Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:28:23 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ Tổng Tham mưu Xô-viết trong chiến tranh - Tập 2  (Đọc 108930 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #160 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2016, 11:57:41 am »



Từ thời xa xưa đã có quân đội và chiến tranh, nhưng lúc đó chưa có cơ quan tham mưu. Cơ quan tham mưu chỉ ra đời khi nghệ thuật quân sự đã phát triển tới một trình độ nhất định, mà vị thống soái không thể một mình làm trọn nhiệm vụ chỉ huy bộ đội được.

Năm 1857, Ăng-ghen viết: «Để tạo khả năng cho người tư lệnh các tập đoàn quân và quân đoàn và cho các sư đoàn trưởng chỉ huy các đơn vị được giao phó, trong phạm vi quyền hạn của mình ... người ta đã thành lập ra một cơ quan đặc biệt chỉ gồm có các sĩ quan, và gọi nó là cơ quan tham mưu»1.

Mãi về sau này mới xuất hiện sự cần thiết phải có cơ quan tham mưu phức tạp. Cách đây hai trăm năm không cần có những cơ quan tham mưu phức tạp như vậy, vì chưa có những đạo quân đông và kết cục chiến tranh được giải quyết bằng một trận chiến đấu lớn, trong điều kiện vị thống soái có thể quan sát được toàn bộ chiến trường. Việc cung cấp cho quân đội được tiến hành bằng những phương tiện vận chuyển thô sơ và chỉ bó hẹp ở những vật phẩm tiêu dùng tối thiểu. Các hình thức thông tin phức tạp chưa có, các sĩ quan tùy tùng và cần vụ đi ngựa cũng đủ bảo đảm cho việc chỉ huy trận đánh. Trong điều kiện đó, các cơ quan tham mưu chưa giữ vai trò như trong điều kiện hiện nay, mà chủ yếu chỉ thực hiện các chức năng hành chính. Không phải ngẫu nhiên mà lịch sử đã không ghi lại tên tuổi nhiều tham mưu trưởng bên cạnh những nhà cầm quân vĩ đại. Có lẽ, chỉ có các chuyên gia nghiên cứu mới biết rằng, tham mưu trưởng của Na-pô-lê-ông là thống chế Béc-chi-ê, một người có năng lực làm việc kỳ lạ, có trí nhớ diệu kỳ, và biệt tài biến các chỉ thị chung của Na-pô-lê-ông thành những đoạn văn mệnh lệnh chính xác. Na-pô-lê-ông đã nói đến con người ấy là: Béc-chi-ê có tài «trình bày những biến động phức tạp nhất của quân đội thành các báo cáo rõ ràng và đơn giản». Mà phải chăng đã có nhiều người biết đến tướng Ben-ních-xen, tham mưu trưởng của M. I. Cu-tu-dốp? Ông cũng là một con người kiệt xuất. Thật vậy, ngày nay người ta còn biết về vị giám đốc nhiều hơn là người kỹ sư trưởng. Nhưng đó lại là vấn đề khác.

Nhiều năm đã trôi qua, nội dung và hình thức tiến hành chiến đấu và chiến tranh nói chung đã thay đổi, quân đội đông quân số hơn. Do sự phát triển của vũ khí và trang bị, do sự thay đổi quân số nên chiến thuật và chiến lược cũng thay đổi, xuất hiện nghệ thuật chiến dịch. Vai trò và ý nghĩa của các cơ quan tham mưu cũng thay đổi theo: các cơ quan tham mưu từ chỗ là cơ quan hành chính dần dần biến thành cơ quan thực sự tổ chức và chỉ huy các hành động chiến đấu của bộ đội trên mọi quy mô. Tất cả các quân đội hiện đại trên thế giới từ lâu đã có một tổ chức hoàn chỉnh của các cơ quan tham mưu và công tác tham mưu do những người có trình độ nghiệp vụ cao thực hiện, tức là những quân nhân chuyên nghiệp.

Ngày nay, cơ quan tham mưu tiến hành công tác cần thiết nhằm chuẩn bị và tổ chức trận đánh, chiến đấu, chiến dịch và chiến tranh nói chung. Cơ quan tham mưu thu thập các tin tức về địch, ta, địa hình, lập các bảng tính thời gian, tính toán quân số, trang bị và khí tài kỹ thuật, phân tích các tin tức nhận được, từ đấy rút ra các kết luận, báo cáo với tư lệnh (người chỉ huy) và dựa vào sự phân tích tình hình mà đề ra phương án giải quyết. Trên cơ sở quyết định đã được tư lệnh thông qua, cơ quan tham mưu lập kế hoạch trận đánh và chiến dịch, soạn thảo mọi văn kiện cần thiết (mệnh lệnh, chỉ thị, kế hoạch, v. v.), đệ trình phê chuẩn các văn kiện ấy, sau đó truyền đạt cho những đơn vị chấp hành, rồi sau đó kiểm tra việc chấp hành các quyết định đã được tư lệnh thông qua. Như vậy là, trong điều kiện hiện nay, nếu không có cơ quan tham mưu thì cũng sẽ không có cả vị thống soái mà tính tích cực sáng tạo của người đó sẽ bị những công việc vụn vặt hàng ngày lôi cuốn đi.

Một số người coi cơ quan tham mưu như là trung tâm máy tính, hoặc như là một tổ chức giống như phòng kề toán. Không có gì phải tranh cãi cả, cơ quan tham mưu làm ra nhiều con tính mà không một ai có thể làm được, dù thông minh đến đâu đi nữa. Nhưng đấy lại không phải là công việc máy móc, mà là một thứ lao động đòi hỏi trí thông minh và có định hướng mà máy móc không thể nào làm nổi. Quả vậy ngày nay máy móc đang giúp cho con người làm các con tính, nhưng lại không thể suy nghĩ thay cho con người được. Trừ những trường hợp hiếm có, mỗi con tính đều làm sáng tỏ một sự tìm kiếm, một phán đoán, một giả thuyết; nó được tiến hành nhằm mục đích phát hiện, chứng minh hoặc bác bỏ một cái gì đó và phải do một tập thể lớn những con người giàu kinh nghiệm, có trình độ hiểu biết chung và trình độ chuyên môn khá, mới hoàn thành một cách tốt đẹp được. Chỉ có sự suy nghĩ chung của tập thể, liên hệ thường xuyên và mật thiết với hoàn cảnh chiến tranh mới có thể rút ra một cách có tổ chức, từ các nguồn thông tin, tất cả những gì là bổ ích và cần thiết cho việc hình thành quyết định đúng đắn của nhà cầm quân.
___________________________________________
1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập, t.14, tr.47

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #161 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2016, 11:58:09 am »


Chúng ta hãy nói đến các nhiệm vụ cụ thể của cơ quan tham mưu. Các nhiệm vụ ấy chủ yếu có quan hệ tới việc phải cung cấp thường xuyên cho trí tuệ của nhà cầm quân các tài liệu cần thiết để ra quyết định. Cơ quan tham mưu có nhiệm vụ nhận, hay như các nhà quân sự thường nói là thu thập các tài liệu ấy, xử lý và báo cáo cho nhà cầm quân. Tất nhiên, muốn làm được công việc đó, cần có các cơ quan tổ chức thu thập, xử lý các số liệu và báo cáo cho người chỉ huy quân sự. Trong mỗi bộ tham mưu đều có các cơ quan như thế. Các cơ quan đó tiến hành các công việc hàng ngày, tỉ mỉ, có lúc là những công việc bình thường, «cành nguyệt quế» thì chưa thấy đâu, song hàng ngày chỉ có thể gặp những điều khó chịu mà thôi.

Có thể nói rằng, trong chiến tranh không việc gì là không có liên quan tới cơ quan tham mưu. Một số loại công tác có tính chất bắt buộc và là loại hoạt động tham mưu hết sức quan trọng. Trước hết phải kể đến công tác trinh sát, một trong những chức năng hàng đầu và quan trọng nhất của các cơ quan tham mưu. Công tác trinh sát phải tiến hành liên tục từ khi bắt đầu chiến tranh cho đến khi kết thúc chiến tranh, phải tiến hành thường xuyên và ở khắp mọi nơi — trong chiến đấu, trong hành quân và trong lúc nghỉ ngơi, trên mặt đất, trên không và trên biển, ở hậu phương gần và hậu phương xa; phải tiến hành bằng mọi biện pháp, mọi phương tiện có thể có — bằng quan sát, bằng phái đi các tổ đặc biệt và tình báo viên, bằng rình nghe, bằng xác định phác họa tọa độ các mục tiêu của địch, bằng các phương tiện vô tuyến điện tử và các phương tiện khác, bằng chụp ảnh và cuối cùng, bằng chiến đấu. Không phải vô cớ mà những yêu cầu chủ yếu đối với trinh sát là phải tiến hành trinh sát liên tục, kịp thời và chính xác. Công tác trinh sát được tổ chức và tiến hành tùy thuộc vào khả năng của cơ quan tham mưu. Cơ quan tham mưu càng cao thì càng có nhiều lực lượng và phương tiện, càng tiến hành trinh sát bằng nhiều phương pháp khác nhau. Cơ quan tham mưu cao nhất tổ chức và tiến hành trinh sát bằng mọi lực lượng và phương tiện của mình.

Công tác trinh sát đã được tổ chức và hoạt động như thế nào. Các báo cáo của cơ quan trinh sát không được có thiếu sót. Nhưng tất cả những báo cáo ấy thường có chung một đặc điểm là dường như chúng đã chụp ảnh các sự kiện; trinh sát viên báo cáo những gì mình trông thấy, nghe thấy và khai thác được. Còn cơ quan tham mưu tiến hành trinh sát phải rút ra kết luận là những tiến trình gì ẩn náu sau các bức ảnh đó, các sự kiện ấy nói lên cái gì và tại sao lại phản ánh trong đó, địch mưu toan hành động những gì và như thế nào. Thế nhưng, các kết luận ấy thật không đơn giản! Trước hết, các tin tức trinh sát nhận được thường mâu thuẫn, có lúc được thổi phồng lên hoặc bị bóp bẹp quá mức, có lúc lại không đúng sự thật. Sau khi sàng lọc tỉ mỉ, nghiên cứu và phân tích cẩn thận, chúng ta mới chọn được trong cả mớ tin tức trinh sát hỗn độn ấy tất cả những cái gì quý giá xác thực, để trên cơ sở đó mà rút ra kết luận.

Ví dụ, trong thời kỳ diễn ra trận đánh bảo vệ Mát-xcơ-va, chúng ta đã biết địch khá rõ để có thể xác định đúng ý đồ, tính chất và hướng hành động của chúng. Chúng ta nắm được mức độ cố gắng của quân địch trên tất cả các mặt trận tiến công của chúng. Vì vậy, Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô mới ra quyết định chuyển sang phản công ở ngoại vi Mát-xcơ-va vào thời cơ thích hợp nhất. Trận đánh ở Xta-lin-grát, tình hình cũng diễn ra như vậy.

Ở Vòng cung Cuốc-xcơ thì tình hình diễn biến có khác đôi chút. Tháng Năm 1943, căn cứ vào toàn bộ tin tức trinh sát, chúng ta đi tới kết luận là ở khu vực này, sẽ có trận giao chiến rất lớn, quyết định nhiều vấn đề trong tiến trình chiến tranh. Bộ tổng tham mưu làm việc căng thẳng suốt ngày đêm để phân tích các báo cáo của cơ quan trinh sát. Cũng giống như mọi lần, các tin tức ấy không thống nhất với nhau, nhưng dần dần cũng đi tới một ý kiến chín muồi là địch có thể chuyển sang tiến công ở khu vực Cuốc-xcơ trên mặt trận Xô-Đức vào khoảng từ ngày 10-12 tháng Năm. Chúng tôi báo cáo lên Tổng tư lệnh tối cao kết luận ấy vào ngày 8 tháng Năm, và cũng ngay trong ngày hôm ấy, chúng tôi đã báo trước cho bộ đội biết. Lúc đó không một ai nghi ngờ gì về tính chính xác của kết luận đó. Thế nhưng... địch không tiến công.

Trong khi ấy, trinh sát vẫn tiếp tục hoạt động, thu thập các tin tức về cuộc tiến công mà quân phát-xít Đức đang chuẩn bị ở Cuốc-xcơ. Bộ tổng tham mưu lại kết luận là địch sẽ chuyển sang tiến công từ ngày 19-26 tháng Năm. Lần thứ hai, chúng tôi lại báo trước cho các phưưng điện quân biết, thế nhưng cuộc tiến công của địch vẫn không xẩy ra! Chúng tôi tiến hành kiểm tra lại hết tất cả, rồi lại rút ra kết luận về cuộc tiến công sắp tới của quân địch; lần này vào khoảng từ ngày 3-6 tháng Bảy. Bộ đội đều được báo trước về thời hạn địch có thể chuyển sang hành động tích cực. Cuối cùng tiến trình thực tế các sự kiện diễn biến đã khẳng định kết luận đó: như chúng ta đều biết, sáng 5 tháng Bảy, địch đã bắt đầu tiến công.

Phải nói rằng, trong trường hợp này, Bộ tổng tham mưu Liên Xô không lần nào phạm sai lầm khi phân tích các tin tức. Quân địch đã thật sự sẵn sàng chuyển sang tiến công và chỉ chờ đợi hiệu lệnh. Nhưng Hít-le, kẻ phát hiệu lệnh, không dám cho quân lính của hắn tiến lên trong phương án một và phương án hai. Mãi tới phút cuối cùng của thời hạn tiến công đã định, địch mới bắt đầu tiến công.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #162 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2016, 11:58:43 am »


Đôi khi, việc so sánh các tin tức trinh sát đã thu được lại có thể cung cấp cho ta một bức tranh hoàn toàn mới về sự bố trí lực lượng của địch, do đó phát hiện ra các ý định của địch. Tôi xin dẫn sự kiện xảy ra hồi tháng Ba 1945, khi chúng ta phát hiện tập đoàn quân xe tăng 6 SS được điều động tới khu vực Bu-đa-pét. Trước đó ít lâu, các nước đồng minh thông báo cho chúng ta biết quả đấm xung kích mạnh của địch hoàn toàn nhằm vào địa điểm khác, chứ không phải vào Bu-đa-pét. Căn cứ vào các tin tức trinh sát ta thu được, Bộ chỉ huy Liên Xô đã rút ra kết luận đúng đắn về ý định tích cực và âm mưu của địch trong khu vực thủ đô Hung-ga-ri và đề ra những biện pháp cần thiết. Kết quả là các kế hoạch của Bộ chỉ huy phát-xít Đức đã bị phá sản.

Những dẫn chứng như trên có thể còn nhiều, và qua đó rõ ràng là cơ quan tham mưu quả có khó khăn khi phân tích các hành động sắp tới của địch, mà đó lại là nhiệm vụ hết sức quan trọng; nếu cơ quan tham mưu báo cáo với bộ chỉ huy các kết luận không chính xác về địch và âm mưu của chúng thì cũng rất dễ làm cho bộ chỉ huy lầm lẫn.

Khi phân tích các tin tức trinh sát, chúng ta có thể mắc sai lầm là lấy điều mình mong muốn coi như là sự thật. Khả năng này cũng dễ xảy ra, nếu như chúng ta ít nắm được các dấu hiệu về ý đồ của địch. Điều đó được chứng minh bằng sự thất bại của quân đoàn xe tăng 11 của tướng Rút-kin ở Cô-ven, do không đánh giá đúng các hành động của địch; hoặc sự tính toán sai lầm nghiêm trọng của bộ tư lệnh phương diện quân Tây-Nam vào mùa đông năm 1943, về ý định của địch. Thật ra, không phải địch đã bỏ chạy đến sông Đni-ép-rơ như chúng ta phán đoán, mà chúng được bố trí lại để chiến đấu phòng ngự, rồi sau sẽ chuyển sang phản công. Các kết luận về hành động của địch hồi ấy chỉ dựa vào mỗi một dấu hiệu là thấy quân lính địch vội vã rút chạy về hướng Tây. Như bạn đọc đã thấy, muốn có kết luận đúng đắn mà chỉ dựa vào độc một dấu hiệu thì chưa đủ.

Trong công tác trinh sát, các dấu hiệu mới thoạt nhìn tuy rất nhỏ, song đôi khi lại có ý nghĩa rất lớn. Ví dụ, trong thời kỳ chuẩn bị trận đánh ở Cuốc-xcơ, chúng ta rất băn khoăn khi được tin có một bộ phận của cánh quân Oóc-lốp của địch đang chiến đấu với bộ đội của các phương diện quân Tây và Bri-an-xcơ. Bộ phận của cánh quân này có thể là nguồn bổ sung trước mắt cho các lực lượng của Hít-le để tiến công Cuốc-xcơ. Trước đó, chúng ta không thấy có một dấu hiệu thay đổi nào trong sự bố trí của địch, nhưng bất chợt tướng M. M. Pô-pốp lúc được chỉ định làm tư lệnh phương diện quân Bri-an-xcơ lại báo cáo bằng điện thoại về Bộ tổng tham mưu rằng, hình như địch đang bố trí lại lực lượng thế nào ấy. Và lúc này, đồng chí cũng chưa được biết chi tiết gì hơn.

Việc quân địch bố trí lại là do một chiến sĩ đã từng trải của chúng ta nhận xét thấy. Khi đồng chí tư lệnh ra ngoài tiền duyên để tìm hiểu địa hình dải phòng ngự của phương diện quân, có hỏi một chiến sĩ rằng: «Đối diện với các đồng chí là kẻ địch nào», thì chiến sĩ ấy đã báo cáo một cách tin tưởng là hiện nay quân Đức đang có sự thay phiên.

Đồng chí tư lệnh quan tâm tới nhận xét ấy và đồng thời có sự cảnh giác: cơ quan trinh sát không hề báo cáo gì về sự thay phiên đó. M. M. Pô-pốp hỏi người chiến sĩ: «Căn cứ vào đâu mà đồng chí phán đoán như vậy?»

- Thưa đồng chí đại tướng, bọn Đức hiện nay không phải là bọn Đức trước, — người chiến sĩ trả lời. — Trước đây, bọn lính cũ đi thẳng người, thường hay bắn vào những khu vực đã định, lúc bảy giờ sáng và một giờ trưa thì bọn chúng ngừng tiếng súng. Hình như lúc ấy bọn chúng ăn bữa sáng và ăn bữa trưa. Ngày ngày vẫn diễn ra đúng như vậy. Còn bọn mới đến thì ai cũng nhận thấy là chúng bắn lẻ tẻ, đi lại cúi lom khom, lúc thì chạy, lúc thì bò, tìm mọi cách ẩn nấp. Chúng lại nghỉ ăn bữa sáng và ăn bữa trưa vào thời gian khác...

Đồng chí tư lệnh cảm ơn người chiến sĩ, rồi sau đó tổ chức đội trinh sát mạnh bám riết khu vực đó. Đội trinh sát bắt được một cái «lưỡi» của một binh đoàn địch vừa được điều động tới tiền duyên. Lần trinh sát đó và một lần trinh sát tiếp sau giúp ta có thể xác định rằng địch đã cho thay thế một phần các sư đoàn đã bị suy yếu nhiều trong các trận đánh trước đây, rút chúng về phía sau gần nhất để bổ sung và nghỉ ngơi.

Trường hợp phát hiện được tuy nhỏ như vậy, nhưng lại là một bằng chứng để xác minh thêm rằng, bộ chỉ huy Đức không có ý định lấy quân của chúng ở đây để tăng cường cho hướng Cuốc-xcơ.

Một trong những điều tối kỵ trong công tác của bất kỳ người sĩ quan tham mưu nào, đặc biệt đối với người chiến sĩ trinh sát, là cố «đoán» những suy nghĩ của người chỉ huy, dùng báo cáo của mình để «chứng minh» những suy nghĩ đó và nguy hiểm nhất là bản báo cáo lại trái với những suy nghĩ đó. Trên thực tế, tình hình ấy thường dẫn đến chỗ đánh giá không đúng các sự kiện, bóp méo thực tế một cách tùy tiện. Hậu quả sẽ là quyết định sai, đánh không thắng, hơn nữa chiến đấu thất bại. Dám dũng cảm báo cáo sự thật cay đắng và có ý kiến riêng của mình trước khi người chỉ huy hoặc người tư lệnh ra quyết định: đó là những phẩm chất chân chính của người sĩ quan tham mưu tốt. Tất nhiên, báo cáo những sự thật không hài lòng cũng không phải là việc dễ, vì người báo cáo có thể sẽ là người đầu tiên chịu sự nóng giận hoặc bất bình của người thủ trưởng. Nhưng phải tôn trọng chân lý. Chỉ muốn gây những cảm giác dễ chịu cho thủ trưởng thôi thì thường không có lợi cho công tác.


Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #163 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 06:41:50 am »


*
* *


Thu thập tin tức về tình hình bộ đội ta cũng là một nhiệm vụ quan trọng của cơ quan tham mưu. Tất nhiên, việc này dễ làm hơn là rút ra những kết luận về địch. Thế nhưng, đó không phải là một công tác có tính chất kỹ thuật, thêm nữa nó là một công việc tốn rất nhiều công sức. Ở đây cũng có những đặc điểm riêng của nó.

Vấn đề là ở chỗ, người chỉ huy và cơ quan tham mưu đánh giá tình huống và hoàn cảnh của bộ đội ta xuất phát từ những quan điểm ít nhiều chật hẹp và cục bộ. Những quan điểm đó bị hạn chế bởi khu vực hoặc dải hoạt động của mình, nên các kết luận về các sự kiện thường không tính đến tình huống mà cấp trên đã biết. Ngoài ra, người chỉ huy vì chịu trách nhiệm về những hoạt động của binh đội hoặc binh đoàn của mình, nên tất nhiên đều muốn làm cho hoạt động của mình có vẻ tốt. Vì vậy, dù muốn hay không, họ cũng có xu hướng tô đậm thêm thực tế. Cơ quan tham mưu cần phải phân tích kỹ toàn bộ tính chất phức tạp của các vấn đề khách quan và chủ quan đó và phải tìm ra chân lý. Như tôi đã viết là có đồng chí tham mưu trưởng đã bị mang vạ do không báo cáo với Bộ tổng tham mưu về một điểm dân cư lớn đã bị địch chiếm đóng, vì quá tin vào lời hứa của những người chỉ huy cấp dưới của mình là «chúng tôi sẽ chiến đấu chiếm lại ngay trong ngày hôm nay». Thế nhưng, điểm dân cư ấy vẫn bị địch chiếm và đồng chí tham mưu trưởng đã bị cách chức.

Trong những năm chiến tranh, những trợ lý của Bộ tổng tham mưu chúng tôi có biệt tài bắt mạch được các báo cáo ở ngoài mặt trận gửi về. Ví dụ, khi báo cáo là địch «đã ít nhiều xâm nhập được vào tuyến phòng ngự của ta», hoặc xấu hơn là địch «đã phần nào đánh bật được một bộ phận bộ đội ta», thì chúng tôi hiểu ngay rằng nhất định phải kiểm tra những lời diễn đạt như thế và phải tìm mọi cách để xác định ý nghĩa chính xác của chúng. Trong thực tế đã có trường hợp: sau khi nhận báo cáo được một ngày thì địch đã tiến sâu, cách tiền duyên trong tung thâm tuyến phòng ngự của ta 10-20 ki-lô-mét và hơn một tí. Đấy, các đồng chí thử hình dung xem địch «đã phần nào đánh bật được một bộ phận» ra sao? Tóm lại, cơ quan tham mưu không nên chỉ thu thập một cách không suy nghĩ những báo cáo gửi đến, mà phải đi sâu phân tích mỗi dòng trong báo cáo và rút ra kết luận.

Ví dụ dưới đây là hậu quả việc làm cầu thả của một cán bộ tham mưu. Có một lần, báo cáo tổng kết chiến đấu trong ngày của phương diện quân Vô-rô-ne-giơ gửi về có đoạn viết là bộ đội ta đã phản công thắng lợi và chiếm được 100 khẩu pháo của địch. Đồng chí chủ nhiệm khu vực mặt trận đã nhận báo cáo này bằng điện báo, sau đó cho đánh máy, chứng thực và gửi lên Đại bản doanh như vẫn thường làm. Sớm hôm sau, I. V. Xta-lin gọi điện thoại hỏi tôi:

- Chúng ta chiếm được cả đạn pháo nữa chứ?

Tôi không rõ. I. V. Xta-lin nói:

- Đồng chí hãy hỏi xem và báo cáo cho tôi biết.

Tôi lập tức liên hệ với tham mưu trưởng phương diện quân. Đồng chí này cũng không biết và hứa sẽ cho tìm hiểu ngay rồi gọi điện thoại cho tôi. Thời gian trôi qua. Chừng hai tiếng đồng hồ sau, Tổng tư lệnh tối cao lại gọi điện thoại và nói thêm:

- Nếu có đạn thì với số pháo phương diện quân đã thu được chúng ta có thể tổ chức ít ra là 20 khẩu đội pháo. Phải thế không?

Tôi trả lời khẳng định: đúng như vậy. Rồi đồng chí lại hỏi:

- Đã nắm được tình hình chưa, bao nhiêu đạn?

- Vẫn chưa nắm được, — tôi trả lời.

I. V. Xta-lin đặt ống nghe xuống, tôi cảm thấy rõ ràng là đồng chí rất không hài lòng.

Tôi lại liên hệ với tham mưu trưởnng phương diện quân. Lần này, tôi được biết là không phải chúng ta đã chiếm được 100 khẩu pháo, mà tất cả chỉ có 10 khẩu, trong đó, 6 khẩu đã bị phá hủy, chỉ có 4 khẩu là còn dùng được; còn ai đã báo cáo và tại sao lại xảy ra như vậy thì bộ tham mưu phương diện quân đang phân tích.

Rắc rối to rồi. Tôi đi ngay tới chỗ A. I. An-tô-nốp và báo cáo với đồng chí câu chuyện vừa mới nhận được của tham mưu trưởng phương diện quân.

- Đúng, dông tố sắp đến nơi, — A. I. An-tô-nốp nói.— Chúng ta chưa nên gọi điện báo cáo với Xta-lin, tốt hơn hết là chúng ta sẽ trực tiếp báo cáo vào buổi tối. Còn nếu đồng chí hỏi đến, chúng ta đành phải báo cáo đúng như vậy thôi...

Đến tối, chuông điện thoại không thấy reo, và trong buổi báo cáo thường kỳ ở điện Crem-li, Tổng tư lệnh tối cao lại nhắc đến các khẩu pháo bất hạnh đó. Đúng như chúng tôi dự kiến, dông tố nổi lên: chúng tôi phải nghe những lời lẽ rất gay gắt phê phán chúng tôi và các ban tham mưu nói chung, nào là thiếu trách nhiệm, lơ là trong công tác, khờ khạo, tắc trách, thiếu kiểm tra... Cuối cùng, A. I. An-tô-nốp được lệnh phải trực tiếp điều tra việc này và báo cáo tên người đã phạm sai lầm ấy.

Qua điều tra, chúng tôi được biết Hội đồng quân sự phương diện quân viết trong báo cáo là 10 khẩu pháo, song khi truyền qua máy «Bô-đô», các điện báo viên đã ghi nhầm con số và truyền đi là 100. A. I. An-tô-nốp báo cáo về vấn đề này và nói rằng, Bộ tổng tham mưu đã áp dụng những biện pháp kiểm tra thật nghiêm ngặt, để từ nay về sau không mắc phải những sai lầm như vậy nữa. Đồng chí không báo cáo tên người phạm sai lầm.

Xta-lin rít mạnh tẩu thuốc, đi lại dọc theo cái bàn trải bản đồ và nói:

- Tất nhiên là cần phải nhắc nhở các cô điện báo viên phải chú ý... Nhưng bắt lỗi họ làm sao: vì họ không hiểu được nội dung bức điện. Mà chính đồng chí trợ lý nào nhận báo cáo đáng lẽ phải có trách nhiệm kiểm tra tính chất chính xác của các con số. Vì đấy không phải là 2 khẩu pháo, và cũng không phải ngày nào chúng ta cũng chiếm được một số lượng pháo như vậy, mà có lẽ, đây là lần đầu tiên kể từ ngày bắt đầu chiến tranh...

Đồng chí còn nói hồi lâu về vấn đề này, sau đó hỏi tôi:

- Đồng chí trợ lý nào nhận báo cáo?

Tôi trả lời là đồng chí chủ nhiệm hướng trực tiếp nhận ở máy.

- Phải cách chức đồng chí ấy! Cử đồng chí ấy làm công việc gì ít quan trọng hơn và không để trong Bộ tổng tham mưu nữa...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #164 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 06:43:04 am »


*
* *


Trên đây, chúng ta mới chỉ nói đến một mặt hoạt động của tham mưu là thu thập tin tức về tình hình các đơn vị bộ đội. Nhưng ngoài ra, còn cần phải biết chính xác tình trạng, khả năng chiến đấu của các đơn vị ấy, tức là số lượng các phân đội, binh đội, binh đoàn, số lượng trang bị và khí tài kỹ thuật; việc bảo đảm các phương tiện vật chất khác; sư hiện có và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ chỉ huy, tình trạng chính trị tinh thần và trình độ huấn luyện của các đơn vị. Đó cũng là một công việc rất quan trọng. Chúng ta không những phải thu thập tất cả những tài liệu ấy, mà còn phải biết phân tích tỉ mỉ những tài liệu ấy.

Các yếu tố có liên quan đến việc đánh giá tình hình đều được phân tích trong tất cả các cấp của tổ chức quân sự, từ trung đoàn cho đến Bộ tổng tham mưu. Đồng thời, Bộ tổng tham mưu còn đánh giá cả những nhân tố khác, chỉ có ở các cơ quan tham mưu cấp trên. Trước hết, đó là tình hình chính trị-quân sự của địch, của các nước đồng minh và của bản thân nước ta. Tất nhiên, không phải cứ mỗi một chiến dịch đều tiến hành đánh giá tình hình quân sự-chính trị. Trừ trường hợp ngoại lệ hiếm có, còn tình hình quân sự-chính trị thường hay thay đổi dần dần, và chúng ta thường phân tích nó theo từng thời kỳ. Bộ tổng tham mưu rút ra những tài liệu cần thiết cho mình từ những kết luận đánh giá tình hình chung của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Sự đánh giá đầu tiên về tình hình quân sự-chính trị là báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng nhân dịp kỷ niệm lần thứ 24 ngày Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, và trong diễn văn của Tổng tư lệnh tối cao đọc tại Quảng trường Đỏ ngày 7 tháng Mười một 1941. Tình hình được xác định là trầm trọng và đang đe dọa đất nước ta. Sau này, trong cả quá trình cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, chúng ta bao giờ cũng phân tích tình hình vào trước ngày 1 tháng Năm — dựa theo kết quả chiến cục mùa đông, và trước ngày 7 tháng Mười một về kết quả chiến cục mùa hè. Trường hợp cá biệt, chúng ta còn tiến hành tổng kết các chiến dịch có ý nghĩa quyết định của một số phương diện quân, chẳng hạn như sau khi đánh lui cuộc tiến công của quân Đức tại Vòng cung Cuốc-xcơ. Các bài phát biểu và nhật lệnh của Tổng tư lệnh tối cao cùng với các văn kiện khác thường nói rõ những sự đánh giá ấy.

Trong từng giai đoạn chiến tranh lại có những vấn đề quân sự-chính trị riêng và có ý nghĩa đặc biệt, chẳng hạn vấn đề mở mặt trận thứ hai. Trong báo cáo nhân dịp kỷ niệm lần thứ 25 Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại đã dành hẳn một phần để nói về vấn đề này. Những vấn đề có quan hệ chặt chẽ tới việc mở mặt trận thứ hai là vấn đề thực tiễn lập kế hoạch các chiến dịch của chúng ta. Chẳng hạn trong năm 1942, chúng ta phải quyết định một vấn đề: có tính hoặc không tính đến những lời hứa của Anh và Mỹ về việc mở mặt trận thứ hai trong năm nay?

Trong mọi dịp phân tích tình hình quân sự-chính trị, chúng ta đều có đánh giá chung và riêng về mặt quân sự những kết quả của hai bên. Trong báo cáo nói trên của I. V. Xta-lin kết quả cuộc tiến công của quân phát-xít Đức vào mùa hè năm 1942 đã bị coi là thất bại, vì không thực hiện được các kế hoạch chiến lược của chúng. Đồng thời còn rút ra kết luận về khối liên minh chống Hít-le và về sự tất yếu sẽ chiến thắng quân thù.   

Bạn đọc thấy là, chúng ta rất chú ý đến tình hình chính trị bên trong những nước có các Lực lượng vũ trang Liên Xô hoạt động trên lãnh thổ của họ. Khi lập kế hoạch các chiến dịch, Bộ tổng tham mưu chú ý đến tình hình đó, và có thể nói thẳng ra là, ở đây chúng ta thực hiện những biện pháp không hoàn toàn bình thường.

Khi lập kế hoạch hành động quân sự trước mắt và sắp tới, Bộ tổng tham mưu không những phải tính toán đến các dự trữ hiện có về trang bị, kỹ thuật, nhiên liệu và các loại cung cấp vật chất khác, mà còn phải nắm được khả năng công nghiệp sản xuất các sản phẩm quân sự và căn cứ vào đó để lập kế hoạch bảo đảm cho bộ đội hoạt động, dự kiến tình hình các nguồn dự trữ cho cả một thời gian sau, ví dụ như cho đến hết chiến dịch. Muốn vậy, Bộ tổng tham mưu phải nắm khá chi tiết tình hình của nền kinh tế. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể vạch ra triển vọng tiêu diệt địch, vạch ra một tiến trình có căn cứ và xác định mức triển khai các lực lượng tiến công quân địch, xây dựng các kế hoạch tác chiến thực tế. Trong chiến tranh, mọi chiến cục đều được lập kế hoạch như thế cả, với sự cân nhắc đầy đủ các khả năng kinh tế của đất nước.   

Chúng ta còn cần phải chú ý theo dõi cả các nguồn dự trữ của địch. Công việc này càng khó khăn hơn, vì ở Liên Xô chúng ta không có những số liệu tương đối chính xác về các khả năng sản xuất của chúng. Do đó, trong từng trường hợp cá biệt cũng có những sai sót. Chẳng hạn như trong tháng Mười một 1941, Tổng tư lệnh tối cao nói: «Chắc chắn là nước Đức sẽ không thể chịu đựng nổi sự căng thẳng kéo dài. Chỉ độ vài tháng nữa, nửa năm, hoặc cũng có thể đến một năm, nước Đức Hít-le nhất định phá sản do tội lỗi trầm trọng của chúng». Nhưng quân địch nhờ huy động được nền công nghiệp và nền nông nghiệp của các nước châu Âu bị chúng chinh phục phục vụ cho quyền lợi của chúng, nên chúng chỉ «phá sản» khi các quốc gia bị chúng chiếm đóng được giải phóng và đuổi chúng về hang ổ của chúng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #165 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 06:43:57 am »


Việc cung cấp phương tiện vật chất cho các phương diện quân lúc bắt đầu và trong quá trình chiến dịch đỏi hỏi chúng ta phải làm rất nhiều bảng tính. Đấy là những bài tính phức tạp với những con số rất lớn. Chúng ta phải làm việc hết sức cẩn thận với các số liệu về vận tải, vì hoàn cảnh chiến tranh khiến cho điều kiện vận tải hết sức phức tạp. Trọng tải chủ yếu là dựa vào đường sắt, mà đường sắt trong phạm vi hậu phương của các phương diện quân lại bị hư hỏng nặng, một số đoạn còn bị địch phá hủy. Chúng ta phải mất nhiều công sức và thời gian để khôi phục đường sá, cầu cống và các nhà ga. Vì vậy, các bảng tính về vận chuyển không những thường xuyên phải chỉnh lý và khắc phục những khó khăn mới nảy sinh, mà có lúc phải làm lại.

Ví dụ như các bảng tính về vận chuyển làm hồi trước chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a đã chỉ rõ rằng đường sắt có thể hoàn thành các nhiệm vụ của mình. Nhưng thực tiễn đã chỉnh lý các bảng tính ấy, do đó việc cung cấp các phương tiện vật chất và bổ sung quân cho các phương diện quân bị gián đoạn. Các tư lệnh phương diện quân và đại diện của Đại bản doanh tại các phương diện quân đều lo lắng. Tại phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3, khi đồng chí A. M. Va-xi-lép-xki đang có mặt ở đó thì tình hình đặc biệt xấu. Đồng chí báo cáo với Mát-xcơ-va về tình hình vận chuyển và nói rõ với Tổng tư lệnh tối cao rằng, tất cả mọi việc đều phụ thuộc vào đường sắt. An-tô-nốp ủng hộ Va-xi-lép-xki bằng những con tính khiến cho I. V. Xta-lin thấy cần phải thúc giục Bộ dân ủy giao thông. Việc đó đã làm xong, nhưng chiến dịch bắt đầu hơi chậm một chút so với thời gian đã định.

Cuối cùng, Bộ tổng tham mưu lúc nào cũng phải tính tới khả năng tổn thất về sinh lực, trang bị và khí tài; phải dự kiến trước cách bổ sung, nguồn bổ sung và thời gian bổ sung. Không thể tiếp tục chiến đấu nếu số thiệt hại không được bù đắp kịp, không làm được như vậy thì phương diện quân tập đoàn quân đến cuối chiến dịch sẽ bị suy yếu, không đủ sức giữ vững các thành quả của mình. Trong chiến tranh cũng đã xảy ra những trường hợp như thế. Ví dụ như vào mùa đông năm 1943, phương diện quân Tây-Nam của N. Ph. Va-tu-tin đã vọt tiến đến sông Đni-ép-rơ, song lại phải rút về phía sau sông Bắc Đô-ne-txơ; và lúc đó phương diện quân Trung tâm cũng tiến công ở khu vực Đơ-mi-tơ-rốp-xcơ. Oóc-lốp-xki...

Cùng với các bảng tính về các yếu tố của tình hình quân sự lúc bắt đầu những chiến dịch lớn hoặc trong quá trình phát triển chiến dịch, Bộ tổng tham mưu còn nhất thiết phải báo cáo lên Đại bản doanh cả những dự đoán về sau này. Phải nói rằng Tổng tư lệnh tối cao (có lẽ do kinh nghiệm nhận định sai lầm của bản thân về thời gian nước Đức Hít-le tập kích vào Liên Xô và những dự kiến chưa đúng về khả năng các nguồn dự trữ chiến tranh của nước Đức phát-xít sẽ bị kiệt quệ) lúc đầu có ý hoài nghi những ý kiến của các cán bộ Bộ tổng tham mưu về khả năng phát triển của các sự kiện. Thế nhưng, cùng với việc tích lũy các lực lượng và phương tiện mà nhờ đó ban lãnh đạo chiến lược xô-viết đã có ảnh hưởng tích cực tới các hành động quân sự, nên thái độ không tin đối với những dự kiến của Bộ tổng tham mưu đã được A. M. Va-xi-Iép-xki lập luận một cách toàn diện, dần dần cũng tiêu tan và sau đó biến mất hẳn.

Cần phải nhận thấy là trong mọi trường hợp, Bộ tổng tham mưu đều đã đánh giá tình huống rất linh hoạt, đã xem xét mỗi yếu tố tình huống trong tổng thể của mọi điều kiện khác đang tồn tại ở chiến trường. Tôi nhắc lại trường hợp chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh là tập đoàn quân tăng cận vệ 6 của tướng A. G. Cráp-tsen-cô thuộc thê đội một của phương diện quân, đã băng qua dãy núi Hưng An tiến vào Mãn Châu Lý. Trong tất cả các điều kiện tình huống khác, có lẽ không thể tiến hành nổi phương án hành động như vậy. Song ở đây, nó lại là phương án đúng đắn hơn hết.

Các kết luận dựa trên cơ sở phân tích toàn diện và đánh giá tình huống của Bộ tổng tham mưu đều được báo cáo lên Đại bản doanh, hoặc thường được trực tiếp báo cáo lên Tổng tư lệnh tối cao. Báo cáo của Bộ tổng tham mưu là cơ sở đề ra quyết định. Tất nhiên, quyết định mở chiến dịch của phương diện quân, hoặc của cụm phương diện quân sau khi có báo cáo của Bộ tổng tham mưu cũng vẫn chưa được coi là quyết định cuối cùng. Ngoài Bộ tổng tham mưu, để thảo luận quyết định đó, Đại bản doanh còn triệu tập các hội đồng quân sự và cơ quan tham mưu phương diện quân, các tướng lĩnh và sĩ quan trong các cục trung ương của Bộ dân ủy quốc phòng, cố nhiên là chỉ gồm những người có quan hệ tới việc lập kế hoạch chiến dịch. Mọi chiến dịch lớn đều được chuẩn bị như vậy. Gh. C. Giu-cốp hoặc A. M. Va-xi-lép-xki thường ở ngoài mặt trận, đều có đề nghị của mình về các quyết định ấy. Cả các hội đồng quân sự phương diện quân cũng làm như vậy, đồng thời Đại bản doanh luôn luôn chú ý lắng nghe đề nghị của các đồng chí đó.

Trình tự làm việc thường không giống nhau. Có trường hợp, phương án quyết định mở chiến dịch do Bộ tổng tham mưu đề nghị, được sơ bộ thỏa thuận trên những nét chủ yếu với cơ quan tham mưu và tư lệnh phương diện quân. Có trường hợp lại chỉ giao nhiệm vụ chung cho phương diện quân, rồi phương diện quân căn cứ vào đó mà chuẩn bị kế hoạch chiến dịch và trình lên Đại bản doanh phê chuẩn. Trường hợp kế hoạch chiến dịch có quan hệ tới một số phương diện quân, thì các đồng chí tư lệnh các phương diện quân đó cùng với tham mưu trưởng phương diện quân hoặc cục trưởng cục tác chiến phương diện quân được triệu tập về Bộ tổng tham mưu, để cùng nhau nghiên cứu các phương án quyết định và dự thảo các chỉ thị, rồi sau đó cùng báo cáo lên Đại bản doanh những đề nghị chung của mình.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #166 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 06:44:51 am »


Trước những thời kỳ có tính chất bước ngoặt trong quá trình chiến tranh, Đại bản doanh đều tổ chức hội nghị, thành phần gồm có Bộ tổng tham mưu, các đại diện Đại bản doanh ở các phương diện quân, các tư lệnh bộ đội và các ủy viên hội đồng quân sự. Có thể nói, mọi đề nghị về quyết định thảo ra đều là công sức lao động sáng tạo của tập thể Bộ tổng tham mưu và các cán bộ lãnh đạo các phương diện quân. Để giữ được bí mật, thường chỉ có hai hoặc ba người ở các phương diện quân và hai hoặc ba người trong Bộ tổng tham mưu tham gia soạn thảo kế hoạch các chiến dịch. Phương án quyết định báo cáo lên Đại bản doanh được thể hiện trên bản đồ, và trong mọi trường hợp đều phải có luận cứ tỉ mỉ, kèm theo các loại bảng tính, và sau đó được thảo luận kỹ. Nếu có những sửa đổi lớn hoặc từng vấn đề cá biệt báo cáo chưa thật rõ ràng hoặc đầy đủ, thì sẽ dành thêm thời gian cho Bộ tổng tham mưu và đại diện của các phương diện quân nghiên cứu thêm các quyết định đó. Cuối cùng, Tổng tư lệnh tối cao mới phê chuẩn quyết định.

Khi soạn thảo quyết định, trước hết phải xác định mục đích hành động của bộ đội và nhiệm vụ cùa họ trong chiến dịch, cần và có thể vận dụng hình thức cơ động nào để giành thắng lợi lớn nhất mà tổn thất ít nhất, trong thời hạn ngắn nhất. Sự lựa chọn đó thật không đơn giản, nó phụ thuộc vào lực lượng và tình hình địch — hình thái mặt trận của địch, sự bố trí lực lượng dự bị trong vùng chiến thuật và tung thâm chiến dịch, khả năng chiến đấu của bộ đội, tương quan giữa các lực lượng và phương tiện, địa hình, thời gian và nhiều điều kiện tình huống khác mà bạn đọc đã biết.

Trong trường hợp có lợi, ta sẽ tập trung hết mọi lực lượng có thể, tổ chức đột kích trên một hướng nhằm chia cắt chính diện quân địch và nhanh chóng thọc sâu vào tung thâm của chúng. Ví dụ như trường hợp đã diễn ra vào mùa xuân năm 1944 trên hướng Tây-Nam, nơi các phương diện quân U-crai-na (1, 2 và 3) đã chọc thủng tuyến phòng ngự của quân phát-xít Đức và tiến tới chân núi Các-pát. Mùa thu năm ấy, phương diện quân Pri-ban-tích 1 đã tung tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 làm mũi nhọn tấn công, mở mũi đột kích từ khu vực Si-a-u-lai tới hướng Clai-pê-đa rồi tiến thẳng ra biển. Bản thân mũi đột kích chưa thật sâu lắm. Song, nó đã chia cắt tuyến phòng ngự của cụm tập đoàn quân «Bắc» và tạo khả năng cô lập các lực lượng lớn của địch ở Cuốc-li-an-đi-a, mà lúc đó quân địch rất cần những lực lượng ấy ở các khu vực khác của mặt trận Xô - Đức. Tháng Giêng 1945, Đại bản doanh đã điều các phương diện quân U-crai-na 1 và Bê-lô-ru-xi-a 1 tiến lên phía trước, mở chiến dịch Vi-xla - Ô-đe, và trong vòng 16 ngày chiến đấu đã tiến vào các con đường dài dẫn đến Béc-lin.

Trong trường hợp khác, tốt hơn cả là nên mở hai mũi đột kích hợp điểm, để bao vây rồi sau tiêu diệt chúng. Đó là những chiến dịch theo kiểu cổ điển như Xta-lin-grát, «tiểu Xta-lin-grát» ở Coóc-xun - Sép-tsen-côp-xki, các chiến dịch bao vây lòng chảo ở gần Min-xcơ, I-át-xư, Ki-si-ni-ốp và nhiều chiến dịch khác nhỏ hơn, bao vây bằng cách đánh bọc địch.

Trong trường hợp thứ ba, chúng ta mở hai mũi đột kích hoặc hơn, trong đó có một mũi chính, còn các mũi khác là mũi bổ trợ, nhằm thu hút lực lượng địch càng nhiều càng tốt để tạo điều kiện cho mũi chính thu được thắng lợi. Điển hình cho phương pháp hành động này trong kế hoạch chiến lược là chiến cục năm 1944. Ở đây, khu vực đột kích chủ yếu và khu vực đột kích phụ của nó đã khác nhau do phụ thuộc vào tình huống.

Sau khi quyết định đã được thông qua, cơ quan tham mưu viết quyết định đó thành mệnh lệnh hoặc chỉ lệnh. Chúng ta đều biết rằng, các văn kiện rất quan trọng ấy thường được viết căn cứ vào bản đồ-quyết định, cho nên bản đồ-quyết định đó phải được nghiên cứu hết sức cẩn thận và tỉ mỉ. Ví dụ như ở Bộ tổng tham mưu, các bản đồ đó trước hết vẽ các tuyến ranh giới của mặt trận, vị trí xuất phát của các đơn vị bao gồm từ cấp sư đoàn, các lực lượng dự bị và thê đội hai. Nếu nói về tiến công thì nhất thiết phải về hướng mũi đột kích chủ yếu và các mũi khác, khu vực đột phá, nhiệm vụ trước mắt và sau này của các đơn vị và thời gian phải hoàn thành các nhiệm vụ ấy, các tuyến và thời gian đưa thê đội hai vào chiến đấu. Ngoài ra, còn ghi những nét chính về những hành động của các đơn vị bạn và các tài liệu cần thiết về địch—tuyến chính diện của địch, lực lượng các đơn vị, các đội dự bị và các cơ quan tham mưu. Phần chú thích trên bản đồ có ghi thời gian chiến dịch, quy mô của nó (chiều sâu, chiều rộng, tốc độ tiến công trung bình), so sánh lực lượng trên hướng đột kích chủ yếu theo các giai đoạn của chiến dịch.

Căn cứ vào bản đồ ấy, chúng ta viết chỉ lệnh sẽ dễ dàng. Thật ra muốn làm được như vậy thì phải có kiến thức, kinh nghiệm và năng lực nhất định. Không phải người nào cũng đều có thể làm tốt việc ấy được. Vì thế, chúng ta để một số người chuyên viết các chỉ lệnh. Ví dụ như ở Bộ tổng tham mưu, chỉ cục trưởng và các cục phó Cục tác chiến mới được phân công viết các văn kiện đó. Các chỉ lệnh phải ngắn gọn (nhưng trình bày phải rõ và chính xác), không được có những câu văn làm người ta có thể hiểu thành hai nghĩa, lại không có gì thừa. Tóm lại, như ta thường nói là: lời phải chặt chẽ, ý phải sáng. Chỉ lệnh (mệnh lệnh) không phải là chứng minh và luận chứng cho quyết định, vì như vậy sẽ làm giảm hiệu lực của nó. Chỉ lệnh phải được tuyệt đối chấp hành, không phải để đưa ra thảo luận.

Tất nhiên trong chỉ lệnh không nên viết thật chi tiết hết mọi điểm; làm thế sẽ hạn chế tính chủ động của những người chấp hành. Song, lại không được viết dưới dạng quá chung chung, chẳng nói là sẽ làm gì, làm ra sao và trong thời hạn nào, nói một cách khác, như người ta thường nói là buông trôi chiến dịch để nó tự phát. Cần có lối viết vừa phải, đúng mực, người trợ lý có kinh nghiệm bao giờ cũng tìm được lối viết như vậy. Thông thường, trong chỉ lệnh của Đại bản doanh (ngoài những điểm đã ghi trên bản đồ) có nói rõ là sẽ vận dụng hình thức cơ động nào (bao vây. đột kích chia cắt, v. v.), tiến công trong đội hình chiến dịch như thế nào (số lượng các tập đoàn quân ở thê đội một và thê đội hai, lực lượng dự bị), quy định sẽ sử dụng các tập đoàn quân xe tăng ra sao. Điểm cuối cùng nhất thiết phải chỉ rõ chế độ bảo đảm vật chất cho các đơn vị.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #167 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 06:45:45 am »


Ngoài các chỉ lệnh và mệnh lệnh, cơ quan tham mưu trước kia và ngày nay còn phải soạn thảo rất nhiều văn kiện khác như: thông cáo, bản tin, báo cáo, các kế hoạch chung và kế hoạch từng phần về các chiến dịch và về việc tiến hành các loại hoạt động khác nhau, báo cáo, biểu đồ, v. v.. Nguyên tắc đầu tiên trong việc soạn thảo văn kiện là càng ít văn kiện càng tốt, nhất là trong điều kiện hiện đại có rất nhiều các nguồn tin tức, nếu không biết cách thu thập, sàng lọc, lựa chọn thì nó có thể tràn ngập cả cơ quan tham mưu. Vì vậy, tham mưu trưởng phải quy định xem ai và lúc nào phải soạn thảo các văn kiện kế hoạch, văn kiện thông tin và văn kiện mệnh lệnh. Trong thời gian chiến tranh, Bộ tổng tham mưu đã lập một bản danh mục cụ thể các văn kiện như thế, nghiêm chỉnh làm theo danh mục các văn kiện ấy và không soạn ra một văn bản nào thừa cả.

Quy định thứ hai, không viết thành văn, nhưng lại rất nghiêm, được chấp hành triệt để trong Bộ tổng tham mưu là: chỉ giao cho một người, trường hợp hãn hữu mới giao cho hai người sơ thảo văn kiện. Còn khi văn kiện đã soạn xong thì lại là việc khác. Lúc đó có thể triệu tập một số người, tùy theo mức độ cần thiết, tham gia thảo luận và phát triển các điều trong văn kiện. Ví dụ, các dự kiến trong Cục tác chiến của Bộ tổng tham mưu đã được soạn thảo theo quy định như vậy, sau đó đưa ra thảo luận trong các cục khác, và cuối cùng đưa ra thảo luận ở Đại bản doanh, mời những đồng chí có liên quan tới dự. Văn kiện sơ thảo được sửa đổi và bổ sung thêm. Đấy là một công trình sáng tạo của tập thể. Ví dụ điển hình về việc này là việc xây dựng kế hoạch hành động của bộ đội xô-viết trong chiến dịch Bê-lô-ru-xi-a. Đồng chí A. A. Grư-dơ-lốp, cục phó Cục tác chiến và cả tôi đã tham gia soạn thảo kế hoạch ấy, sau đó A. I. An-tô-nốp góp ý kiến. Cuối cùng mới báo cáo kế hoạch lên Đại bản doanh và được lệnh tổ chức phiên họp đặc biệt mời các hội đồng quân sự phương diện quân tham gia nghiên cứu. Trong phiên họp, kế hoạch được bổ sung về cơ bản, và chỉ sau đó Đại bản doanh mới phê chuẩn.

Việc soạn thảo một văn kiện quan trọng, chẳng hạn như ý đồ chiến dịch hoặc chiến cục, là một công việc sáng tạo. Người soạn thảo trước khi cầm cây bút chì phải suy nghĩ kỹ. Khi nào ý định đã thật chín thì mới nẩy sinh ra mô hình chiến dịch và mới hình dung trong đầu toàn bộ tiến trình các sự kiện chủ yếu sắp tới. Nếu làm khác đi, sẽ không thể có được ý định tốt. Thông thường, việc soạn thảo ý định được bắt đầu từ... điểm cuối, tức là từ mục đích cuối cùng của chiến dịch đã dự tính, ví dụ như việc giải vây Lê-nin-grát, việc tiêu diệt địch ở Bê-lô-ru-xi-a, v.v.. Mục đích cuối cùng chiến dịch, như đã nói, thường do Đại bản doanh chỉ thị hoặc Bộ tổng tham mưu đề nghị, có một số trường hợp là do đề nghị của bộ tư lệnh phương diện quân. Sau khi tìm hiểu mục đích chiến dịch, cần nghiên cứu, suy nghĩ để hình dung xem ta sẽ đạt mục đích đó như thế nào — đấy là một việc hết sức khó khăn và lúc bắt đầu soạn thảo lại không rõ ràng. Chỉ sau đó, mới có thể bắt tay vào «làm hỏng lần đầu tấm bản đồ». Trong quá trình của công việc sáng tạo ấy trước khi xuất hiện tấm bản đồ chính thức, thì không phải chỉ làm «hỏng» có một tấm bản đồ!..

Muốn làm sơ thảo, phác họa bức tranh trận đánh sắp tới, chúng ta cần phải hiểu biết chi tiết tình huống trong phạm vi chiến dịch dự tính. Đồng thời, cần phải nắm chắc các cơ sở tình huống chiến dịch trong óc, chứ không phải trên tài liệu. Nếu không thì sự suy nghĩ của chúng ta sẽ không thanh thoát, không nghĩ rộng ra được các sự kiện sắp tới. Người nào còn bị giấy tờ trói buộc, thì khó có thể hoàn thành công việc ấy có kết quả. Được phục vụ trong Bộ tổng tham mưu và các cơ quan tham mưu lớn khác hơn 30 năm (gần 7 năm là trong thời chiến), tôi có thể nói với đầy đủ trách nhiệm của mình rằng, một trong những phẩm chất chủ yếu của người sĩ quan tham mưu là phải có trí nhớ. Tôi nói về đặc tính ghi nhớ, giữ vững và tích lũy trong trí nhớ những tin tức thiết thực, cần thiết, chứ không phải những giai thoại. Thật là dở, nếu khi báo cáo, người sĩ quan tham mưu cứ bị lệ thuộc vào các tài liệu hoặc sổ công tác. Chúng ta có thể rèn luyện được trí nhớ, hơn nữa biết rèn luyện có chọn lọc. Không phải tôi chỉ dựa vào kinh nghiệm của bản thân để chứng minh cho điều này (trong thời kỳ chiến tranh, tôi có thể nhớ các sự kiện đã xẩy ra trên từng mặt trận tới cấp sư đoàn, nhớ phiên hiệu của sư đoàn, mà sư đoàn thì tất cả có tới trên 300). Trong Bộ tổng tham mưu đã có tới hàng chục người có trí nhớ tuyệt vời.

Có lẽ, tôi không cần phải kể ra các văn kiện tham mưu và cách thức chuẩn bị các văn kiện ấy, vì trong các cuốn sách
phổ thông và giáo lệnh dành cho các cán bộ chuyên môn đã nói kỹ. Ở đây, tôi chỉ muốn nhắc lại một lần nữa rằng việc soạn thảo các văn kiện tham mưu là một công tác sáng tạo, đòi hỏi trí thông minh, kinh nghiệm nghiệp vụ, kiến thức quân sự, kỹ năng và kỹ xảo.

Cuối cùng, sau khi thảo xong văn kiện, cơ quan tham mưu còn phải biết báo cáo nữa. Điều khó khăn trong khi báo cáo là ở chỗ phải biết chứng minh một cách xác đáng tính đúng đắn của điều đã viết và phải bảo vệ văn kiện. Việc này cũng không phải đơn giản. Đôi khi viết văn kiện còn dễ hơn là báo cáo văn kiện. Vấn đề là ở chỗ mỗi đồng chí thủ trưởng dù thống nhất về quan điểm chung đối với các sự kiện, song vẫn có những đặc điểm chủ quan của mình, tùy theo tính cách của con người và sự thụ cảm của người đó đối với các sự kiện đang xảy ra. Người báo cáo phải nắm vững đối tượng báo cáo, vững tin vào lẽ phải của mình và phải có can đảm, nếu có thể nói như vậy, để bảo vệ và chứng minh một cách khoa học quan điểm của cơ quan tham mưu trước thủ trưởng cấp trên. Tất nhiên, phải bảo vệ quan điểm của mình trong phạm vi hợp lý và phải nhớ đến chế độ một người chỉ huy.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #168 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 06:46:09 am »


Có trường hợp, bản báo cáo dường như đã được chuẩn bị rất tốt, phân tích có căn cứ sâu sắc và những người trợ lý tin chắc ở sự đúng đắn của nó, nhưng khi thủ trưởng cấp trên nghe báo cáo, đặt câu hỏi về vấn đề này, không đồng ý về vấn đề khác, phát biểu quan điểm của mình về một vấn đề nào đó, thì từ chỗ là một bản báo cáo tốt (dù là về kế hoạch chiến dịch, đánh giá các sự kiện hoặc về một vấn đề quan trọng nào khác) lại đi đến chỗ chẳng còn ra một cái gì nữa. Trường hợp này thường có hai nguyên nhân: một là, hoặc chưa phân tích được đầy đủ, tỉ mỉ mọi khía cạnh của vấn đề, người thủ trưởng nhận thấy những thiếu sót, liền bác bỏ bản báo cáo không xây dựng trên cơ sở vững chắc; hai là, người báo cáo hoàn toàn không biết chứng minh quan điểm đúng đắn của cơ quan tham mưu.

Đối với bản báo cáo của các cán bộ chuyên môn thường có những điều khá phức tạp. Những người này say mê binh chủng của mình nên thường hay mắc phải tật bảo vệ quan điểm của mình một cách tương đối phiến diện. Cơ quan tham mưu phải biết chú ý tới cái tật đó và báo cáo cho người tư lệnh hoặc người lãnh đạo khác tình hình chân thực của sự việc. Đôi lúc, phải tốn khá nhiều công sức mới thuyết phụ được họ.

Về chuyện này, tôi còn nhớ đến một quyết định được thông qua hồi năm 1946. Sau lễ duyệt binh ngày 1 tháng Năm mà như mọi người đều biết, là dịp trưng bày các vũ khí kỹ thuật. N. N. Vô-rô-nốp, nguyên soái tư lệnh pháo binh gặp riêng I. V. Xta-lin và đã thuyết phục được Xta-lin về sự cần thiết phải thành lập một cơ quan khoa học đặc biệt là Viện khoa học pháo binh. Xta-lin vốn yêu thích pháo binh, thường gọi pháo binh là «Thần chiến tranh», nên đồng chí đã đồng ý, không hỏi thêm ý kiến một ai về tính chất hợp lý của tổ chức đó. Bộ tổng tham mưu là người có trách nhiệm xây dựng Viện đã kiên quyết phản đối, vì cho rằng tổ chức cũ không hề cản trở sự phát triển của tư tưởng pháo binh và mối quan hệ gần gũi giữa các trung tâm khoa học — các học viện quân sự, Tổng cục pháo binh và các cơ quan khác — với các đơn vị đang tạo điều kiện cho việc hoàn thiện kỹ thuật pháo binh và phát triển các nguyên lý vận dụng pháo binh trong chiến đấu. Chúng tôi không hiểu tại sao bỗng nhiên lại cần phải thành lập ra Viện khoa học pháo binh, mà không phải là khoa học xe tăng hoặc khoa học không quân, chẳng hạn. Mà xe tăng và không quân lại giữ vai trò không phải nhỏ trong chiến tranh, kỹ thuật của nó lại phức tạp hơn pháo binh. Thế nhưng, không ai có thể chứng minh để I. V. Xta-lin thấy rõ tính chất không xác đáng của chủ trương đó. Và nói cho đúng, cũng không ai nêu ra được những bằng chứng gì quan trọng. Viện khoa học pháo binh được thành lập vào tháng Chín, đẻ ra một biên chế lớn có chủ tịch, phó chủ tịch và những người giữ các chức trách khác. Người ta chuyển giao một số cơ quan nghiên cứu khoa học cho nó và thành lập thêm một số cơ quan mới. Các tổ chức đó bắt đầu hoạt động... Thời gian trôi qua, đủ để tiến hành tổng kết lần thứ nhất các mặt hoạt động, thì Viện được giải thể.

Những người làm công tác văn kiện thường có những bí quyết nho nhỏ của mình. Ví dụ, nếu như thời gian cho phép, họ sẽ không báo cáo ngay văn kiện khi vừa viết xong. Họ thường để lui lại vài tiếng đồng hồ, tốt nhất là để sang ngày hôm sau nếu chưa thật gấp. Khi đọc lại văn kiện lúc đầu óc tỉnh táo, hầu như chúng ta thấy nhất thiết cần có sự sửa đổi, thường đó lại là những sửa đổi quan trọng, có khi (đã xẩy ra những trường hợp như vậy) buộc phải viết lại văn kiện.

Trong thời gian chiến tranh, chúng tôi chỉ gửi lên Đại bản doanh và Tổng tư lệnh tối cao những văn kiện có tính chất thông tin: báo cáo, thông cáo, bản đồ tình huống. Những văn kiện cần phải lấy chữ ký hoặc phê chuẩn thì bao giờ chúng tôi cũng phải báo cáo trực tiếp, còn những văn kiện ít quan trọng hơn thì chúng tôi báo cáo với Xta-lin bằng điện thoại đặc biệt, do Tổng tham mưu trưởng ký. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, chế độ phê chuẩn các văn kiện chủ yếu làm như vậy là đúng đắn hơn cả. Khi báo cáo miệng, chúng tôi có thể giải thích thêm (vì không thể viết hết cả trong văn kiện), có thể trả lời những vấn đề mới nẩy sinh. Cuối cùng, nếu văn kiện chưa đạt mức để được ký thì khi báo cáo trực tiếp, chúng tôi cũng có thể thấy rõ được là sẽ phải viết lại ra sao. Ngoài ra, làm như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian của thủ trưởng và người báo cáo — thủ trưởng không cần phải chỉ dẫn dài dòng về văn kiện, còn người báo cáo có thể bắt tay sửa chữa ngay vào báo cáo, không chờ đến khi phải gửi trả lại bản báo cáo cho mình. Tất nhiên, vấn đề ở đây là nói về cơ quan tham mưu. Còn đối với các cơ quan khác, nhất là cơ quan dân sự, thì chế độ đó có lẽ không phải bao giờ cũng thích hợp. Ở đấy, các văn kiện được xem xét trong các cuộc họp riêng, nói chung chế độ đó không thích dụng, vì các văn kiện đều được biên soạn và chuẩn bị từ trước.

Cuối cùng, văn kiện được phê chuẩn. «Đã ký — thế là khỏi có điều gì bận tâm nữa» ư? Không, câu tục ngữ đó không thích hợp với chúng tôi. Vì văn kiện còn cần được phổ biến cho những người chấp hành trong một thời hạn ngắn nhất và phải tuân thủ mọi biện pháp giữ bí mật. Ngoài ra, lại còn phải làm cho mọi vấn đề trình bày trong đó đều được hiểu đúng và được chấp hành chính xác. Tất cả những việc trên đều thuộc chức trách của cơ quan tham mưu...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #169 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2016, 06:47:03 am »


*
* *


Tổ chức các bộ tổng tham mưu ở tất cả các nước, kể cả ở Liên Xô, đã hình thành từ lâu rồi. Cho tới gần đây, việc tự động hóa các quá trình chỉ huy vẫn chưa được tiến hành nên chỉ có một tập thể lớn các tướng lĩnh, sĩ quan và nhân viên phục vụ mới có thể thực hiện nổi khối lượng công tác lớn lao với nhiều chức năng hết sức đa dạng. Hiệu quả công tác của bộ máy phức tạp ấy phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân trước hết là phụ thuộc vào sự thành thạo của các cán bộ và tác phong công tác của họ.

Ở mỗi người, tùy thuộc vào kiến thức, kinh nghiệm đặc điểm vốn có của họ mà hình thành nên tác phong công tác, tức là một hệ thống nhất định các phương pháp, biện pháp và chế độ làm việc giúp cho họ có thể hoàn thành công việc với chất lượng cao nhất và trong thời gian ngắn nhất. Ở bất kỳ cơ quan chỉ huy nào, kể cả cơ quan tham mưu, đều phải có tác phong công tác đó. Cơ sở của nó phải là tác phong công tác của Lê-nin được vận dụng một cách sáng tạo trong công tác quân sự, đặc biệt là trong công tác chỉ huy bộ đội. Trong những năm chiến tranh, các yêu cầu đối với tác phong công tác của cơ quan tham mưu được đặt ra một cách rất nghiêm khắc.

Kinh nghiệm công tác cho phép tôi nói rằng, các cán bộ trong Bộ tổng tham mưu xô-viết đã xóa bỏ tình trạng vô tổ chức, tệ quan liêu, thói bàn giấy và các biểu hiện xấu khác trong công tác. Vị trí hàng đầu ở các đồng chí đó là lập trường chính trị, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, trình độ học vấn chung, sâu rộng của mỗi cán bộ tham mưu và của cả tập thể nói chung. Chính các phẩm chất ấy đã quyết định tác phong công tác của họ. Vững tin vào các chính sách đúng đắn của Đảng, trung thành với lý tưởng của Đảng, lòng yêu Tổ quốc xô-viết là cơ sở quyết định phong thái của người chỉ huy đó, của mọi sĩ quan trong quân đội chúng ta. Các cơ sở ấy đã và đang là cái đảm bảo cho mỗi người có thể cống hiến sức lực, tài năng của mình, và nếu cần, cả cuộc đời mình cho sự nghiệp mà họ đang phục vụ.

Các sĩ quan tham mưu, hơn nữa các sĩ quan trong Bộ tổng tham mưu, là những người được tin cậy giao cho giải quyết các nhiệm vụ quan trọng. Họ đang thực hiện một công tác quan trọng, mà nhiều vấn đề lại phụ thuộc vào đặc điểm chính trị và tư chất đạo đức của họ. Tôi nghĩ rằng, không cần phải giải thích là tại sao trong cơ quan tham mưu lại không có đất dung thân cho những con người hay than thở, hay ba hoa, những người đặt tình cảm trên lý trí, những người thích rượu và thích phụ nữ của người khác. Tất nhiên điều đó không có nghĩa là trong công tác tham mưu chỉ có thể có những người khổ hạnh, tách rời cuộc sống. Nhưng tình yêu cuộc sống và sự phóng đãng là những khái niệm khác nhau.

Thực tiễn chứng minh rằng, công tác trong cơ quan tham mưu trước đây và hiện nay đặt ra một số yêu cầu đặc biệt đối với con người. Ví dụ như, những người được lựa chọn vào cơ quan tham mưu không những chỉ nắm vững công tác quân sự — như thế vẫn chưa đủ — mà còn phải có kiến thức uyên bác, đồng thời lại còn có tư duy biết phân tích. Tất nhiên, những người chỉ huy của chúng ta đều vốn có các phẩm chất ấy và đã trở thành những cán bộ tham mưu xuất sắc. Song, chúng ta cũng có thể đưa ra nhiều dẫn chứng khác: có những đồng chí chỉ huy trung đoàn hoặc sư đoàn buộc phải làm công tác tham mưu, và họ đã không chịu ngồi yên một chỗ. Một số đồng chí thiếu cần cù và nhẫn nại, mà đó lại là những đức tính quan trọng của người cán bộ tham mưu và tính năng động của anh ta trước hết lại là ở sự suy nghĩ. Khó mà thay các trường bắn, bãi huấn luyện xe tăng và thao trường của những cán bộ ấy bằng cái bàn, bằng giấy tờ và bản đồ. Tóm lại, chúng ta phải biết chú ý tới đặc trưng của công tác tham mưu.

Chúng ta, những con người xô-viết, hơn nữa lại là những người cộng sản, chúng ta đều biết rằng một trong những biểu hiện hết sức quan trọng của tác phong công tác đúng đắn là nguyên tắc cao của Đảng, tức là khi giải quyết bất kỳ một vấn đề nào, chúng ta cùng phải biết và phải có khả năng thực hiện theo đúng chính sách của Đảng, phải xuất phát từ lợi ích của sự nghiệp chung.

Tính nguyên tắc còn có nghĩa là biết nắm lấy điều chủ yếu. biết nhìn vào bản chất của vấn đề, không bị sa đà vào những việc vụn vặt, không lao vào những công việc sự vụ hàng ngày, mà phải biết nhằm vào cái mới, không theo đuôi các sự kiện. Người sĩ quan có nguyên tắc là người bao giờ cũng có quan điểm vững vàng. Khi giải quyết bất kỳ một vấn đề nào, đồng chí đó cùng chỉ xuất phát từ lợi ích của công việc. Đó là người sĩ quan có tinh thần tự phê bình và công bằng, không nhân nhượng các thiếu sót và thái độ dễ dãi. Ngưởị sĩ quan-chuyên gia không được hữu ý hoặc vô tình thổi phồng ý nghĩa của binh chủng mình, còn người phụ trách khu vực mặt trận thì không được thổi phồng về các đơn vị mình theo dõi. Thông thường, người sĩ quan như vậy không thể rút ra những kết luận khách quan; cử người ấy làm công tác kiểm tra thì thật là nguy hiểm, vì anh ta không thể nào nhìn nhận các sự việc một cách đúng đắn. Chắc không cần nói cũng rõ rằng, những người cán bộ như vậy không ở lại lâu trong cơ quan tham mưu. Trong tập I, tôi đã có nói đến các sĩ quan của Bộ tổng tham mưu từ cấp sư đoàn trở lên ở ngoài mặt trận. Xét cho cùng thì đó là những người có nguyên tắc. Nhưng, khi hình thành nên tập thể những con người như vậy, thì cũng có một số người bị loại khỏi cái tập thể ấy, chủ yếu vì họ nhìn nhận các sự kiện và sự việc bằng những con mắt khác, họ đánh giá các sự kiện ấy như thế nào để không có gì trái với ý kiến của bộ chỉ huy địa phương. Hoặc tồi tệ hơn nữa là họ đã cư xử theo cách «gió chiều nào, che chiều ấy»

May thay, những con người như vậy không nhiều. Trong những năm chiến tranh, các sĩ quan của Bộ tổng tham mưu đã được mọi người quý trọng. Tôi xin dẫn thêm một ví dụ, trung tá N. V. Re-dơ-nhi-cốp không sợ báo cáo một cách trung thực với Bộ tổng tham mưu về những hành động không đúng của trung tướng V. N. Goóc-đốp, tư lệnh tập đoàn quân. Căn cứ vào bản báo cáo của Rê-dơ-nhi-cốp, Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã cử một tiểu ban đặc biệt đến phương điện quân Tây và tác giả của bản báo cáo đó cũng là một thành viên của tiểu ban. Bản báo cáo của Rê-dơ-nhi-cốp không những được xác nhận, mà còn giúp phát hiện ra nhiều khuyết điểm khác nữa. Căn cứ vào kết quả công tác của tiểu ban, Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã ra một nghị quyết riêng đánh giá hoạt động của bộ đội phương diện quân Tây và có những kết luận nghiêm khác về tổ chức.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM