Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:57:38 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ Tổng Tham mưu Xô-viết trong chiến tranh - Tập 2  (Đọc 108910 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #20 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2011, 12:36:07 pm »

*
*   *

Những công việc chính thường không tránh khỏi hay kèm theo những sự việc bận bịu khác, mà có lúc chúng ta hoàn toàn không dự kiến hết được, nhất là những sự việc xảy ra sau khi đã kết thúc chiến tranh. Ví dụ như sự việc dưới đây.

Sau chiến tranh được ít lâu, chúng ta quyết định mời thống chế tư lệnh Môn-tơ-gô-mê-ri sang thăm chính thức Liên Xô, ông ta là một nhà chỉ huy quân sự có danh tiếng nhất nước Anh, hồi ấy được phong công tước En A-la-mây. Thời gian sang thăm đã thỏa thuận với nhau từ lâu, cuối cùng quyết định gặp vào tháng Giêng 1947.

Ngay trong ngày đầu, Môn-tơ-gô-mê-ri sẽ đến thăm chính thức Nguyên soái Liên Xô A. M. Va-xi-lép-xki, Tổng tham mưu trưởng. Chúng tôi định sẽ biếu Môn-tơ-gô-mê-ri một tặng phẩm của nước Nga để làm kỷ niệm. Chúng tôi suy nghĩ khá lâu, cố tìm bằng được một vật kỷ niệm tặng cho vị khách có chức tước cao, nhưng dường như các tặng phẩm thông thường của dân tộc xem ra chưa thích hợp. Hơn nữa hồi đó người ta có làm vật kỷ niệm đặc biệt đâu.

Rốt cuộc, một đồng chí nảy ra ý nghĩ may cho ông ta một kiểu quân phục Nga, áo khoác bằng da thuộc lông sóc và mũ trùm cấp tướng bằng lông cừu xám. Chúng tôi tán thành ý kiến ấy và cho đặt may áo mũ. Môn-tơ-gô-mê-ri sang thăm thì các thứ ấy cũng vừa may xong và để ở trong phòng viên tướng đặc nhiệm M. M. Pô-ta-pốp.

Cuối cùng viên thống chế đến và bước vào căn phòng tiếp đón, ở đây có mặt A. M. Va-xi-lép-xki, A. I. An-tô-nôp, N. V. Xla-vin và tác giả của những dòng này, hồi ấy được phân công đi cùng với Môn-tơ-gô-mê-ri tới thăm Học viện Bộ tổng tham mưu. Chào hỏi nhau xong, chúng tôi đi vào hội đàm. Sau đó là ấn định chương trình ở lại thăm.

Môn-tơ-rô-mê-ri muốn tỏ ra có những nét độc đáo riêng của mình, hay vì những lý do nào đấy, nói là ngày làm việc của ông ta bắt đầu từ 6 giờ sáng đến 9 giờ tối thì đi nghỉ. Ông ta vẫn duy trì chế độ làm việc như thế ngay trong suốt cả thời gian chiến tranh, kể cả những lúc khó khăn nhất. Chúng tôi hứa sẽ giữ vững thời gian đó cho ông ta, song vẫn thầm nghĩ là trong chiến tranh làm sao có thể giữ chế độ làm việc như vậy được! Theo chúng tôi hiểu, trong thời gian chiến tranh, chỉ có thể ngủ được lúc tình hình cho phép. Tất cả chúng tôi đều làm như vậy.

A. M. Va-xi-lép-xki nói ngắn vài lời nhân dịp ông ta sang thăm, rồi trao tặng ông ta chiếc áo khoác và mù trùm. Môn-tơ-gô-mê-ri rất vừa lòng với món quà ấy, ông ta ngắm nghía thật lâu, rồi hỏi có đúng áo làm bằng da sóc thật không và ước giá là bao nhiêu. Chúng tôi không ai có thể trả lởi về giá cả bộ áo này được nên tôi lại phải đi gọi dây nói ngay để hỏi giá.

Sau đó, Môn-tơ-gô-mê-ri có ý định mặc áo và đội mũ luôn. Hóa ra lúc mặc áo mới thấy, mũ trùm thì vừa, còn áo khoác lại quá dài. Phải nói là “kích thước xác thực” cần cho người thợ may mà chúng tôi nhận được thật khác hẳn với thực tế. Vị thống chế người Anh, vốn không có vóc dáng con người hiệp sĩ, thùng thình trong chiếc áo khoác ngoài.

A. M. Va-xi-lép-xki nói để ông ta yên tâm: 

- Việc này sẽ xong ngay thôi. Sáng mai chúng tôi sẽ đem lại cho ngài chiếc áo thật như ý.

Thế nhưng viên thống chế lại không ưng như vậy, ông ta muốn sửa áo ngay tại đây và ông ta nán lại chờ. Tất cả chúng tôi băn khoăn nhìn nhau.

- Stê-men-cô, đồng chí cho lệnh đi mời ngay thợ may đến đây - A. M . Va-xi-lép-xki nói với tôi.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #21 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2011, 12:37:03 pm »

Tôi bước ra. Bốn mươi phút sau, xe chở thợ may cùng với máy khâu đến, và người thợ may đã ngồi máy, thử áo, ngay trong phòng tiếp khách của Tổng tham mưu trưởng.

Trong khi ấy, phần thăm hỏi xã giao chính thức đã xong, mọi người bắt đầu chuyện trò thân mật với nhau. Chúng tôi nhớ lại công việc những ngày qua. Môn-tơ-gô-mê-ri say sưa kể cho chúng tôi nghe chiến dịch En A-la-mây, nơi ông ta đã đánh thắng Rôm-men. Chúng tôi uống cà phê đen lượt thứ ba thì thợ may sửa xong áo, thử lại một lần nữa, và bây giờ áo thật vừa vặn. Môn-tơ-gô-mê-ri hỉ hả, mặc nguyên cả áo như vậy ra về.

Hôm sau, tôi cùng đi với ông ta đến Học viện Bộ tổng tham mưu. Thăm các giảng đường và các phòng thí nghiệm xong, Môn-tơ-gô-mê-ri bước lên bục giảng bài cho học viên về chiến dịch En A-la-mây. Bắt đầu giảng được mấy phút, thì hai sĩ quan Anh bỗng đứng lên phát tài liệu cho tất cả những người có mặt. Vấn đề này không nằm trong chương trình, tôi lo lắng: tại sao họ lại phát tài liệu bất ngờ như vậy, họ viết những gì trong đó.

Tôi cầm lấy một tờ, lệnh cho đống chí phiên dịch ngồi bên đọc nghe. Té ra là, tài liệu cũng nói về En A-la-mây nhưng miêu tả ngắn gọn... Tôi nghĩ: những người chỉ huy của ta, như Gh. C. Giu-cốp hoặc I. X. Cô-nép chẳng hạn, thì sẽ phải dùng đến biết bao nhiêu tài liệu theo kiểu như thế với bao nhiêu trang in nữa vì dưới sự chỉ đạo của các đồng chí, chúng ta đã giành biết bao thắng lợi huy hoàng, về quy mô và kết quả còn vượt gấp mấy lần hơn thắng lợi ở En A-la-mây!

Trước khi thống chế Môn-tơ-gô-mê-ri về nước, I. V. Xta-lin tổ chức mời cơm thân mật, có chừng hai mươi người đến dự. Đến giờ đã định, chúng tôi, các cán bộ quân đội và các đại biểu của Bộ ngoại giao đã tề tựu trong Cung lớn điện Crem-li. Còn 5 phút nữa bắt đầu, vẫn chưa thấy Môn-tơ-gô-mê-ri đến. Chúng tôi gọi điện tới biệt thự của ông ta, thì được trả lời là ông ta đã ra đi rồi. Liền ngay đó, cửa mở, Môn-tơ-gô-mê-ri bước vào phòng khách, mặc cả áo khoác lẫn mũ trùm, tặng phẩm của chúng tôi.

- Sao lại thế nhỉ? - tôi chạy tới hỏi các sĩ quan Liên Xô đi cùng với ông ta. - Sao các đồng chí không để ông ta cởi áo khoác ở phòng ngoài?

- Ông ta kiên quyết từ chối, - các đồng chí trả lời như vậy.

Như nhận thấy băn khoăn, bối rối của những người có mặt, viên thống chế nói:

- Tôi muốn để Đại nguyên soái Xta-lin thấy tôi mặc bộ quân phục Nga.

Lúc này, I. V. Xta-lin và các thành viên trong Chính phủ bước vào. Môn-tơ-gô-mê-ri nói cho Xta-lin nghe lại câu chuyện vừa qua. Xta-lin cả cười và đề nghị chụp chung với ông ta bức ảnh. Sau đó, Môn-ti (tên người Anh gọi ông ta) cởi áo khoác và ngồi vào bàn.

Ngày hôm sau, chúng tôi ra sân bay trung ương tiễn Môn-tơ-gô-mê-ri, ông ta cũng vẫn mặc bộ quân phục Nga đó, nhận báo cáo của đồng chí đội trưởng đội danh dự rồi lên máy bay. không chịu cởi áo khoác ngoài - tặng phẩm của chúng tôi...
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #22 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2011, 12:38:14 pm »

*
*   *

Công tác ở Bộ tổng tham mưu trong những năm chiến tranh thật đã ngốn hết mọi thời gian của một con người. Nó không dành cho chúng tôi một chút thời gian, một chút sức lực nào để làm các công việc khác. Chẳng còn ai dám phí phạm đến số thì giờ còn lại để nghỉ ngơi. Chúng tôi quý trọng từng phút một và học cách hễ đặt mình là ngủ liền.

Thậm chí đến lúc vận mệnh quân địch như đã được quyết định sẵn rồi, mà các cán bộ của Bộ tổng tham mưu vẫn sống như trước kia trong ngôi nhà làm việc và thực hiện cái vòng quay khép kín hàng ngày của mình là từ ngôi nhà làm việc sang nhà ăn, từ nhà ăn lại trở về nhà làm việc, từ chỗ làm việc sang võng ngủ, và từ võng ngủ lại đến nhà làm việc.

Không còn lấy một chút thì giờ rảnh, nếu như không có cái việc cắt tóc. Ở đây có gương soi, có áo choàng trắng sột soạt, mắt được nghỉ ngơi, và tay người thợ cạo mềm mại, mơn man mái tóc, nên nhiều đồng chí... đã “gật gù”. Chúng tôi nghỉ ngơi được một lát theo kiểu như vậy, mặt mày tươi tỉnh, tóc cắt sạch sẽ nhẹ nhàng, hút điếu thuốc thế rồi lại lao sang phòng làm việc.

Sau chiến tranh, thời gian biểu làm việc hàng ngày của Bộ tổng tham mưu vẫn tiếp tục khắc nghiệt như vậy. Thời gian yêu cầu phải như thế, đất nước và các Lực lượng vũ trang đã chuyển sang thời bình song mối lo âu và tình trạng sẵn sàng chiến đấu vẫn chưa qua. Nước Mỹ đang đem bom nguyên tử ra hăm dọa.

Giống như trong những năm chiến tranh, I. V. Xta-lin hầu như không dành cho mình một thời gian rảnh nào. Đồng chí sống cốt để làm việc, vẫn không thay đổi thói quen thường làm việc đến tận 3-4 giờ sáng, có khi còn muộn hơn và đến 10 giờ, lại bắt tay vào làm việc. Đồng chí yêu cầu những người làm việc với đồng chí, trong đó có Bộ tổng tham mưu, cũng phải giữ chế độ làm việc như vậy.

Chúng tôi thường đi tới điện Crem-li và “biệt thự gần thành phố” của đồng chí để báo cáo các vấn đề quốc phòng. Tôi có thể nói rằng, giờ nghỉ ngơi của Xta-lin còn lại rất ít. Sau chiến tranh cũng vẫn vậy.

Ngoài những buổi hòa nhạc và biểu diễn sân khấu ngày lễ thường tổ chức sau các hội nghị trọng thể, I. V. Xta-lin không đi dự ở đâu hết. “Sân khấu” ở nhà đồng chí là giờ phát thanh ca nhạc và nghe máy quay đĩa. Phần lớn các đĩa hát mới gửi đến, đồng chí đều lấy ra nghe trước và đánh giá ngay. Trên mỗi đĩa hát đều ghi chữ viết tay của đồng chí: “đạt”, “khá”, “tạm được”, “tồi”.

Ở nhà ăn, trong chiếc tủ nhỏ và trên mặt bàn đặt gần chiếc quay đĩa tự động theo kiểu chiếc tủ, do nhân dân Mỹ tặng I. V. Xta-lin năm 1945, chỉ để lại những đĩa hát có ghi “tốt” và “khá”, còn những đĩa khác, đồng chí cất đi. Ngoài máy quay đĩa chạy điện, còn có chiếc máy quay đĩa chạy dây cót sản xuất ở trong nước. Chủ nhân tự đặt nó ở chỗ nào là tùy theo ý mình.

Ngoài ra, chúng tôi được biết, đồng chí thích đánh “gô-rốt-ki” (“gô rốt-ki” - trò chơi có quân tiện hình trụ bằng gỗ, dùng gậy đánh trúng, bật vào ô là thắng cuộc. - ND. ). Mỗi ván chia ra độ 4-5 người chơi, tất nhiên là tùy thích của mỗi người. Những người còn lại đứng ngoài “cố vũ” ồn ào. Thường chơi 10 quân tất cả. Bắt đầu đi quân “pháo". Những người thua cuộc có lúc bị châm chọc khá nhộn và Xta-lin cũng không bỏ lỡ những cơ hội châm chọc ấy. Đồng chí chơi không giỏi lắm, song rất say mê. Mỗi lần đánh trúng, đồng chí rất vui, thường nói: “đấy, có cừ không”, và mỗi khi đánh trượt, đồng chí lại móc diêm trong túi châm thuốc và rít mạnh hơi thuốc.

Xung quanh “biệt thự” của đồng chí, chúng ta không thấy có bồn hoa, cây cảnh, không có cả những lùm cây, hoặc cây được cắt tỉa cho đẹp mắt. I. V. Xta-lin thích tự nhiên phải được tự nhiên, không có bàn tay người đụng đến. Xung quanh nhà là rừng cây - lá nhọn sum sê - chỗ nào cũng um tùm không thấy vết rìu đẵn.

Gần nhà, các tổ chim và tổ sóc nằm trên những thân cây trọc không lá. Đây đúng là vương quốc của loài chim. Bàn thức ăn cho chim đặt ở những khoảng trống trong vườn. Hàng ngày, Xta-lin ra đấy cho chim ăn.

Kết thúc chương này, tôi muốn nhấn mạnh rằng, chuyện của tôi về những con người ở các cục trong Bộ tổng tham mưu mà tôi với tư cách cán bộ tác chiến, có dịp quan hệ chặt chẽ trong những năm chiến tranh, tất nhiên không thể nào kể cho hết được. Những con người ấy, hoàn thành một công tác hết sức to lớn, phức tạp và nặng nề, bảo đảm cho Đại bản doanh và Tổng tư lệnh tối cao chỉ đạo các hành động quân sự. Lòng yêu nước của các cán bộ trong Bộ tổng tham mưu, trí tuệ và kiến thức tuyệt vời, tinh thần lao động quên mình không biết mỏi của các đồng chí đã phục vụ cho sự nghiệp chung chiến thắng quân thù.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #23 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2011, 04:24:34 pm »

CHƯƠNG HAI
Nguồn gốc của tình đoàn kết chiến đấu

Những niềm sung sướng mùa xuân. - Con thú bị thương còn nguy hiểm hơn. - Con đường quanh co của quân đội An-đéc-xơ. - Âm mưu của chính phủ tư sản Ba Lan. - Thành lập quân đội của nước Ba Lan nhân dân. - Những người anh em Ba Lan đánh trận đầu. - Thư của Tổng tư lệnh tối cao gửi U. Sớc-sin. - Không biết chỗ lội... - Trên đất nước Ba Lan. - Cuộc tiến công phải được bảo đảm. - Hội nghị trong Đại bản doanh. - Chiếc bình đựng rượu huyền bí.

Ngày 26 tháng Ba 1944. Chiến tranh đã kéo dài 1009 ngày đêm. Cuộc tiến công bất hủ trong lịch sử chiến tranh của các phương diện quân U-crai-na trong điều kiện mùa xuân băng tan đã làm cho Cụm tập đoàn quân “nam” của phát-xít Đức bị thiệt hại nặng. Cụm tập đoàn quân này không những đã bị thiệt hại lớn, mà còn bị cắt ra làm hai.

Sau khi N. Ph. Va-tu-tin bị thương, Nguyên soái Liên Xô Gh. C. Giu-cốp tạm thời thay thế chỉ huy các đơn vị của phương diện quân U-crai-na 1 tiến ra vùng chân núi Các-pác. Hồi giữa tháng Hai, phương diện quân U-crai-na 2 do nguyên soái Liên Xô I. X. Cô-nép làm tư lệnh, hiệp đồng với phương diện quân của N. Ph. Va-tu-tin tổ chức chiến dịch hợp vây “tiểu Xta-lin-grát” ở Coóc-xun - Sép-tsen-côp-xki rồi sau đó vọt tiến tới Đne-xtơ-rơ, tiến công vượt sông trên một chặng đường dài 175 ki-lô-mét, đánh chiếm được thành phố và trung tâm đường sắt Ben-xư. Ngay sau đó, các đơn vị của I. X. Cô-nép vẫn tiếp tục tiến công trên chính diện 85 ki-lô-mét, tiến tới biên giới quốc gia dọc theo sông Brút...

Chúng tôi chờ đợi ngày ấy đã lâu rồi. Bộ tổng tham mưu nhận được báo cáo của phương diện quân U-crai-na 2 gửi tới liền báo cáo ngay cho Tổng tư lệnh tối cao. Hồi ấy, tôi được cử giữ chức cục trưởng Cục tác chiến trong Bộ tổng tham mưu. Tổng tư lệnh tối cao lệnh bắn đại bác cấp một chào mừng bộ đội của I. X. Cô-nép: 324 khẩu đại bác bắn 24 loạt. Tôi và đồng chí A. A. Grư-dơ-lôp, cục phó Cục tác chiến, ngồi viết nhật lệnh chào mừng. 9 giờ tối, pháo hoa bắn chào trọng thể rực sáng cả bầu trời Mát-xcơ-va.

Tôi không thể diễn tả nổi bằng lời những tình cảm nức lòng mình trong những giờ phút ấy. Nguyện vọng thiêng liêng và khao khát giải phóng đất nước quê hương đã được thực hiện. Một ước mơ khác trỗi dậy, sục sôi không kém, xáo động chúng tôi là ước mơ chi viện cho các dân tộc đang bị rên xiết dưới ách phát-xít. Chúng tôi hiểu rằng, từ những phát súng đầu tiên ngày 22 tháng Sáu l941, nhân dân xô-viết đã bắt đầu cuộc đấu tranh nhằm giải phóng Ru-ma-ni, Ba Lan và các nước khác. Thế nhưng, lúc này đây, khi các chiến sĩ chúng ta tiến ra đến biên giới, thì Hồng quân mới trực tiếp đi vào thực hiện sứ mệnh giải phóng đó của mình ở các nước ngoài.

Phương diện quân U-crai-na 3 do đại tướng R. I-a. Ma-li-nốp-xki chỉ huy cũng tiến công thắng lợi. Phương diện quân đã đánh tan cụm quân gần Cri-vôi Rô-gơ của phát-xít Đức tiến tới Nam Búc và trong ngày hôm ấy, ngày 26 tháng Ba đã mở đầu chiến dịch giải phóng Ô-đét-xa, tiến vào Hạ lưu sông Đne-xtơ-rơ. A. M. Va-xi-lép-xki làm đại diện của Đại bản doanh, lúc này đang có nhiệm vụ phối hợp hành động của các phương diện quân U-crai-na 3 và 4, đã báo cho Bộ tổng tham mưu biết về quá trình chiến dịch.

Ngày 2 tháng Tư 1944, Chính phủ Liên Xô thông báo trong hội nghị báo chí rằng: các đơn vị Hồng quân vượt qua sông Prút trên một số đoạn và đã tiến vào lãnh thổ Ru-ma-ni; Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô ra lệnh truy kích địch cho tới khi hoàn toàn tiêu diệt chúng và buộc chúng phải đầu hàng.

Chính phủ Liên Xô tuyên bố: Liên Xô không có ý định chiếm giữ một bộ phận đất đai nào trên lãnh thổ Ru-ma-ni hoặc thay đổi chế độ xã hội hiện hành của đất nước này. Các đơn vị xô-viết phải tiến vào lãnh thổ Ru-ma-ni là do “sự tối cần thiết về mặt quân sự và do quân địch vẫn còn ngoan cố chống lại”.

Đến giữa tháng Tư, bộ đội Liên Xô vượt qua sông Prút, chiếm được tuyến Re-đe-u-si, Oóc-ghê-ép, Đu-bô-xa-rư và giữ thế vây bọc quân địch.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #24 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2011, 04:25:16 pm »

Theo truyền thống, Bộ tổng tham mưu chuẩn bị các tài liệu cho nhật lệnh của Tổng tư lệnh tối cao đọc vào dịp 1 tháng Năm. Khí thế chung rất phấn khởi vì đã đến lúc hoàn toàn giải phóng Tổ quốc. Còn sau này... khi chúng ta tống cổ bọn địch ra khỏi nhà mình rồi thì lúc đó, chúng tôi nghĩ, chắc sẽ phấn khởi hơn nhiều.

Với những ý nghĩ ấy, tôi cùng với đồng chí A. I. An-tô-nốp, phó tổng tham mưu trưởng, lên đường đi báo cáo thường kỳ trong Đại bản doanh. Thông thường, khi công việc ngoài các mặt trận thuận lợi, Tổng tư lệnh tối cao rất vui và nhanh chóng giải quyết mọi vấn đề. Lúc góp ý về nội dung bản nhật lệnh 1 tháng Năm, cả hai chúng tôi đều tỏ lòng tin tưởng rằng lúc này, mọi khó khăn ở các nước ngoài sẽ được khắc phục nhanh hơn.

I. V. Xta-lin chăm chú nhìn chúng tôi và... sớm làm nguội lạnh sự quá trớn đó của chúng tôi. Đồng chí nói: quân địch bây giờ như con thú dữ đã bị thương, buộc phải bò về hang ổ của chúng để chữa chạy các thương tích. Nhưng con thú bị thương lại còn nguy hiểm hơn. Phải truy kích chúng và đến tận hang ổ chúng mà diệt.

I. V. Xta-lin nhấn mạnh rằng việc giải phóng các dân tộc đang bị bọn phát-xít nô dịch là một công việc không kém phần khó khăn như hồi đánh đuổi chúng ra khỏi biên giới đất nước Liên Xô. Tiếp tục nói lên những ý nghĩ của mình, đồng chí chỉ ra rằng: ở nước ngoài. bộ đội ta sẽ chiến đấu trong một hoàn cảnh chính trị khác về cơ bản với hoàn cảnh chính trị xã hội chủ nghĩa trên đất nước chúng ta. Ở đấy, quyền lợi các giai cấp đối kháng sẽ ảnh hưởng tới quá trình cuộc đấu tranh vũ trang, tới sự hiệp đồng với các nước đồng minh. Chúng ta sẽ có những người bạn tốt, nhưng cũng sẽ có những kẻ thù, nhất là trong hàng ngũ các giới đã cầm quyền trước đây và trong các tầng lớp nhân dân đang ủng hộ các giới cầm quyền đó.
Nội dung bản nhật lệnh đọc ngày 1 tháng Năm của Tổng tư lệnh tối cao bao hàm tinh thần của những ý kiến đó.

Sau này, bản thân chúng tôi càng thấy thấm thía tính chất đúng đắn của các dự kiến của Xta-lin. Những ý định tiến công sâu vào Ru-ma-ni trong một thời gian không thu được kết quả. Bộ đội mỏi mệt, thiệt hại, cần phải bổ sung về người và khí tài.

Theo lệnh của Đại bản doanh, ngày 17 tháng Tư. phương diện quân U-crai-na 1, rồi đến ngày 6 tháng Năm 1944, phương diện quân U-crai-na 2 và 3, đã chuyển sang phòng ngự, tiền duyên chạy dài theo tuyến phía Đông Brô-dơ, phía Tây Téc-nô-pôn, Cô-lô-mưi-a, Pa-sca-ni, phía Bắc I-át-xư, phía Đông Ki-si-ni-ốp và xa nữa, dọc sông Đne-xtơ-rơ.

Các phương diện quân được lệnh phải sẵn sàng tiến công vào cuối tháng Năm. Thời gian đó sau này có hoãn lại vì bắt đầu từ 30 tháng Năm, quân địch tập kích mạnh vào các đơn vị quân ta và đánh bật các đơn vị quân ta sang bên kia sông Prút.

Bốn sư đoàn xe tăng Đức (sư đoàn 14, 23, 24, sư đoàn SS “đầu lâu”, sư đoàn cơ giới “nước Đại Đức” và một số binh đoàn bộ binh, được pháo binh và không quân chi viện mạnh, đã tham gia cuộc tập kích đó. Sau mười ngày chiến đấu ác liệt, quân địch dù bị thiệt hại nặng, đã thọc sâu được vào đội hình bố trí các đơn vị của ta; ở một số nơi cá biệt, chúng đột nhập sâu tới 30 ki-lô-mét.

Hoạt động ráo riết đó của địch không thể không làm cho phương diện quân, Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu lo lắng. Theo tin tức chúng ta nhận được, thì thời gian đó bộ chỉ huy phát-xít Đức tập trung lực lượng đe tổ chức tập kích không riêng ở I-át-xư, mà ở cả khu vực Ki-si-ni-ôp. Tại đây, quân địch ít ra cũng có tới 7 sư đoàn bộ binh, 5 sư đoàn xe tăng và cơ giới. Lúc này, chúng có thể liều lĩnh tung hết lực lượng ra để giành lấy thắng lợi trên hướng thành phố Ben-xư và tiến vào phía sau cánh quân ta ở phía Tây Đne-xơ-rơ.

Mối nguy cơ đó rất nghiêm trọng, nhưng các chiến sĩ chúng ta vẫn kiên cường đứng vững trên tuyến ấy. Các đơn vị của phương diện quân U-crai-na 2 anh dũng phòng ngự đã đập tan ý đồ của bộ chỉ huy phát-xít Đức. R. I-a. Ma-li-nốp-xki, tư lệnh phương diện quân, báo cáo về Bộ tổng tham mưu rằng: 4 sư đoàn xe tăng địch đã bị thiệt hại nặng trong các trận đánh này. Thế nhưng chúng ta vẫn chưa thể tổ chức tiến công ở đây được, vì bộ đội ta cũng phải trả giá đắt trong những trận đánh ác liệt đó.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #25 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2011, 04:26:08 pm »

Nhận thấy ở phía Tây - Nam, lực lượng hai bên đã cân bằng, đặc biệt là xe tăng, và lúc này vẫn chưa thể thay đổi tình hình có lợi cho ta được, Bộ tổng tham mưu đề nghị: sau khi tiêu diệt địch trên các hướng khác, chúng ta sẽ khôi phục lại cuộc tiến công ở khu vực này. Đại bản doanh đồng ý.

Bộ đội bắt đầu chuẩn bị cho chiến dịch “Ba-gra-chi-on” và chuẩn bị thực hiện các ý định chiến lược khác của Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô. Việc hoãn thời hạn mở chiến dịch trên hướng Tây - Nam hoàn toàn không có nghĩa là hủy bỏ việc chuẩn bị chiến dịch ấy; cả Bộ tổng tham mưu lẫn các phương diện quân vẫn tiến hành việc chuẩn bị đó.

Tôi muốn được nói rõ thêm là: chúng ta không phải chỉ bận tâm với các vấn đề quân sự. Bộ tổng tham mưu cùng với Tổng cục chính trị, hội đồng quân sự các phương diện quân và tập đoàn quân đã chuẩn bị cho người chiến binh Liên Xô nhận thức đầy đủ vị trí đặc biệt của họ khi hành động ở nước ngoài: là người chiến sĩ của các Lực lượng vũ trang Liên Xô, là người đại biểu của chế độ xã hội tiên tiến nhất.

Cho đến ngày 20 tháng Tám, chúng ta vẫn chưa tổ chức các chiến dịch tiến công trên lãnh thổ Ru-ma-ni. Ngược lại, ở Ba Lan, bộ đội ta đã tiến công suốt cả mùa hè, tiến tới Xi-xla và đang tiến quân thắng lợi trên hướng các vùng phụ cận phía Đông Vác-sa-va - Pra-ga. Trong quá trình tác chiến trên đất Ba Lan, tập đoàn quân Ba Lan 1 do tướng D. Béc-lin-gơ làm tư lệnh đã sát cánh chiến đấu với các đơn vị chúng ta. Thời gian này, các chiến sĩ Ba Lan là người bạn chiến đấu trung thành của chúng ta.

Do chức trách công tác của mình, tôi được biết nguồn gốc thành lập Quân đội nhân dân Ba Lan và đã thường xuyên tiếp xúc chặt chẽ với các lực lượng vũ trang Ba Lan trên lãnh thổ Liên Xô. Bởi lẽ đó, tôi mong muốn được kể lại một cách chi tiết hơn về Quân đội Ba Lan, về sự xuất hiện và trưởng thành của nó, về con đường khó khăn mà Quân đội Ba Lan đã trải qua.

*
*   *

Ngay từ ngày đầu Chiến tranh giữ nước vĩ đại, một số sĩ quan Ba Lan ở trên đất nước Liên Xô đã gửi bản tuyên bố cho Chính phủ Liên Xô. Họ viết: “Là đại biểu của một dân tộc bị bọn xâm lược phát-xít nô dịch, chúng tôi thấy con đường duy nhất giải phóng nhân dân Ba Lan là hợp tác với Liên Xô đất nước chúng tôi có thể phát triển thịnh vượng trong khuôn khổ của sự hợp tác đó”. Các sĩ quan nguyện sẽ thực hiện tốt lời nói của mình.

Sự kiện đó là một dấu hiệu rõ rệt của những quá trình sâu sắc diễn ra trong ý thức của những người đang bị đau khổ bởi chủ nghĩa phát-xít, nó cho phép hy vọng cũng sẽ có một liên minh quân sự với những người Ba Lan chống bọn chiếm đóng.

Dự kiến đó đã tỏ ra là đúng. Ngày 30 tháng Bảy 1941 , Chính phủ Ba Lan ở Luân Đôn do tướng V. Xi-coóc-xki đứng đầu ký kết hiệp nghị với Chính phủ Liên Xô về sự chi viện lẫn nhau trong chiến tranh chống lại nước Đức Hít-le. Thời gian ấy, chúng ta đồng ý xây dựng trên lãnh thổ quốc gia chúng ta một đạo quân Ba Lan do chính phủ Ba Lan lưu vong ở Luân Đôn cử ra Bộ tư lệnh.

Đồng thời. trong hiệp nghị có nói rõ, các đơn vị Ba Lan thành lập ở Liên Xô sẽ chiến đấu cùng với chúng ta chống lại kẻ thù chung. Hiệp nghị chỉ ra rằng: “đạo quân Ba Lan trên lãnh thổ Liên Xô sẽ hành động về mặt chiến dịch dưới sự chỉ đạo của Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô và trong Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô sẽ có đại biểu của Quân đội Ba Lan” (Chính sách đối ngoại của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh giữ nước. tiếng Nga, t. I, tr. 121).

Việc tổ chức ra Bộ lư lệnh và đưa các đơn vị Ba Lan vào chiến đấu, sẽ được quy định chi tiết trong một hiệp nghị quân sự đặc biệt giữa Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô và Bộ tư lệnh Ba Lan. Ngày 14 tháng Tám 1941, hiệp nghị này đã được ký kết ở Mát-xcơ-va. Về phía Liên Xô, thiếu tướng A. M. Va-xi-lép xki được ủy nhiệm ký kết hiệp nghị đó.

V. Xi-coóc-xki cử tướng V. An-đéc-xơ, người có kinh nghiệm chỉ huy cụm quân Ba Lan trong thời kỳ chiến tranh Đức Ba Lan năm 1939, làm Tổng tư lệnh các đơn vị Ba Lan trên lãnh thổ Liên Xô.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #26 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2011, 04:26:45 pm »

Việc chuẩn bị thành lập đạo quân Ba Lan thực tế đã bắt đầu từ lúc ký kết hiệp nghị quân sự. Các chi đội động viên đã được xây dựng, có các khí tài vật chất và lập ra các cơ sở huấn luyện. Theo đề nghị của Bộ tư lệnh Ba Lan, công tác huấn luyện được tiến hành với tốc độ nhanh. Chúng ta đồng ý vì rằng tướng An-đéc-xơ đề nghị khi chuẩn bị xong sẽ điều những sư đoàn được thành lập ra mặt trận Xô - Đức. Đầu tháng Chín, đoàn tàu chở các đơn vị Ba Lan mới tuyển tới địa điểm tập trung và ngày 8 tháng Chín, đơn vị đầu tiên đã đến cơ quan tham mưu của Tổng tư lệnh.

Lúc ban đầu, thành lập hai sư đoàn bộ binh (sư đoàn bộ binh 5 và 6), thành phần gồm những người công dân Ba Lan tản cư trên đất Liên Xô. Số người tình nguyện gia nhập quân đội rất đông, mới đầu dự định quân số chung của quân đội Ba Lan là 30 nghìn người, song thực tế đã vượt quá con số đó: đến 25 tháng Mười 1941, quân số lên tới 41,5 nghìn người và còn tiếp tục tăng lên. Các trung tâm tuyến quân đặt ở Vôn-ga, và ở vùng Ô-ren-bua - Bu-du-lúc, Tô-xcô-ê và Ta-ti-xép.

Lúc này chúng ta đang gặp những khó khăn hết sức to lớn, song Nhà nước Liên Xô vẫn ủng hộ nhiều về mặt vật chất cho Ba Lan. Chẳng hạn, Liên Xô đã cho chính phủ Ba Lan đặt tại Luân Đôn vay 100 triệu rúp để giúp đỡ các công dân Ba Lan. Ngoài ra, còn cho vay 300 triệu rúp dành riêng cho quân đội Ba Lan ở trên đất Liên Xô. Quân đội Ba Lan được trang bị vũ khí và khí tài kỹ thuật của Liên Xô, được cung cấp giống như các chế độ cung cấp cho các sư đoàn Hồng quân.

Bộ tổng tham mưu thêm việc: thành lập ra một bộ phận chuyên trách về công tác xây dựng quân đội Ba Lan ở Liên Xô. Thiếu tướng xe tăng A. P. Pan-phi-lốp phụ trách bộ phận này. Tôi quen biết đồng chí từ hồi cùng học với nhau trong Học viện mô-tô cơ giới của Hồng quân công nông. Có thể nói rằng trong tay đồng chí không có một bộ máy nào cả và quả là đồng chí phải ôm đồm nhiều việc.

Sau này, lại thành lập ra Ban lãnh đạo việc xây dựng các quân đội nước ngoài, và do có quan hệ công tác với nhiều bộ khác nên cơ quan đó chuyển sang trực thuộc Hội đồng bộ trưởng dân ủy (Hội đồng bộ trưởng dân ủy Liên Xô - tên gọi trước đây của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô. - BT.). Người đứng đầu cơ quan này được gọi là đại diện của Hội đồng bộ trưởng dân ủy phụ trách việc xây dựng quân đội nước ngoài trên lãnh thổ Liên Xô và trực tiếp liên hệ với Chủ tịch Hội đồng quốc phòng Nhà nước, với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng dân ủy và trong bộ máy của mình có một tổ sĩ quan đặc biệt của Bộ dân ủy quốc phòng.

Cuối mùa thu năm 1941, sư đoàn bộ binh Ba Lan 5 được xây dựng và huấn luyện xong. Sư đoàn 6 cũng đã xây dựng thành công. Thế nhưng, các sư đoàn này chưa ra mặt trận, vì tháng Chạp 1941, tướng V. Xi-coóc-xki đề nghị với Chính phủ Liên Xô tăng quân số các đơn vị Ba Lan lên tới 96 nghìn người và thành lập không phải 2 mà 6 sư đoàn. Sát trước lúc các đơn vị Liên Xô chuyển sang phản công gần Mát-xcơ-va, ngày 4 tháng Chạp, chính phủ Ba Lan long trọng tuyên bố: “Các đơn vị của nước Cộng hòa Ba Lan đóng quân trên lãnh thổ Liên Xô sát cánh với các đơn vị Liên Xô chiến đấu chống bọn cướp Đức” (Chính sách đối ngoại của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh giữ nước, tiếng Nga, t. 1, tr. 169.).

Hồi đó, dù đất nước chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, Chính phủ Liên Xô vẫn đồng ý xây dựng bổ sung thêm cho các đơn vị Ba Lan. Nhưng chúng ta không có đủ vũ khí. Chính phú Ba Lan cho biết rằng chính phủ Anh sẽ cung cấp cho họ, và tiếp tục xây dựng quân mình.

Theo đề nghị của Xi-coóc-xki, các trung tâm xây dựng đã chuyển về miền Trung Á. Ở đây bắt đầu triển khai xây dựng các doanh trại, các trường huấn luyện, viện quân y và các cơ quan khác. Nhưng, các đơn vị Ba Lan đóng quân ở đây vẫn chưa được điều ra mặt trận Xô - Đức. Nguyên nhân của vấn đề này trước hết là do chính sách tham lam và phản bội nhân dân mình của chính phủ Ba Lan lưu vong. Họ không muốn cùng với chúng ta chống lại bọn Hít-le.

Ngay cả Xi-coóc-xki - người hiểu biết hơn cả trong chính phủ tư sản này - cũng có thái độ dung túng đồng bọn của mình. Hồi đó, những người cộng sản Ba Lan đã đánh giá lập trường tư tưởng của Xi-coóc-xki là không đáp ứng được quyền lợi của nhân dân Ba Lan.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #27 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2011, 04:27:34 pm »

Các chính khách nước Anh, kể cả thủ tướng Anh, đã gây sức ép đối với vấn đề địa điểm sử dụng các lực lượng Ba Lan. Họ nghi ngờ tính chất vững chắc của Nhà nước Liên Xô và như ta biết, họ cho rằng sắp tới đây, Liên Xô sẽ bị diệt vong. Thế nhưng, không phải họ lo toan tới vận mệnh của Nhà nước Liên Xô. mà chính là lo toan đến quyền lợi của họ. trước hết họ thấy phải tìm cách ngăn cản không cho bọn Hít-le xâm nhập vào Ấn Độ. Âm mưu của họ nhằm dựa vào các đơn vị Ba Lan thành lập ở Liên Xô để thực hiện ý đồ ấy. Đồng thời, họ còn hy vọng duy trì được chính phủ tư sản ở Ba Lan và không muốn hợp tác chiến đấu với Liên Xô.

Chính sách hai mặt đó là nguyên nhân của hai xu hướng đang tồn tại trong hàng ngũ các đơn vị Ba Lan. Những quân nhân dũng cảm và biết nhìn xa hơn đã đấu tranh đòi thực hiện đúng đắn và triệt để các điều cam kết đã quy định trong hiệp ước với Liên Xô về việc cùng với các đơn vị Liên Xô chiến đấu chống lại bọn Hít-le. Những đại biểu của quan điểm này cho rằng tình hình khó khăn của Nhà nước Liên Xô chỉ là bước quá độ, tin chắc thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về chúng ta và nền độc lập của Ba Lan cũng sẽ gắn liền với chiến thắng đó.

Còn một số người khác - trước hết là Bộ chỉ huy quân đội Ba Lan - cho rằng liên minh với Liên Xô chỉ là sách lược tạm thời. Những người ấy không muốn sát cánh với Hồng quân chiến đấu chống lại bọn xâm lược Hít-le. Họ đặt mọi hy vọng của họ vào các nước đồng minh phương Tây, tìm cách không tham gia chiến đấu với chúng ta và rút ra khỏi lãnh thổ Liên Xô.

Chính quyền Liên Xô và Bộ tổng tư lệnh Liên Xô không can thiệp vào nội bộ các đơn vị Ba Lan, mặc dầu có biết cuộc đấu tranh của hai xu hướng đó. Xuất phát từ chỗ các chiến dịch phối hợp sẽ đáp ứng được quyền lợi của Liên Xô và của nước Ba Lan dân chủ, độc lập, chúng ta hy vọng những người chỉ huy quân sự Ba Lan sẽ tỉnh ngộ, nên vẫn tiếp tục chi viện đắc lực cho việc xây dựng các đơn vị của họ.

Thời gian trôi qua. Cuộc chiến tranh nặng nề vẫn tiếp diễn... Ở Mát-xcơ-va, chúng ta chuyển sang phản công, đánh bật quân địch ra khỏi chân tường thủ đô và buộc chúng phải từ bỏ các kế hoạch của chúng. Trong quá trình chiến tranh đã xảy ra một bước ngoặt. Tình hình mới đang diễn ra ở ngoài mặt trận yêu cầu bộ chỉ huy Ba Lan phải có những quyết định mới.

Thời gian này, quân đội Liên Xô đã đánh lui bọn chiếm đóng, các hành động diễn ra ở khu vực thủ đô chuyển thành tổng tiến công, nên chúng ta cần đến sức chiến đấu của tất cả các binh đoàn. Truy kích quân địch là công việc có rất nhiều mặt phải làm.

Nhưng chính phủ lưu vong Ba Lan không đồng ý như thế, mặc dầu họ có 2 sư đoàn đã được huấn luyện kỹ và trang bị bằng các vũ khí của Liên Xô. Sư đoàn mạnh hơn cả là sư đoàn bộ binh 5, quân số tới 12500 người. Các chiến sĩ và sĩ quan cấp dưới của họ nhiều lần bày tỏ nguyện vọng được đi chiến đấu chống quân thù. Và Chính phủ Liên Xô chiếu theo hiệp nghị quân sự đã được ký kết cũng đã đề nghị như vậy, nhưng An-đéc-xơ và Xi-coóc-xki vẫn một mực trả lời: “chúng tôi chưa sẵn sàng".

Đứng trước tình hình đó, thậm chí phải chịu những tổn thất to lớn về mọi mặt, Liên Xô vẫn thực hiện đúng đắn những cam kết trong hiệp nghị với chỉnh phủ Ba Lan, tiếp tục giúp đỡ xây dựng các đơn vị Ba Lan. Còn nói về bọn An-đéc-xơ thì từ chỗ hy vọng vào sự chi viện của Luân Đôn, ít lâu sau họ đã thấy rõ rằng người Anh không có ý định cung cấp vũ khí cho các sư đoàn của Ba Lan.

Nhiều bức điện gửi sang Luân Đôn cũng chẳng ăn thua gì. Còn về phần chúng ta thì chưa thể giúp đỡ được nhiều hơn, vì các nhà máy sản xuất vũ khí sơ tán ra khỏi các khu vực miền Tây đất nước đang còn đi trên các đoàn tàu rải rác trên các nhánh đường sắt ở Xi-bi-ri và U-ran. Vào thời kỳ này, I. V. Xta-lin còn đang đích thân phân phối vũ khí, gần như từng khẩu súng một cho Hồng quân.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #28 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2011, 04:28:18 pm »

Điều kiện chiến tranh buộc Chính phủ Liên Xô hồi đầu tháng Hai 1942 lại phải lưu ý An-đéc-xơ về thời hạn sẵn sàng của quân đội Ba Lan và sử dụng các đơn vị đó tham chiến. Chúng ta nói tới ý định đưa sư đoàn bộ binh 5 ra mặt trận trong một thời gian gần nhất. An-đéc-xơ trả lời: tới mồng 1 tháng Sáu, đơn vị mới chuẩn bị xong và không đồng ý sử dụng từng sư đoàn một.

Theo ý kiến ông ta, sử dụng hai sư đoàn ở ngoài mặt trận thì không làm nên chuyện được, vì chỉ có đòn tập kích của cả tập đoàn quân mới có thể đem lại thắng lợi có ý nghĩa chiến dịch và mới thu được ý nghĩa chính trị to lớn. Còn nói về kinh nghiệm chiến đấu, nếu cả tập đoàn quân cùng tham gia chiến đấu thì sẽ thu được kinh nghiệm tốt hơn là từng đơn vị độc lập.

Vào thời gian khác và trong hoàn cánh khác, những ý kiến ấy cũng có thể có lý. Nhưng khi quân đội Liên Xô đang tiến công thì từng sư đoàn độc lập bước vào tham chiến lại hoàn toàn đúng đắn. Xét về mặt hiệu quả chính trị, các đơn vị Ba Lan xuất hiện vào thời gian này ở ngoài mặt trận sẽ có tác động rất lớn, trước hết là đối với nhân dân Ba Lan, những người đang nóng lòng trông đợi các tin tức về việc thành lập lại quân đội Ba Lan. Tình hình đó còn góp phần thuận lợi cho việc triển khai rộng rãi hơn nữa cuộc đấu tranh du kích và hoạt động bí mật ở trong nước. Nhưng Xi-coóc-xki vẫn dứt khoát cự tuyệt.

Ngoài tiền tuyến, các sự kiện quyết định đã chín muồi và cả hai bên đều đang chuẩn bị. Thế nhưng ở Luân Đôn những người Ba Lan đã chuẩn bị ra sao? Tháng Ba 1942, V. An-đéc-xơ đến đó. Trên danh nghĩa, An-đéc-xơ lên đây để hội dàm về việc nhận vũ khí của người Anh mà trước kia người Anh chưa giao cho, song trong thực tế thì lại bàn tính tới những âm mưu chuẩn bị cho một bộ phận quân đội của Ba Lan... sơ tán ra khỏi biên giới Liên Xô.

Họ viện cớ thời gian này đất nước chúng ta đang gặp những khó khăn về lương thực để sơ tán ra nước ngoài. Những khó khăn đó của chúng ta, ai cũng biết. Chính phủ Liên Xô không còn cách nào khác là phải đi tới giảm bớt một số tiêu chuẩn cung cấp lương thực cho các đơn vị đóng ở hậu phương. Lẽ đương nhiên tình hình đó có quan hệ tới các đơn vị của An-đéc-xơ.

Lợi dụng thời cơ này. Xi-coóc-xki đề nghị Chính phủ Liên Xô cho sơ tán một bộ phận quân đội Ba Lan sang I-ran. Chính phú Liên Xô đồng ý. Thế là, từ ngày 23 tháng Ba cho tới ngày 3 thảng Tư 1942, 31488 quân nhân của quân đội Ba Lan rời sang I-ran, phần lớn là các đơn vị mới xây dựng, chưa có vũ khí.

Hồi đó, chúng ta chưa biết đầy đủ những lý do thực về biện pháp này của chính phủ Ba Lan tại Luân Đôn. Nhưng nhiều sĩ quan và binh lính Ba Lan trong lúc sơ tán đã nói rằng, cấp trên chuyển họ sang vùng Cận Đông để làm bia thịt cho người Anh. Bộ chỉ huy quân đội của họ buộc phải giải thích loanh quanh, thậm chí còn tuyên bố rằng: các đơn vị rời sang I-ran là để trang bị, tổ chức, huấn luyện, rồi sau đó, khi đã sẵn sàng chiến đấu, lại sẽ trở về Liên Xô cùng tham gia chiến đấu chống quân phát-xít...

Sau đợt sơ tán ban đầu, quân đội Ba Lan của An-đéc-xơ còn lại khoảng 42 000 người. Các đơn vị mới vẫn tiếp tục xây dựng, còn các đơn vị cũ (sư đoàn 5 và 6) đã huấn luyện xong. Cuối tháng Năm, An-đéc-xơ lại sang Luân Đôn.

Ngày 30 tháng Năm, An-đéc-xơ điện cho I. V. Xta-lin, nói rằng ông ta thấy cần thiết phải trực tiếp báo cáo cho Xta-lin biết về kết quả cuộc hội đàm với người Anh và đề xuất ý kiến về vấn đề tiếp tục xây dựng quân đội Ba Lan. Bộ tổng tham mưu thấy rõ tình hình đã đi gần tới chỗ kết thúc. An-đéc-xơ nói là người Anh đang lo lắng tới các nước thuộc địa của họ và muốn các đơn vị Ba Lan sẽ đứng ra, như ta nói là lấy thân mình bảo vệ những vùng đất đai của họ. Chính vì lý do này, nên các đơn vị Ba Lan phải rời khỏi Liên Xô.

Nhưng qua đó. ta cũng nắm được một số tin. An-đéc-xơ cho biết là mùa hè năm 1942, người Anh đang chờ đợi địch sẽ tổ chức tiến công lớn tại mặt trận phía Đông. Theo tin tức tình báo của Anh thì đòn đột kích chủ yếu của địch dự định sẽ đánh vào hướng Cu-ban và Cáp-ca-dơ.

Có lẽ, do sức ép của người Anh nên chính phủ lưu vong Ba Lan của V. Xi-coóc- xki đã dứt khoát từ chối khòng thực hiện trách nhiệm cam kết trước đây với Liên Xô là đưa quân đội của họ vào tham chiến trên mặt trận Xô - Đức và tuyên bố rằng việc sơ tán quân đội của họ sang I-ran là cần thiết. Mặc dầu tình hình đã diễn ra như vậy, song thủ tướng Ba Lan vẫn tiếp tục đề nghị Liên Xô tuyển mộ thêm quân đội Ba Lan và xây dựng thêm các sư đoàn. An-đéc-xơ kể lại hết mọi việc trên tại Điện Crem-li.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #29 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2011, 04:28:53 pm »

Chính sách thách thức công khai và phi nghĩa đó đã nhận được sự phản ứng trả lại đích đáng. Do phía Ba Lan không thực hiện các cam kết của mình và chúng ta đang vấp phải những khó khăn nghiêm trọng về trang bị cho Hồng quân, còn tình hình ngoài mặt trận thì đang diễn biến hết sức nặng nề, nên tháng Bảy 1942, Chính phú Liên Xô thông báo cho phía Ba Lan rằng, Liên Xô không thể tiếp tục xây dựng các đơn vị Ba Lan trên lãnh thổ Liên Xô nữa, và đặt vấn đề cần sơ tán triệt để các đơn vị quân đội của Ba Lan.

Tháng Tám 1942, lại nhận thêm 44000 quân nhân Ba Lan rời sang I-ran cùng với 25000 người dân, phần lớn là những người thân thích của các quân nhân. Nhưng một bộ phận binh linh và sĩ quan giác ngộ có sự suy nghĩ tiến bộ hơn trong quân đội của An-đéc-xơ, đã từ chối không sang I-ran và ở lại Liên Xô. Số người này không đông, nhưng tinh thần và vai trò của họ trong sự nghiệp giải phóng đất nước Ba Lan lại rất lớn. Sau đây, chúng ta sẽ nói tới vấn đề đó.

Kế hoạch thứ nhất - giúp đỡ nhân dân Ba Lan anh em của chúng ta xây dựng trên lãnh thổ Liên Xô các lực lượng chiến đấu cần thiết, để đấu tranh vũ trang chống bọn chiếm đóng đã kết thúc như vậy đấy. Kế hoạch đó không thu được kết quả triệt để và bọn địa chủ, tư sản Ba Lan nằm trong chính phủ lưu vong ở Luân Đôn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Thế nhưng, ta cũng không thể cho rằng kế hoạch đó là hoàn toàn vô ích. Nó có ảnh hưởng tích cực đến các lực lượng cách mạng chân chính của Ba Lan. Họ đang triển khai rộng rãi các mặt hoạt động nhằm xây dựng quân đội của nhân dân hiện đang hoạt động bí mật trên đất Ba Lan và trên lãnh thổ Liên Xô. Ngay các chiến sĩ của An-đéc-xơ buộc phải chiến đấu cho đất nước Ba Lan ở xa Tổ quốc của mình đều có thể suy nghĩ và đánh giá đúng sự giúp đỡ anh em của Đất nước xô viết

Trong khi ấy, ở Ba Lan, tình hình chính trị phát triển đã dẫn đến việc thành lập Đảng công nhân Ba Lan. Đảng định ra những nguyên tắc chiến lược chính trị mới, đẩy mạnh cuộc đấu tranh thống nhất các lực lượng yêu nước trong mặt trận dân tộc chống Hít-le. Đảng công nhân Ba Lan kêu gọi nhân dân Ba Lan thống nhất mọi nỗ lực chiến đấu trong khối liên minh chống Hít-le, trước hết với người bạn gần gũi nhất là Liên Xô. Ở Ba Lan đã thành lập ra Quân cận vệ nhân dân - một tổ chức vũ trang do những người cộng sản Ba Lan lãnh đạo.

Ngoài mặt trận Xô - Đức, tình hình đã thay đổi. Các đơn vị phát-xít Đức bị thiệt hại nặng ở Xta-lin-grát, mở đầu cho bước ngoặt cơ bản có lợi cho ta trong quá trình chiến tranh. Đối với những người yêu nước Ba Lan hiện đang ở Liên Xô tình hình đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh sự đoàn kết các lực lượng giải phóng, làm cho họ nhận thức rõ sự cần thiết phải cầm vũ khí đứng lên chiến đấu bên phía Hồng quân.

Tôi còn nhớ rõ những ngày đầu xuân năm 1943. Bấy giờ, Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đang chuẩn bị chiến dịch có tính chất quyết định ở Cuốc-xcơ. Chúng ta đã vạch ra kế hoạch hành động, các lực lượng đã được tập trung. Chúng ta đã tích lũy các phương tiện vật chất và các đội dự bị. Nói tóm lại, chúng ta đã chuẩn bị mọi thứ cần thiết để vĩnh viễn chôn vùi các kế hoạch của các nhà chiến lược Hỉt-le và đẩy nước Đức phát-xít tới miệng hố thất bại.

Cùng trong thời gian ấy, vang lên tiếng nói của những người con trung thành của Ba Lan, những nhà hoạt động cộng sản Ba Lan đang lưu vong ở Liên Xô. kêu gọi thành lập Liên minh những người yêu nước Ba Lan tại Liên Xô. Tổ chức đó hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ của mặt trận dân tộc do Đảng công nhân Ba Lan xây dựng, nhằm thống nhất trong thời chiến những người Ba Lan hiện còn ở lại trên đất nước Liên Xô, không phân biệt các quan điểm chính trị, xã hội và tôn giáo, hợp nhất thành một mặt trận chiến đấu chống ké thù. Liên minh đó đặt ra cho mình một trong các nhiệm vụ là xây dựng các đơn vị Ba Lan để cùng chiến đấu với Hồng quân chống lại nước Đức Hít-le.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM