Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 11:30:59 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh  (Đọc 174042 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #110 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2011, 04:56:12 pm »

Đến đầu tháng 8.1945, ở khắp các tỉnh Tây Nguyên, những yếu tố của thời kì tiền khởi nghĩa đã hình thành và bùng lên thành cao trào cách mạng giành độc lập khi có thời cơ.

Tin Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện (ngày 15.8.1945) truyền đi khắp cả nước, làm bùng lên ngọn lửa cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử ở Tây Nguyên. Mặt trận Việt Minh thu hút hàng triệu hội viên, các phần tử trung gian đã ngả về cách mạng.

Tại Đắk Lắk, ngày 14.8.1945, ban lãnh đạo lâm thời tỉnh họp và nhận thấy điều kiện khởi nghĩa giành chính quyền đã chín muồi và gấp rút chuẩn bị lực lượng. Ngày 16.8, ban lãnh đạo tỉnh quyết định khởi nghĩa ở đồn điền CAĐA, mở màn cho Tổng khởi nghĩa trong tỉnh. Ngày 17.8, khởi nghĩa thành công ở CAĐA, đồng chí Phạm Kiệm thay mặt Ủy ban lâm thời tỉnh đọc lệnh Tổng khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh, giao nhiệm vụ cho công nhân đồn điền CAĐA làm nòng cốt trong việc giành chính quyền các nơi trong tỉnh. Cũng ngày này, chính quyền cách mạng lần lượt ra mắt ở các đồn điền cây số 17, đồn điền cây số 7 thuộc CHPI.

Đêm 19.8.1945, tài nhà 57 Lý Thường Kiệt thị xã Buôn Ma Thuột, ban lãnh đạo lâm thời tỉnh Đắk Lắk và Tỉnh bộ Việt Minh triệu tập hội nghị khẩn cấp, quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Đắk Lắk do đồng chí Phạm Kiệm làm trưởng ban, Phạm Sĩ Vinh làm phó ban. Các ủy viên là Nguyễn Trọng Ba, Y Ngông Niêkdan, Huỳnh Bá Vân, Y Bih Alêô, Thái Xuân Đồng(2).

Ngày 20.8.1945, một phái đoàn Tỉnh bộ Việt Minh Đắk Lắk đến trại lính Nhật đưa yêu sách đòi quân Nhật không được can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam. Ngược lại, Tỉnh bộ Việt Minh cũng sẽ cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân đội Nhật cho đến ki họ rút khỏi Đắk Lắk. Quân Nhật chấp thuận mọi đều nghị của ta đưa ra. Nhờ vậy ta đã cô lập được quân đội Nhật, phân hóa được lực lượng chính quyền bù nhìn, tạo điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở Đắk Lắk nhanh chóng thắng lợi và đỡ tốn xương máu.

Cùng ngày 20.8.1945, chính quyền Trần Trọng Kim ở tỉnh tổ chức mít tinh chào cờ “quẻ li” tại sân vận động thị xã, đề ra việc cải tổ bộ máy chính quyền, mời đại diện Tỉnh bộ Việt Minh tham gia. Ngay lúc này, một phái đoàn Việt Minh, có lực lượng vũ trang bảo vệ tiến vào lễ đài, tuyên bố chính quyền thuộc về nhân dân. Chính quyền bù nhìn đầu hàng. Cờ đỏ sao vàng bay khắp nơi, nhà tù Buôn Ma Thuột được mở cửa trả tự do cho những người yêu nước bị giam cầm(3).

Mười lăm giờ ngày 24.8.1945, cuộc mít tinh giành chính quyền được tổ chức trọng thể tại sân vận động thị xã Buôn Ma Thuột. Tham dự cuộc mít tinh có lực lượng vũ trang các đồn điền, các buôn làng, lực lượng học sinh, thanh niên, viên chức, nhân sĩ, trí thức các dân tộc và thơn 3000 đồng bào các dân tộc Êđê, M’nông, Giarai từ các buôn làng kéo về thị xã từ sáng sớm. Hơn 500 bảo an binh có vũ trang đầy đủ cũng tham dự mít tinh, biến thành cuộc biểu tình tuần hành khắp đường phố thị xã Buôn Ma Thuột. Trước khí thế áp đảo của cách mạng, bộ máy ngụy quyền địa phương tê liệt hoàn toàn. chỉ trong vòng chưa đầy 1 tuần lễ, chính quyền cách mạng đã được thiết lập trong tỉnh Đắk Lắk .

Đêm 21.8.1945, Hội nghị bàn việc khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh Lâm Viên được tổ chức ở Đà Lạt. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa, do đồng chí Phan Đức Huy làm chủ tịch. Ủy ban khởi nghĩa quyết định khởi nghĩa giành chính quyền trong tỉnh Lâm Viên vào ngày 23.8.1945, cử đại diện đến trại binh Nhật đề nghị quân đội Nhật không được can thiệp và cuộc nổi dậy giành chính quyền của nhân dân Lâm Viên. Ngày 24.8.1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Lâm Viên được thành lập.

Ngày 21.8, tại thị trấn Cầu Đất, công nhân đã nổi dậy giành chính quyền. Ngày 22.8, lực lượng vũ trang Cầu Đất tiến về Đơn Dương giành chính quyền. Sáng ngày 23.8, lực lượng vũ trang lại tiến vào Di Linh, tỉnh lị của tỉnh Đồng Nai Thượng.

Ngày 25.8.1945, hàng ngàn đồng bào Kinh, Thượng ở Di Linh nổi dậy giành chính quyền. Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Đồng Nai Thượng Thượng được thành lập(4).

*

Cùng với nhân dân các dân tộc ở Bắc Tây Nguyên và đồng bào cả nước, nhân dân các tỉnh Nam Tây Nguyên - ngày nay là Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng - đã đoàn kết đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trong cả nước. Một trang sử mở ra với các dân tộc Tây Nguyên.


(1) Sơ thảo Lịch sử đảng bộ Đắk Lắk, sđd, tr. 96-99.
(2) Sơ thảo Lịch sử đảng bộ Đắk Lắk, sđd, tr. 96-100.
(3) Sơ thảo Lịch sử đảng bộ Đắk Lắk, sđd, tr. 98.
(4) Sơ thảo Lịch sử đảng bộ Lâm Đồng, sđd, tr. 90-94.
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Chín, 2011, 05:03:48 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #111 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2011, 04:56:31 pm »

TÂY NINH(*)

Tây Ninh là tỉnh nằm phía tây bắc thành phố Hồ Chí Minh, diện tích khoảng trên 1500km2, nơi sinh sống của ba tộc người chủ yếu: Việt, Khơme, Chăm - là tín đồ của các tôn giáo đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Thiên Chúa… Ngay từ những buổi đầu khai hoang, tạo dựng xóm làng, người dân Tây Ninh đã phải chống chọi với thiên tai, thú dữ, nạn ngoại xâm để sinh tồn nên sớm có truyền thống đấu tranh kiên cường. Trong cuộc chiến đấu chống quân Pháp xâm lược vào cuối thế kỉ 19, ở đây nổi lên phong trào của nghĩa quân Trương Quyền. Nghĩa quân của ông phối hợp với quân Khơme đã lập được nhiều chiến công hiển hách trên đất Tây Ninh. tiếp đó, đầu thế kỉ 20, nhiều người con ưu tú của đất Tây Ninh chịu ảnh hưởng của luồng tư tưởng mới đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin rồi trở thành những đảng viên của Đảng Cộng sản.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua các phong trào 1930-1931, 1936-1939, nhân dân Tây Ninh từng bước trưởng thành qua các cuộc đấu tranh. Bước sang năm 1943, các đồng chí đảng viên ở Tây Ninh, sau một thời gian lánh sang địa phương khác hoặc sang Cămpuchia tránh sự truy nã của địch sau khởi nghĩa Nam Kỳ, đã trở về địa phương tiếp tục lãnh đạo phong trào. Các tổ chức quần chúng, các đoàn thể cứu quốc được thành lập khắp nơi, như Hội truyền bá quốc ngữ, vạn cấy, vạn đổi công… Tổ chức Đảng đã kịp thời nắm lấy những tổ chức này để giáo dục, tập hợp và hướng dẫn quần chúng đấu tranh.

Đầu năm 1945, sau khi nhận được chủ trương của Đảng, ở Tây Ninh đã gấp rút lập tổ chức Mặt trận Việt Minh. Với chính sách rõ ràng, thuyết phục, Việt Minh đã thù hút đông quần chúng nhân dân hưởng ứng. Phong trào ủng hộ Việt Minh lan rộng khắp trong tỉnh. Cho đến trước ngày khởi nghĩa, hầu khắp cấc vùng nông thôn, thị xã, thị trấn đều đã thành lập Mặt trận Việt Minh. Đây là kết quả bước đầu của sự lãnh đạo thống nhất của tổ chức Đảng ở Tây Ninh. Quan trọng hơn, bằng uy tín của mình, Việt Minh đã nắm được tổ chức Thanh niên Tiền phong - một tổ chức quần chúng thanh niên hoạt động rất tích cực và hoàn toàn hợp pháp, công khai. Để chuẩn bị cho khởi nghĩa, Thanh niên Tiền phong ngày đêm tập luyện quân sự, sắm sửa vũ khí, có nhiều nhóm hoạt động rất tích cực như Thanh niên Tiền phong Suối Đá, Xóm Vịnh, Trảng Bàng, Thanh Điền… Các tổ chức đoàn thể cứu quốc phát triển mạnh và hoạt động sôi nổi, nhất là ở những vùng nông thôn. Các cơ sở cách mạng được xây dựng khắp nơi.

Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đang đến gần, nhân dân Tây Ninh tích cực chuẩn bị. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, ngụy quyền và các lực lượng thân Nhật ở Tây Ninh biểu hiện rõ tình trạng suy sụp, mất tinh thần. Tín đồ đạo Cao Đài vốn chia làm hai phái, một phái do Đặng Trung Trữ đứng đầu ủng hộ cách mạng, phái chống phá cách mạng lúc này tỏ ra hoang mang, dao động. Các lực lượng trung gian đã ngả hẳn về phía cách mạng. Phong trào cách mạng trong toàn tỉnh như một làn sóng đang ngày một dân cao, Mặt trận Việt Minh hoạt động công khai. Nhận thấy thờ cơ giành chính quyền đang đến gần, các đồng chí đảng viên Tây Ninh cho người liên lạc với Xứ ủy Nam Kỳ xin chỉ thị khởi nghĩa, đồng thời thành lập Ban Vận động cướp chính quyền. Ban Vận động đề ra nhiệm vụ phải nắm bằng được lực lượng trí thức, giáo phái trong tỉnh, thương lượng với quân Nhật để chúng giữ thái độ trung gian, không can thiệp vào công việc của cách mạng, huy động các tầng lớp công nhân, nông dân các vùng nông thôn, thị xã, thị trấn chuẩn bị đứng lên giành chính quyền.

Sáng ngày 25.8, dưới sự lãnh đạo của tổ chức Việt Minh, hàng vạn quần chúng từ khắp mọi nơi trong tỉnh tự vũ trang, dưới sự hướng dẫn của Thanh niên Tiền phong, đổ về thị xã dự mít tinh ủng hộ Việt Minh. Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành qua các đường phố, công sở, biểu dương sức mạnh của quần chúng. Sau khi nhận được chỉ thị khởi nghĩa giành chính quyền của Xứ ủy Nam Kỳ, một lực lượng vũ trang cùng với Ban lãnh đạo hành động đã buộc Tỉnh trưởng bàn giao chính quyền cho cách mạng.

Đến rạng sáng ngày 26.8, toàn bộ bộ máy chính quyền địch từ thị xã đến các vùng nông thôn đã hoàn toàn bị đập tan. Chính quyền cách mạng được thành lập.


(*) Người viết: TS. Nguyễn Ngọc Hà, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #112 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2011, 04:57:15 pm »

*

Từ cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám ở Tây Ninh, có thể nhận thấy mấy đặc điểm nổi bật:

Thứ nhất, khởi nghĩa ở hành thị và khởi nghĩa ở vùng nông thôn có quan hệ chặt chẽ, nhưng trình từ khởi nghĩa diễn ra ở Tây Ninh có đặc điểm đặc biệt. Đối với một đất nước thuộc địa nửa phong kiến, với hơn 90% dân số là nông dân thì việc các phong trào cách mạng ở Việt Nam chủ yếu dựa vào nông thôn để làm bàn đạp là một hiện thượng phù hợp. Điều dó đặc biệt thể hiện rõ trong Cách mạng Tháng Tám. Bao quát trong toàn bộ quá trình của cách mạng Tháng Tám, có thể thấy rằng hình thái chủ yếu và quyết định nhất trong quá trình khởi nghĩa là các cuộc khởi nghĩa nổ ra từ nông thôn trước và phát triển từ nông thôn đến thành thị. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ở một số tỉnh thành (chủ yếu ở Nam Bộ) thành thị lại khởi nghĩa trước nông thôn như Tây Ninh. Ngày 25.8, chính quyền ở thị xã đã về tay cách mạng, ngày 26 giành chính quyền ở Trảng Bàng và phải đến hết ngày 28.8, bộ máy chính quyền của địch mới sụp đổ hoàn toàn từ thị xã tới vùng nông thôn Tây Ninh.

Cuộc khởi nghĩa ở Tây Ninh nổ ra vào ngày 25.8, sau khi phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Chúng vô cùng hoang mang, rệu rã và không muốn can thiệp quân sự vào công việc nội bộ của Việt Nam. Tây Ninh là địa bàn chiến lược, nơi giáp giới với Cămpuchia lại tiện việc di chuyển bằng cơ giới nên số lượng quân Nhật đóng tại đây rất đông, lên tới 2 vạn tên. Trước ngày khởi nghĩa, ta đã thương lượng được với quân Nhật, yêu cầu chúng đứng trung lập và không dùng vũ lực can thiệp. Không những thế, ở một số nơi, lực lượng cách mạng còn vận động được binh lính Nhật cho mượn vũ khí hoặc giao nộp vũ khí để luyện tập quân sự. Cần phải nói thêm rằng, chính sách thương lượng với Nhật là một trong những hình thức đấu tranh chính trị độc đáo và sáng tạo trong Cách mạng tháng Tám nói chung cũng như ở Tây Ninh nói riêng - nơi mà trước khi diễn ra khởi nghĩa, lực lượng Nhật còn nguyên vẹn cùng với đầy đủ trang bị vũ khí. Lúc này, chính quyền tay sai sau khi có tin Bảo Đại thoái vị càng bị phân hóa, khủng hoảng cực độ. Thời cơ cách mạng đã chín muồi, nếu lực lượng cách mạng không nhanh chóng lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở thành thị, nơi tập trung đầu não địch rồi mới tỏa về các vùng nông thôn để chúng có cơ hội ngóc đầu dậy thì sẽ là một sai lầm lớn. Bên cạnh đó, cũng cần phải thấy rằng, lực lượng của Đảng và của Mặt trận Việt Minh Tây Ninh ở vùng nông thôn chưa đủ mạnh để có thể lãnh đạo quần chúng nổi dậy từ nông thôn như những nơi khác. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa nổ ra theo hình thái như trên là phù hợp với điều kiện, phù hợp với tương quan lực lượng giữa ta và địch ở Tây Ninh lúc đó. Đồng thời nó thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện địa phương của những người cộng sản lãnh đạo phong trào cách mạng Tây Ninh.

Thứ hai, về hình thức khởi nghĩa giành chính quyền, Cách mạng tháng Tám tiến hành giành chính quyền trong cả nước bằng con đường khởi nghĩa vũ trang, trong đó đã khéo léo kết hợp lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị, kết hợp đấu tranh vũ trang với chính trị để giành thắng lợi hoàn toàn. Ở Tây Ninh, tuy vẫn tuân theo hình thức khởi nghĩa đó, song lại có những nét đặc thù. Lực lượng nổi dậy chính là hàng vạn quần chúng cách mạng, không có vũ trang, hoặc vũ trang thô sơ (giáo mác, gậy gộc) nhưng họ không cần phải dùng đến để xung đột vũ trang mà tràn qua các đường phố - nơi mà trụ sở của quân Nhật và chính quyền bù nhìn đóng - bằng biểu dương lực lượng để uy hiếp kẻ thù. Mặc dù tới ngày 25.8, lúc lực lượng cách mạng Tây Ninh đột nhập vào dinh Tỉnh trưởng và một số công sở ở thị xã có một nhóm vũ trang nhỏ nhưng rõ ràng, việc giành chính quyền một cách dễ dàng không có đổ máu là do kẻ địch đã hoàn toàn bị tê liệt trước sức mạnh long trời, lở đất của hàng vạn quần chúng cách mạng sáng 25.8. Do đó, có thể nhận định rằng cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Tây Ninh diễn ra dưới hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu. Tuy nhiên nói như thế không phủ định tính chất bạo lực của Cách mạng tháng Tám ở Tây Ninh. Bởi hàng vạn quần chúng nhân dân có tổ chức (các hội quần chúng) và không có tổ chức do Việt Minh lãnh đạo, có các đội Thanh niên Tiền phong ủng hộ, đã nổi dậy gây áp lực khiến ngụy quyền phải trao trả chính quyền. Đó chính là bạo lực cách mạng dù nó diễn ra dưới hình thức này hay hình thức khác.

Những đặc điểm của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Tây Ninh đã góp phần làm phong phú, tạo thêm một sắc màu độc đáo cho Cách mạng tháng Tám, cuộc cách mạng vĩ đại của toàn dân tộc. Hơn thế nữa, tìm hiểu những đặc điểm trên còn giúp chúng ta nhận diện rõ hơn về cuộc cách mạng, từ đó rút ra những bài học lịch sử quý báu, làm phong phú thêm kho tàng lí luận cách mạng của Đảng ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #113 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2011, 09:09:14 am »

THỦ DẦU MỘT(*)

Nhân dân Thủ Dầu Một(1) hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước ngay từ thời kì đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng không giành thắng lợi do chưa có đường lối cách mạng đúng đắn. Từ cuối năm 1927 đến cuối năm 1929, các chi bộ cộng sản được thành lập trên địa bàn tỉnh, đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân trong tỉnh. Từ 1930, các phong trào cách mạng được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, công cuộc chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa được tiến hành rất khẩn trương trên cả nước cũng như ở Thủ Dầu Một. Trong tháng 5.1945 và những tháng tiếp sau, Tỉnh ủy tiếp nhận nhiều tài liệu, chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng hướng dẫn về cách tổ chức và hoạt động của các hội cứu quốc, cách tổ chức, huấn luyện chiến đấu và chỉ huy của đội tự vệ, du kích, Đảng bộ tỉnh tích cực củng cố và phát triển Đảng, kết nạp đảng viên mới, lập thêm chi bộ mới… “Hội công nhân cứu quốc” chuyển sang sinh hoạt công khai ở các đồn điền như Lộc Ninh, Dầu Tiếng, Phú Hưng, Phước Hòa, có đảng viên trực tiếp lãnh đạo. Hội cứu quốc trong các giới, đồng bào dân tộc ít người… cũng phát triển rầm rộ, đặc biệt là các phong trào của thanh niên.

Trong các cuộc đấu tranh chính trị và văn hóa thời kì này, ta đã nắm được quyền chủ động trên các địa bàn trong tỉnh và giành được thắng lợi to lớn trong việc khơi dậy lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần yêu quý độc lập tự do trong đông đảo quần chúng. Cùng với các hoạt động chính trị và văn hóa, để tích cực chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa, Tỉnh ủy chủ trương phát động phong trào sắm vũ khí, lập đội tự vệ vũ trang và huấn luyện quân sự cho thanh niên. Các đoàn viên Thanh niên tiền phong, Thanh niên cứu quốc đều tự trang bị gậy tầm vông, dao găm, luyện tập võ nghệ. Thợ rèn ở khắp nơi trong tỉnh coi việc rèn dao găm, gươm cho Việt Minh là hành động yêu nước. Cùng với việc sắm sửa vũ khí, ta còn tổ chức huấn luyện quân sự thường trực và giáo dục chính trị cho thanh niên. Từ tháng 5 đến tháng 8.1945, ở Thủ Dầu Một đã hình thành một lực lượng bán vũ trang đông đảo, hoạt động công khai.

Ở Thủ Dầu Một, bọn chỉ huy Nhật ngoài việc cho đào nhiều hầm chôn giấu súng đạn ở một số nơi như trong rừng Bến Cát, Lộc Ninh, Hớn Quản, Tân Uyên… chùng còn bố trí những tên gián điệp tay sai giả danh làm thương nhân, thầy thuốc để sau này chui vào hàng ngũ ta…

Tin Nhật đầu hàng Đồng minh truyền đi khắp nước đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng trong tất cả các tầng lớp nhân dân, đẩy phong trào cách mạng lên đỉnh cao. Điều kiện cho cuộc Tổng khởi nghĩa đã hoàn toàn chính muồi.

Ngày 23.8, tin thức về thắng lợi của cuộc đấu tranh chính trị tẩy chay Khâm sai Nguyễn Văn Sâm ở Sài Gòn và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa gianh chính quyền ở Tân An nhanh chóng truyền đi khắp nơi. Ở Thủ Dầu Một, các hội cứu quốc đã làm chủ tình hình ở hầu hết các làng người Việt, bọn ngụy quyền đã tan rã, quân Nhật tỏ thái độ trung lập. Cán bộ đội, Đoàn trưởng Thanh niên tiền phong bắt đầu làm công việc của chính quyền cách mạng. Chỉ ở vài làng, bọn cầm đầu vẫn ngoan cố dựa vào tổ chức phản động, chưa chịu từ bỏ chức quyền, như hương cả Đại làng An Sơn, chi bộ phải vận động quần chúng đấu tranh mới giành được quyền làm chủ.

Ở vùng đồng bào dân tộc, chưa có Hội cứu quốc, nhưng nhờ có thế lực mạnh mẽ của Hội công nhân cứu quốc và Thanh niên Tiền phong nên bọn chúng hoang mang và tan ra dần. Tuy vậy, các tên ác ôn đầu sỏ vẫn cố giữ chức quyền và ta chưa làm chủ được các buôn sóc.

Tại thị xã Thủ Dầu Một, từ ngày 19 đến 23.8, nhiều cuộc biểu tình, mít tinh đã diễn ra trước dinh tỉnh trưởng và trụ sở quận trưởng với hàng ngàn lượt người ở các làng và nội thị tham gia. Họ hô to khẩu hiệu “Đả đảo bù nhìn Lương Sơ Khai, Đỗ Văn Công”. Trước khí thế áp đảo của quần chúng, bọn này bỏ nhiệm sở chạy trốn. Riêng Phó tỉnh trưởng ở nhà, không đến văn phòng và tỏ thái độ ủng hộ nhân dân. Các đoàn thể Thanh niên tiền phong, công nhân bán vũ trang canh gác đường phố. Bộ máy cảnh sát thị xã, từ chỉ huy trưởng đến binh sĩ đều tê liệt, có kẻ bỏ ngũ, có người hướng về cách mạng. Đội cộng hòa vệ binh và các tổ chức bán vũ trang khác do Nhật tổ chức cũng trong tình trạng tan rã, chờ đợi Việt Minh đến xử lí hoặc trốn về nhà. Bọn phản động trong các giáo phái và bọn tờrốtkít không tổ chức được những cuộc hội họp lớn để chống lại cách mạng; chúng chỉ có những hành động phá hoại lẻ tẻ như xé cờ, hô khẩu hiệu “Đả đảo Việt Minh” trong đêm tối.

Quán triệt Nghị quyết về khởi nghĩa của Cứ ủy Nam Kỳ, đồng chí Văn Công Khai, sau khi dự hội nghị Xứ ủy, đã tổ chức ngay cuộc họp Tỉnh ủy mở rộng, gồm cả các bí thư chi bộ, cán bộ chủ chốt các Hội cứu quốc ở ba quận Lái Thiêu, Châu Thành, Bến Cát. Hội nghị quyết định tổ chức khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh vào ngày 25.8 bằng cách huy động lực lượng của đông đảo quần chúng Thanh niên Tiền phong bán vũ trang, đội tự vệ của 4 quận tham gia. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, do đồng chí Văn Công Khai làm Trưởng ban; giành chính quyền ở các quận và thị trấn vào ngày 24.8 hoặc ngày 25.8, không được chậm trễ. Hội nghị chủ trương hết sức tránh những vụ khiêu khích của địch; nếu chúng chống lại, ta dùng các đơn vị tự vệ chiến đấu và huy động quần chúng đấu tranh. Hội nghị khẳng định dù tình thế khó khăn thế nào cũng phải khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, coi đó là nguyên tắc cao nhất của cách mạng.


(*) Người viết: TS. Đoàn Minh Huấn, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Nay thuộc tỉnh Bình Dương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #114 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2011, 09:11:25 am »

Ngày 24.8, chấp hành mệnh lệnh của Tỉnh ủy và Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, nhân dân các quận nhất tề nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở các thị trấn. Tại hai thị trấn Chơn Thành (quận Hớn Quản) và Đồng Xoài (quận Bà Rá), tuy phong trào cứu quốc mới phát triển, lại ở cách xã thị xã, liên lạc với Ủy ban khởi nghĩa tỉnh rất khó khăn, song khởi nghĩa vẫn được tiến hành cùng ngày với các quận khác trong tỉnh. Bọn sĩ quan, binh lính Nhật đều lo cố thủ là chính. Chỉ có vài tên sĩ quan hung hăng cho lính ngăn cản hoạt động của ta ở ga xe lửa Lộc Ninh, ở sở cao su Quản Lợi và ngăn chặn đồng bào các sóc đến Chơn Thành, nhưng sự chống đỡ đó đều bất lực trước sức mạnh của nhân dân. Trong vùng dân tộc, bọn cai tổng đã bỏ việc trước đó mấy ngày, trốn ở nhà để tránh sự tiến công của quần chúng. Cai tổng Đinh, tên ác bá nhất miền Bà Rá, đã bị hạ uy thế nên dân chúng trong vùng, nhất là ở vùng là ở những nơi gần địa bàn sinh sống của công nhân, đã vùng lên làm chủ. Các thành công Hội cứu quốc và Thanh niên Tiền phong, công nhân các đồn điền Lộc Ninh, Quản Lợi, Thuận Lợi… trở thành trụ cột vững chắc cho đồng bào người Việt và người dân tộc đấu tranh giành chính quyền.

Tại thị trấn Chơn Thành, Ủy ban khởi nghĩa quận Hớn Quản, gồm đồng chí tỉnh ủy viên và các cán bộ hội tổ chức nhân dân giành chính quyền.

Sáng ngày 24.8, hàng nghìn công nhân các đồn điền Lộc Ninh, Quản Lợi, hàng nghì đồng bào người Việt và người dân tộc ít người tiến hành cuộc mít tinh, biểu tình, có các đội thanh niên bán vũ trang công nhân và thanh niên dân tộc bảo vệ. Quần chúng biểu tình chiếm các trụ sở hành chính, cảnh sát… trong thị trấn. Binh lính, sĩ quan ngụy giao nộp vũ khí. Nhiều thanh niên thấy được lẽ phải cũng nhập ngay vào đoàn biểu tình.

Sau khi giành chính quyền, Ủy ban khởi nghĩa quyết định cử hai đoàn gồm khoảng 100 công nhân Lộc Ninh - Quản Lợi, khoảng 50 đồng bào dân tộc kéo xuống thị xã Thủ Dầu Một tham gia Tổng khởi nghĩa. Cùng lúc nhân dân quận Hớn Quản, nhân dân các quận Bến Cát, Lái Thiêu, Tân Uyên cũng nổi dậy giành chính quyền ở cả ba thị trấn trong cùng buổi sáng ngày 24.8. Trong các Ủy ban khởi nghĩa ở ba quận đều có đảng viên cộng sản làm nòng cốt, ngoài ra còn nhiều cán bộ cứu quốc phụ trách các công tác quan trọng khác. Trên địa bàn các quận đó, quân Nhật còn hơn ba đại đội bộ binh, nhiều tiểu đội hiến binh, nhưng đều trong tình trạng mất tinh thần; chúng không dám chống lại ta bằng vũ lực, chỉ cho bọn tay sai lén lút phá hoại. Bọn ngụy quyền thì đã tan rã từ trước. Tham gia khởi nghĩa ở các quận có hàng ngàn đồng bào lương, giáo, người Việt, người Hoa, thợ thủ công lò chén… Sức mạnh đoàn kết toàn dân, nhất là công nông đã thu hút nhiều vị chức sắc quan trọng trong các đạo Phật, Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa, Tin Lành… cả những người như Trịnh Khánh Vàng, Nguyễn Hòa Hiệp… trước kia theo Đảng Hắc Long.

Trong ngày khởi nghĩa, ở cá quận, Ủy ban khởi nghĩa cùng các đội Thanh niên Tiền phong bán vũ trang và nhân dân lần lượt chiếm các trụ sở hành chóng, đồn cảnh sát ngụy…

Ở Bến Cát, Lai Khê, ta phát hiện một kho chứa giấy bạc loại 500 đồng của Nhật. Cán bộ cứu quốc mở cửa khám trại tù Ông Yệm thả hàng trăm thiếu niên, nạn nhân xã hội cũ. Sau khi khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, ủy ban khởi nghĩa Bến Cát, Lái Thiêu lập tức tổ chức đưa thanh niên bán vũ trang và đồng bào về thị xã để tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh. Ủy ban khởi nghĩa quận Tân Uyên cũng cử các đoàn thể cứu quốc và tiểu đội vũ trang do Trần Văn Quỳ chỉ huy, kéo sang thị xã Biên Hòa tham gia khởi nghĩa.

Quân Nhật ở Thủ Dầu Một tỏ thái độ trung lập đối với các hoạt động của Hội cứu quốc. Đại diện của chỉ huy Nhật cũng vài lần trực tiếp gặp đại diện của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh đề nghị để cho nhân dân bán thực phẩm tươi sống, cho các xe hơi quân nhu của chúng đi lại ơ một số nơi. Chúng hứa sẽ làm đúng những điều ta quy định về trật tự, an ninh và không quấy nhiễu dân.

Đêm 24.8, lực lượng cách mạng các làng, các quận tiến về thị xã Thủ Dầu Một. Tại địa điểm tập kết, trong khi chờ đợi giờ kéo vào thị xã, quần chúng đã tổ chức một đêm sinh hoạt văn hóa rất sôi nổi. Họ hát những bài ca cách mạng, diễn những vở kịch yêu nước. Những người tham gia khởi nghĩa còn tổ chức mài gươm dao, sắm thêm gậy tầm vông, luyện tập võ… Ban quân sự tỉnh trực tiếp chỉ huy việc bảo vệ quần chúng, sẵn sàng ngăn chặn sự đánh phá của địch.

Lúc này, trong thị xã, nhân dân đã treo cờ dỏ sao vàng, cờ búa liềm, dán khẩu hiệu ở khắp các đường phố, chợ… Trong bầu không khí khởi nghĩa sôi sục, Tỉnh trưởng Nguyễn Minh Chương cũng từ chức, gia nhập vào hàng ngũ nhân dân. Nửa đêm, quần chúng các quận Hớn Quản, Bến Cát, Lái Thiêu, Châu Thành đi theo đội ngũ tiễn vào thị xã.

Rạng sáng ngày 25.8, đội ngũ các hội cứu quốc và đồng bào đã đứng chặt trên 20 đường phố lớn, nhỏ của thị xã. Đến 7 giờ, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể trước tòa thị chính quận Châu Thành (xã Phú Cường). Sau khi làm lễ chào cờ, đồng chí Văn Công Khai, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng ban khởi nghĩa, đọc diễn văn tuyên bố chính quyền về tay nhân dân.

Sau đó, đại biểu Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh lên phát biểu ý kiến, kêu gọi giới mình cùng toàn dân bảo vệ chính quyền cách mạng, thực hiện chương trình của Việt Minh, trong đó có vấn đề nam nữ bình đẳng. Trong cuộc mít tinh, quần chúng hô vang khẩu hiệu: “Chính quyền về tay Việt Nam!”, “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”.

Sau cuộc mít tinh, quần chúng khởi nghĩa diễu hành suốt mấy giờ liền trên các đường phố của thị xã Thủ Dầu Một. Hàng vạn người cầm trong tay cờ, gậy tầm vông, súng, hô vang các khẩu hiệu, xen lẫn với lời ca tiếng hát của nam nữ thanh niên. Kết thúc cuộc diễu hành, dưới sự hướng dẫn của Ủy ban nhân dân tỉnh, các đoàn phân công đi tiếp quản các chính quyền hành chính, tòa án, cảnh sát, đồn cộng hòa vệ binh, khám đường (trại giam), kho bạc, các nhà máy điện, nước, bưu điện… Như vậy là trong ngày 25.8, nhân dân Thủ Dầu Một đã giành chính quyền thắng lợi cùng ngày với Sài Gòn và 15 tỉnh bạn.

*

Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 đã mở ra trang sử mới, tạo những tiền đề quan trọng để nhân dân trong tỉnh bước vào giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #115 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2011, 09:14:47 am »

BÀ RỊA - VŨNG TÀU(*)

Bà Rịa - Vũng Tàu là một tỉnh thuộc Nam Bộ, có diện tích tự nhiên 2647,66km2, chiếm 0,6% diện tích cả nước. Từ thế kỉ 18, vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu đã có người Việt đến khai hoang lập làng và dần biến nơi đây thành vùng trù phú, xanh tươi, từng nổi tiếng là xứ gạo trắng nước trong; “cơm Nai Rịa, cá Rí Rang”. Sau khi đặt được ách cai trị, thực dân Pháp đã ra sức khai thác, bóc lột vùng đất này, vì vậy, phong trào yêu nước chống Pháp nơi đây đã diễn ra sôi nổi qua các thời kì lịch sử.

Trước năm 1930, ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã bắt đầu xuất hiện các tổ chức của các đảng viên Tân Việt cách mạng Đảng như Hội phổ thông lao động tập hợp những quần chúng ưu tú. Sau khi Đảng ra đời, năm 1931 vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu bắt đầu có đảng viên đến trú chân hoạt động, tìm cách gây dựng tổ chức. Hội Châu Viên kết nghĩa được thành lập, trở thành hạt nhân thu hút, tập hợp những người yêu nước trong vùng. Sau khi Xứ ủy Nam Kỳ bắt liên lạc được với tổ chức ở địa phương và có sự chỉ đạo sát sao, tháng 2.1934, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã được thành lập ở Phước Hải. Bắt đầu từ đây, phong trào cách mạng ở Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển nhanh chóng. Hàng loạt các tổ chức như hội đá bóng, hội xe thổ mộ (xe ngựa)… ra đời, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân. Tuy nhiên cho đến trước năm 1945, ở đây chưa có những phong trào đấu tranh lớn.

Đầu năm 1945, ở Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành lập nhằm thu hút những thanh niên yêu nước. Ngay khi tổ chức này vừa mới ra đời, các chi bộ Đảng ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã lập tức nắm lấy, cử người đứng ra lãnh đạo hoạt động. Sử dụng tính chất hợp pháp của Thanh niên Tiền phong, cấp ủy Đảng Bà Rịa - Vũng Tàu chủ trương phát triển rộng rãi tổ chức này. Chỉ trong một thời gian ngắn, đến tháng 7.1945, tổ chức Thanh niên Tiền phong đã phát triển rộng khắp các huyện trong tỉnh. Trong các tổ chức đó, thanh niên được tham gia các lớp huấn luyện chính trị, huấn luyện quân sự, do các đảng viên hướng dẫn. Họ là lực lượng chủ chốt được phân công đi giữ trật tự, lập các trạm canh gác, tuần tra khắp các khu vực ở khu Vũng Tàu như Bãi Trước, Bãi Sau, Bãi Dâu, Bãi Dứa… Họ kiểm soát và lấn át dần hoạt động của bộ máy ngụy quyền bù nhìn từ tỉnh đến huyện. Chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa giành chính quyền, Thanh niên Tiền phong phát động phong trào sưu tầm vũ khí. Họ vận động được một số lính Nhật giao nộp súng, ở những nơi quân Nhật tập trung đông, Thanh niên Tiền phong tổ chức đột nhập kho vũ khí lấy súng, như vụ đột nhập ở Núi Lớn, núi Nhỏ…

Đến tháng 8.1945, lực lượng Thanh niên Tiền phong ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã có hàng nghìn hội viên, được trang bị vũ khí với hàng trăm khẩu súng các loại. Có những nơi như Bến Đá (Vũng Tàu), Thanh niên Tiền phong đổi tên thành đội Cảm tử quân tự trang bị súng trường, lựu đạn, là đơn vị tiền thân của lực lượng vũ trang Vũng Tàu sau này.

Cùng với việc phát triển đội ngũ Thanh niên Tiền phong, các cán bộ Đảng Bà Rịa - Vũng Tàu cử đảng viên thâm nhập sâu vào quần chúng, vạch rõ bản chất của thuyết “Đại Đông Á” mà phát xít Nhật và tay sai tuyên truyền, cổ động. Đồng thời tích cực làm công tác binh vận nắm các lực lượng cảnh sát, binh lính. Đối với các giáo phái như Cao Đài, Thiên Chúa giáo, cơ sở Đảng cho người tuyên truyền, giải thích, thuyết phục họ ngả theo cách mạng hoặc chí ít đứng trung lập… Như vậy, cho đến trước tháng 8.1945, công tác chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã cơ bản hoàn thành, hầu hết quần chúng nhân dân đã đi theo cách mạng, quân Nhật đang thất bại trên các chiến trường Châu Á - Thái Bình Dương, ngụy quyền bù nhìn hầu như đã mất chỗ cựa, hết sức hoang mang.

Tháng 8.1935, tình hình ngày càng chuyển biến mau lẹ và tích cực do quân Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Chớp thời cơ thuận lợi, Hà Nội, Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh lần lượt đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền thành công. Tin chiến thắng đó nhanh chóng bay đi khắp nơi làm nức lòng nhân dân cả nước, các địa phương khác ra sức chuẩn bị cho thời khắc đứng lên tự cởi bỏ gông xiềng. Ở Miền Nam, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định chọn Tân An làm nơi thí điểm đầu tiên cho cuộc khởi nghĩa, sau đó là thành phố Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ khác. Nắm bắt được chủ trương của Đảng, ngày 23.8, chi bộ Đảng ở Bà Rịa đã tổ chức cuộc họp ở Long Điền chuẩn bị khởi nghĩa. Tối 24.8, cờ đỏ sao vàng treo khắp trong thị xã, Mặt trận Việt Minh công khai hoạt động. Lực lượng được Việt Minh sử dụng làm nòng cốt, đi đầu trong ngày cướp chính quyền là tổ chức Thanh niên Tiền phong. Đồng thời, Mặt trận huy động toàn bộ quần chúng nhân dân các huyện trong tỉnh đổ về thị xã biểu dương lực lượng, gây áp lực buộc ngụy quyền phải bào giao lại chính quyền cho cách mạng.

Sáng 25.8, hơn một vạn quần chúng từ khắp các ngả đường rầm rập đổ về thị xã, giương cao cờ đỏ sao vàng, tập trung mít tinh xung quanh Tháp nước ở trung tâm thị xã Bà Rịa. Trước đó, đối với quân Nhật, Ủy ban khởi nghĩa đã cử người đến thương lượng mời chúng đến dự mít tinh, yêu cầu không được can thiệp vào công việc nội bộ của cách mạng. Trong lễ mít tinh, Đại diện Ủy ban khởi nghĩa đọc lời tuyên bố độc lập. Sau khi cuộc mít tinh kết thúc, đoàn người dưới sự hướng dẫn của thanh niên Tiền phong đã kéo về các địa phương giành chính quyền ở cơ sở.

Tại Vũng Tàu, khởi nghĩa nổ ra muộn hơn, vào ngày 28.8.1945, Ngày 25.8, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập, lực lượng nòng cốt là Thanh niên Tiền phong lúc này đã đổi tên thành đội Cảm tử quân Bến Đá, được trang bị hàng chục khẩu súng trường và súng ngắn. Sau lễ mít tinh vào sáng 28.8, quần chúng tỏa ra khắp các ngả đường, chiếm công sở của chính quyền cũ… Tại Côn Đảo, địa bàn tuyên bố độc lập muộn nhất trong tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cũng đã hoàn toàn được giải phóng vào ngày 17.9.1945.

Như vậy, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng Tám năm 1945 đã hoàn toàn thắng lợi. Nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam từ thân phận người nô lệ đã đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ quê hương, đất nước.

*

Qua cuộc khởi nghĩa ở Bà Rịa - Vũng Tàu, chúng ta nhận thấy một số đặc điểm chủ yếu:

Thứ nhất, về phương thức giành chính quyền, cuộc khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám ở Bà Rịa - Vũng Tàu là sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trong đó đấu tranh chính trị có tác dụng quyết định chủ yếu và vì thế, cuộc khởi nghĩa nổ ra mang tính ôn hòa, ít đổ máu. Phương thức này phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ở Bà Rịa - Vũng Tàu, sau khi nhận được tin các tỉnh phía Bắc, Hà Nội, Huế và Sài Gòn - những nơi lực lượng quân Nhật đông, trang bị vũ khí đầy đủ, đã khởi nghĩa thắng lợi, bọn tay sai thân Nhật càng thêm hoang mang, rệu rã. Ban lãnh đạo khởi nghĩa đã huy động lực lượng quần chúng đông đảo, đi đầu là đội ngũ Thanh niên Tiền phong xuống đường tay không hoặc với vũ khí thô sơ nhưng khí thế cách mạng vô cùng sôi sục. Chính khí thế cách mạng đó đã thiêu cháy ý chí đề kháng vốn chỉ còn yếu ớt ở địch, làm cho hàng ngũ của chúng hoàn toàn bị tê liệt, tan rã.

Thứ hai, sự phân hóa, cô lập kẻ thù. Một trong những biện pháp làm cho cuộc khởi nghĩa tránh đổ máu chính là việc cơ quan lãnh đạo khởi nghĩa đã tiến hành thương lượng với Nhật trước đó mà kết quả là trong cuộc mít tinh ngày 25.8 ở Bà Rịa, có chỉ huy cao nhất của quân Nhật tham dự. Điều này dường như ít có ở những địa phương khác trong cả nước. Biện pháp thương lượng đó hoàn toàn không phải là thứ thương lượng hòa bình, hai bên cùng nhân nhượng để tồn tại mà trong cuộc thương lượng, lực lượng cách mạng đã đứng trên thế mạnh mới buộc được kẻ thù chấp nhận yêu cầu của cách mạng. Việc thương lượng đó là một sách lược, hoàn toàn không vi phạm mục tiêu chiến lược. Trong cuộc thương lượng với nhật, Ban lãnh đạo khởi nghĩa đã sử dụng biện pháp sáng tạo, sách lược mềm dẻo, khôn khéo và linh hoạt. Kết quả là giúp cho cuộc khởi nghĩa diễn ra hòa bình, ít đổ máu nhưng hoàn toàn vẫn mang tính chất bạo lực cách mạng, không đi ngược lại đường lối, chủ trương của Đảng trước khởi nghĩa.

Nhìn chung, trong toàn bộ quá trình giành chính quyền ở Bà Rịa - Vũng Tàu, hình thức đấu tranh chính trị và lực lượng chính trị của nhân dân là yếu tố căn bản, có tác dụng quyết định chủ yếu cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Mặc dù diễn ra ôn hòa do một số điều kiện khách quan và chủ quan đem lại, song cuộc khởi nghĩa phản ánh đúng nội dung, tính chất của khởi nghĩa vũ trang, phản ánh đúng quy luật phổ biến của đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, tiến hành đúng theo những quy tắc về khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện tương quan lực lượng cụ thể giữa ta và địch lúc đó.


(*) Người viết: ThS. Biện Thị Hoàng Ngọc, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #116 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2011, 09:17:19 am »

BIÊN HÒA(*)

Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Đồng Nai, nằm sát Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Do vị trí chính trị, quân sự, nhất là kinh tế, nên Biên Hòa sớm trở thành một một cơ sở công nghiệp lớn, có nhiều đồn điền cao su bạt ngàn. Vì vậy, ở Biên Hòa đã hình thành một đội ngũ công nhân lớn mạnh, có tinh thần đấu tranh cách mạng cao. Biên Hòa là địa bàn cách mạng tốt cho những người yêu nước, cộng sản hoạt động ở miền Đông Nam Kỳ, đặc biệt là vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

Truyền thống cách mạng của nhân dân Biên Hòa được phát huy dưới sự lãnh đạo của Đảng, mở đầu với cuộc đấu tranh của 5.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng vào đầu năm 1930. Tuy bị thực dân Pháp khủng bố ác liệt nhưng tháng 2.1935, chi bộ Đảng Cộng sản Bình Phước - Tân Triều ở Biên Hòa được thành lập, là hạt nhân lãnh đạo phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương ở tỉnh nhà và là cơ sở cho sự ra đời của Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa vào đầu năm 1937.

Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), lực lượng cách mạng ở Biên Hòa bị tổn thất nặng - 40 đội viên tự vệ vũ trang bị thực dân Pháp đàn áp dã man, một số tỉnh ủy viên bị bắt, bắn chết. tuy vậy, phong trào cách mạng ở Biên Hòa vẫn được duy trì. Các cuộc vận động chống bắt lính, rài truyền đơn kỉ niệm Cách mạng tháng Mười Nga… thường diễn ra nhiều cơ sở sở hoạt động tốt như Nhà máy BIF Biên Hòa, sở Trường Tiền, sở củi Trảng Bom, ga Biên Hòa… Đồn điền cao su là những nơi ẩn náu và hoạt động của các chiến sĩ cách mạng.

Từ năm 1942, do các tù cộng sản tù vượt ngục hay mãn hạn tù ở Tà Lào, Bà Rá trở về xây dựng cơ sở, lãnh đạo đấu tranh nên phong trào cách mạng ở Biên Hòa lại sô nổi. ở các đồn điền cao su đã nổ ra nhiều cuộc đình công, bãi công, đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Năm 1944, công nhân BIF phối hợp với công nhân ở Sở củi Trảng Bom, lãn công, bãi công, phá máy làm chậm kế hoạch thu gom 15.000m3 gỗ đóng tàu của Nhật, một số binh lính người Việt trong quân đội Pháp đóng ở đồn “Xăng Đá” đã đào ngũ theo sự vận động, giác ngộ của cơ sở cách mạng. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), chính sách đàn áp, bóc lột tàn khốc, trắng trợn của quân phiệt Nhật làm cho phong trào đấu tranh ở Biên Hòa, cũng như cả nước, bùng lên mạnh mẽ, thành cao trào “chống Nhật cứu nước”.

Tháng 5.1945, Liên tỉnh ủy miền Đông Nam Kỳ họp hội nghị, gồm đại biểu các Đảng bộ Tây Ninh, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Gia Định đã bàn về tình hình, nhiệm vụ sắp tới của cách mạng. Cũng trong tình trạng chung của Nam Kỳ bấy giờ, tổ chức Đảng ở miền Đông nói chung ở Biên Hòa nói riêng không có sự thống nhất. Ở Biên Hòa, một số đảng viên lập ra Tỉnh ủy vào tháng 7.1945, một Tỉnh ủy lâm thời khác lại ra đời vào tháng 8.1945. Cả hai Tỉnh ủy đều chỉ đạo trực tiếp cho việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Điều này ảnh hưởng đến phong trào, song cuộc đấu tranh chống Nhật vẫn tập hợp được đông đảo nhân dân Biên Hòa, vốn có truyền thống yêu nước và cách mạng, tham gia đông đảo. Nhân dân ở thị xã, thị trấn, các làng xã, kể cả vùng xa xôi, các đồn điền, nhà máy đều đứng trong hàng ngũ đấu tranh ngày một nhiều. Một số nhân viên, công chức trong bộ máy của chính quyền ngụy, tay sai Nhật cũng tham gia cách mạng.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh và cuộc khởi nghĩa đã thành công ở Hà Nội, ở nhiều tỉnh Miền Bắc, Miền Trung và một vài tỉnh ở Nam Kỳ, tình thế cách mạng khá chín muồi trong tỉnh, lãnh đạo Biên Hòa nhận thấy phải nhanh chóng phát động quần chúng đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 23.8.1945, một cuộc họp tại nhà đồng chí Ngô Hà Thành ở phố Sáu Sử, do đồng chí Hoàng Minh Châu chủ tri, bàn kế hoạch tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của quần chúng trong tỉnh, hòa nhịp với phong trào cách mạng chung của cả nước. Theo sự hướng dẫn của Xứ ủy Nam Kỳ, Hội nghị quyết định mấy việc:

“- Khởi nghĩa bắt đầu từ thị xã rồi lan ra toàn tỉnh.

- Trung lập hóa quân Nhật.

- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa, do đồng chí Hoàng Minh Châu phụ trách, dự kiến thành phần Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của tỉnh.

- Vận động Tỉnh trưởng giao chính quyền cho cách mạng. Vận động lính mã tà, lính thủ hộ… nộp súng cho cách mạng.

- Vận động 500 người của thành phố Biên Hòa về tham gia giành chính quyền ở Sài Gòn ngày 25.8.1945, rồi sau đó về giành chính quyền ở Biên Hòa.

- Huy động lực lượng xung kích trong công nhân, Thanh niên Tiền phong trang bị vũ khí, nhân dân mang cờ, khẩu hiệu để sẵn sàng biểu dương lực lượng cướp chính quyền”(1).

Ngày 24.8, cờ đỏ sao vàng xuất hiện khắp nơi trong thành phố Biên Hòa, nhân dân một số khu phố, như Long Thạnh, đã nổi dậy giành chính quyền, không khí khởi nghĩa tràn ngập trong thành phố.

Ngày 25.8, lực lượng cách mạng đã thực sự làm chủ tỉnh lị, bộ máy chính quyền địch từ tỉnh đến cơ sở hầu như tê liệt. Quân Nhật đóng ở Biên Hòa nằm im trong doanh trại, không có phản ứng gì trước cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân.

Sáng 26.8, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa tập hợp hàng trăm quần chúng nhân dân tiến vào tòa bố Biên Hòa, nơi tỉnh trưởng làm việc, treo cờ đỏ sao vàng. Trưa hôm ấy, tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý trao chính quyền cho đại diện Ủy ban khởi nghĩa Biên Hòa, do các đồng chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn tiếp nhận. Vào 14 giờ cùng ngày, lực lượng cách mạng đã tước súng của cảnh sát và thu 40 súng của lính mã tà tại Cửa Tiến (trước cửa Khám lớn Biên Hòa), mọi công sở của chính quyền ngụy đều được cách mạng tiếp quản.

Sáng ngày 27.8.1945, gần 1 vạn nhân dân tỉnh lị Biên Hòa và các vùng lân cận tham dự mít tinh mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tỉnh nhà và đón chào Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa ra mắt. Đồng chí Hoàng Minh Châu được cử làm Chủ tịch Ủy ban.

Kết húc cuộc mít tinh là lễ tuyên thệ của những người tham dự, thay mặt cho 15 vạn nhân dân trong tỉnh, sẵn sàng hi sinh tính mạng, tài sản để bảo vệ tổ quốc, giữ vững chính quyền cách mạng mới giành được. Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành thị uy khắp các đường phố tỉnh lị Biên Hòa.

Ngày 26.9.1945, một cuộc hội nghị của hơn 40 cán bộ Đảng tỉnh Biên Hòa, với sự tham dự của đồng chí Hà Huy Giáp, đại diện Xứ ủy Nam Kỳ, quyết định một số nhiệm vụ cấp bách sau khi khởi nghĩa thắng lợi. Hội nghị quyết định mở rộng Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, gấp rút xây dựng và huấn luyện lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền các cấp, lập các cấp ủy Đảng thống nhất để lãnh đạo cách mạng. Hội nghị đã bầu Tỉnh ủy thống nhất, gồm 11 người, do đồng chí Trần Công Khanh làm bí thư.

*

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công ở Biên Hòa góp phần vào thắng lợi chung của cả nước. Nó thể hiện truyền thống đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân Biên Hòa, được phát huy cao dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ tỉnh nhà.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Duy Hạnh, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Theo quyển Mùa thu rồi, ngày hăm ba, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1945, tr. 444.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #117 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2011, 09:19:23 am »

SÀI GÒN - GIA ĐỊNH(*)

Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), trước Cách mạng tháng Tám 1945 được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” là một trung tâm, kinh tế, chính trị, xã hội của cả nước, đặc biệt các tỉnh phía Nam. Thực dân Pháp rồi quân phiệt Nhật đã đặt các cơ quan hành chính quan trọng, những lực lượng hùng hậu ở đây. Tuy Nam Kỳ bị tách khỏi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, nhằm phá vỡ sự thống nhất của Tổ quốc Việt Nam, song nhân dân Nam Kỳ nói chung, Sài Gòn - Gia Định nói riêng - nơi hội tụ, sinh sống của đồng bào cả nước - vẫn tích cực đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, làm thất bại âm mưu “chia để trị” của thực dân đế quốc. Cuộc đấu tranh chống xâm lược ngay khi thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, đặc biệt từ khi Đảng ra đời nhận lãnh sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đã chứng minh điều nêu trên.

Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại (tháng 11.1940), lực lượng cách mạng ở Nam Kỳ nói chung, Sài Gòn - Gia Định nói riêng bị đàn áp nặng nề. thực dân Pháp đã tiến hành 5.848 vụ bắt bớ trong hai năm 1941-1942 sau cuộc khởi nghĩa. Hậu quả của cuộc khủng bố dã man này là 6.000 người bị giết, bị tù đày. Việc Nhật Bản kéo quân vào Đông Dương, chiếm đóng nhiều vị trí quan trọng ở Nam Kỳ, đặc biệt Sài Gòn - Gia Định, cùng với thực dân Pháp đặt hai ách thống trị lên cổ nhân dân Việt Nam làm cho đời sống của đồng bào ta càng thêm bi đát. Riêng ở Sài Gòn - Gia Định, cảnh thất nghiệp, thải thợ, dãn công nhân diễn ra trầm trọng. Ngày lao động của các xí nghiệp kéo dài, nặng nhọc hơn mà đồng lương thì rẻ mạt, chết đói.

Trong bối cảnh ấy, cùng với nhân dân cả nước, đồng bào Nam Kỳ, Sài Gòn - Gia Định nói riêng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ liên tục vùng lên đấu tranh. Trước hết là khôi phục lại tổ chức và các cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ các cấp. Tháng 1.1941, Xứ ủy Nam Kỳ được lập lại. Cơ quan Xứ ủy đóng tại Sài Gòn. Các liên tỉnh ủy Hậu Giang, Miền Đông, rồi các tỉnh ủy cũng lần lượt ra đời.

Riêng ở Sài Gòn - Gia Định, các cơ sở Đảng, tổ chức công vận, đặc biệt là binh vận, được khôi phục và hoạt động. Phong trào của trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước Sài Gòn - Gia Định, tập hợp trong một tổ chức công khai, lấy tên “Phong trào Câu lạc bộ học sinh”, hoạt động khá mạnh. Ngoài ra, cuộc đấu tranh của công nhân thành phố cũng được duy trì, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 500 công nhân xóm Chiếu, bến tàu Sài Gòn.

Vào cuối năm 1941, các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Nam Kỳ đã nhận được tài liệu về Mặt trận Việt Minh, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (10-19.5.1941). Đầu năm 1942, các tài liệu trên được phổ biến rộng rãi ở Nam Kỳ, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định và nhiều địa phương khác ở Nam Kỳ đã xây dựng được đoàn thể cứu quốc của các giới, các tầng lớp nhân dân, như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc…

Trong những năm 1943-1944, ách thống trị của Pháp - Nhật càng nặng nề, phong trào đấu tranh càng mạnh mẽ. Ở Sài Gòn - Gia Định, trong thời gian này đã có khoảng 30 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân may quần áo cho Nhật ở đường Senho (Sài Gòn, tháng 5.1944), của công nhân xây trại lính Nhật ở Chí Hòa và toàn thể thợ giầy ở xưởng Đại Nam của Nhật (cuối năm 1944). Vào cuối năm 1944, phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn - Gia Định phát triển mạnh; do đó, tổ chức công hội và tổ chức của công nhân theo từng khu phố (các khu Bàn Cờ, xóm Chiếu, Tân Định, Phú Nhuận, Gò Vấp, xóm Chiểu, Bình Tây, vv.) được thành lập). Đến đầu năm 1945), ở Sài Gòn - Gia Định đã có 30 công đoàn cơ sở với hàng trăm đoàn viên. Phong trào học sinh, sinh viên ở Sài Gòn cũng lên cao, với nhiều hoạt động phong phú: báo chí, diễn thuyết, tuyên truyền lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của dân tộc.

Do mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng căng thẳng và chúng không thể cùng nhau chia phần bóc lột nhân dân Việt Nam, nên Nhật phải tiến hành đảo chính Pháp. Sự kiện này có ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh của nhân dân cả nước, rong đó có đồng bào Nam Kỳ, đặc biệt là Sài Gòn - Gia Định. Cùng cả nước, nhân dân Nam Kỳ, Sài Gòn - Gia Định bước vào cao trào kháng Nhật, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Để đối phó với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, quân phiệt Nhật tiến hành nhiều thủ đoạn thâm hiểm, nhằm phá hoại cách mạng nước ta.

Tháng 5.1945, Nhật thành lập chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim và cho ra đời nhiều tổ chức phản động thân Nhật, ra sức tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á”…

Ở Nam Kỳ, đặc biệt tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, ngoài việc xây dựng các đảng phái thân Nhật cũ, như Phục Quốc và những người cầm đầu giáo phái phục vụ cho quyền lợi cá nhân “phản đạo hại đời” như Trần Quang Vinh (Cao Đài), Dân xã Đảng (Hòa Hảo), Tịnh Độ Cư Sĩ, Nhật cho lập thêm Việt Nam Phục quốc Đồng minh hội (Trần Văn Ân), Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng (Hồ Văn Ngà), Đảng Huỳnh Long (gồm những bọn côn đồ của Võ Bá Cường), Nhật Việt Phòng vệ đoàn (Nguyễn Hòa Hiệp… Dưới danh nghĩa lừa bịp “vì quốc gia, vì dân tộc”, chúng tiến hành việc tập hợp lực lượng chống phá cách mạng.

Nhật còn cho chiêu mộ thanh niên lập đội quân “Heiho”, được vũ trang khá đầy đủ. Chúng nuôi dưỡng bọn Đỗ Như Ánh, Nguyễn Anh Tài để tổ chức “Thanh niên Đại Đôn Á”; cho Lý Vinh cầm đầu bọn cảnh sát, hiến binh; vũ trang một số phần tử trong các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài do những tên tay sai của chúng nắm.

Bọn Tơrôtkit ở Sài Gòn cũng lộ mặt phản bội, tham gia chính quyền bù nhìn thân Nhật.


(*) Người viết: PGS.TS Võ Xuân Đàn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #118 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2011, 09:22:57 am »

Tuy rêu rao “trả độc lập”, nhưng phát xít Nhật nắm toàn bộ quyền hành độc quyền thông tin tuyên truyền, xuất bản xách báo để lôi kéo nhân dân ta vào cuộc chiến tranh “Đại Á” của chúng, bằng sức người, sức của.

Để đánh lạc hướng nhân dân Việt Nam, quân phiệt Nhật dấy lên phong trào đánh Pháp, bài Pháp. Chúng kích động quần chúng triệt hạ các bia tượng của thực dân Pháp; lính Nhật sỉ nhục và hành hạ người Pháp đi đường. Các hành động này nhằm gạt mũi nhọn căm thù của nhân dân Việt Nam vào người Pháp; mà quên kẻ thù trước mắt là phát xít Nhật.

Chúng tăng cường đánh phá vào cơ sở, lực lượng cách mạng của ta và không ngừng đe dọa: “các anh chỉ có hai con đường hoặc là hợp tác thân thiện với Nhật hoặc là bị Nhật tiêu diệt”(1). Chúng muốn tiêu diệt cách mạng ở Nam Kỳ, hoặc tìm cách khuất phục để rảnh tay đối phó với Miền Trung, Miền Bắc. Khi thực hiện một chính sách kinh tế tàn khốc nhất ở Đông Dương, chúng tập trung vào nhân dân Nam Kỳ, Sài Gòn - Gia Định nói riêng, để họ thêm khốn đốn. Tình hình trên đã làm cho không ít người trước đây còn mơ hồ, ảo tưởng trông chờ vào Nhật dần dần nhận ra sự thật và ngả về phía cách mạng.

Tình hình, diễn biến cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng tỏ ra bất lợi cho Nhật, báo hiệu ngày thất bại bi thảm không tránh khỏi.

Ngày 9.5.1945, phát xít Đức phải chấp nhận đầu hàng không điều kiện. Cũng trong thời gian này, quân đội Nhật bị Đồng minh đánh bại ở phần lớn các nước Đông Nam Á và Thái Bình Dương, buộc phải rút khỏi nhiều vùng quan trọng. Sự sụp đổ của phát xít Nhật chỉ còn tính từng ngày. Tình hình đó đã thôi thúc đồng bào nhất là thanh niên, hăng hái đứng lên tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ngày 9.3.1945, Thường vụ Trung ương đã họp nhận định tình hình và ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng cho rằng đây là thời kì bước vào cao trào kháng Nhật trong cả nước và đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng là “phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa trong cả nước”.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương, một cao trào kháng Nhật cứu nước đã dâng lên mạnh mẽ. tháng 6.1945, Khu giải phóng nằm trên 6 tỉnh ở Việt Bắc đã xây dựng chính quyền cách mạng, đem lại quyền làm chủ cho nhân dân. Hàng loạt chiến khu khác đã ra đời. Khởi nghĩa từng phần ở nhiều địa phương đã nổ ra, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Ba Tơ ở Quảng Ngãi (11.3.1945), ngay khi Nhật đảo chính Pháp.

Tại khu Sài Gòn - Gia Định, càng gần đến tháng Tám, ki của thời kì tiền khởi nghĩa càng rõ nét, với các hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa đa dạng của các giới đồng bào yêu nước hoặc do cá nhân, tổ chức tiến bộ hướng dẫn hoặc do Đảng Cộng sản trực tiếp tổ chức và lãnh đạo.

Mặt khác, tuy cuộc đảo chính của Nhật đã chấm dứt, quyền lực của Pháp, nhưng Nhật không thể xây dựng ngay bộ máy tay sai hoàn toàn mới của mình. Chúng phải tiếp tục sử dụng bộ máy tay sai đang rệu rã của Pháp ở các địa phương. Vì vậy bọn Nhật không sao ngăn cản nổi sự sụp đổ của hệ thống bộ máy thống trị của chúng. Ở nhiều căng an trí, nhà tù, sự tan rã của đội ngũ cảnh sát, cai ngục đã tạo điều kiện cho nhiều cán bộ đảng viên thoát khỏi cảnh giam cầm, trở về địa phương hoạt động với cơ sở. Tình hình ấy càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều nơi trong khu vực.

Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định chuyển mình khá mạnh mẽ. Cán bộ, đảng viên từ các nhà tù, trại giam đã khẩn trương tìm mọi cách trở về thành phố, chắp nối liên lạc. Nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng ẩn tránh địch trong thời gian trước cũng dần dần trở lại hoạt động..

Một số đảng viên cộng sản từ nhà tù Bà Rá trở về Hóc Môn bắt liên lạc với các đồng chí trong nhóm Giải phóng. Ngày 20.3.1945, các đồng chí này tổ chức cuộc hội nghị tại Xoài Hột (Mỹ Tho), thành lập Xứ ủy Nam Kỳ lâm thời. Đồng chí Dân Tôn Tử được bầu làm Bí thư. Các tờ báo “Giải phóng”“Độc lập” được ấn hành để tuyên truyền, vận động quần chúng và tổ chức Mặt trận Việt Minh. Do vậy, ở Nam Kỳ lúc bấy giờ có hai Xứ ủy: “Xứ ủy Giải phóng” và “Xứ ủy Tiền phong” do Trần Văn Giàu làm bí thư, hoặc là nhóm Giải phóng, nhóm Tiền phong (cũng có người còn gọi là Việt Minh cũ và Việt Minh mới). Việc không thống nhất trong bộ phận lãnh đạo của Nam Kỳ cũng có ảnh hưởng nhất định đến phong trào cách mạng. Vì vậy, việc thống nhất bộ phận lãnh đạo là nhiệm vụ cấp thiết.

Tháng 4.1945, “Xứ ủy Giải phóng lâm thời” tổ chức được 19 Tỉnh ủy lâm thời và 6 Ban cán sự tỉnh. Trên cơ sở đó, tháng 5.1945, Xứ ủy lâm thời họp tại Bà Điểm (Hóc Môn), lập ra các Xứ ủy chính thức, do đồng chí Lê Hữu Kiều làm Bí thư.

Cũng trong thời gian này, “Xứ ủy Tiền phong” được tăng cường mạnh mẽ. Nhiều cán bộ cách mạng kì cựu của Đảng bộ Nam Kỳ trở lại hoạt động và tham gia Xứ ủy này như Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Kính, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tây (Thanh Sơn)…

Từ tháng 5.1945, các Xứ ủy ở Nam Kỳ đã liên lạc được với Trung ương, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã theo dõi sát hoạt động của Đảng bộ Nam Kỳ và thúc đẩy việc thống nhất hai nhóm Tiền phong và Giải phóng để tạo nên sức mạnh thống nhất của Đảng bộ và nhân dân.

Phong trào đấu tranh cách mạng đã diễn ra ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ đã hoạt động mạnh vào Nam Kỳ; đảng viên, cán bộ, quần chúng nhân dân muốn có sự thống nhất trong lãnh đạo. Song dù sự lãnh đạo của Đảng ở Nam Kỳ đang có sự chia rẽ, toàn thể cán bộ, đảng viên của Xứ ủy Giải phóng và Xứ ủy Tiền phong đều thể hiện quyết tâm chiến đấu xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng để đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Hai Xứ ủy đều cử người tham gia “Ban thống nhất hành động”, do đồng chí Bùi Lâm, cán bộ Trung ương cử vào, làm Trưởng ban. Sự phối hợp chặt chẽ giữa hai Xứ ủy bắt đầu được thực hiện, tạo điều kiện cho lãnh đạo của Tổng khởi nghĩa sẽ nổ ra trong một thời gian gần. Tuy vậy, các hoạt động riêng rẽ của hai Xứ ủy vẫn diễn ra.


(1) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1984, xuất bản lần thứ hai, tr.10.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #119 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2011, 09:23:50 am »

Đảng bộ Gia Định được Xứ ủy Giải phóng trực tiếp tham gia chỉ đạo, nhièu cán bộ từ nhà tù trở về được tăng cường cho Tỉnh ủy. Hệ thống tổ chức Đảng từ tỉnh xuống xã được kiện toàn. Các tổ chức Cứu quốc của quần chúng cũng được xây dựng từ tỉnh xuống tận cơ sở.

Trong tháng 5, tại Gia Định, “Xứ ủy Tiền phong” thành lập Tỉnh ủy mới do đồng chí Phạm Văn Khung làm Bí thư. Tỉnh ủy hoạt động chủ yếu ở vùng Gò Vấp và một phần tỉnh Thủ Đức.

“Xứ ủy Tiền phong” đặc biệt chú trọng phát triển lực lượng cách mạng ở Sài Gòn để lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng, phải đương đầu với quân Nhật ở phía Nam. Tháng 5.1945, Ban cán sự Thành được tăng cường, do đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh làm Bí thư.

Vừa đẩy mạnh công tác tổ chức, “Xứ ủy Tiền phong” và Ban Cán sự Thành Sài Gòn còn chú trọng công tác tư tưởng và lí luận để chống các lực lượng phản cách mạng trên mặt trận này. Cán bộ Đảng tích cực học tập ở nhiều lớp huấn luyện chính trị để nâng cao trình độ. Chỉ tại khu vực hộ 21 (Phú Nhuận) đã mở 6 lớp huấn luyện cho đảng viên và quần chúng nòng cốt của cách mạng.

Đảng bộ Sài Gòn chăm lo công tác tổ chức quần chúng, nhờ vậy các đoàn thể cứu quốc phát triển mạnh. Công đoàn Nam Kỳ dã có 324 tổ chức cơ sở với 120.000 đoàn viên mà thành phố Sài Gòn chiếm tỉ lệ cao nhất.

Tổ chức công đoàn không những phát triển trong các xí nghiệp lớn mà còn được thành lập trong các công sở chính quyền tay sai Nhật, như ở các sở Công chính thành phố, Bưu điện, Sở Điện, sở Nước, bệnh viện lớn, vv.

Đặc biệt, sự ra đời và phát triển của tổ chức “Thanh niên Tiền phong” thể hiện vai trò của tuổi trẻ trong và ngoài trường đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Sài Gòn - Gia Định, nơi mà thực dân Pháp rồi quân phiệt Nhật ra sức lôi kéo họ.

Nhìn chung, sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, thực lực cách mạng của Nam Kỳ và của Sài Gòn - Gia Định đã nhanh chóng khôi phục. Trong những năm qua, những người cộng sản đã kiên cường vượt qua mọi thử thách nguy nan để khôi phục Đảng, củng cố các tổ chức cứu quốc của quần chúng. Tuy vậy, Sài Gòn - Gia Định trước ngày Tổng khởi nghĩa gặp khó khăn lớn là chưa xây dựng được các căn cứ địa cách mạng vững chắc như ở Miền Trung, Miền Bắc, cũng chưa có được một đội quân chính trị đông đảo đủ sức áp đảo kẻ thù. Vì vậy, việc xây dựng lực lượng hoạt động bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp trở thành một yêu cầu cấp thiết để tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Lợi dụng âm mưu của Nhật muốn nắm lực lượng thanh niên, Xứ ủy Tiền phong chủ trương thành lập “Thanh niên Tiền phong”, do Phạm Ngọc Thạch cùng một số trí thức, thanh niên yêu nước của thành phố đã được Đảng giác ngộ tổ chức vào ngày 1.6.1945. Tổ chức Thanh niên Tiền phong tuy danh nghĩa được Nhật “bảo trợ”, song thực chất là một tổ chức quần chúng do Đảng chỉ đạo hoạt động. Phong trào Thanh niên Tiền phong phát triển rất nhanh. Cho đến trước ngày khởi nghĩa, Thanh niên Tiền phong tổ chức 3 lần biểu dương lực lượng.

Tổ chức Thanh niên Tiền phong đã lôi cuốn nhiều tầng lớp nhân dân tham gia. Vì vậy, ở một số nơi thành công quần chúng thuộc các giới cũng mang tên “Thanh niên Tiền phong” như Thanh niên Tiền phong phụ nữ, Thanh niên Tiền phong phụ lão, Thanh niên Tiền phong thiếu nhi… Trong công nhân có Thanh niên Tiền phong Ban xí nghiệp, chính là tổ chức công đoàn của Đảng đã từng hoạt động bí mật, bất hợp pháp lấy danh nghĩa Thanh niên Tiền phong để ra hoạt động công khai, hợp pháp.

Sau 3 tháng hoạt động, Thanh niên Tiền phong phát triển khắp Nam Kỳ, tập hợp được 1.200.000 đoàn viên. Riêng thành phố Sài Gòn có 200.000 đoàn viên và 200 trụ sở đặt ở các đường phố, công xưởng, trường học và 120.000 đoàn viên công đoàn là nòng cốt của Thanh niên Tiền phong của thành phố. Qua đó giai cấp công nhân thành phố đã thật sự phát huy được vai trò to lớn của mình trong Cách mạng tháng Tám.

Đảng viên, cán bộ cốt cán được Xứ ủy, Thành ủy bố trí nắm những vai trò, vị trí then chốt trong tổ chức Thanh niên Tiền phong. Dựa vào kinh nghiệm và uy tín của mình trong hoạt động các trại hè, dạ hội, ca nhạc, diễn kịch, hướng đạo… các tổ chức Thanh niên Tiền phong tiến hành các hình thức, phương thức hoạt động phong phú, sáng tạo với nội dung yêu nước, cách mạng nên đáp ứng được yêu cầu của các tầng lớp nhân dân. Từ nhận thức, tình cảm trở thành hành động, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.

Các hội viên Thanh niên Tiền phong hăng hái học quân sự, cứu thương, giữ gìn an ninh trật tự ở công sở, xí nghiệp, trường học, nơi công cộng, được phổ biến thời sự, chính trị thường thức, lịch sử dựng nước, giữ nước hào hùng của dân tộc… Thanh niên Tiền phong tiến hành nhiều công tác xã hội, như tuyên truyền vệ sinh, truyền bá quốc ngữ, đi vào khu xóm lao động nôi thành, ngoại thành để giúp đỡ đồng bào nông dân nghèo. Những hoạt động này vừa bồi dưỡng tư tưởng tình cảm của hội viên, vừa tập hợp được các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, chẳng bao lâu Thanh niên Tiền phong trở thành một hình thức mặt trận, một phát triển quần chúng sâu rộng có tổ chức do Đảng lãnh đạo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM