cách mạng tháng Tám (1940-1945), chúng ta tạo cho thế hệ trẻ những biểu tượng về quần chúng nhân dân, về các chiến sĩ cách mạng để giáo dục lòng tin yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng biết ơn, niềm tin của Đảng và cách mạng. Từ đó, mỗi người tự xác định thái độ, hành động của mình trong cuộc sống hiện tại để tiếp bước cha ông, bảo vệ thành quả của cách mạng nói chung, Cách mạng tháng Tám 1945 nói riêng. Các địa phương trong nước còn lưu lại nhiều di tích, di vật lịch sử, trong đó có nhiều hiện vật về Cách mạng tháng Tám; một số chiến sĩ cách mạng, cán bộ, đảng viên đã từng tham gia, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở quê hương nay vẫn còn sống. Những di tích, hiện vật, nhân vật này là nguồn tài liệu quý giá, là phương tiện để giáo dục tư tưởng, tình cảm, lòng tin… rất có hiệu quả. Chúng ta cần giữ gìn, tôn tạo, khai thác các nguồn tài liệu này để giáo dục cho thế hệ trẻ.

Thứ ba, ngoài việc cung cấp các loại kiến thức chủ yếu nêu trên, chúng ta có thể khai thác nhiều sự kiện khác về Cách mạng tháng Tám, như diễn biến cách mạng trên các lĩnh vực, hành động phá hoại của kẻ thù… Tất cả những hiểu biết ấy tạo nên cơ sở vững chắc để giáo dục niềm tin cho thế hệ trẻ về dân tộc, nhân dân, về cách mạng, Đảng, Bác Hồ và quyết tâm học tập, noi gương việc xưa, người xưa.

Cuối cùng, lòng tin phải biến thành hành động cụ thể trong cuộc sống. Ở đây nguyên tắc “Học đi đôi với hành” phải được tuân thủ chặt chẽ. Các hình thức vui chơi, giải trí, học tập phải phù hợp với trình độ, đặc điểm của từng lứa tuổi, đang sống trong điều kiện ngày nay. Cần làm cho thế hệ trẻ tự nguyện, tự giác tiếp thu kiến thức, những điều giáo dục và biến thành hành động cụ thể.

*

Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện vĩ đại của lịch sử dân tộc, nó có tác dụng lâu dài trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn, Đảng ta đã khẳng định. Dĩ nhiên, con đường đấu tranh nào cũng đầy gian khổ, không tránh khỏi những khó khăn, nguy hiểm, sự tấn công lâu dài và mạnh mẽ của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Giữ vững và phát triển thành quả của Cách mạng tháng Tám và sự nghiệp kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không thể không giáo dục cho thế hệ trẻ niềm tin vững bền vào nhân dân, cách mạng, Đảng, Bác Hồ vĩ đại và biến niềm tin thành sức mạnh. Đây là một cách kỉ niệm thiết thực những ngày lễ lớn, trong đó có Cách mạng tháng Tám 1945.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #153 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2011, 05:12:21 pm »

BÀI HỌC VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

NGUYỄN THỊ CÔI(*)
TRẦN VĨNH TƯỜNG(**)

Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi để lại nhiều bài học khởi nghĩa quý báu cho các thế hệ sau, kế thừa và phát huy trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đó là:

- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định quan trọng bậc nhất trong việc đảo bảo thắng lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, thể hiện trong việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở công nông liên minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền.

- Nắm vững thời cơ và kiên quyết hành động khi thời cơ đã đến.



Trong những bài học kinh nghiệm này, chúng tôi tập trung trình bày vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Vì nó kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, thể hiện những vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bài học đại đoàn kết dân tộc rất có ý nghĩa đối với chúng ta trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là thương người và giúp đỡ nhau trong điều kiện hoàn cảnh khó khăn nghèo khổ của đất nước. Điều kiện tự nhiên của Việt Nam có nhiều thuận lợi, là một trong những nơi mà con người sớm xuất hiện, sinh sống và phát triển. Song tự nhiên cũng đem lại cho cư dân khu vực này những hiểm nguy như thiên tai, lũ lụt, phải vật lộn với tự nhiên để tồn tại. Vì vậy, họ phải giúp đỡ cưu mang nhau để khắc phục và chiến thắng những điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Việt Nam lại nằm ở vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, kinh tế, chính trị trên giao điểm của các con đường từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Vì vậy cư dân thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay sớm tiếp nhận được tinh hoa văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới, để xây dựng một nền văn hóa dân tộc phong phú, đa dạng. Đồng thời Việt Nam cũng sớm trở thành đối tượng xâm lược của kẻ thù từ nhiều phương đến, bao giờ cũng hùng mạnh, với số quân đông, vũ khí nhiều, cầm đầu là những tên tướng giàu kinh nghiệm chiến chinh. Chỉ có sức mạnh của lòng yêu nước, của đoàn kết dân tộc, nhân dân Việt Nam mới thắng được kẻ thù, dù có tạm thời thất bại hay bị đô hộ hàng chục thể kỉ, gần 100 năm hay mấy chục năm.

Từ thực tiễn lao động và chống ngoại xâm ấy, đã sớm nảy sinh ở dân tộc Việt Nam tinh thần, ý thức đoàn kết:

“Bầu ơi thương nấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.

Hoặc:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.

Từ truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc, kết hợp với văn hóa nhân loại, chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin và nguyện vọng ý thức của nhân dân lao động thế giới muốn liên kết với nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, xây dựng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm hình thành tư tưởng đại đoàn kết (dân tộc và quốc tế). Trong “Hồ Chí Minh - Toàn tập” ta thường thấy người luôn luôn nhắc đến, nhấn mạnh đoàn kết (dân tộc và quốc tế). Từ một vài câu ngắn gọn, súc tích, những luận văn, Hồ Chí Minh đi đến khẳng định một nguyên lí:

      “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
      Thành công, thành công, đại thành công”

Giới hạn ở thời kì vận động giải phóng dân tộc, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, chúng ta nhận thấy Hồ Chí Minh đã chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thiết lập mối quan hệ quốc tế để cùng nhau đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và giành độc lập dân tộc.

Nhận định Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra là thời cơ thuận lợi để cách mạng giải phóng dân tộc thành công, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trong tình hình mới, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (10 - 19.5.1941) đã quyết định đặt vấn đề dân tộc “lên cao hết thảy”. Bởi vì, “trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(1).Ý nghĩa quan trọng của nghị quyết này không chỉ đối với tình hình, nhiệm vụ cách mạng lúc bấy giờ mà là bài học kinh nghiệm cho chúng ta ngày nay, khi cần tập hợp lực lượng của nhân dân trong nước, cũng như người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước để sớm thoát khỏi nguy cơ “bị tụt hậu”. Việc đặt vấn đề dân tộc để tập trung giải quyết lúc bấy giờ không hề làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mục tiêu của cách mạng Việt Nam, được xác định trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (“Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”).

Khi tập trung giải quyết một nhiệm vụ “của cách mạng giải phóng”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII đề ra các “công việc khẩn trương”:

“a. Mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc sẵn có làm cho các đoàn thể có một tinh thần hi sinh sẵn sàng gây cuộc khởi nghĩa.

b. Mở rộng các tổ chức vào những nơi thành thị, sản nghiệp, hầm mỏ, đồn điền.

c. Mở rộng tổ chức vào các tỉnh phong trào còn yếu ớt và dân tộc thiểu số”(2).

Chủ trương trên nhằm tập hợp, đoàn kết nhân dân khắp cả nước để chuẩn bị lực lượng Tổng khởi nghĩa và trước mắt tạo điều kiện cho việc thành lập một tổ chức dân tộc thống nhất phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ lúc bấy giờ.

Điều này có ý nghĩa quan trọng và là bài học kinh nghiệm cho ngày nay: muôn huy động mọi lực lượng của đông đảo quần chúng để giải quyết một nhiệm vụ trọng tâm thì phải chuẩn bị thật kĩ từ khâu tuyên truyền, vận động, đến tổ chức thực hiện.

Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ VIII về đoàn kết toàn dân và xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kì chuẩn bị lực lượng, tiến tới Tổng khởi nghĩa, Hội Việt Nam độc lập đồng minh viết tắt là Việt Minh được thành lập ở Pác Bó ngày 19.5.1941.

Sự ra đời của Việt Minh là sự kế tục các hình thức tổ chức của mặt trận dân tộc thống nhất trước đó - Mặt trận dân chủ Đông Dương, Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh thể hiện tư tưởng đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Ngay khi mới về nước, Người đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ và “tổ chức thí điểm Việt Minh ở ba châu Hòa An, Hà Quảng và Nguyên Bình (từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1941), các tổ chức cứu quốc đầu tiên đã ra đời thu hút hơn 2000 hôi viên, gồm đủ các thành phần, đủ các lứa tuổi, các dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông… tham gia”(3).


(*) PGS.TS. Trường đại học Sư phạm Hà Nội.
(**) PGS.TS. Trường đại học Sư phạm, Đại học Huế.
(1) Văn kiện Đảng 1930-1945, tập 3, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1977, tr. 196.
(2) Sđd, tr. 215.
(3) Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 37.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #154 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2011, 05:20:09 pm »

Từ kinh nghiệm đã thu được trong việc tiến hành thí điểm và theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, Việt Minh được tổ chức trong khắp cả nước, từ khu giải phóng Cao Bằng đến hầu hết các địa phương. Sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc được thể hiện trong Mặt trận dân tộc thống nhất là các Hội Cứu quốc - thành viên của Mặt trận, như Hội Công nhân cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Học sinh cứu quốc đoàn… Qua Việt Minh và các Hội Cứu quốc, chúng ta nhận thấy Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh huy động sức mạnh của tất cả các tầng lớp nhân dân, giai cấp xã hội, không phân biệt nam, nữ, già, trẻ, dân tộc, tôn giáo, tập hợp trong một tổ chức rộng lớn và các đoàn thể quần chúng cùng một mục tiêu chung, cấp bách lúc bấy giờ - cứu nước, giải phóng dân tộc. Mục tiêu này đã có sức thu hút mọi người dân tham gia. Bài học này được kế thừa và phát huy có hiệu quả trong việc thành lập Hội Liên Việt, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam và hiện nay khi nhân dân đang ra sức xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, tiến bộ.

Một bài học về đoàn kết dân tộc được thực hiện trong thời kì chuẩn bị, tiến tới Tổng khởi nghĩa là việc giáo dục, phát động lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của các tầng lớp nhân dân.

Ngay sau khi Việt Minh và các Hội Cứu quốc ra đời, Hồ Chí Minh đã có một loạt bài, đăng trên tờ Việt Nam độc lập để động viên tinh thần đấu tranh, sự đoàn kết của các giới, tầng lớp nhân dân, đó là các bài “Dân cày” (đăng ngày 21.8.1941), “Phụ nữ” (1.9.1941), “Trẻ con” (21.9.1941) “Công nhân” (11.10.1941), “Các binh lính” (1.11.1941). Nội dung các bài viết đều tố cáo tội ác của bọn thực dân đế quốc đối với các tầng lớp nhân dân, kêu gọi tham gia Việt Minh, Hội Cứu quốc để hoàn thành nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc. Ví như, đối với phụ nữ:

      “Chị em cả trẻ đến già,
      Cùng nhau đoàn kết dậy mà đấu tranh.
      Đua nhau vào hội Việt Minh
      Trước giúp nước sau giúp mình mới nên"
(1).

Đối với công nhân:

      “Cùng nhau vào hội Việt Minh
      Ra tay tranh đấu, hi sinh mới là,
      Bao giờ khôi phục nước nhà,
      Của ta ta gửi, công ta ta làm”
(2).

Đối với binh lính người Việt trong quân đội thực dân Pháp, Người chỉ đường chính nghĩa để theo:

      “Anh em binh lính ta ơi!
      Chúng ta cùng giống cùng nòi Việt Nam;
      Việc chi có lợi thì làm
      Cứu dân, cứu quốc há cam kém người!
      Trong tay sẵn có súng này,
      Quyết quay đánh Nhật, đánh Tây, mới đành
      Tiếng thơm để tạc sử xanh;
      “Việt binh cứu quốc” rạng danh muôn đời”
(3).

Bài học về đoàn kết được Hồ Chí Minh rút ra trên cơ sở trình bày cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và giành độc lập dân tộc nêu trong quyển “Lịch sử nước ta”, được Người biên soạn khi mới về nước lãnh đạo cuộc cách mạng Việt Nam. Quyển “Lịch sử nước ta” là một quyển sử diễn ca, trình bày quá trình dựng nước và giữ nước, chủ yếu là nêu lên truyền thống đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam, thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc. Từ sự thật lịch sử, Người rút ra một chân lí: Chúng ta thất bại “Vì chúng ta không đoàn kết bị người tính thôn”, chúng ta thắng lợi “Vì dân hăng hái kết đoàn”. Trên cơ sở ấy, Người rút ra bài học:

“Dân ta xin nhớ chữ đồng,
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
(4).

Vì vậy, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Người kêu gọi:

“Hỡi ai con cháu rồng tiên!
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau
Bất kì nam nữ nghèo giàu,
Bất kì già trẻ cùng nhau kết đoàn.
Người giúp sức kẻ giúp tiền,
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Cùng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh.
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng”
(5).

Việc giáo dục tư tưởng qua thơ ca, qua tuyên truyền vận động như vậy là một cơ sở để quần chúng nhân dân tiếp thu quan điểm đường lối của Đảng nói chung, và đoàn kết dân tộc nói riêng, thể hiện trong hành động cách mạng. Vì vậy, quần chúng nhân dân cả nước đã vui mừng đón nhận bài “Kính cáo đồng bào” (6.6.1941) của Nguyễn Ái Quốc, kêu gọi “Toàn dân đoàn kết” và “đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật”(6). "Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa” (tháng 8.1945) của Người, với khẳng định: “Chỉ có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập” và kêu gọi toàn dân đoàn kết chung quanh Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, “làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước”(7).

Tinh thần đoàn kết dân tộc được thể hiện mạnh mẽ, có hiệu quả trong những ngày Tổng khởi nghĩa trong cả nước, ở bất cứ địa phương nào; trong hàng ngũ những người đấu tranh giành chính quyền đều có đủ các tầng lớp, các giới nam, phụ, lão, ấu yêu nước.

Cuộc Tổng khởi nghĩa tuy nổ ra trong điều kiện thời cơ đã chín muồi, nhưng chính khí thế của quần chúng, biểu hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc, đã làm cho các thế lực phản động phải run sợ. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, xét cho cùng, bắt nguồn từ sức mạnh của quần chúng nhân dân, đoàn kết thành một khối vững chắc, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy sức mạnh của nhân dân trong Cách mạng tháng Tám là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân được Đảng, Bác Hồ giáo dục, tổ chức thành những đội quân chính trị và vũ trang, quyết tâm đấu tranh giành chính quyền trong cả nước. Khẳng định sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8.1945, Tổng Bí thư Trường Chinh trong những ngày lịch sử này nêu rõ: “Cách mạng tháng Tám thắng lợi một phần nửa ở chỗ toàn dân đoàn kết quần chúng nổi dậy. Tuy nhiên có sức mạnh to lớn là có sự lãnh đạo của Đảng. Nếu Đảng và Việt Minh không thống nhất được các tầng lớp đồng bào, không có uy tín trong nhân dân, không lãnh đạo được quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền thì cách mạng có thể thất bại”.

Sự thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc - một nhân tố quan trọng đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.


(1) (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 202, 204.
(3) Sđd, tr. 229, tr. 228-229.
(4) Sđd, tr. 229, tr. 228-229.
(5) Sđd, tr. 198.
(6) Sđd, tr. 554.
(7) Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 35.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #155 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2011, 05:24:17 pm »

GIÁO DỤC VỀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
CHO THẾ HỆ TRẺ

NGUYỄN ANH DŨNG(*)

Lịch sử xã hội loài người phát triển liên tục, hợp quy luật từ lúc xuất hiện đến nay và mãi về sau. Trong tiến trình này, con người là chủ nhân của lịch sử, kế thừa và phát triển mọi thành tựu tinh thần và vật chất của tổ tiên qua các thời kì một cách tự giác và sáng tạo.

Vì vậy, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ là trách nhiệm của những lớp người đi trước, để tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển bền vững xã hội. Trong nội dung giáo dục thế hệ trẻ, giáo dục lịch sử có vai trò, ý nghĩa quan trọng; bời vì mỗi người đi vào cuộc sống đều mang theo mình những giá trị của quá khứ, truyền thống dân tộc để làm bệ phóng bay cao, bay xa hơn. Lãng quên quá khứ sẽ không có trách nhiệm với hiện tại và phấn đấu cho một tương lai huy hoàng hơn.

Dân tộc Việt Nam không chỉ có lịch sử oai hùng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn có ý thức và khởi nghĩa giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, biết “lấy xưa để phục vụ nay”. Năm 1941, khi đã sáng tác quyền Lịch sử nước ta thì hai câu mở đầu được xem như nguyên tắc phương pháp luận của việc học tập, nghiên cứu lịch sử của chúng ta.

“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
(1)

Theo đó, học lịch sử không phải chỉ để biết quá khứ mà trên cơ sở hiểu biết quá khứ để hiểu sâu sắc hiện tại, tích cực đấu tranh cho hiện tại, dự đoán con đường phát triển tương lai và góp phần làm cho tương lai trở thành hiện thực. Việc học tập, nghiên cứu lịch sử không có nghĩa là tiếp nhận một cách thụ động, học vẹt, biết mà không hiểu sự kiện quá khứ, không thể hiện tính chất “hành” của bộ môn. Bởi vì, lịch sử chính là cuộc sống đã qua, đang chứa đựng những mầm sống của tương lai sẽ được hiện thực hóa. Con người đã hành động để tạo nên lịch sử, thì việc học tập, nghiên cứu lịch sử phải gắn với hành. Đây là việc thực hiện nguyên lí, phương châm giáo dục của Đảng trong giáo dục nói chung, trong giáo dục lịch sử nói riêng.

Một sự kiện lịch sử đều cần phải tìm hiểu, nghiên cứu, học tập, song phải tập trung vào những sự kiện cơ bản. Theo Lênin, sự kiện cơ bản là sự kiện không thể thiếu được để hiểu biết lịch sử; nó mang tính chính xác, tiêu biểu, điển hình. Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện cơ bản của lịch sử dân tộc và trong một mức độ nhất định cũng là sự kiện cơ bản của chương trình lịch sử thế giới thể kí 20. Do đó, không chỉ trong chương trình, sách giáo khoa lịch sử Việt Nam, Cách mạng tháng Tám 1945 có vị trí quan trọng mà trong chương trình sách giáo khoa nhiều nước phương Tây, các nước độc lập dân tộc, sự kiện này cũng được đề cấp đến. Tuy nhiên, việc nhìn nhận, đánh giá một sự kiện lịch sử bao giờ cũng phụ thuộc vào quan điểm, mục đích giáo dục. Cho nên, việc trình bày về Cách mạng tháng Tám 1945 của Việt Nam ở một số tài liệu giáo khoa nước ngoài không khỏi có những sai lệch, thậm chí xuyên tạc lịch sử mà chúng ta cần vạch rõ.

Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện quan trọng trong chương trình lịch sử dân tộc,được xây dựng ngay từ năm học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945-1946). Qua các lần Cải cách giáo dục (1950, 1956, 1976), và sửa chữa đổi mới chương trình, Sách giáo khoa Lịch sử, sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 được xác nhận sự cần thiết phải giáo dục cho thế hệ trẻ và ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của nó. Theo điều tra của chúng tôi, số học sinh trung học (cơ sở và phổ thông) ít am hiểu về Cách mạng tháng Tám chiếm tỉ lệ nhỏ. Bởi vì, tiếng vang, ảnh hưởng dấu vết của Cách mạng tháng Tám còn in đậm mét trong cuộc sống hiện tại. Ở đâu các em cũng còn có thể gặp gỡ những chứng nhân, những con người đã tham dự, góp phần làm nên Cách mạng tháng Tám. Các em còn nhìn thấy những hiện vật của Cách mạng tháng Tám, nghe những câu chuyện lí thú về sự kiện vừa xảy ra cách đây 60 năm. Hiện tượng “lãnh cảm” với một sự kiện vĩ đại, thái độ thờ ơ với Cách mạng tháng Tám, vì không sống những ngày lịch sử ấy thì không rung cảm, không hiểu biết… không hề thấy xuất hiện ở bất cứ học sinh nào. Điều này thể hiện một truyền thống của dân tộc Việt Nam - lòng biết ơn với tổ tiên, sự tự hào chính đáng với những chiến công lẫy lừng trong quá khứ.

Qua điều tra, chúng tôi cũng nhận thấy một hiện tượng khá phổ biến là kiến thức của học sinh các cấp về Cách mạng tháng Tám 1945 ở nhiều nơi còn chung chung, hời hợt, chưa khắc sâu vào tâm trí. Em nào cũng có thể nói Cách mạng tháng Tám là do Đảng lãnh đạo, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự đấu tranh anh hùng của nhân dân, song nhiều em không thể nêu một sự kiện cụ thể, thậm chí không ghi nhớ được ngày 19.8 là ngày khởi nghĩa ở Hà Nội. Việc học tập lịch sử như vậy vừa không nắm được sự kiện cơ bản, vừa không hiểu được diễn biến, ý nghĩa của lịch sử quá khứ, phù hợp với trình độ của học sinh. Tính chất thực hành của môn học càng bị xem nhẹ. Hầu hết học sinh các cấp không biết sử dụng bản đồ, vẽ sơ đồ, sưu tầm tranh ảnh, tài liệu, làm các loại bài tập… Chất lượng dạy học bộ môn rõ ràng sút kém, không gây được hứng thú cho học sinh, hiệu quả giáo dục giảm. Do đó, vai trò, vị trí của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông không được nâng cao, không đúng với chức năng, nhiệm vụ của nó trong việc giáo dục thế hệ trẻ.

Trong việc đổi mới giáo dục nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, việc cải cách thệ thống giáo dục đi đôi với việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Trong quá trình dạy học, các khâu xác định mục tiêu đào tạo, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, tiến hành kiểm tra đánh giá được thực hiện trong một thể thống nhất, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục bộ môn.


(*) TS Viện Chiến lược và nội dung, Bộ Giáo dục và đào tạo.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 220.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #156 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2011, 05:27:00 pm »

Theo phương hướng như vậy, trong chương trình và sách giáo khoa Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 được giới thiệu ở các lớp Năm, Chín, Mười hai của trường Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Trên cơ sở xây dựng chương trình theo nguyên tắc đồng tâm kết hợp với đường thẳng, sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 được trình bày phù hợp với mục tiêu của từng cấp về mặt kiến thức, tư tưởng, kĩ năng, không có sự trùng lặp, song kế thừa và phát triển trong nhận thức lịch sử ở các lớp.

Ở lớp Năm, Cách mạng tháng Tám chỉ giới hạn ở việc giới thiệu cho học sinh một số kiến thức cơ bản về sự kiện này: tình hình đất nước, diễn biến, kết quả, ý nghĩa… Điều quan trọng là tạo cho các em một biểu tượng có hình ảnh, đúng về sự kiện, không nhầm lẫn với các sự kiện khác. Qua đó, giáo dục cho học sinh lòng biết ơn đối với những người đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng này, đặc biệt đối với Bác Hồ kính yêu.

Học sinh lớp Chín sử dụng những kiến thức về Cách mạng tháng Tám đã học ở bậc Tiểu học, cùng với những kiến thức có liên quan được tiếp nhận ở các môn khác (Văn học, Giáo dục công dân…), các hoạt động ngoại khóa, những kiến thức qua các phương tiện truyền thông đại chúng để hiểu sâu sắc hơn về cuộc cách mạng này. Các em cần hiểu rõ hơn trong tình hình nào cuộc Cách mạng tháng Tám đã nổ ra, sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh anh hùng của toàn dân tộc. Sự nhận thức như vậy củng cố lòng tin yêu của học sinh đối với nhân dân, cách mạng, Đảng, Bác Hồ.

Học sinh lớp Mười hai tuy tìm hiểu về Cách mạng tháng Tám với khối lượng không nhiều hơn ở Trung học cơ sở, song phải hiểu sâu sắc hơn. Điều này thể hiện ở một nguyên tắc trong xây dựng chương trình và sách giáo khoa lịch sử ở các cấp không thể phân biệt bằng khối lượng kiến thức - sự kiện tiếp nhận (không phải lên lớp cao thì phải học nhiều sự kiện chi tiết, nặng nề) mà ở sự hiểu biết sâu sắc hơn về lịch sử. Khối lượng kiến thức mà học sinh lớp Mười hai tiếp nhận về Cách mạng tháng Tám từ nhiều nguồn khác nhau với năng lực tự học, phát huy tính tích cực của mình rất phong phú. Đây là cơ sở quan trọng để các em tự tìm hiểu, nghiên cứu về Cách mạng tháng Tám, chứ không phải chỉ dựa vào kiến thức trong sách giáo khoa hay bài giảng của giáo viên trên lớp.

Học sinh lớp Mười hai cần nâng cao nhận thức của mình về Cách mạng tháng Tám ở những vấn đề lí luận, phù hợp với trình độ của mình. Đó là các vấn đề về tình thế cách mạng, thời cơ (việc nhận thức thời cơ hình thành một cách khách quan và khả năng chủ quan, quyết tâm hành động khi có thời cơ…). Sự hiểu biết này giúp cho học sinh hiểu rõ hơn đường lối, chủ trương của Đảng, quyết tâm hành động cách mạng của nhân dân Việt Nam, tiêu biểu là Hồ Chí Minh, khi thời cơ đã đến. Sự nhận thức này sẽ được liên hệ với tình hình và nhiệm vụ cách mạng trước mắt, tăng thêm quyết tâm, sự hiểu biết và năng lực hành động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay, khi chúng ta đang đứng trước những thuận lợi, cơ hội đồng thời phải đối đầu với nhiều thử thách, nguy cơ…

Nội dung chương trình, sách giáo khoa về Cách mạng tháng Tám 1945 như vậy đã thể hiện tinh thần, phương hướng đổi mới việc dạy học lịch sử nói chung, sự kiện này nói riêng. Dĩ nhiên, nội dung này chỉ đạt được mục tiêu giáo dục bộ môn khi mà giáo viên lịch sử đổi mới phương pháp dạy học.

Việc dạy học về Cách mạng tháng Tám 1945 trong giờ Lịch sử cần thiết và có khả năng đổi mới phương pháp dạy học ở các cấp. Phải khắc phục tình trạng “thầy nói, trò ghi” trong giờ lịch sử mà nhiều năm trước đây cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phê phán: “Chúng ta thấy được cái gì qua các thời đại lịch sử và từ đó chúng ta rút ra được kết luận gì, bài học gì? Mác, một nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin đã vũ trang cho chúng ta một phương pháp đúng đắn đề nghiên cứu lịch sử, từ đó rút ra những kết luận có ý nghĩa quán triệt, thiết thực.

… Lịch sử đâu có phải là một chuỗi sự kiện để người viết sử ghi lại, rồi người giảng sử đọc lại, người học sử lại học thuộc lòng”(1).

Việc đổi mới giáo dục lịch sử nói chung, giáo dục về Cách mạng tháng Tám 1945 nói riêng, đòi hỏi phải cấp bách thực hiện, khi mà chúng ta đang đảm nhận nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chưa hề có tiền lệ trong lịch sử dân tộc, đồng thời lại hòa nhập vào thế giới và khu vực. Giữ vững truyền thống, bản sắc dân tộc, quyết tâm đi theo con đường mà Bác Hồ và Đảng lựa chọn, khẳng định là một nguồn gốc, nhân tố tạo nên sức mạnh cho hôm nay và ngày mai.

Để cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 sống mãi trong thế hệ trẻ cần phải đẩy mạnh việc giáo dục sự kiện này trong và ngoài nhà trường, với sự phối hợp của ngành giáo dục và các lực lượng xã hội, bằng nhiều phương pháp, phương thức, phương tiện cập nhật có hiệu quả. Đó là kết hợp việc dạy học ở trường với các phương tiện truyền thông đại chúng, với hoạt động của các nhà bảo tàng, nhà truyền thông, lưu niệm, các di tích lịch sử cách mạng…

Giáo dục các sự kiện quá khứ để tạo nên những con người đảm nhận sứ mệnh lịch sử hôm nay và ngày mai. Coi nhẹ việc giáo dục lịch sử nói chung, giáo dục về Cách mạng tháng Tám nói riêng sẽ có hậu quả lớn trong việc đào tạo con người kế tục sự nghiệp cách mạng của cha ông.


(1) Phạm Văn Đồng: Mấy vấn đề về văn hóa giáo dục, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 158.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #157 vào lúc: 05 Tháng Mười, 2011, 08:18:01 am »

GHI NHỚ CÔNG LAO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
ĐỐI VỚI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

NGUYỄN VĂN PHONG(*)

Hồ Chí Minh, Anh hùng dân tộc Việt Nam, đời đời được nhân dân ghi nhớ. Bởi vì, Người là một “biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc, đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(1).

Công lao của Người đối với dân tộc là vô cùng to lớn, từ việc gắn cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, xác định con đường cứu nước đúng, thành lập Đảng, lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công và đưa tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mĩ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, rồi cả nước thống nhất. Trong các công lao to lớn ấy, việc lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 là một công lao sáng ngời nhất. Bởi vì thắng lợi của Cách mạng tháng Tám xác nhận tính đúng đắn, sáng tạo, thể hiện nghệ thuật, quyết tâm của Người trong đấu tranh giải phóng dân tộc và mở ra một thời kì mới trong lịch sử Việt Nam - thời kì độc lập dân tộc gắp với chủ nghĩa xã hội.

Những công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cho “Người (vẫn) sống mãi với non sông đất nước, tên tuổi và hỉnh ảnh của Người càng khắc sâu trong trái tim khối óc của mỗi một chúng ta”(2).

Việc giáo dục lòng kính yêu, biết ơn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được thường xuyên quan tâm, chú trọng, đồng bào là đối với thế hệ trẻ. Theo cuộc điều tra xã hội học năm 2003, về những hiểu biết của giới trẻ đối với Bác Hồ thì kết quả đáng cho chúng ta quan tâm.

- 70% học sinh chỉ nắm những kiến thức về Bác Hồ được tiếp thụ trong các bộ môn Văn học, Lịch sử, Giáo dục công dân… Sự hiểu biết này không sâu sắc, chưa được khắc sâu trong tâm trí của các em, thậm chí có những kiến thức không vững chắc, nhầm lẫn về những hoạt động, công lao của Bác Hồ.

- 10% số thanh thiếu nhi sớm bỏ học, hoặc học kém, lười học hầu như không có hiểu biết gì đáng kể về Bác Hồ.

- 20% thanh thiếu niên học sinh say mê tìm hiểu cuộc đời của Bác; trong các dịp kỉ niệm ngày sinh của Người, những cuộc thi tìm hiểu về Người thì tỉ lệ này tăng lên đáng kể.

Một điều cần quan tâm là việc giáo dục ở nhà trường qua các bộ môn khoa học xã hội, hoạt động ngoại khóa, các phương tiện truyền thông đại chúng, nội dung sinh hoạt của Đoàn, Hội, Đội chưa thực sự đổi mới. Những thiếu sót về bệnh công thức, khô khan không phong phú về hình thức lẫn nội dung sinh hoạt còn khá phổ biến(3).

Qua kết quả điều tra trên, chúng tôi cho rằng việc giáo dục lòng biết ơn, lòng tin yêu vào Đảng, Bác Hồ đối với nhân dân, đặc biệt thế hệ trẻ, cần được chú trọng thường xuyên, luôn được đổi mới về nội dung và phương pháp giáo dục… Trong việc tăng cường giáo dục này, trước hết cần cung cấp cho họ những kiến thức xác đúng, đấu tranh chống sự xuyên tạc lịch sử. Sự kiện khoa học là cơ sở cho việc khái quát lí luận, nền tảng của việc giáo dục tư tưởng tình cảm, lòng tin. Kẻ thù cách mạng đánh vào lòng tin của nhân dân, thế hệ trẻ bắt đầu từ việc tuyên truyền, đưa tin sai sự thật, làm sai lệch suy nghĩ và hướng vào những hành động sai trái.

Trong phạm vi bài này, chúng tôi giới hạn ở việc trình bày những tài liệu - sự kiện xác thực về công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, nối tiếp các công lao trước đó, đặt cơ sở cho nhiều đóng góp tiếp theo của Người.


(*) ThS. Thành đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hà Nội.
(1) Nghị quyết UNESCO về “Kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, 1990.
(2) Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trích Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 520
(3) Dựa theo kết quả điều tra của đề tài cấp Nhà nước “Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống” do PGS.TS Lê Văn Tích, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ niệm, tài liệu lưu tại Viện Hồ Chí Minh.
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Mười, 2011, 09:32:38 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #158 vào lúc: 05 Tháng Mười, 2011, 08:22:36 am »

Thứ nhất, dự đoán về thắng lợi của cách mạng và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh. Vấn đề này đã được đề cập nhiều trong các sách báo, chúng tôi không trình bày thêm, song muốn nhấn mạnh đến một nguyên tắc phương pháp luận về nhận thức lịch sử và hành động thực tiễn của Hồ Chí Minh.

Trong hoạt động cách mạng, cũng như các tiền bối bậc thầy (Mác, Ăngghen, Lênin), Hồ Chí Minh bao giờ cũng rèn luyện khả năng hiểu biết quá khứ để hiểu biết sâu sắc hiện tại, hành động có hiệu quả để hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt và dự đoán con đường phát triển tương lai. Hồ Chí Minh có nhiều tiên đoán và thiên tài về việc phát triển lịch sử trong tương lại. Ví như, trong quyển Lịch sử nước ta (1941), Người ghi trong mục Những năm quan trọng, một sự kiện chưa xảy ra, chỉ nằm trong dự đoán: “1945 - Việt Nam độc lập”. Cũng như nhiều sự kiện xảy ra sau đó, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã xác định tính đúng đúng đắn dự đoán của Người, “sự trung hợp này là điều ngẫu nhiên, nhưng sự tiên đoán dựa trên cơ sở sự phát triển tất yếu của cách mạng mà Người đã nhận thức được do biết phân tích đúng đắn quá khứ, nắm được quy luật lịch sử”(1). Phân tích khả năng tiên đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh chỉ rõ: “Thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin và những khởi nghĩa đấu tranh lâu năm đã làm cho Người có khả năng đoán trước được thời cuộc, mau lẹ nhận ra những bước ngoặt của lịch sử và đề ra những khẩu hiệu thích hợp nhằm xoay chuyển tình hình”.

Sự dự đoán về thắng lợi của cuộc cách mạng đi liền với việc nhận thức về thời cơ cách mạng để hành động khi thời cơ đến. Lúc Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra,Người đã khẳng định đây là thời cơ cho cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, vì mâu thuẫn giữa các nước đế quốc sẽ làm cho chúng suy yếu. Với nhận định như vậy, Người đã về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, chuẩn bị mọi điều kiện cho cách mạng nổ ra thành công khi thời cơ đã đến.

Sự chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi phải kể từ lúc Nguyễn Tất Thành quyết định ra di tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Tiếp đó là việc xác định con đường cứu nước đúng, việc chấm dứt sự khủng hoảng trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thành lập Đảng, thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Các phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo trong những năm 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 được xem như “cuộc Tổng diễn tập” của Cách mạng tháng Tám 1945. Bởi vì, trong phong trào cách mạng này, tuy có phần thất bại, nhưng đã để lại những cơ sở quan trọng, những bài học kinh nghiệm quý cho thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám: sự lãnh đạo của Đảng được rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh gian khổ mà anh dũng, việc tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc xây dựng chính quyền cách mạng sơ khai, thành lập lực lượng vũ trang…

Rõ ràng, trong phong trào vận động cứu nước 1939-1945 tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chúng ta nhận thấy “sự tái hiện” những thành công, những ưu điểm, những mặt tích cực của những phong trào cách mạng trước đó, do Đảng ta lãnh đạo. Vì vậy, bước tiến của cách mạng giải phóng dân tộc từ 1930-1945 hiện ra ngày càng rõ rệt và là sự chuẩn bị tích cực cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Trong sự chuẩn bị này, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần cùng Đảng hoạch định đường lối cách mạng đúng, kiên trì thực hiện những chủ trương đúng, đấu tranh “có lí”, “có tình”, với ý thức tổ chức kỉ luật cao, để bảo vệ quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng. Dù phải trải qua nhiều cam go, khó khăn, đặc biệt trong những năm 1933-1938, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ, giữ vững đường lối cách mạng mà Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã khẳng định. Đây là một cơ sở rất quan trọng để đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và cũng thể hiện công lao to lớn của Người.

Thứ ba, kiên quyết cùng Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đã đến. Từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), Đảng đã đẩy mạnh việc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, ngày 12.3.1945, đã phát động một cao trào chống Nhật cứu nước trong toàn quốc. Phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần diễn ra khắp nơi, mà cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi) ngày 11.3.1945 là một trong số ít các cuộc đấu tranh mở đầu cho thời kì mới của cách mạng.

Đầu tháng 5.1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng của cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Theo chỉ thị của Người, đầu tháng 6.1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập.


(1) Phạm Ngọc Liên (chủ biên): Phương pháp luận sử học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2003, tr. 112.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười, 2011, 08:49:30 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #159 vào lúc: 05 Tháng Mười, 2011, 08:25:50 am »

Trong gian nhà lá đơn sơ ở Nà Lừa, Bác Hồ đã trải qua những ngày thiếu thốn, gian khổ, nhưng tinh thần và nghị lực làm việc thật phi thường, Bác có mặt ở mọi nơi, quan tâm đến mọi người. Có lần Bác bị ốm nặng, nhưng vẫn gắng làm việc. Bác gầy yếu, đầu đội chiếc mũ nồi bằng vải túm lại, mặc áo cộc chàm, chân tay khẳng khiu, chỉ có đôi mắt vẫn sáng. Thuốc men chẳng có gì, ngày vài viên thuốc cảm và kí ninh. Bác lên cơn sốt và luôn luôn mê sảng. Lúc tỉnh, Bác chỉ nói chuyện tình hình và dặn dò; “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Suốt mấy ngày đêm, Bác vẫn trong tình trạng nguy kích. May nhờ một cụ làng người Tày cho thuốc uống. Thuốc là một thứ củ đào từ trong rừng về, đem đốt cháy rồi hòa với cháo loãng. Cơn sốt lui dần. Bác lại gượng dậy, tiếp tục làm việc”(1).

Sau khi phát xít Đức đầu hàng, quân phiệt Nhật lần lượt bị đánh bại ở các chiến trường Châu Á, Thái Bình Dương, Hồ Chí Minh càng khẳng định thời cơ cách mạng đang đến dần, phải nhanh chóng hành động kiên quyết và kịp thời.

Được tin Hồng quân Liên Xô thắng trận và Nhật chuẩn bị đầu hàng Đồng minh, đêm 13.8.1945, Người đề nghị Ủy ban toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.

Trong những ngày từ 13 - 15.8, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào. Tuy chưa bình phục hẳn sau trận ốm nặng, Bác vẫn tham gia Hội nghị đầy đủ, thống nhất chủ trương lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa, trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương.

Ngay sau Hội nghị, ngày 16.3.1945, Đại hội quốc dân cũng khai mạc ở Tân Trào. Đây là “hội nghị Diên Hồng” của thời đại Hồ Chí Minh, tinh thần “Sát thát”, ý chí “Quyết đánh” của quân dân đời Trần đã sống lại ở Đại hội Quốc dân Tân Trào, mà người khởi xướng và chủ trì Đại hội là Hồ Chí Minh.

Đây là lần đầu tiên từ sau khi về nước, Bác tham dự một đại hội đại biểu nhân dân. Ban tổ chức Đại hội giới thiệu Bác là Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng lão thành tham gia đoàn chủ tịch. Nhiều đại biểu không khỏi ngạc nhiên vì chưa được nghe tên Hồ Chí Minh bao giờ. Đến khi Người tuyên bố khai mạc Đại hội thì cả hội trường truyền đi những tiếng rầm rì: “Đó chính là Nguyễn Ái Quốc”. Tiếp đó, tiếng vỗ tay vang lên chào mừng người lãnh tụ kính yêu và thể hiện niềm tin vào thắng lợi của cách mạng. Suốt ngày hôm ấy, Bác điều khiển Đại hội và nổi bật với quyết tâm giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Ngay sau khi Đại hội kết thúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến đồng bào, cán bộ, các đoàn thể quần chúng, chiến sĩ cả nước Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, trong đó có đoạn: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta…

Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ của Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(2).

Sáng ngày 17.8, Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân và làm lễ tuyên thệ. Thay mặt Ủy ban, hướng lên lá cờ đỏ sao vàng tung bay trước đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời tuyên thệ ngắn gọn, súc tích. Giọng nói của Người vang lên trong bầu không khí trang nghiêm: “Chúng tôi là những người được quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù hải hi sinh đến giọt máu cuối cùng quyết không lùi bước. Xin thề!”. Mọi người cùng giơ tay, hô to: “xin thề!”.

Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân cả nước lúc bấy giờ đã vùng dậy Tổng khởi nghĩa, giải phóng toàn bộ đất nước khỏi ách thống trị của thực dân đế quốc và tay sai.

Ngày 19.8.1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội thắng lợi. Ngày 25.8, Bác Hồ về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, do Đại hội Quốc dân Tân Trào bầu ra, được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ. Cử chỉ, hành động của Người càng có sức thu hút nhân tâm, kết thành một khối để bảo vệ thành quả của cách mạng vừa giành được. Trong cuộc đời cách mạng gian nan của mình, đây là ngày vui lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi rời Tổ quốc ra đi, đất nước còn đắm chìm trong đêm tối chưa tìm được đường ra. Thế mà bây giờ, sau 34 năm chiến đấu, với bao sự kiện huy hoàng của dân tộc, cờ độc lập đã tung bay trên khắp cả nước. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trở thành vị Chủ tịch của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đây không chỉ là niềm vui của Người mà là niềm vui lớn của toàn dân. Cái vĩ đại của Người đã hòa cái riêng của mình vào trong cái chung của dân tộc và giành được thắng lợi.

Tình thế lúc bấy giờ rất khẩn trương. Thường vụ Trung ương Đảng quyết định ngày ra mắt của Chính phủ lâm thời cũng là ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay vào dự thảo bản Tuyên ngôn độc lập và chuẩn bị cho “Ngày độc lập”, tuyên bố nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời.

Cách mạng tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây là sự phát triển hợp lôgic của lịch sử, kết quả cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân cho độc lập, tự do, đặc biệt trong 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi này cũng là sự đóng góp trực tiếp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua một số sự kiện nêu trên, chúng ta khắc sâu vào tâm trí mình, đời đời nhớ ơn công lao vĩ đại của Người và nguyện tiếp bước con đường mà Người đã vạch ra.


(1) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 196.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 554.
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Mười, 2011, 09:28:46 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM