Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:25:20 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ Tổng Tham mưu Xô-viết trong chiến tranh - Tập 2  (Đọc 108914 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #170 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:14:22 pm »


*
* *


Chất lượng công tác cao luôn luôn là thước đo trình độ của người cán bộ Bộ tổng tham mưu, mặc dầu như chúng ta đều biết là trong lĩnh vực này không có và không thể có những tiêu chuẩn chính xác. Vì rằng, người sĩ quan tham mưu không tạo ra của cải vật chất là những thứ có tiêu chuẩn và dung sai được quy định rõ ràng. Họ cũng không sáng tạo ra những giá trị kỹ thuật hoặc tinh thần, như phát minh sáng chế, công trình kỹ thuật hoặc tác phẩm văn học... Đại bộ phận (nếu không phải là đại đa số) các sĩ quan trong cơ quan tham mưu cấp cao cũng không sáng tạo ra cho bộ chỉ huy những thành phẩm, mà họ chỉ tham gia vào quá trình biên soạn các văn kiện, hơn nữa họ chỉ làm việc đó theo chuyên môn của mình. Ngoài ra, kết quả cuối cùng của công tác này được tổng kết bởi các trận đánh, các trận chiến đấu và các công việc thực tế mà người ta đã giải quyết căn cứ vào những văn kiện do cơ quan tham mưu biên soạn. Kinh nghiệm của nhiều năm công tác cho phép tôi khẳng định rằng người sĩ quan tham mưu chỉ có thể đạt được chất lượng công tác cao trong điều kiện thực hiện được toàn bộ các yêu cầu. Vậy đó là những yêu cầu gì?

Trong những năm chiến tranh, vấn đề quan trọng hàng đầu ở Bộ tổng tham mưu là người cán bộ phải biết nắm chắc xu hướng phát triển của các hiện tượng hoặc sự kiện, hiểu rõ thực chất của nó, biết dự kiến sự phát triển đó sẽ có thể dẫn tới đâu. Dự kiến là một trong những đức tính quan trọng không những của vị thống soái mà còn của những người sĩ quan tham mưu nữa. Nếu không làm được như vậy thì rõ ràng chỉ có thể là người ghi chép các sự kiện một cách máy móc và lạc hậu với sự phát triển của các sự kiện đó. Những tháng chiến tranh đầu tiên trong năm 1941, khi các sự kiện đang phát triển rất nhanh và bất lợi cho chúng ta, nhiều mệnh lệnh và chỉ thị đã trở nên lạc hậu với tiến trình các sự kiện, khiến các đơn vị không thể thực hiện nổi. Tình hình đó xảy ra không phải do các cán bộ của Bộ tổng tham mưu kém cỏi về mặt quân sự, mà là do chúng ta không nắm được các tin tức chính xác về tình hình của bộ đội ta và của địch, và trong thời kỳ đầu chiến tranh, chúng ta cũng không thể buộc mình phải tin tưởng, để từ đó mà dự kiến được rằng các sự kiện sẽ phát triển bất lợi cho ta đến như vậy. Chúng ta phải mất mấy tháng cay đắng mới có được kinh nghiệm, nắm chắc được các sự kiện, rồi sau này Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao và bộ máy của nó là Bộ tổng tham mưu thường đã kịp thời phân tích được tình hình, đã đề xuất và thông qua được đúng lúc các quyết định.

Nhân tố quan trọng tiếp sau, quyết định chất lượng công tác của người sĩ quan tham mưu là tính hiện thực của các kết luận, đề nghị và ý kiến báo cáo lên bộ tư lệnh. Các trợ lý là những người nhớ rất kỹ các vấn đề này: ai khác không biết, chứ họ thì biết rất rõ là các mũi tên đẹp trên bản đồ tự nó sẽ không có giá trị gì hết, nếu như các ý đồ không chứa đựng nội dung có căn cứ vật chất hiện thực, nếu các ý đồ ấy không được củng cố vững chắc cả về mặt tổ chức.

Trong thời gian chiến tranh, có tới hàng trăm kiến nghị của những quân nhân và người dân gửi tới Bộ tổng tham mưu, nói về vấn đề giải vây Lê-nin-grát, bảo vệ Xê-va-xtô-pôn, tiêu diệt quân Đức ở Mát-xcơ-va, Xta-lin-grát và nhiều vấn đề khác có liên quan tới chiến tranh. Tất cả những kiến nghị ấy đều rất chân thành, quan tâm sâu sắc tới vận mệnh của Tổ quốc, muốn mau chóng tiêu diệt quân thù. Nhưng phần lớn các kiến nghị ấy lại không thực tế, vì các tác giả không nắm được tình hình xác thực về các nguồn dự trữ, không nắm được hoàn cảnh và tình hình các đơn vị. Song, cũng có những kiến nghị được chấp nhận đầy đủ hoặc chấp nhận một phần, chủ yếu đó là những kiến nghị về các vấn đề kỹ thuật.

Các đề nghị của phương diện quân và tập đoàn quân, tuy không thường xuyên lắm, nhưng có lúc cũng bị bác bỏ. Các đề nghị ấy không phải do đầu óc ảo tưởng đẻ ra. Trái lại các đồng chí tư lệnh và các cơ quan tham mưu đều có tính toán khá tỉ mỉ. Nhưng các đồng chí đó đã phạm sai lầm, chẳng han như đã đánh giá quá cao khả năng của Đại bản doanh. Năm 1944, các trợ lý của Bộ tổng tham mưu đúng là hết sức kinh ngạc trước vẻ đẹp của chiến dịch có quy mô lớn, hiếm có về hình thức và tính chất độc đáo của ý đồ mà C. C. Rô-cô-xốp-xki và cơ quan tham mưu phương diện quân đã đề nghị nhằm tiêu diệt quân địch ở Bê-lô-ru-xi-a. Nhà cầm quân xô-viết xuất sắc đó đã dự tính đánh vu hồi từ phía Tây vào các lực lượng chủ yếu của cụm tập đoàn quân «Trung tâm» của địch, đóng ở phía Đông Min-xcơ. Để thực hiện điều đó, đồng chí đề nghị tiến công ở phía Nam từ sau vùng Pô-lê-xi-ê, để thọc sâu vào sau lưng quân phát-xít Đức tới tuyến Cô-brin, Xlô-nim, Xtôn-bơ-txư, rồi sau đó đồng thời mở các mũi đột kích hợp điểm để tiêu diệt chúng. Bạn đọc chắc sẽ đồng ý là nếu thực hiện được ý định này, sẽ đem lại cho ta những thắng lợi lớn về chiến lược. Các trợ lý của Bộ tổng tham mưu khi nhận được đề nghị của Rô-cô-xốp-xki, đã tính toán tỉ mỉ lực lượng và phương tiện cần phải dành ra để sử dụng vào mục đích này. Các bảng tính chỉ rõ rằng, đất nước chúng ta hồi ấy chưa thể cung cấp nổi các lực lượng theo yêu cầu. A. I. An-tô-nốp báo cáo tình hình đó cho Đại bản doanh, và phải làm lại kế hoạch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #171 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:16:07 pm »


Trong những năm chiến tranh, cả công việc soạn thảo văn kiện tham mưu mẫu mực cũng thường làm nổi bật các cơ quan tham mưu làm việc tốt. Văn kiện ấy giống như tấm gương, phản chiếu bộ mặt của người tư lệnh và những thủ trưởng khác tổ chức và thực hiện việc chỉ huy các đơn vị. Các trợ lý của Bộ tổng tham mưu chỉ cần nhìn bề ngoài cũng đủ xác định được là văn kiện ấy từ đâu gửi đến. Nhưng tất nhiên, điều quan trọng hơn hết vẫn là nội dung của nó. Đã đặt ra những yêu cầu nhất thiết phải có đối với một văn kiện. Mỗi văn kiện mà cơ quan tham mưu gửi cho bất kể cấp nào đều phải có sức thuyết phục, có bằng chứng xác đáng, lời văn rõ ràng, không để cho người ta có thể giải thích theo một cách nào khác và để hiểu được nó thì không cần bất cứ tài tiệu nào khác. Nói tóm lại, điều quan trọng là ý tứ trong văn kiện phải thật rõ. Thông thường, nếu văn kiện không đáp ứng được các yêu cầu nói trên thì phải giải thích thêm và phải gửi thêm những văn bản thuyết minh, sửa đổi. Văn kiện đó sẽ không được tôn trọng và thường được chấp hành kém kết quả.

Mọi người đều rõ là văn kiện ngắn gọn vẫn quý hơn văn kiện dài dòng. Vì vậy, mỗi sĩ quan tham mưu đều phải học tập cách soạn thảo văn kiện như thế. Song thực hiện được tốt yêu cầu này cũng không phải chuyện dễ dàng. Viết dài thường dễ hơn viết ngắn. Nhưng trong công tác quân sự lại cần ngắn gọn. Nếu chú ý tới các mệnh lệnh, chỉ thị của Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu trong những năm chiến tranh, chúng ta có thể thấy được rằng tất cả các văn kiện ấy, trừ trường hợp rất đặc biệt, đều chỉ viết trong một-hai trang giấy.

Tất nhiên, trong các cơ quan tham mưu không phải không cần có những văn kiện dài. Đó là các kế hoạch khác nhau, các thông báo tác chiến và trinh sát, các loại tài liệu tra cứu. Vấn đề ở đây không phải là nói đến loại văn kiện ấy, mà muốn nói đến các văn kiện chấp hành, song các văn kiện này cũng phải tuân theo các yêu cầu nói trên.

Trong công tác thực tiễn ở các cơ quan tham mưu cấp cao, kể cả Bộ tổng tham mưu, trong những năm chiến tranh đã quy định là mọi văn kiện quan trọng đều do chính tham mưu trưởng viết. Chúng tôi bỏ lối giao cho các sĩ quan cấp dưới viết, rồi sau đó chuyển lên cấp trên, vì làm như vậy mất rất nhiều thời gian, đôi khi còn làm sai lạc cả ý nghĩa của biện pháp đã định. Kết quả là nếu tham mưu trưởng tự tay viết văn kiện thì đỡ tốn thời gian hơn là để cho cấp dưới viết, rồi phải sửa chữa các thiếu sót hoặc những chỗ sai lạc ý định. Tham mưu trưởng tự mình viết văn kiện còn có lợi ở chỗ là làm như vậy sẽ buộc họ phải suy nghĩ độc lập và sáng tạo. Nhưng, tất nhiên, nói vậy không có nghĩa là tham mưu trưởng cứ phải tự mình viết hết mọi văn kiện, vì làm như thế lại trở thành một việc quá cực đoan. Nhiệm vụ chủ yếu của tham mưu trưởng là tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra mọi công việc. Tại các hội nghị đảng, chúng tôi còn nhớ rất rõ lời nói của V. I. Lê-nin: «Cho đến nay, những người cộng sản ở nước ta chưa hiểu rõ nhiệm vụ lãnh đạo thực sự của mình là như thế nào: không nên «tự mình» làm «tất cả», làm quá sức mà vẫn không kịp, làm một lúc cả hàng hai chục việc mà không được một việc nào ra trò, mà phải kiểm tra công việc của hàng chục, hàng trăm người phụ giúp... »1.

Điều kiện chiến tranh lại càng nhấn mạnh thêm đặc điểm nổi bật và không thể thiếu trong tác phong công tác của mọi cơ quan tham mưu là tính đòi hỏi cao đối với chính mình và đối với các cán bộ cấp dưới. Tính đòi hỏi cao ấy bao giờ cũng dựa trên cơ sở nghiêm túc và nhất thiết phải chấp hành các mệnh lệnh, chỉ thị, hiểu sâu các vấn đề mà người sĩ quan tham mưu phụ trách, biết làm việc và có những kỹ năng nghiệp vụ tới mức thật hoàn hảo. Chúng ta không thể nói đến vấn đề tính đòi hỏi cao, nếu như nó không vì lợi ích của công việc, nếu như người sĩ quan chỉ xuất phát từ quy tắc «tôi muốn thế», mà không cân nhắc đến tính lô-gích và lẽ phải. Người nào mà bản thân không hoàn thành các mệnh lệnh, thì về mặt tinh thần, người đó cũng không có quyền đòi hỏi người khác được.

Tình hình chiến tranh có liên quan tới nhiều bước ngoặt, có lúc lại là những bước ngoặt mang tính chất cực đoan. Hơn nữa, điều quan trọng là phải làm sao cho tính đòi hỏi cao không được đồng nhất với tính thô bạo. Những lời nói nặng nề là điều không thể chấp nhận được trong cơ quan tham mưu. Ở đây, cần làm việc bằng trí não chứ không phải bằng cổ họng. Người chỉ huy được kính trọng hơn hết là người chỉ huy nghiêm khắc nhưng công bằng, không cho phép mình quát mắng cấp dưới, lăng nhục họ, không tôn trọng ý kiến họ. Trong những năm chiến tranh, tôi có dịp gặp gỡ hoặc tiếp xúc với nhiều cán bộ tham mưu. Các đồng chí phần lớn là những người chỉ huy như thế đó, trước hết phải kể đến những nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng như A. M. Va-xi-lép-xki, Ph. I. Tôn-bu-khin, A. I. An-tô-nốp, Gh. C. Ma-lan-đin và nhiều người khác. Các đồng chí đó đã kết hợp tính đòi hỏi cao với tình thân ái, tôn trọng cấp dưới và quan tâm đến họ.
____________________________________
1. V. I. Lê-nin. Toàn tập, tiếng Việt, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #172 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:16:57 pm »


Tại các hội nghị đảng, hội nghị công tác ở Bộ tổng tham mưu và các cơ quan tham mưu các cấp khác, chúng ta đặc biệt chú ý tới tính thiết thực trong công tác của các sĩ quan và các tập thể tham mưu. Tính thiết thực được coi là một điểm thiết yếu trong tác phong công tác của Lê-nin. Chúng ta đều biết, V. I. Lê-nin đánh giá cao những suy nghĩ mạnh dạn, biết kết hợp khí thế cách mạng với công tác tổ chức tỉ mỉ của các cán bộ đảng, cán bộ chính quyền và cán bộ quân sự.

Tính thiết thực là một khái niệm rất hàm súc, rất rộng. Nó vừa là sự hiểu biết công việc và vừa là tính cụ thể trong công tác, tính chấp hành và nhiều đức tính khác. Nói về tính thiết thực của người sĩ quan tham mưu, tôi muốn nêu bật trước hết khả năng linh hoạt ra quyết định phù hợp với điều kiện cụ thể. Trong chiến tranh, nếu không có quyết định thì không được, vì quyết định là cơ sở để chỉ huy các đơn vị. Trong điều kiện cơ quan tham mưu, ngoài việc trực tiếp chỉ huy chiến đấu hoặc chiến dịch, còn cần ra quyết định cả về các văn kiện chiến đấu được biên soạn cho việc đó. Người nào vì cớ gì đó muốn lảng tránh việc ra quyết định thì tình hình sẽ rất xấu. Trong trường hợp đó, văn kiện giống như quả bóng, sẽ được chuyền hết người chấp hành này sang người chấp hành khác, đầy những tài liệu tra cứu, những nghị quyết. Tác phong công tác như vậy không thể gọi là thiết thực, còn bộ máy đó thì chỉ làm ra được những việc vô bổ.

Cung cách làm việc một cách thiết thực đòi hỏi phải có thái độ khoa học, biết đi sâu vào thực chất của các hiện tượng chiến đấu hoặc chiến dịch, biết dự kiến khả năng phát triển của chúng, xác định các phương thức có thể lái sự phát triển đi đúng hướng cần thiết. Vì vậy, tính thiết thực không dung thứ sự hời hợt, làm việc theo «may rủi», không nắm được và không biết khéo sử dụng các quy luật của cuộc đấu tranh vũ trang, các kết luận và chỉ dẫn của khoa học quân sự và các khoa học khác, thiếu một nhãn quan bao quát của con người.

Người sĩ quan có thể phán xét rộng rãi hết thảy mọi vấn đề, nhưng hiểu biết trách nhiệm của mình một cách nông cạn và chấp hành không đến nơi đến chốn thì người đó sẽ ít có tác dụng. Đồng thời, nếu các quyết định không được thực hiện trong công tác thực tiễn sinh động thì nó vẫn chỉ là những ý định tốt mà thôi. Do đó, tính thiết thực đòi hỏi phải thống nhất lời nói với việc làm, thống nhất lý thuyết với thực hành. Con người thiết thực phải là người biết kiên trì đấu tranh hoàn thành tốt nhiệm vụ đã đề ra.

Tôi nghĩ là không cần thiết phải giải thích ý nghĩa của tính kế hoạch và kế hoạch hóa. Vì không phải chỉ những sĩ quan tham mưu mới hiểu biết và nhận thức rất rõ rằng, nếu không có kế hoạch thì không thể hoàn thành thắng lợi bất cứ một công việc to lớn nào. Ở cơ quan tham mưu, kế hoạch không cho phép sa vào những công việc sự vụ, xóa bỏ tình trạng chồng chéo lẫn nhau trong công tác của các sĩ quan, các phòng, cục. Kế hoạch sẽ cho phép chúng ta phân phối một cách đúng đắn các lực lượng và phương tiện.

Cuối cùng, tính thiết thực luôn luôn đòi hỏi phải có tính tổ chức, sử dụng tốt thời gian của công tác tham mưu. La cà trong giờ làm việc, nói chuyện điện thoại không cần thiết, đi lại hỏi han lẫn nhau luôn, không phải là những chỉ tiêu của tính thiết thực trong công tác; chúng ta phải tìm mọi cách chấm dứt tình trạng đó. Biết quý trọng thời gian, quý trọng lao động của các đồng chí và của chính mình, tuân thủ nghiêm túc chế độ công tác đã quy định, làm mọi việc đúng thời hạn, không lạc hậu với tiến trình các sự kiện mà biết đón trước các sự kiện, đó là những chỉ tiêu công tác thiết thực của các sĩ quan tham mưu, mà chúng ta phải ra sức duy trì. Các đồng chí trong Cục tác chiến và các cục khác thuộc Bộ tổng tham mưu trong những năm chiến tranh, đã nêu lên cho tôi tấm gương về tính thiết thực thật sự, về tinh thần hết lòng hoàn thành nghĩa vụ đối với Tổ quốc xô-viết.

Trong thực tiễn cuộc sống, người ta thường coi người có chức vụ lớn là người có trách nhiệm. Điều đó xuất phát từ sự tôn trọng những người biết suy nghĩ, lao động và đấu tranh vì lợi ích của nhân dân, được cử giữ những chức vụ cao của nhà nước hoặc của quân đội. Nhưng, khái niệm trách nhiệm lại được áp dụng đối với toàn bộ nhóm người đang hoạt động hữu ích và liên hệ với nhau một cách hợp quy luật trong một hệ thống các mối quan hệ phức tạp nhưng lại cần thiết. Tinh thần trách nhiệm cao trong việc hoàn thành công việc được giao là yếu tổ quan trọng trong tác phong công tác của mỗi người, và đặc biệt là của người sĩ quan trong cơ quan tham mưu là nơi mà mọi chức trách đã được phân công chặt chẽ.

Bất kỳ cơ quan tham mưu cấp cao nào cũng đều tiến hành nhiều công việc chỉ huy các hành động quân sự, làm nhiều văn kiện, chủ yếu là phân tích, sửa đổi, tính toán, so sánh lập bảng tổng hợp quân số, trang bị và khí tài khác... mà ngoài người trực tiếp chấp hành ra thì không có ai kiểm tra cả và không một ai có khả năng làm việc đó. Một sơ suất nhỏ, một con số không đúng, đều có thể gây ra những sai lầm khó sửa chữa được trong quyết định, vì ra quyết định phải dựa vào báo cáo và các văn kiện mà các cán bộ đó biên soạn ra. Chính vì vậy nên người sĩ quan tham mưu có tinh thần trách nhiệm cao là người biết chủ động tự mình nhiều lần kiểm tra công việc đang làm mà không cần có ai nhắc nhở thúc giục, biết phối hợp các hành động và giải pháp của mình với những người có trách nhiệm không tính toán đến thời gian riêng của mình. Những người thiếu tinh thần trách nhiệm không được ở lâu trong Bộ tổng tham mưu. Chỉ vài ba khuyết điểm của họ cũng đủ buộc người thủ trưởng không dám giao cho họ những công việc quan trọng và cuối cùng buộc phải từ biệt họ.

Đối với những «người quá ư dè dặt», chúng tôi cũng liệt họ vào hạng người thiếu tinh thần trách nhiệm. Do muốn lấy lòng người khác hoặc muốn tránh mọi điều khó chịu, nên họ có thể làm cho người thủ trưởng mất hướng trước tình hình và làm cho đồng chí đó khó đề ra quyết định đúng đắn. Trong thời gian chiến tranh, tôi đã gặp phải một trong số những người như vậy. Hồi đó, các cơ quan hậu cần có xu hướng phình ra, và Đại bản doanh bắt phải thu gọn lại, hoặc như hồi đó người ta thường nói là phải «gọt bớt» nó đi. Căn cứ vào chỉ thị thường lệ của Đại bản doanh về việc «gọt bớt» đó, một sĩ quan trong Bộ tổng tham mưu lãnh đạo một nhóm phụ trách việc tổ chức các cơ quan hậu cần (phải nói thêm: người đó biết thạo việc của mình) được giao nhiệm vụ nghiên cứu chỉ thị là sẽ giải thể và thu gọn những bộ phận gì và ở những khâu nào. Sau một thời gian khá dài đi công tác ngoài mặt trận, đồng chí sĩ quan ấy cùng với nhóm của mình có lẽ như muốn lấy lòng ai đó, đã đưa ra bản đề nghị thu gọn có ảnh hưởng phá hoại tới khả năng chiến đấu của các đơn vị hậu cần chúng ta. Tổng tham mưu trưởng coi cách làm việc đó là biểu hiện của tinh thần vô trách nhiệm và người sĩ quan ấy buộc phải rời khỏi Bộ tổng tham mưu.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #173 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:18:00 pm »


*
* *


Chúng tôi đã nói là người sĩ quan của cơ quan tham mưu, nhất là của Bộ tổng tham mưu, không thể chỉ là người ghi chép các sự kiện, đơn thuần thu thập các tin tức, chấp hành các chỉ thị. Mà người sĩ quan tham mưu còn cần phải có năng khiếu sáng tạo. Các điều lệnh của chúng ta đã đề ra và đòi hỏi người chiến sĩ phải có tính chủ động. Điều đó có nghĩa là người sĩ quan phải là người có óc sáng tạo, tinh thông công việc của mình, bất kỳ việc lớn hay nhỏ, đều phải đem hết kinh nghiệm và sự hiểu biết của mình để tìm tòi cái mới. Tất nhiên, đó là việc làm không đơn giản và không phải trong mỗi công việc đều có thể tìm ra và đề xuất được những cái gì mới. Như đã nói trong điều lệnh, chúng ta cần phải biểu thị tính chủ động một cách thông minh và sáng tạo, chứ không phải là «tối tạo». Sơ dĩ tôi nhắc đến điều này là vì thực tế chiến tranh có rất nhiều hình nhiều vẻ; chiến tranh tạo ra cả một môi trường hoạt động rộng lớn cho từng người sĩ quan thông minh và năng động.

Trong những ngày chiến tranh, người trợ lý, người tổ chức và bất kỳ người sĩ quan tham mưu nào cũng đều phải tìm ra trong mỗi công việc quan trọng, nhất là trong các dự kiến tiến hành các chiến dịch, «cái độc đáo» của mình, đòi hỏi phải xem xét nó trong mối liên hệ chung với các sự kiện khác, và ở đó sẽ phải phát huy cái gì, rồi tiếp sau sẽ sử dụng như thế nào trong thực tế. Trong chiến dịch Ki-ép vào mùa thu năm 1943, các sĩ quan tham mưu của tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3, do tướng p. X. Rư-ban-cô chỉ huy, đã đề nghị một điều tưởng chừng như trái với tự nhiên: tấn công tuyến phòng thủ của quân địch bằng xe tăng vào ban đêm chứ không phải ban ngày, hơn nữa lại bật hết các đèn pha chiếu sáng và bóp còi inh tai. Đề nghị ấy tưởng chừng mâu thuẫn với điều lệnh nhưng kỳ thực thì nó lại rất phù hợp với tinh thần của yêu cầu điều lệnh về tính chủ động và không hề rập khuôn cứng nhắc, vì các sĩ quan đã biết dựa vào sự hiểu biết chính xác tình hình khu vực của tập đoàn quân và đã hành động đúng. Cuộc tấn công thắng lợi. Thêm một dẫn chứng nữa về thái độ sáng tạo đối với công việc là việc chọn hướng đột kích chủ yếu của tập đoàn quân 65, do tướng P. I. Ba-tốp chỉ huy trong chiến dịch «Ba-gra-ti-on» trên địa hình ao hồ sình lầy. Quyết định ấy đã được thông qua có tính toán đến yếu tố bất ngờ, và nó rất có hiệu quả.

Chúng ta còn có thể đưa ra nhiều dẫn chứng về những người chỉ huy và cơ quan tham mưu biết thể hiện tính sáng tạo, chủ động và đã giành được thắng lợi. Có thể có ý kiến không đồng ý với tôi, cho rằng ở các cơ quan tham mưu cấp cao có nhiều công việc lớn, nên mới có nhiều điều kiện để sáng tạo, còn người sĩ quan ở cơ quan tham mưu bình thường thì «sáng tạo» cái gì? Tôi tin chắc rằng, ngay những công việc bình thường của cơ quan tham mưu cũng có địa bàn hoạt động rộng lớn cho sự sáng tạo và chủ động. Trong các công việc tác chiến, nếu không có thái độ sáng tạo, thì không thể giải quyết tốt bất cứ một vấn đề gì, dù đó là việc đề ra ý đồ hoặc vạch kế hoạch chiến dịch, việc nghiên cứu nhiệm vụ ngụy trang chiến dịch, tính toán về so sánh lực lượng, lợi dụng địa hình, — ở bất cứ chỗ nào cũng mở ra cho người trợ lý những khả năng tạo nên ưu thế cho bộ đội mình hơn địch. Thế còn vấn đề trinh sát? Ở đây cũng vậy, chỉ có tính sáng tạo và chủ động mới có thể khai thác được những tin tức cần thiết, còn máy móc và rập khuôn thì chỉ có thể dẫn đến thất bại. Vậy lẽ nào các sĩ quan của các cơ quan tổ chức lại ít có khả năng biểu hiện tính chủ động, chẳng hạn như khi họ nghiên cứu một cơ cấu tổ chức mới, hoặc sửa đổi tổ chức cũ nhân việc sử dụng các vũ khí và khí tài hiện đại hơn? Tôi xin đưa ra đây một dẫn chứng qua thực tế bản thân, có quan hệ tới việc xuất hiện vũ khí mới, mà thoạt nhìn thì xem ra có vẻ như đã thành lập nên một cơ cấu tổ chức tốt. Thế nhưng, sau khi thứ vũ khí mới ấy được nghiên cứu tỉ mỉ và kiểm tra trong thực tiễn thì thấy rằng, có thể tăng số vũ khí lên gấp ba lần ở các phân đội mà biên chế vẫn không cần tăng thêm một người nào. Nói tóm lại, trong bất kỳ tình huống nào cũng như trong bất kỳ công tác tham mưu nào cũng đều có đất để phát huy tính sáng tạo và chủ động.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #174 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:18:36 pm »


*
* *


Trong những năm chiến tranh, ở Bộ tổng tham mưu, công việc hết sức dồn dập cả ngày đêm, hơn nữa chúng lại đòi hòi phải giải quyết hết sức nhanh. Và chúng tôi cũng sớm nhận ra rằng, nhanh và vội trong công tác không đồng nghĩa với nhau. Hơn nữa, đó lại là những khái niệm không giống nhau. Nhanh là bạn còn vội là thù của công tác tham mưu. Đức tính nhanh được tạo nên và có được là nhờ thực tiễn, được củng cố nhờ rèn luyện. Người làm việc nhanh là người biết tập trung mọi suy nghĩ vào công việc mình đang phụ trách, không hề phân tán sang công việc khác, nhanh chóng suy nghĩ để có mọi thứ cần thiết trong tay. Tiện đây, cần nói thêm rằng, người làm việc nhanh nhậy là người biết tập trung tư tưởng, hăng say công tác, không nghe những chuyện phiếm của những người bên cạnh, không bị những ồn ào ngoại cảnh chi phối; họ toàn tâm đi sâu vào công việc. Còn vội: đó là thiếu sót. Tính vội vàng thường xuất hiện ở những người thiếu đầu óc tổ chức, lười suy nghĩ. Những người như thế thì mọi thứ đều làm phiền họ, những người ấy mất nhiều thời gian một cách vô ích, nên họ không kịp làm các công việc đúng hạn, rồi sinh vội. Họ không chịu kiên nhẫn thâm nhập vào thực chất các sự kiện, họ vớ lấy những phỏng đoán ban đầu mà họ cho là đúng. Họ phạm sai lầm, nhầm lẫn và rút ra những kết luận nông nổi. Tôi cho rằng nhà văn Nga vĩ đại Mác-xim Goóc-ki đã từng nói về chính những con người ấy như sau: «...Anh ta suy nghĩ và lập luận không phải để nghiên cứu các hiện tượng trong cuộc sống, mà để vội tìm ra chốn nương náu yên hàn cho sự suy nghĩ của mình, vội xác nhận những sự thật hiển nhiên khác nhau». Chúng ta thường nói với nhau là trong các cơ quan tham mưu, chúng ta làm việc không cần vội, mà cần nhanh hơn.

Kết quả công tác của người sĩ quan tham mưu phụ thuộc trực tiếp vào mối liên hệ của họ với cuộc sống, với bộ đội. Trong những năm chiến tranh, Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô và ban lãnh đạo Bộ tổng tham mưu chú ý theo dõi giúp cho các cán bộ của Bộ tổng tham mưu nắm vững thực tế chiến tranh. Theo thường lệ, mọi sĩ quan giữ các trách nhiệm công tác trong Bộ tổng tham mưu đều nhất thiết phải có mặt ở ngoài mặt trận. Còn các chủ nhiệm khu vực mặt trận một nửa số thời gian là ở các cơ quan tham mưu và các đơn vị thuộc mặt trận mình theo dõi. Cá biệt có những sĩ quan trong số đó có cả tác giả những dòng chữ này, thỉnh thoảng phải đi công tác thường kỳ và chỉ ở Bộ Tổng tham mưu có vài ngày thôi. Thậm chí có một số người suy nghĩ: vậy thì nói chung họ cần gì phải ở Bộ tổng tham mưu, sao không «thả» họ ra mặt trận? Những ý kiến ấy đã từng có và tất nhiên là không đúng. Tổng tư lệnh tối cao có ý kiến riêng của mình về vấn đề này. Đồng chí coi trọng ý nghĩa và tác dụng của mối liên hệ giữa các cơ quan tham mưu với các đơn vị, muốn bồi dưỡng thực tế của các đơn vị cho các cán bộ tham mưu có trình độ lý luận; đồng chí thường hay hỏi: các cán bộ trong Bộ tổng tham mưu có hay ra mặt trận không?

Bản thân I. V. Xta-lin chỉ tới đầu tháng Tám 1943 mới ra mặt trận. Hồi đó, các phương diện quân Ca-li-nin và Tây đang chuẩn bị chiến dịch tiến công Xmô-len-xcơ. Các phương diện quân ấy có nhiệm vụ giải phóng một bộ phận quan trọng ở vùng cao Trung Nga và tiêu diệt quân địch ở khu vực Xmô- len-xcơ. Qua đó, chúng ta có thể bảo đảm mặt phía Bắc của sườn phải các lực lượng chủ yếu của ta (4 phương diện quân) đang tiến công từ vòng cung Cuốc-xcơ. Ngày 3 tháng Tám, khi các đơn vị của phương diện quân Vô-rô-ne-giơ và phương diện quân Thảo Nguyên đang hiệp đồng với cánh phải của phương diện quân Tây-Nam chuyển sang tiến công trên hướng Bê-lơ-gô-rốt - Khác-cốp, thì Tổng tư lệnh tối cao đã đến chỗ tướng V. Đ. Xô-cô-lốp-xki tại sở chỉ huy của phương diện quân Tây, ở khu vực I-u-khơ-nốp. Đồng chí nghe tư lệnh phương diện quân báo cáo tình hình, xem xét các vấn đề đặt kế hoạch và chuẩn bị cho chiến dịch. Đồng chí nghiên cứu tỉ mỉ nhiệm vụ của các tập đoàn quân, pháo binh và xe tăng.

Sáng ngày 5 tháng Tám, I. V. Xta-lin tới làng Khô-rô-se-vô ở gần Rơ-giép, gặp tướng A. I. Ê-ri-ô-men-cô, tư lệnh phương diện quân tại sở chỉ huy của phương diện quân Ca-li-nin. Ở đấy, đồng chí cũng nghiên cứu tình hình, kế hoạch chiến dịch của cả hai phương diện quân, nhất là phương diện quân Ca-li-nin, và các vấn đề bảo đảm vật chất cho chiến dịch. Chẳng hạn, đồng chí đã quyết định đưa mật độ pháo binh ở khu vực mũi đột kích chủ yếu lên tới 170 khẩu trên một ki-lô-mét chính diện đột phá, bằng cách cơ động pháo ở các hướng phụ sang, bổ sung thêm lực lượng cho phương diện quân Ca-li-nin (quân đoàn kỵ binh cận vệ 3 của tướng N. X. Ô-xli-cốp-xki và một số đơn vị không quân).

Ngày hôm ấy, chúng ta giải phóng được Ô-ri-ôn và Bê-lơ-gô-rốt. Xta-lin từ mặt trận gọi điện về Bộ tổng tham mưu đúng vào lúc tôi nhận điện. Đồng chí lệnh cho chúng tôi chuẩn bị nhật lệnh biểu dương. «Bao giờ tôi trở về, — đồng chí nói, — thì đồng chí cùng với An-tô-nốp đến ngay Đại bản doanh để giải quyết việc tổ chức mừng chiến thắng này».

Theo quan điểm chúng tôi, Tổng tư lệnh tối cao không thể thường xuyên ra mặt trận. Vì nếu vắng mặt trong việc chỉ đạo chung để đi vào giải quyết nhiệm vụ riêng cho một mặt trận nào đó, thì lại là một sự khinh suất không thể tha thứ được.

Tổng tư lệnh tối cao còn đi dự các hội nghị ở Tê-hê-ran, I-an-ta và Pốt-xđam. Nhưng dù đi dự các hội nghị ấy, Tổng tư lệnh tối cao vẫn trực tiếp nắm quyền chỉ đạo mọi hành động chiến đấu ở các phương diện quân. Chúng tôi cho rằng trong điều kiện chiến tranh quyết liệt thì đó quả là một quyết định đúng đắn; Tổng tư lệnh tối cao bao giờ cũng giữ vững mối liên hệ chặt chẽ với thực tế cuộc chiến tranh. Cung cấp cho đồng chí những thực tế sinh động là những người mà Tổng tư lệnh tối cao đã nghiêm khắc đòi hỏi và không để cho ngồi lâu ở Mát -xcơ-va.

Đồng thời, I. V. Xta-lin cho rằng, phải thường xuyên bổ sung các cán bộ tham mưu có trình độ lý luận cho đội ngũ các cán bộ thực hành. Nhiều sĩ quan trong Bộ tổng tham mưu đã được cử giữ các chức vụ tham mưu trưởng các phương diện quân, tập đoàn quân, và chính bản thân các cơ quan tham mưu cũng được tín nhiệm lớn. Mọi đồng chí tham mưu trưởng đều là người phó tư lệnh thứ nhất hoặc cán bộ chỉ huy. Ngay các nhật lệnh chào mừng chiến thắng của Đại bản doanh cũng gửi cho hai người: tư lệnh và tham mưu trưởng. Chúng tôi thiết nghĩ, đó là việc làm đúng, vì không ai ngoài tham mưu trưởng, lại có thể nắm được hết mọi công việc, bởi lẽ bất kì người thủ trưởng nào khác cũng chỉ nắm được một ngành công tác thôi. Trước đây và hiện nay chỉ có tham mưu trưởng mới có quyền thay mặt người chỉ huy hạ các mệnh lệnh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #175 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:19:50 pm »


*
* *


Trong thời bình và nhất là trong thời chiến, đặc điểm nổi bật lên trong tác phong công tác của các cán bộ tham mưu mọi cấp là ý thức cảnh giác, biết giữ gìn bí mật. Yêu cầu tất yếu đối với họ là không được tò mò, biết những điều được phép biết và chỉ mình biết, không được lộ cho người khác biết, bảo vệ các văn kiện như bảo vệ con ngươi của mắt mình, không được đem những chuyện trong nội bộ cơ quan tham mưu nói ra ngoài. Các cán bộ tham mưu cần nhớ rằng trong những điều kiện nhất định, sự am hiểu những điều không cần thiết có thể gây nên nguy hại. Vì vậy, chúng tôi chỉ cho phép mình nói chuyện về công tác ở trong cơ quan tham mưu, không được bạ chỗ nào cũng nói và nói với tất cả mọi người. Không được sa đà vào những chỗ quen biết đáng nghi ngại. Trong các buổi họp, không được nói chuyện với nhau những điều bí mật. Những khi sử dụng điện đài và điện thoại, phải luôn luôn nhớ rằng: tất cả đều có thể bị nghe trộm ở trong khoảng không và trên những đường dây ấy.

Mọi sĩ quan đều hiểu biết những điều sơ đẳng ấy. Vi phạm những điều ấy, nhất là ở trong cơ quan tham mưu cấp cao, đều có thể mang lại những hậu quả nghiêm trọng. Một số người nhận thức chưa đầy đủ còn quan niệm một cách sai lầm rằng, tình báo của kẻ địch chỉ chú ý tới những tin tức quan trọng trong các văn kiện chúng đánh cắp được và tới bọn gián điệp bí mật chui sâu vào cơ quan tham mưu. Tình hình lại không hẳn như thế. Đánh cắp được tài liệu, hơn nữa chui sâu vào cơ quan tham mưu là một công việc cực khó. Trong suốt quá trình lịch sử, chỉ có một số người cá biệt mới làm được việc này. Phần lớn tin tức cơ quan tình báo địch thu lượm được trước đây cũng như hiện nay là ở nguồn tài liệu lấy trong báo chí, trong những lúc trò chuyện, ba hoa của những người có chức trách, trong các bữa tiệc, ở những người am hiểu mà hay khoe khoang trên các chuyến tàu, trên máy bay, ô-tô, rạp hát, rạp chiếu bóng, v.v.. Tình báo của chúng thu lượm những tin tức lẻ tẻ, rời rạc, rồi chắp lại với nhau, phân tích, so sánh và lấy đó làm căn cứ cho những kết luận đúng đắn. Chúng ta không cần kể chi tiết về vấn đề này, vì trong sách báo đã nói nhiều đến các trường hợp như thế.




*
* *



Cuối cùng, chúng ta cần thấy rằng không một sự nghiệp nào lại có thể thành công, nếu như không có công tác kiểm tra và kiểm soát sự chấp hành. Về mặt này, mọi người chúng ta đều đã biết tới các nguyên tắc của Lê-nin, thiết tưởng ở đây không cần phải giảng giải gì thêm. Tôi chỉ nói đến một điều là, Bộ tổng tham mưu đặt vấn đề kiểm tra việc chấp hành các quyết định và chỉ thị của Đại bản doanh thật hết sức gắt gao ngay từ lúc mới bắt đầu chiến tranh. Điều kiện tác chiến hồi đó rất khó khăn, chúng ta đã thấy rõ là nhiều mệnh lệnh của Bộ tổng tư lệnh tối cao không thể thực hiện được hoặc chỉ thực hiện được một phần, và sở dĩ có tình hình đó tuyệt nhiên không phải là do cá biệt người nào hoặc đơn vị nào có gì ác ý. Sau này, chúng ta đã tổ chức kiểm tra không ngừng, kiểm tra và lại kiểm tra mọi diễn biến thực sự của tình hình các công việc ngoài mặt trận, đó là một nguyên tắc bất di bất dịch trong công tác của Bộ tổng tư lệnh tối cao và của Bộ tổng tham mưu Liên Xô. Công tác kiểm tra đã bảo đảm thống nhất được mọi cố gắng mà nghệ thuật quân sự đòi hỏi phải làm như vậy. Đồng thời, nhờ có kiểm tra, chúng ta mới phát hiện được những nhu cầu cấp bách của các đơn vị, tính chất và quy mô của sự chi viện cần thiết.

Các mệnh lệnh, chỉ thị, kế hoạch và các văn kiện khác đã được vạch ra đúng đắn thì cần phải được thực hiện chính xác và đúng thời hạn; ngược lại, nếu không thực hiện được như thế thì tất cả đều chỉ là vô dụng. Xét đến cùng, bất kỳ văn kiện nào được biên soạn ra cũng chỉ là mới bắt đầu công việc, còn điều chủ yếu là ở chỗ quyết định ghi trong văn kiện phải được thực hiện. Song, đáng tiếc là trong quá trình chiến tranh, các chiến dịch được lập kế hoạch khá tốt, đúng như đã quy định, nhưng chỉ vì thực hiện hết sức tồi nên đã chuốc lấy thất bại thảm hại. Đó là do nhiều nguyên nhân chủ yếu là do tổ chức kém và không tiến hành kiểm tra tại chỗ.

Không thể chỉ có kiểm tra ở «bên ngoài», tức là ở các địa điểm, các đơn vị, các cơ quan chấp hành mệnh lệnh kế hoạch, mà nhất thiết phải tiến hành kiểm tra cả ở «bên trong», tức là quy định ngay ở trong cơ quan tham mưu thời hạn chấp hành mệnh lệnh, văn kiện, giúp đỡ những người soạn thảo kế hoạch hành động hoặc kế hoạch chiến dịch, kiểm tra quá trình biên soạn các văn kiện. Không tiến hành kiểm tra như vậy thì không thể nào hành động có hiệu quả được. Mỗi tập thể, dù là một tập thể đoàn kết và có trình độ nghiệp vụ, hoặc một người chấp hành dù là thành thạo nhất, có kỷ luật nhất cũng đều cần phải có sự kiểm tra từ trên. Nếu không như vậy thì sẽ có nguy cơ sinh ra thiếu sót về thời gian và chất lượng công tác.

Tất cả những điều trình bày ở trên là tác phong và phương pháp công tác của các cơ quan tham mưu, là những yêu cầu đối với vấn đề chỉ huy bộ đội, là sự đào tạo về mặt nghiệp vụ của các cán bộ tham mưu, và theo quan điểm chúng tôi, đó cũng là khái niệm về trình độ công tác tham mưu cao.




*
* *


Một số vấn đề công tác tham mưu nói trên là cả cuộc đời và sự nghiệp của chúng tôi, đã làm chúng tôi lo lắng trong những năm Chiến tranh giữ nước vĩ đại, nên tôi thấy cần phải trình bày trong chương này. Đối với chúng tôi, Bộ tổng tham mưu là cả một trường học to lớn trong công tác và đời sống. Các cán bộ trong Bộ tổng tham mưu đã học tập được sự sáng suốt trong chiến tranh của Đại bản doanh và Hội đồng quốc phòng Nhà nước, nơi tập trung trí tuệ của Nhà nước và của quân đội trong thời gian ấy.

Tổ chức ra những thắng lợi vẻ vang của bộ đội xô-viết vì sự toàn thắng của chủ nghĩa xã hội là một công tác khó khăn và quan trọng; công tác ấy đã diễn ra cả ở Bộ tổng tham mưu — cơ quan tham mưu ở đỉnh thang cao nhất và ở mọi cơ quan tham mưu khác.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #176 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:21:53 pm »


CHƯƠNG CHÍN

Vượt dãy Các-pát tiến Xlô-va-ki-a

Núi Các-pát ở phía trước, vượt qua như thế nào?
—Tiền thân của Quân đội nhân dân Tiệp Khắc.
— Lút-vích Xvô-bô-đa. — Tình hình ở Xlô-va-ki-a.
— Kế hoạch của Bê-nét: đường lối đảo chính bằng quân đội.
— Quyết định của Đại bản doanh về việc chi viện cho cuộc khởi nghĩa ở Xlô-va-ki-a.
— I. X. Cô-nép và I. E. Pê-tơ-rốp hành động. — Băng qua lửa đạn tới Đu-cli-a.
— Bên kia dãy núi. — Các anh hùng và kẻ thù của nhân dân. — Đột phá.


Năm 1944 được ghi vào lịch sử là năm mở nhiều chiến dịch có tính chất chiến lược của Hồng quân, đã thu được những thắng lợi quyết định chống chủ nghĩa phát xít, và do đó nhiều dân tộc ở châu Âu bước gần đến ngày giải phóng đất nước mình. Tôi còn nhớ hồi đầu năm, khi bộ đội ta trên khắp các mặt trận đang tiến lên phía trước, thì A. I. An-tô-nốp, Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô, triệu tập tôi đến chỗ đồng chí. Như thường lệ, tôi cầm vội chiếc cặp đựng tài liệu báo cáo sang ngay phòng làm việc của đồng chí. Nhưng, tôi không phải báo cáo gì hết, mà chỉ nghe A. I. An-tô-nốp nói. Như thường lệ, đồng chí ít nói và giải thích vắn tắt rằng chính phủ tư sản Bê-nét của Tiệp Khắc thông báo cho chúng ta về khả năng sẽ có cuộc vũ trang nổi dậy chống bọn Đức ở Xlô-va-ki-a. Cuộc khởi nghĩa cần được chi viện và họ đề nghị chúng ta giúp đỡ.

Chính phủ Tiệp Khắc đề nghị chúng ta giúp đỡ thì cũng là điều hợp quy luật, vì Tiệp Khắc là đồng minh của Liên Xô, phái đoàn quân sự Tiệp Khắc do tướng Pi-ca đứng đầu vẫn đang làm việc ở Mát-xcơ-va. Song, dẫu sao thì đề nghị ấy cũng nói lên một hiện tượng nào đó hết sức mới, vì chính phủ Bê-nét có lẽ là lần đầu tiên nói về khả năng có cuộc vũ trang nổi dậy chống nền độc tài phát-xít Đức ở Xlô-va-ki-a. Trước đó, chúng ta chưa hề thấy ý ấy trong những cuộc hội đàm với các nhà chức trách Tiệp Khắc ở Luân Đôn, lẫn trong các thư từ trao đổi với phái đoàn quân sự của tướng Pi-ca ở Mát-xcơ-va (Pi-ca thì nhiều lần viết thư đến Bộ tổng tham mưu về nhiều vấn đề khác nhau). Trước đây, tất cả các đại biểu của chính phủ Bê-nét ngấm ngầm không muốn mở rộng phong trào chống phát-xít ở Tiệp Khắc. Bê-nét và các thành viên trong chính phủ của ông ta là những người biết nhìn xa và có kinh nghiệm, họ hiểu rất rõ rằng nếu để cho các lực lượng nhân dân hoạt động mạnh, thì sẽ chứa đựng mối nguy cơ có tính chất giai cấp như thế nào đối với nước cộng hòa tư sản. Các nhà chính trị tư sản cố gắng giải quyết các nhiệm vụ giải phóng đất nước bằng cách không cho quần chúng tham gia rộng rãi vào cuộc khởi nghĩa vũ trang để khỏi khơi dậy sự căm phẫn của nhân dân. Vậy trong trường hợp này, họ sẽ trông cậy vào ai?

Dường như để trả lời câu hỏi trên, A. I. An-tô-nốp nói: chính phủ Bê-nét coi quân đội Xlô-va-ki-a là cơ sở chủ yếu của cuộc kháng chiến vũ trang ở Xlô-va-ki-a, và chắc là họ không có ý định phát động quần chúng nhân dân đứng lên chống bọn Hít-le. Có lẽ họ sợ rằng, nhân dân khi đã cầm chắc vũ khí trong tay thì sẽ nổi lên tự giải phóng mình. Nếu tình hình diễn ra như vậy thì, các bộ trưởng tư sản sẽ bị mất vị trí lãnh đạo chính trị của họ và sẽ bị rớt lại sau công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ quốc. Trong khi đó những người ủng hộ Bê-nét đã hy vọng rằng sẽ thỏa thuận được dễ dàng với các sĩ quan cao cấp của quân đội Xlô-va-ki-a.

Thế nhưng, biên chế trong các sư đoàn của quân đội Xlô-va-ki-a còn thiếu, hơn nữa trang bị lại tồi. Rõ ràng một quân đội như vậy sẽ không thể chống lại nổi quân của Hít-le. Vì vậy, chính phủ Tiệp Khắc mới đề nghị Liên Xô giúp đỡ về trang bị và quân lính. An-tô-nốp nói với tôi, họ đề nghị gửi sang Xlô-va-ki-a lúc bắt đầu khởi nghĩa 50.000 cơ số vũ khí bộ binh, một lữ đoàn nhảy dù đổ bộ người Tiệp Khắc đang được thành lập tại Liên Xô, ngoài ra là hai sư đoàn bộ binh Liên Xô.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #177 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:22:51 pm »


Chính phủ Bê-nét không nhắc đến các đơn vị khác của Tiệp Khắc đã được thành lập tại Liên Xô và đã hoạt động cùng với bộ đội xô-viết chống bọn phát-xít Đức chiếm đóng Tính đến tháng Giêng 1944, các đơn vị Tiệp Khắc này đã trải qua một chặng đường đấu tranh dài, đầy vẻ vang. Lúc đầu mới thành lập một tiểu đoàn Tiệp Khắc. Tiểu đoàn này đánh trận đầu rất gay go ở Khác-cốp, gần làng Xô-cô-lô-vô hồi tháng Ba 1943. Đồng chí Lút-vích Xvô-bô-đa, một trong những người sáng lập ra tiểu đoàn đó, nay là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, đã chỉ huy tiểu đoàn. Tới mùa thu năm ấy, L. Xvô-bô-đa được giao nhiệm vụ chỉ huy lữ đoàn bộ binh Tiệp Khắc. Lữ đoàn được thành lập trên cơ sở của tiểu đoàn nói trên. Các chiến sĩ trong lữ đoàn hoạt động rất xuất sắc khi chiến đấu giải phóng Ki-ép, đã được tặng thưởng huân chương Xu-vô-rốp hạng hai. Sau này, khuôn khổ lữ đoàn lại trở nên chật hẹp, vì có nhiều người yêu nước Tiệp Khắc muốn cầm vũ khí tham gia giải phóng Tổ quốc chống bọn phát-xít. Nói trước đi một ít, thì ngày 10 tháng Tư 1944 bắt đầu thành lập tại Liên Xô quân đoàn bộ binh Tiệp Khắc 1 ở khu vực Tséc-nốp-xư. L. Xvô-bô-đa, quân hàm cấp tướng, đã chỉ huy một lữ đoàn thuộc quân đoàn. Các binh đội và binh đoàn chiến đấu đầu tiên ấy của Tiệp Khắc đã trở thành yếu tố rất quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên Tổ quốc mình và là cơ sở xây dựng Quân đội nhân dân Tiệp Khắc sau này.

Tuy nhiên, chính phủ Bê-nét hồi đó cũng có kế hoạch hành động riêng ở Xlô-va-ki-a: kế hoạch đó dự tính sau khi các sư đoàn Xlô-va-ki-a nổi dậy chống bọn Hít-le thì tổ chức tuyến phòng ngự ở các đèo phía Bắc, theo các đường biên giới quốc gia chạy qua Ta-tơ-ra và ở đây, Bộ chỉ huy Tiệp Khắc đặt hy vọng chủ yếu vào địa hình hiểm trở dễ bề phòng ngự. Mặt phòng ngự ở phía Tây của đất nước thì họ dự tính sẽ dựa vào những phòng tuyến tự nhiên thuận lợi như sông Mô-ra-va, rừng núi và các điểm cao dọc hai bờ sông Vác và Gơ-rôn. Còn phần biên giới giáp ranh với Hung-ga-ri, địa hình thuận lợi cho việc xâm nhập của quân địch, thì các viên tướng Tiệp Khắc ở Luân Đôn cho rằng sẽ dựa vào máy bay Mỹ và Anh ném bom, bắn phá ngăn chặn quân địch không cho chúng tiến vào Xlô-va-ki-a. Căn cứ vào kinh nghiệm ba năm chiến tranh vừa qua, An-tô-nốp và tôi đều thấy rất rõ rằng quân địch sẽ không để cho bộ chỉ huy Tiệp Khắc thực hiện được kế hoạch đó.

Thế nhưng, A. I. An-tô-nốp vẫn chỉ thị:

— Đồng chí hãy cứ suy nghĩ thêm về những đề nghị chi viện của chính phủ Tiệp Khắc. Đồng chí cứ phác thảo trên giấy các khả năng hiện thực, và chủ yếu là đồng chí hãy tìm ra những biện pháp chi viện thiết thực là tốt nhất. Đồng chí thử nghiên cứu kế hoạch hành động mà họ đã đề nghị. Chúng ta có nhiệm vụ phải trả lời một cách thẳng thắn và có sức thuyết phục, thậm chí nếu như chúng ta thấy không thể tin tưởng vào các đồng minh của chúng ta rằng kế hoạch này sẽ thành công...

Nhất định chúng ta phải có nghĩa vụ giúp đỡ và với quy mô to lớn nước Tiệp Khắc đồng minh của chúng ta, điều đó thì không còn nghi ngờ gì cả. Về mặt này đã có quyết định có tính nguyên tắc của Chính phủ Liên Xô, và Tổng tư lệnh tối cao I. V. Xta-lin đã ra lệnh trả lời cho những người Tiệp Khắc rằng, chúng ta đồng ý và sẽ thực hiện bằng được sự chi viện ấy. Lúc này, tôi và tướng A. A. Grư-dơ-lốp bắt tay vào phân tích những đề nghị và kế hoạch hành động của những người Tiệp Khắc. Các kết luận chúng tôi rút ra không được lạc quan lắm. Các tính toán chỉ ra rằng, sai lầm của chính phủ Tiệp Khắc là ở ý định sử dụng các lực lượng hiện có của quân đội Xlô-va-ki-a để cố giữ phần lãnh thổ chủ yếu của Xlô-va-ki-a. Còn việc ngăn chặn quân Đức ở những đường biên giới quốc gia thì không quân Anh - Mỹ có ném bom cũng không sao chặn nổi, và thậm chí trong điều kiện đã có thêm cả hai sư đoàn bộ binh Hồng quân ném vào đấy nữa cũng chẳng ăn thua. Nghiên cứu tình hình thực tế, chúng ta thấy một số lượng lớn quân Đức có khả năng sẽ xâm nhập vào Xlô-va-ki-a trên cả một chiều dài rộng lớn của đường biên giới Hung-ga-ri.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #178 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:23:33 pm »


Việc hai sư đoàn bộ binh Liên Xô đổ bộ bằng đường không xuống Xlô-va-ki-a cũng không phải là việc đơn giản. Chúng ta có thể sử dụng được không quá 170 máy bay vận tải. Mỗi máy bay chỉ chở được 20 chiến sĩ có mang theo trang bị. Như vậy là, tất cả số máy bay đó mỗi chiếc phải bay tới 5-6 chuyến mới chở hết số quân có mang theo trang bị cá nhân của hai sư đoàn, chưa nói đến pháo binh và các đồ hậu cần khác. Hồi đó, việc chuyên chở bằng máy bay các loại trang bị nặng trên 2 tấn nói chung chưa thực hiện được.

Ngoài ra lại còn những khó khăn khác nữa. Ví dụ như muốn cho số máy bay nói trên hoạt động được bình thường thì phải cần đến 5 sân bay với đủ số nhiên liệu dự trữ cho cả lượt bay về, được yểm hộ chắc chắn cả về mặt đường không. Nhưng ở Xlô-va-ki-a không có các điều kiện ấy.

Không những thế, nếu chuyến bay đầu thành công, thì địch cũng sẽ phát hiện ra ý định của ta và sẽ tổ chức tập kích mạnh bằng đường không. Chúng ta sẽ không tránh khỏi sự thiệt hại nặng nề, do đó cần phải có máy bay tiêm kích bay theo để yểm hộ máy bay vận tải trên cả một chặng đường dài, ngay từ lãnh thổ chúng ta.

Tình hình trên mặt đất cũng có thể xảy ra những sự việc phức tạp. Hai sư đoàn được chở tới Xlô-va-ki-a tất nhiên cũng phải được thường xuyên bảo đảm mọi nhu cầu cần thiết cho sinh hoạt và chiến đấu. Như vậy có nghĩa là, sau khi bộ đội đã tập trung thì cũng phải cung cấp cho họ bằng đường không, nên sẽ thu hút một số lớn máy bay vận tải để làm nhiệm vụ đó.

Nhưng điều chủ yếu nhất là chính phủ Tiệp Khắc dường như không tính đến vấn đề là ngay lúc này bộ đội Liên Xô chưa thể trực tiếp tiến vào Các-pát được. Hơn nữa còn cần phải đi qua một đoạn đường mới đến núi. Quân địch đã xây dựng tuyến phòng ngự mạnh trên những con đường từ phía Đông dẫn tới dãy núi chính Các-pát, chặn các ngả đường tiến quân của ta. Chúng ta cần phải phá vỡ hệ thống phòng ngự ấy. Hồi đó, bộ đội ta chỉ có thể tiến công vượt qua các đèo mới vào được Xlô-va-ki-a. Ở Các-pát, quân địch không thua kém ta về quân số và các khí tài trang bị. Phòng tuyến Ác-pát dày đặc những hỏa điểm kiên cố và nhiều loại chướng ngại đứng án ngữ trên tất cả các hướng đặc biệt quan trọng.

Như vậy là, số học và lô-gích học chỉ ra rằng kế hoạch của các viên tướng của Bê-nét chủ yếu chỉ xuất phát từ nguyện vọng, chứ không phải xuất phát từ chỗ có thể thực hiện được trong thực tế hay không. Không có nhân dân tham gia và cố tránh họ thì không thể hy vọng thu được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống bọn Hít-le ở bên trong Xlô-va-ki-a. Thấy cần phải thẳng thắn nói hết với các đồng minh, vì vậy ở Bộ tổng tham mưu chúng tôi đề nghị với A. I. An-tô-nốp coi các công việc ở Xlô-va-ki-a mới chỉ là khả năng xây dựng một căn cứ lớn đấu tranh du kích tích cực trên lãnh thổ Xlô-va-ki-a. A. I. An-tô-nốp hoàn toàn đồng ý với quan điểm này.

Thế nhưng, xét về mặt chính trị, Bộ tổng tham mưu cũng không loại trừ khả năng những đề nghị của các bạn Tiệp Khắc thế nào cũng sẽ được chấp nhận và bộ đội xô-viết rồi cũng sẽ được lệnh đi chi viện cho Xlô-va-ki-a trước khi chuẩn bị tiến công vượt qua dãy núi Các-pát. Trong trường hợp đó, Bộ tổng tham mưu đề nghị cho đổ bộ vào Xlô-va-ki-a một lữ đoàn nhảy dù Tiệp Khắc và một lữ đoàn nhảy dù Liên Xô, chở tới đây các vũ khí của bộ binh và các phương tiện vật chất cần thiết khác cho cuộc khởi nghĩa. Việc vận chuyển bộ đội và các khí tài vật chất cũng sẽ có khó khăn, cần đến nhiều máy bay vận tải. Làm trọn được công việc đó không tránh khỏi bị nhiều tổn thất. Thực ra thì trong trường hợp này chúng ta cần ít sân bay hơn. Đồng thời với lúc ta chở quân và các khí tài vật chất tới Xlô-va-ki-a thì bộ đội xô-viết trên các mặt trận sẽ phải tiến hành các chiến dịch ở những nơi có lợi tùy theo các điều kiện tình hình.

Còn nói về các phương pháp hành động chống lại quân phát-xít Đức ở Xlô-va-ki-a, thì các trợ lý trong Bộ tổng tham mưu cho rằng, phòng ngự vững chắc từng khu vực trên khắp đất nước, nhất là trong giai đoạn đầu các chiến dịch, là điều hợp lý. Để tổ chức phòng ngự như vậy thì ta có rất ít lực lượng và phương tiện, hơn nữa quân địch sẽ sử dụng nhiều đường tiếp cận, nhất là từ phía Nam, để đột phá vào dải phòng ngự của ta. Ngoài ra, quân địch đang chiếm ưu thế về không quân. Trong tình hình đó, tốt hơn hết là ta sẽ sử dụng các lữ đoàn nhảy dù nói trên làm hạt nhân để phát triển phong trào du kích mạnh mẽ trong cả nước nhờ vào việc động viên và vũ trang nhân dân. Với những điều kiện lúc ấy, phương pháp đấu tranh này là có triển vọng hơn cả.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #179 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 07:25:00 pm »


Vào cuối tháng Ba đầu tháng Tư 1944, cuộc tiến công của bộ đội xô-viết ở Hữu ngạn U-crai-na đã hoàn thành. Cánh quân xung kích của phương diện quân U-crai-na 1 đã giải phóng Cô-lô-mưi-a. Bản thân sự kiện đánh chiếm một thị trấn bình thường ở vùng xa trung tâm không có gì là đặc sắc lắm, nhưng ngày 29 tháng Ba, Mát-xcơ-va đã bắn súng chào mừng các đơn vị chiến thắng, vì phương diện quân đã thu được một kết quả có tầm chiến lược quan trọng, vì các tập đoàn quân của chúng ta tiến tới đây đã chia cắt được Cụm tập đoàn quân «Nam» của địch, và lúc này, chúng ta đang đuổi sát một bộ phận của chúng chạy về phía Tây, còn một bộ phận khác chạy xuống phía Nam do những mũi đột kích của bộ đội phương diện quân U-crai-na 2 đang trên những con đường dẫn tới Khô-tin. Tiếp sau đó, tập đoàn quân 40 của tướng Ph. Ph. Giơ-ma-tren-cô ở sườn phải phương diện quân U-crai-na 2 tiến được tới chân núi Các-pát ở phía Tây Bô-tô-sa-nhi. Lúc này, các cánh quân chiến lược của địch ở hướng Tây và Tây-Nam rất khó hiệp đồng với nhau, vì dãy núi Các-pát rộng lớn ngăn cách hai cánh quân chiến lược ấy.

Mặc dầu hồi đó cái lòng chảo Coóc-xun — Sép-tsen-cốp-xki thứ hai tổ chức ở Đne-xtơ-rơ không thành công, song những kết quả mà Hồng quân thu được trong cuộc tiến công mùa xuân thật là to lớn: nhiều khu vực quan trọng ở nước ta được giải phóng khỏi ách quân xâm lược, hàng triệu người dân xô-viết thoát khỏi tình trạng nô dịch. Trong quá trình tiến công, kể cả cuộc tiến công ở Crưm, quân địch bị thiệt hại nặng: 18 sư đoàn và 1 lữ đoàn bị tiêu diệt, 68 sư đoàn bị thiệt hại đến một nửa và trên một nửa quân số. Chuẩn thống chế Man-stai-nơ, tư lệnh Cụm tập đoàn quân «Nam» mãi sau này mới hiểu được ý đồ của ta, và dù cố gắng cho rút quân để tránh đòn đột kích, song cũng không tránh được, nhất là đối với tập đoàn quân xe tăng 1 của Đức.

Những thắng lợi ở sườn phía Nam mặt trận Xô-Đức đã làm thay đổi hẳn tình hình có lợi cho ta.

Man-stai-nơ buộc phải thôi chức tư lệnh cụm tập đoàn quân. Viên thuốc huyền chức cay đắng thực ra đã được tẩm ngọt: viên bại tướng được nhận phần thưởng — thanh kiếm và huân chương Chữ thập hiệp sĩ. Khi nhận thưởng, Man-stai-nơ còn được nghe những lời thú nhận chán ngán của quốc trưởng, rằng thời kỳ những chiến dịch quy mô lớn ở phía Đông rất thích hợp với Man-stai-nơ đã qua rồi. «Ở đây, điều quan trọng lúc này là chỉ có cách kiên quyết giữ lấy các trận địa. Mở đầu phương pháp mới chỉ huy bộ đội phải gắn liền với tên tuổi mới và phương châm mới»...1.

Sở dĩ, chiến dịch của chúng ta lúc đó không phát triển được thêm nữa, chủ yếu vì bộ đội phải chiến đấu tiến công dài ngày trong điều kiện thời tiết mùa xuân băng tan, đường sá khó đi lại và cũng còn do địch kháng cự ngày càng mạnh. Các chiến sĩ xô-viết của phương diện quân U-crai-na 1 từ giữa tháng Tư và của phương diện quân U-crai-na 2 từ đầu tháng Năm đã chuyển sang phòng ngự cho tới mùa thu năm ấy.

Vào thời gian này, Bộ chỉ huy Liên Xô không định mở mũi đột kích trực tiếp để vượt qua dãy núi Các-pát. Tiến công chính diện như vậy có thể phải trả giá rất đắt. Cần phải tổ chức đánh vòng qua núi. Tư tưởng đó là cơ sở hình thành nên ý đồ các chiến địch sau này ở Các-pát, chúng ta dự kiến sẽ sử dụng những lực lượng không lớn lắm. Ngày 30 tháng Bảy 1944, phương diện quân U-crai-na 4 được thành lập lại do thượng tướng I. E. Pê-tơ-rốp làm tư lệnh. Phương diện quân này chỉ gồm có hai tập đoàn quân — tập đoàn quân cận vệ 1 của thượng tướng A. A. Grê-xcô và tập đoàn quân 18 của trung tướng E. P. Giu-ráp-li-ốp. Về sau, phương diện quân này còn tiếp nhận thêm quân đoàn bộ binh cận vệ 17 của thiếu tướng A. I. Ga-xti-lô-vích. Người và đạn không nhiều. Biên chế của hai tập đoàn quân có 18 sư đoàn. Quân số mỗi sư đoàn không quá 4.500 người. Đạn dược chỉ có tất cả từ 0,2-0,3 cơ số chiến đấu.

So sánh lực lượng lúc này có lợi cho địch. Trinh sát báo cáo: 10 sư đoàn bộ binh Đức trong biên chế của tập đoàn quân xe tăng 1 và 11 sư đoàn của tập đoàn quân 1 Hung-ga-ri đang phòng ngự trên một dải gần 400 ki-lô-mét ở phía trước phương diện quân. Các lực lượng chủ yếu của địch chiếm giữ các trận địa đã được củng cố vững chắc, trong đó có phòng tuyến Ác-pát dọc theo đường phân thủy của dây núi chính Các-pát ở phía Đông, chặn các đường qua đèo và đường hẻm trong núi. Tuyến phòng thủ của địch không còn chỗ nào hở.

Thế nhưng, Đại bản doanh vẫn tin rằng, tập đoàn quân xe tăng 1 của Đức đã bị suy yếu bởi thất bại trước đây, nên khó có thể cố thủ ở trong núi và ra lệnh cho bộ đội của phương diện quân mới vẫn tiếp tục tiến công chiếm lấy các đèo trên hướng Gu-men-ne, U-giơ-gô-rốt, Mu-ca-tre-vô và sau đó tiến ra thung lũng Hung-ga-ri. Nhưng các mũi đột kích đều bị đánh lui.
_______________________________________
1. E. Man-stai-nơ. Những thắng lợi đã mất. Mát-xcơ-va, 1957, tr. 545.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM