Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:57:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phạm Xuân Ẩn - Tên người như cuộc đời  (Đọc 52220 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #30 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2011, 10:10:24 pm »

Câu chuyện dẫn tới một người chỉ huy trực tiếp của ông là một nhân vật còn bí ẩn hơn nữa: ông Mười Hương, người có cuộc sống như một cuốn tiểu thuyết. Ông Mười Hương đã bị đày ải ở nhà tù Chín Hầm khét tiếng của Ngô Đình Cẩn ở Miền Trung. Đó không phải nhà tù theo tính pháp lý nhân loại, mà là cái trại để tra khảo và thủ tiêu những người Việt Nam yêu nước không theo thứ luật pháp nào. Chính khi ông Ẩn đang học ở Mỹ thì hầu như toàn bộ tổ chức trong nước bị chế độ Diệm đánh phá vỡ hàng loạt. Ông Mười Hương bị bắt và số phận chàng sinh viên Ẩn kể như cá nằm trên thớt. Ông Tư Tùng tức Dương Minh Sơn và cậu em trai của Ẩn cũng bị bắt. Nhưng ông Mười Hương đã chịu đựng sự khốc liệt này, giữ nguyên được tổ chức. “Ông Mười thường quan tâm dặn tôi hai việc: thứ nhất nhấn mạnh lập trường tư tưởng, chính trị, hiểu biết văn hóa, thứ hai là nghiệp vụ vững. Ông bảo: phải đi học, tìm hiểu văn hóa Mỹ. Phải học qua văn hóa”. Ông Ẩn rót thêm nước vào tách cho khách và bình luận vui thêm: “Làm nghề tiếp xúc để nó không ưa, kể như ăn mày rồi!”

Chiếc xe hiệu Renaut của Phạm Xuân Ẩn được trưng bày tại Bảo tàng Quân đội ở Hà Nội (ảnh trong Bộ sưu tập cá nhân của Phạm Xuân Ẩn)

Ngành tình báo chiến lược của ta lúc đó nghiên cứu những vấn đề phục vụ chiến lược quốc gia: học thuyết chiến tranh và chiến lược quân sự, chủ trương của đối phương về mọi mặt, và những toan tính của đồng minh. Nước ta là một nước thuộc địa bị đô hộ, hoạt động tình báo phải xâm nhập cơ quan đầu não đối phương ngay ở trong nước chứ chưa ra ngoài nước. Tình báo của ta là tình báo tự vệ chớ chưa có sức lực làm tình báo tấn công vào các nước lớn được.

Năm 1954 khi đất nước bị chia cắt, hai miền hai chế độ, như hai nước, cho nên hoạt động tình báo ở Miền Nam như đi hoạt động “nước ngoài”. Người cán bộ ở Miền Bắc vào cũng như đi ra một nước khác, do đó đặc biệt khó khăn. Giống như người Đông Đức mà qua hoạt động ở Tây Đức. Hoạt động ở Anh, Mỹ cũng khó như vậy. Không hợp pháp là bị bắt liền, mà đã là điệp báo bao giờ cũng hoạt động bất hợp pháp. Ông Ẩn lại hoạt động độc lập và cô đơn mà từ ngữ nghề nghiệp Anh, Mỹ gọi là lone wolf (chó sói cô đơn) dưới sự chỉ đạo rất bí mật của một số đầu mối càng ít càng tốt. Trong suốt cả mấy chục năm đó ông Ẩn chỉ biết ông Mười Hương, Cao Đăng Chiếm, Phạm Ngọc Thạch và vài đồng chí cụm trưởng. Đến năm 1962 thì Tư lệnh Miền chỉ đạo tập thể, ông không rõ từng người. “Ngành này tạo bình phong khó nhất, vừa tấn công, vừa phòng ngự. Vừa là mâu, vừa là thuẫn”.

Một buổi hè Sài Gòn nào đó, công việc đã xong, ông Ẩn đã giải thích thêm khi tôi cần hiểu những câu chuyện xảy ra từ khi tôi còn là đứa trẻ vài tuổi, sống ở Hà Nội, hoàn toàn không biết gì Sài Gòn. Phải hết cả buổi chiều đó tôi mới tạm hiểu một chút ít rằng không phải chỉ có một thứ khó nhất là chuyện bình phong trong nghề tình báo. Đó là cả một nghệ thuật mà trên thế giới có những giáo trình đồ sộ, giảng từ cách chọn người, huấn luyện thế nào… Còn nhiều thứ khác nữa, tôi đều thấy khó nhất.

Ông Ẩn đã là một nhà báo quảng giao trong lòng địch. Vậy mà quan hệ rộng cũng không trực tiếp lấy các tài liệu tối mật được. Phải qua trung gian, với sự tin tưởng, giúp đỡ, trao đổi. Phải là những chuyên gia giỏi, nếu đã chọn nghề nào đó làm bình phong. Có những tình báo quốc tế sau chiến tranh lại sống bằng nghề trước đó họ lấy làm bình phong. Đơn giản là họ đã trở nên tài năng chính cống của cái nghề họ “mượn” làm bình phong. Người ta được biết cả giám đốc CIA sau này làm cố vấn kinh tế cho Nhật; những giáo sư luật, giáo sư chính trị tham gia những cuộc tư vấn cỡ chính phủ. Nếu bình phong là nghề bác sĩ tốt ở chỗ mở quan hệ nhưng bản thân nghề lại ít dính sâu vào các vấn đề bí mật quốc gia về quân sự, kinh tế, chính trị. Làm nhà báo thì an ninh luôn để mắt. Nó nghi, chỉ gài bẫy là dễ lộ ra. Rồi chuyển tin tức đi thế nào, cũng lại là chuyện khó nhất.

Phạm Xuân Ẩn để ria mép. (ảnh trong Bộ sưu tập cá nhân của Phạm Xuân Ẩn)
Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #31 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2011, 10:19:19 pm »

Còn bao nhiêu cái khó nhất nữa? Không phải chỉ khôn khéo lấy được tài liệu mật gửi ra. Tình báo chiến lược phải chuyển tin tức có đánh giá, có phân tích, tổng hợp và dự đoán nữa. Tin tức đã được đánh giá thì gọi là tin tình báo: information = tin tức thường; intelligence = tin tình báo; renseignement (tiếng Pháp) là tin tình báo.

Ông đã nhằm đến các loại người như thế nào để hoạt động? “Phải định ra được mục tiêu. Nếu đó là tư lệnh quân đội, làm chỉ huy, ra lệnh, ra kế hoạch hành quân thì tin tức của họ là nhất. Loại thứ hai là người không thảo ra kế hoạch, nhưng là nơi thi hành. Loại thứ ba là số người được đọc, như bí thư, người lưu giữ hồ sơ. Tôi làm báo, là người ở ngoài ba mục tiêu trên. Chỉ có báo chí Mỹ mới vô được. Và tôi phải nhắm vô những mục tiêu đó”.

Ông liên hệ cho tôi dễ hình dung cách học “nhìn ra” các loại người: thí dụ, ngày nay muốn biết Mỹ có bỏ cấm vận nước nào đó hay không, ngoài các nguồn tin tức khác, giới thành thạo còn có thể quan sát các nhân vật. Thí dụ như chủ tư bản kếch xù cỡ ông trùm tư bản tài chính David Rockefeller, và một chủ báo lớn, có ảnh hưởng chính trị ở Tòa Nhà trắng là bà Katherine Graham. Trước kia David Rockefeller được xem là Hoàng Đế Hoa Kỳ và bà Katherine Graham là Nữ Hoàng Hoa Kỳ. Ý muốn nói hai người có thế lực mạnh nhất nước Mỹ. Nhìn hai nhân vật đó người ta đoán biết những quyết định quan trọng. Nếu không ở trong giới “A nose for news” thì làm sao biết được kiểu quan sát đó. Nhưng các “mục tiêu” mà ông nhắm vô đó, có phải chỉ là vì cảm tình mà họ đi đến việc cung cấp tin mật? Có cả lòng tin yêu quý trọng trong quan hệ cá nhân, nhưng đâu phải chỉ có vậy!

Ông không thể chỉ moi tin mà không giúp đỡ trở lại. Vấn đề là giúp thế nào. Những người đó thường ở trong giới báo chí, tình báo, an ninh đối phương, họ cũng cần tin tức. “Thức ăn của họ là thông tin, tư liệu”. Ông Ẩn lại so sánh với những con chim ông nuôi “như chim phải cho ăn hoài nó mới hót. Như con này này, chuối, sâu không đủ, không hót. Hoặc hót nhưng màu lông không tươi…” Nghĩa là hai chiều chứ không phải một chiều. Phải có tin cho họ “ăn” chứ không chỉ moi tin của họ. Mà phải cho tin thật. Có nhiều người cho tin láo không được. Đầu họ có óc như tình báo viên chớ không phải đất sét muốn nắn cái gì cũng được.

“Người kinh tế cần tin kinh tế. Tin công khai thôi. Chơi thị trường chứng khoán có lúc họ không biết nên hay không nên bán ra. Họ tìm đến hỏi mình vì mình biết phân tích các dấu hiệu thời cuộc có thể ảnh hưởng. Thí dụ năm 1973 thị trường chứng khoán Mỹ xuống dữ. Mỹ lạm phát nặng. Khi họ hỏi ý kiến, tôi cũng xin chút thời gian ngắn tham khảo và đưa nhận xét để họ tự quyết định. Chẳng hạn như lạm phát đấy, nhưng chưa đến nỗi. Vẫn có khả năng lên lại… Ngay cả giới tướng lĩnh quân sự cũng làm ăn nên họ quan tâm”.

Ông Ẩn còn là một nhà nghiên cứu. Ông có thể đưa ra những dấu hiệu tâm lý biểu hiện nền chính trị. Thí dụ sau tết Mậu Thân, sau chiến công quân ta đánh thẳng vào đô thị, tinh thần ngụy quyền lung lay. Tướng lĩnh gửi tiền nhiều sang ngân hàng nước ngoài để nếu nguy sẽ chạy qua sống ở đó. Trong giới chính trị thì có hai loại: một đương quyền, một loại đối lập luôn moi móc lắm tin. Họ sẵn sàng cung cấp cho báo chí. Đôi khi họ cần phải vạch vòi giới cầm quyền, tìm đến nhà báo để cho tin, và để nhận tin. Họ âm mưu đảo chính v.v… cũng tìm báo chí thảo luận.

Ông giải thích thêm về việc chiều nào cũng ra ngồi quán café bánh ngọt Givral: “Ở chỗ đó có đủ loại. Việt Cộng hoạt động, người của Tổng nha, An ninh quân đội, Phòng Nhì Pháp, Tây Đức, Mật Vụ Tưởng Kiến Quốc, Triều Tiên, v.v… người của quốc tế, của CIA, có cả các bà, các cô ra tán dóc”. Ông phải là “trùm nói dóc” phục vụ những cuộc quây quần như thế. Không phải tin gì cũng nói giữa đám đông. Khi có ai đó muốn biết thật, biết sâu, thường gặp riêng để hỏi. Phải cho tin thật có mức độ. “Đừng nghĩ tình báo là chuyên môn gạt gẫm nói láo. Không phải đâu!” . Tôn chỉ của một tình báo viên có kinh nghiệm là phải nhớ ba chữ S “Sociable, Serviable et Sincère”.

Về chuyện này thì tôi có thể hiểu ông nhanh chóng. Trong các tiểu thuyết tình báo, dù các nhân vật có đưa tin đầu độc thì họ cũng dựa trên những nghiên cứu cẩn trọng, hợp lý. “Khi nó họp bàn định ra kế hoạch, phải theo dõi. Rồi lại phải xem nó có làm không. Khi nó thảo kế hoạch, phải tìm cách tiếp cận với người làm kế hoạch, với tư cách chính khách”. Với cách như thế, ông Ẩn đã tham gia góp ý từ việc thành lập 6 sư đoàn đầu tiên do Mỹ thành lập, tuyển chọn gửi sĩ quan đi Mỹ huấn luyện cho tới cả kế hoạch Khu trù mật, rồi Ấp chiến lược sau này v.v…

Mặc dù ông Ẩn nói rằng nghề điệp báo mà ông đã làm chỉ là nghề “gián điệp cổ điển”, lấy tài liệu mật, moi tin tức, săn tìm ý đồ của địch. Đó là những công việc gián điệp, điệp báo nào cũng làm. Nhưng tin tức phải được đánh giá, điều này mới thực sự quan trọng. Phải phân tích cho được, dự báo tương lai gần, tương lai xa, hướng đi nên thế nào, có thể giải đáp gì cho việc xử lý tình hình. Đó là nghệ thuật và cũng có cả phần linh tính mà Mỹ gọi là ESP = Extra Sensory Perception.

Nhưng quan trọng hơn cả là Trung ương có được nghệ thuật phân tích mà Mỹ gọi là Art of National Analysis. Những báo cáo ông gửi đi đều có đánh giá cả chất lượng và nguồn tin đáng tin cậy tới đâu. Bộ phận nghiên cứu của lãnh đạo sẽ xem xét, tính toán và tổng kết dựa trên những tài liệu như vậy. Công việc không hề đơn giản như những công thức cũng không đơn giản chỉ là “ăn cắp đồ” như lời hài hước của ông. Vì địch hoàn toàn có thể tương kế tựu kế. Chúng đã làm những tin đầu độc. Muốn bản tin chắc, phải có tài liệu, phải tham khảo với lịch sử của vấn đề và mối tương quan tác động qua lại của ta và đối phương. Đôi khi trong tài liệu lấy được, cả mười chương đúng, địch chỉ nhét vào đó một chương đầu độc. Địch cũng chơi con bài nhử, phản tình báo. Cái trò chơi hiểm này được làm công phu tới mức đã có lần chúng đem qua Phi Luật Tân in lại tờ báo Nhân Dân của Miền Bắc, chỉ in đầu độc vào đó thêm một khúc tin rất nhỏ. Đem báo in đó đi theo các đoàn hành quân (vờ rơi khi địch hành quân). Có khi nó nhét cả vào hầm trú ẩn để quân ta trở lại đọc. Do đó tin điệp báo rất khó kiểm tra. Phải là tài liệu nguyên bản và so sánh các bản tin tham khảo công khai khác trong quá trình soạn thảo nhiều lần.

“Tài liệu mật phải chụp liền, trả liền các tài liệu mượn được. Cũng có khi phải có trí nhớ tốt, mượn đọc tại chỗ rồi trả lại và về nhà tập hợp lại nội dung”. Cũng còn phải biết kiềm chế để tránh sơ hở. Có lần ông mượn được tài liệu tốt, một mình đọc ngay ở văn phòng. Tuy xung quanh không có ai nhưng ông không dám sao chụp, sợ nó đặt máy theo dõi. “Sử dụng tài liệu cũng vậy, có lần tôi phải ngưng mấy tháng liền không hoạt động để bảo vệ an toàn”. Đó là khi ông báo cáo về trường hợp có một tổ chức thật ra là bình phong của CIA đang hoạt động ở phía quân ta. Không may người liên lạc mang báo cáo ra, giữa đường bị bắn chết. Địch lấy báo cáo đó đưa cho an ninh, thông báo với người kia là “phải hết sức cẩn thận vì Việt Cộng đã biết và theo dõi”. Tin phải được kiểm tra, nguồn cho chắc, phải bảo vệ nguồn. Có ai trong số nguồn cung cấp tin mất việc do thay đổi thời thế, phải lo cho họ nếu có thể...

Ông làm thế nào để chuyển tin tức đi? Câu hỏi này mấy chục năm sau ký giả Mỹ vẫn hỏi. Không phải chỉ vì họ tìm hiểu vì sao Việt Nam chiến thắng, mà có thể còn vì những câu chuyện tình báo, tiểu thuyết tình báo đã trở thành một môn học nhân văn. Nó vẫn luôn làm người ta quan tâm.

“Tại Sài Gòn chúng tôi có một hệ thống liên lạc. Tôi đưa tin qua ngả đó và cũng tránh để dấu vết qua bút tích. Rồi thỉnh thoảng vài tháng tôi lại biến mất vài ngày. Điều đó không có gì là bất thường khi làm việc cho các cơ quan báo chí. Cấp chỉ huy tôi ở chiến khu đôi khi muốn có một tường trình dày đầy đủ. Chúng tôi gặp nhau ở một số nơi, nhưng chủ yếu là trong mật khu Hố Bò”. Đó là câu trả lời phỏng vấn của ông Ẩn cho Safer. Ký giả này giới thiệu thêm: Mật khu rừng rậm Hố Bò cách khoảng 20 cây số hướng Tây Bắc Sài Gòn. Địa điểm này thường trực bị sư đoàn 25 bộ binh Mỹ tấn công.

Phù hiệu của Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ


Chắc chắn là bạn đọc Mỹ khi đọc những dòng đó sẽ nhớ ngay cái tên hiệu “sư 25 bộ binh”. Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ còn có tên là “Tia chớp nhiệt đới” (Tropic Lightning). Đó là sư thiện chiến trang bị tối tân, được coi là đội quân tiêu biểu cho sức mạnh Mỹ, như một kiểu anh cả Đỏ. Tia chớp nhiệt đới - Cái tên sư đoàn cho thấy sự ác liệt của chiến trường. Còn đối với người đọc Việt Nam thì cái tên Hố Bò lại nói được nhiều hơn. Đó là chiến khu ngoan cường của quân dân ta ngay bên nách địch, chúng đánh phá kiểu gì cũng không quét nổi Việt Cộng.

“Có một lần vào dịp Tết hưu chiến, tôi đang trên đường trở lại Sài Gòn thì bị kẹt giữa cuộc giao tranh. Tôi phải ẩn 2 ngày 2 đêm dưới hầm, với ý nghĩ là mọi sự đối với tôi thế là tiêu tùng. Tôi nghĩ thật là cái chết lãng nhách, nạn nhân của một cuộc hưu chiến”. Ông Ẩn kể tiếp một tình tiết nguy hiểm thường nhật. Ông lén ra chiến khu, lúc trở về bị kẹt. Mà không phải chỉ một lần.

Một câu hỏi nữa ký giả Mỹ thường hỏi, và tôi nghĩ rằng câu này chắc đã có lần ông tự hỏi mình. Ông rất thành thực nói rằng nỗi lo về khả năng bị bắt là luôn đặt ra. “Sợ thường xuyên”. Có khi ông giải thích một cách khơi khơi: có gì đâu mà bị bắt. Ông làm nghiên cứu thời cuộc thôi chứ có làm gì vi phạm đâu. Người bạn Mỹ hỏi: Thế thì sao lại được tặng thưởng phong Anh hùng? Không làm những việc quan trọng, sao thưởng? “Vậy là đủ thưởng”. Không ai có thể giải thích ngắn gọn cho ký giả Mỹ này hiểu được. Bởi vì ngay người liên lạc trong đường dây của ông - dù rất ít - cũng đã có người được phong Anh hùng và cuộc đời bà cũng đã được viết thành cả một cuốn sách.

Liên lạc là khó nhất. Năm 1954 có nhiều cán bộ được đưa vào, phần lớn bị bắt, hy sinh rất nhiều do đường dây liên lạc bị vỡ bể.
Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #32 vào lúc: 15 Tháng Tám, 2011, 12:20:25 am »

16

“Lúc nào cũng gay go"

Dường như không có một lúc nào dễ dàng trong đời ông “Giai đoạn nào gay go nhất trong đời”, có nhà báo hỏi vậy, vì biết rằng muốn viết về một cao trào nào đó thì được còn viết về cả cuộc đời ông Ẩn là một điều khó thực hiện. Ông ngẫm nghĩ như rà soát nhanh lại đời mình và bảo: “Nhỏ tới lớn, lúc nào cũng gay go hết”.

Nếu đã lướt qua thời thơ ấu, thời thanh niên và cuộc đời hoạt động có thể bị bắt bị giết bất cứ lúc nào, thì rõ ràng là khó chọn lựa lấy một cao trào nào riêng biệt trong cuộc đời người tình báo.

Hồi mới hoạt động tình báo, tuổi ngoài 20, làm kho 5 Hải quan thời Pháp, chàng thanh niên mới chỉ làm công việc quan sát việc di chuyển hậu cần của quân Pháp. Có một lần anh đạp xe đi đến chỗ hẹn với bà liên lạc để chuyển tài liệu cho ông Phạm Ngọc Thạch. Ẩn đến chỗ hẹn trễ giờ, trên người có dính tí máu. Anh bị xây xát ở đâu đó không để ý. “Sao trễ vậy?” - người liên lạc tá hỏa khi nghe chàng trai trả lời là anh vừa đánh lộn vì “đổ dốc cầu, va vào thằng kia”. Nó gây sự sao đó, tuổi trẻ không biết kiềm chế, anh đã xông vào đánh nhau. Bà liên lạc giảng giải và nghiêm khắc phê bình: Phải trái gì cũng phải bỏ qua. Mình đang làm nhiệm vụ quan trọng. Đánh lộn, tài liệu để trong bụng nó văng ra sao? Đánh lộn, cảnh sát nó bắt về bốt có chết không?

Ẩn nhớ mãi lời bà liên lạc nói hôm đó: “Tội cậu nặng lắm đó. Nhiệm vụ phải đặt lên hàng đầu. Nó có chửi bố mình cũng phải làm thinh mà đi. Chà, cậu làm nghề này không được rồi. Từ nay cấm tiệt chuyện gây lộn. Xe có hư cũng vất liệng qua, đi làm nhiệm vụ cho kịp hẹn.”

Doug Pike chụp bức ảnh này gồm Blanche Cao, Myrna Pike đang dùng bữa trưa với Phạm Xuân Ẩn tại Thủ Đức cách Sài Gòn 15 km (ảnh được đăng với sự cho phép của Bộ phận Lưu trữ Việt Nam, Trường Đại học Texas Tech)

Ông Ẩn như vẫn còn ân hận về chuyện đó. “Qua kinh nghiệm mới nhớ lâu. Tôi biết ơn bà liên lạc, sau giải phóng có hỏi thăm xem bà ở đâu nhưng không ai biết. Hình như bà mất rồi. Không sao biết được, vì sau Hiệp định Genève là tôi cắt hết liên lạc mối đó để làm nhiệm vụ với đường dây khác”.

Bài học về cảnh giác và bí mật luôn thường trực nhưng không phải dễ rút kinh nghiệm vì đâu có chuyện nào giống chuyện nào. Một lần ông bí mật vào căn cứ chuyển tài liệu. Ở trong chiến khu quân ta bắt được một người lính Mỹ con nhà giàu, có máy chụp hình rất đắt tiền. Các đồng chí định lấy chiếc máy đó cho Ẩn vào thành phố, nếu có chụp tài liệu cũng có máy tốt chụp cho rõ. Nhưng ông Ẩn cảnh giác. Nó bị bắt, mình lại cầm máy của nó về Sài Gòn xài thì bằng lạy ông tôi ở bụi này. Lấy máy của nó là chết!

Cũng giống như một tết nọ, bà liên lạc và các đồng chí ở chiến khu biết Ẩn thích cây cối chim chóc nên đã đem biếu một cành mai rừng tuyệt đẹp. “Mai gì?” “Trắng, chưa nở”. Thôi chết rồi, loại mai này chỉ mọc trong rừng sâu, vùng giải phóng. Các chị em khác cũng thế. Có một chị liên lạc, con được 2 tuần đỏ lói bồng đi liên lạc. Tôi nghe kể khâm phục vừa sợ cho tính mạng cháu bé và điều đó bắt tôi phải tích cực hoạt động cho xứng đáng công lao và sự hy sinh của các chị. Có một bà còn bắt cá nhét tài liệu vào bụng cá. Bà lắm sáng kiến và rất nguyên tắc. Hoạt động như vậy, liên lạc là công việc rất quan trọng. Từ chỗ liên lạc bị bắt, có người phản bội là chết. Các chị rất kiên cường”.

Ông chuyển tin đi cách nào?

“Trước tôi có cả hộp thơ sống (người liên lạc) và hộp thơ chết (các chỗ quy định đặt tài liệu như gốc cây, ghế ngồi). Sáng tôi dắt bécgiê cho nó đi đái. Tôi đứng hút thuốc lá, lúc dụi thuốc đi thì để nhanh tài liệu viết sẵn vào chỗ đã hẹn. Khoảng nửa tiếng sau liên lạc tới. Hai người không biết nhau, người nào làm việc người ấy”. Nếu là tài liệu dày, phim tới 10 cuốn thì sao? “Dùng bọng cây gần trường đua hoặc gò mả có bia, trở đá ra gửi vô đó đậy lại, người liên lạc đến cúng nhang, lấy đồ. Phải đổi chỗ luôn. Phải lựa bọng cây chim đẻ rồi không đẻ nữa, để tài liệu trên cao, phòng con nít. Nhưng tốt nhất vẫn là dùng người”.

Nếu đưa trực tiếp, thí dụ ở tiệm thuốc, phải có quy ước. Liên lạc sẽ có quy ước từ trước báo dấu hiệu an toàn. Thí dụ nếu không thấy bẻ cành cây và có dấu than, phấn, tức là không an toàn, liên lạc sẽ không đến. Theo quy ước là chờ thêm 5 phút, nếu trật, hẹn lại. “Trật một cái là hai bên đều lo âu. Do đó, đúng hẹn phải tới cho được”. Đã có lần liên lạc từ trong khu ra, bị hư xe. Ông Ẩn đi hành quân về không kịp. Hẹn tới lần thứ ba không thấy tới là phải cắt luôn để điều tra xem sao. Có khi “hàng hóa” đã để rồi mà quan sát chưa thấy liên lạc tới lấy, ông phải lấy lại tài liệu đem về.

“Cái nghề nó khó chỗ này”. Ông giải thích: không phải chỉ là chuyện hành động chuyển tin đi, mà thời đại văn minh ngày nay càng khó vì có đủ thứ hết. Thí dụ quan hệ với nhân vật họ đã chú ý an ninh cả hai bên cùng theo. “Khi nhập cảnh, khi xin Passport là người ta đã nắm hết lịch sử cá nhân rồi. Luôn luôn bị điều tra. Có lẽ đó là một “kinh nghiệm” nữa của ông Ẩn. Khi ông làm báo cho hãng phương Tây là an ninh đã điều tra về con người ông rất kỹ. Lý lịch của ông có chi tiết làm việc cho Sở Chính trị Phủ Tổng thống.

Ông Trần Kim Tuyến, Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị, văn hóa và xã hội tức là mật vụ thời Diệm, cộng tác lâu dài với Cục tình báo Trung ương Mỹ. Lúc đó Tuyến có biết việc Ẩn bị điều tra để cấp thẻ báo chí. Vì quen biết nên ông Tuyến đã làm một việc tưởng là che giấu giúp bạn. “Nó hỏi moa rằng toa trước có làm Sở nghiên cứu không, moa bảo không”. “Chết rồi! Ông phải nói rõ là có vì nó sẽ điều tra ra ngay. Hồi đó còn ghi rành rành: cấp bậc ngang cử nhân chỉ số chuyên viên 420. Nay chối không ổn. Nó cho là dối trá còn chết nữa. “Tuyến đành “thôi được để moa kêu điện thoại cho nó nói rõ lại kẻo lôi thôi”. Thật hú vía. Suýt nữa thì Ẩn bị điều tra.

"Ông trùm mật thám" của Sở Nghiên cứu Chính trị và xã hội Phủ tổng thống VNCH, Bác sĩ Trần Kim Tuyến (1925-1995)

“Nhỏ tới lớn lúc nào cũng gay” cũng có nghĩa là lúc nào cũng phải đương đầu, luôn lo lắng tự kiểm soát mọi hành vi của mình. Chuyển tài liệu đi chỉ yên tâm khi biết chắc chắn tài liệu đến nơi, đừng thất lạc. Ông nhớ mãi cái lần hú hồn vía, ông vừa vào họp cụm trong cứ, hôm sau về nhà. Liên lạc bị bắn chết, tài liệu lọt vào tay địch. Đó là báo cáo về một người vừa nhận chức làm việc cho một cơ quan bình phong của CIA, được mười hôm đã có báo cáo vào khu. Khi ông vừa về đến Sài Gòn, một người ở bên an ninh báo cho ông biết “có địch trong bình phong này, nó lấy tin quan trọng báo ra khu”. Ông Trần Kim Tuyến thì tham khảo ý kiến “ông nhận định xem có phải Việt Cộng lọt vào không”. “Làm gì có”.

Ông Ẩn phân tích “tin tức lọt vào Việt Cộng là do nội bộ mình. Thằng nào cũng giành chỗ làm đó vì lương lớn và an ninh Mỹ đã điều tra kỹ mới cho làm việc. Họ đánh nhau bằng cách đưa tin đầu độc ra làm cho thằng này sợ, hoảng quá xin thôi rồi đó”. Ông Ẩn báo tình hình này vào khu. Do tài liệu bị mất, để đảm bảo an toàn cho công tác, trong khu nói ông hãy ngừng hoạt động một thời gian.

Rồi đến lượt ông Ẩn hỏi ông Trần Kim Tuyến: “Vụ này nó có truy trách nhiệm cho ai rồi chưa?” “Truy gì. Tụi nó đánh nhau tung tin thôi”.

Nhỏ lớn lúc nào cũng gay, còn do luôn phải sống trong nghịch cảnh. “Cuộc sống người ta một nghề, mình hai nghề, một nghề đi theo cách mạng, một nghề bám ở đây, để tự túc lâu dài, nghề báo không bao giờ rảnh. Hai nghề này nó rất mâu thuẫn nhau, nhưng lại giống nhau. Một đằng lấy được tin tức gì phân tích ra sao giấu đi như mèo giấu cứt là tình báo. Đằng khác thì lấy được tin gì, phân tích ra sao thì đăng toạc móng heo lên báo, phát thanh lên đài! Đó là làm nghề báo chí”.

Bản thân được một nền giáo dục nhân văn của gia đình, nhưng luôn gặp nghịch cảnh thách đố. Bạn bè đồng nghiệp có tình cảm với nhau, nhưng ông đứng về cuộc kháng chiến thì họ ở phía đối phương. Lòng nhân của người nhân văn phải nhìn thấy cảnh bom đạn chết chóc ngay bên mình. Luôn luôn gặp nguy cơ trước việc bị bắt bị giết. Có chuyện, nói hay giấu vợ con? Rủi họ không chịu được thì sao? Ông Ẩn tự nhận mình có hai cái yếu: phụ nữ và con nít khóc, ông không chịu nổi. Bây giờ ở thời bình, thỉnh thoảng ông vẫn thấy người nước ngoài đến xin trẻ em Việt Nam đem về làm con nuôi. Trong những ngày chờ làm thủ tục, ông nằm nhà kế bên nghe trẻ khóc quá, lòng xót xa không chợp mắt.
Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #33 vào lúc: 15 Tháng Tám, 2011, 12:30:17 am »

Có lẽ vì thế mà Stanley viết: “Ông Ẩn là con người phải giằng xé giữa hai tình cảm. Lòng trung thành với đất nước, dân tộc và sự tận tụy với nghề nghiệp, tình bạn với các đồng nghiệp từ một đất nước đã gây chiến với dân tộc mình”. Còn Henry Kamm thì trích lời ông Ẩn: Những hoạt động của tôi hoàn toàn được chia ra những ngăn riêng biệt. Rõ ràng thách đố lớn nhất đối với ông phải chịu nhiều gay gắt. Tất cả đều đỉnh cao: Vừa phải làm nhà báo thật sự có tầm vóc, vừa làm sao phát hiện các vấn đề, các “mục tiêu” để tiếp cận lấy được tin tình báo và tài liệu. Phải có một óc phân tích giàu hiểu biết thời cuộc, sắc bén, chính xác. “Tình báo chiến lược phải khách quan. Nếu biết vận dụng sáu quy luật cơ bản triết học của Marx để kiểm tra và phân tích tin tình báo và tài liệu thì tương đối sẽ khách quan”. Ông “tổng kết” vậy.

Cũng có nhiều chuyến đi theo các cuộc hành quân, ngồi trên trực thăng Mỹ, với tư cách một nhà báo, ông Ẩn đã chứng kiến bao cảnh xót xa. Một lần ông Neil Sheehan tác giả Sự lừa dối hoàn hảo đi theo cuộc hành quân của quân đội Việt Nam Cộng hòa tấn công vùng giải phóng. Từ trên trực thăng nhìn qua chiếc ống nhòm mua từ Mỹ đem về, thấy nông dân đàn bà và con nít đi làm ruộng bị đạn của quân Cộng hòa bắn phủ đầu rượt theo. Họ chạy men theo đê để vào làng. Không cầm lòng được ông Ẩn nói với viên chỉ huy: “Đại úy coi, nông dân, đàn bà con nít không thôi đang làm ruộng chắc không phải Việt Cộng. Đại úy ra lệnh ngừng bắn đi”. Và Ẩn đã đưa ống nhòm cho tên sĩ quan này xem cho rõ.

Tiếp đó ông lại phải đi theo cuộc bao vây cả làng, các cuộc bắt bớ khủng khiếp diễn ra. Từng người bị xét hỏi. “Có một thanh niên mặt xanh dờn, dáng vẻ lờ khờ, dân làng bảo nó nghèo lắm đi làm thuê, xin cho nó đi. Tôi liền hỏi lẹ, biết nó giữ bò. Trẻ vậy mà vợ chết, nuôi 3, 4 đứa con nhỏ, nhà cửa không có. Tôi bảo viên đại úy: Theo tôi hiểu nó như vậy đó. Không tin cứ thẩm vấn nó đi. Viên đại úy cự lại: “Ông ký giả, ông xen vào chuyện tụi tôi hai lần rồi”. Thì ra hắn tính một lần trên máy bay ông Ẩn nói ngừng bắn nông dân, lần này lại can thiệp nữa. “Không phải tôi xen - ký giả Ẩn nói không tin cứ tra khảo đi”. “Thôi nha, lần này nữa là hai rồi đó”. “Lần trước là tôi nói nhận xét, có xin đâu. Lần này thì ông làm phước để đức lại cho con cháu ông thế thôi!”. Viên đại úy dù giận cũng lắc đầu “nói nghe hay lắm”. Viên sĩ quan sai bọn quân báo ra hỏi dân, kiểm tra thấy đúng sự thật đã thả người đàn ông nọ. Đó là cuộc hành quân của Sư đoàn 7 miệt Cai Lậy.

Trong hoạt động, ông Ẩn “sợ thường xuyên” (trả lời phỏng vấn). Điều đó là thành thực, thậm chí còn nói chưa đủ. Cứ thử nghe câu chuyện bất ngờ của ông về đứa con gái nhỏ 6 tuổi.

“Đôi khi có tài liệu nhiều, chụp ảnh cũng cả tiếng, phải làm ban đêm thật bí mật. Ngoài con chó canh chừng, có người nhà thức nữa. Hôm đó tôi viết bằng nước cơm trắng nhách, viết trên giấy xi măng. Thường để đèn rọi xéo, thuộc tài liệu rồi viết liền. Tôi để đèn nhỏ vừa đủ chiếu theo dòng. Hôm đó đang viết, đứa con gái 6 tuổi tôi tưởng nó đã ngủ rồi bỗng chạy ra đứng sau lưng. “Bố chưa ngủ?” “À, bố viết báo”. Không ngờ sáng hôm sau nó khoe với anh trai: Bố viết mực gì mà không thấy chữ, đọc không ra”. Ông Ẩn như vẫn còn nhìn thấy cảnh ấy, đến tận hôm nay. “Lỡ nó đi chơi với bạn kể ra thì chết”. Ông bèn phải gọi con đến: “Không có chuyện đó đâu. Đèn chói mắt con không thấy. Tối bố làm lại con xem”. Tối đó, ông vặn đèn thật lớn chói mắt nó. “Con mơ ngủ không nhìn thấy. Coi chữ nè. Có chứ sao không?”

Kể chuyện đó, ông Ẩn cười vui với khách: “Ác vậy đó. Những chuyện không nghĩ nó xảy ra mà nó xảy. Thật may còn giải quyết êm được”.

Làm tình báo nhiều gian truân, bất ngờ, nhưng ông Ẩn gom lại: Cụ Hồ dạy tình báo viên phải cảnh giác với ba chữ T tức là Tiền, Tình và Tù. “Tình báo thì có ba chữ phải giữ: “Tiền, là dễ bị mua chuộc. Gái là mỹ nhân kế. Và tù. Điều này đe dọa mạng sống luôn luôn”. Nếu làm ở vị trí nghề này mà tham giàu cũng dễ lắm. Nhưng xài tiền trên mức thu nhập làm ra là một yếu tố dễ bị lộ. Ông Mai Hữu Xuân, chủ đồn điền lớn kêu cho ông đất ở Đường Sơn Quán, rồi bảo cơ hội thuận tiện mở công ty, qua Bộ Kinh tế. “Mình dính vô đó là mất thì giờ lắm. Phải chạy ngay, không để xảy ra”.

Còn về chuyện các cô gái, thì ông Ẩn vốn tự giễu mình là “Biết yêu từ lúc 14 tuổi. Ác lắm”. Đối với ông, không thể chịu được cảnh phụ nữ và con nít khóc. Ông thật sự là một người hiền. Vậy mà ngày ông còn trẻ, là chàng trai tuổi 33, có quen cô gái nhảy tên Thủy, đẹp nổi tiếng. Một hôm khuya khoắt cô đi đâu về nhấn chuông xin cho ngủ nhờ. “Được, vô đi không sao”. Chàng thanh niên cho cô vũ nữ ngủ chung phòng, mình thì rải chiếu nằm đất. Tờ mờ sáng anh chở cô đi Mỹ Tho theo lời cô nhờ. Có lần cô ham vui, đi theo Ẩn lên xa lộ bắt dế. “Xa lộ đèn sáng, cà cuống bay, đi bắt mấy thứ này vui, cô đòi đi theo”. Có lần cô còn đi Củ Chi, xách về truyền đơn Cộng sản đưa cho Ẩn “Việt Cộng họ chặn đường, tuyên truyền đưa cho đồ này”. Chạy dài là tốt nhất. Đó là “nguyên tắc” ông tránh những mối liên hệ có hại đến công việc.

Còn chuyện phải lo sợ việc tù đày có thể đến bất cứ lúc nào. Những chuyện không ngờ này đều có thể xảy đến bất kỳ cho một tình báo viên nào. Ông Allen Dulles, cựu giám đốc CIA, gọi là mishap (tạm dịch = việc không may). “Phải chuẩn bị sẵn chuyện này. Rủi bị bắt, thì phải coi là chết. Dặn ở nhà: nếu thấy bị bắt mà chết thì nên mừng. Nếu có thơ tôi viết về phải trả lời thế này với bọn đem thơ về: Nếu ổng theo Việt Cộng thì chết ổng ráng chịu. Thăm nuôi cũng không. Có chết cũng không nhận chôn. Thơ đó chắc sẽ có chữ ký thiệt, chữ tôi viết thiệt. Nhưng không có dấu kín đáo để biết theo quy ước riêng thì phải hiểu thơ đó nó đọc cho viết, không được tin cậy. Phải giao hẹn trước với gia đình ký hiệu riêng để biết thơ nào đúng, thơ nào bị khống chế phải viết”.

Lời kể của ông khiến người nghe muốn ngộp thở. Cuộc đời luôn phải chuẩn bị cõi sống, chết như thế thật không còn lời bình. “Do hoạt động của mình hợp pháp gì cũng tới lúc bất hợp pháp. Bao nhiêu là tình huống có thể: đem tài liệu vô, xách tài liệu mật đụng xe là lộ… Bắt bớ tù đày là chuyện phải xảy ra. Hoạt động như cá trong rọ. Cá còn nhỏ có thể lọt lưới dễ dàng nhưng càng lớn lại càng dễ bị mắc lưới. Không bị bắt là chuyện hiếm có".

Những sức mạnh nào đã đem đến cho người tình báo sự chịu đựng? Ông Ẩn giải thích: “Làm tình báo lại càng quan trọng cái giá trị số một, là tư tưởng, lý tưởng. Chứ bị bắt buộc mà làm thì khó tin cậy. Cái lý tưởng nó đảm bảo. Loại tình báo làm vì lý tưởng này, thử là biết: bị bắt bớ, vẫn làm. Xác định rồi. Còn nhiều loại tình báo nữa, thế giới cũng có nhiều. Làm tình báo có nhiều động cơ theo trật tự sau: 1- Lý tưởng, 2- Tiền, 3- Phiêu lưu, 4- Âm mưu, 5- Bệnh tâm lý, 6- Bị khống chế và nhiều loại khác như muốn lật đổ chế độ, trả thù v.v… Nếu làm vì tiền, phải là tiền lớn. Còn loại nữa: làm vì danh vọng. Nếu làm cho tình báo Anh - Mỹ, nó sẽ giúp bằng cách cung cấp tin tức cho, đưa tên tuổi lên cao có cương vị cao trong xã hội. Có những phần tử đối lập chế độ, họ dùng để giành chính quyền mà không ai biết họ làm cho tình báo”.

Ông như có chút tổng kết: “Lịch sử tình báo mình hay. Mình là một trong những nước giỏi tình báo. Có khi một tin tức nào đó cả làng cả xã biết hết nhưng khi địch tìm hiểu thì dân lại bảo không biết gì hết. Rồi chính dân lại đi báo tin cho ta. Ngay với những âm mưu địch cài cấy trà trộn hiểm độc, người dân vẫn có cách. Đã có rất nhiều câu chuyện kể về các loại mật hiệu của dân báo cho ta biết. Dân không làm tình báo, nhưng từ cành cây, ngọn đèn, cách cho gà ăn người ta báo động cho mình biết”. Làm tình báo, lý tưởng là quan trọng, một mình mình tự kiểm soát. Người ta nói sự say mê, cuồng tín, ông cho là nói không đúng. “Tóm lại, phải có lý tưởng, mục đích. Khơi khơi hoặc mê cũng không được. Nhiều khi không thích cũng phải làm”.

Chính vì lý tưởng, và chỉ có lý tưởng mới chỉ huy được trái tim và tình cảm lãng mạn của con người vượt qua mọi thứ để hoàn thành nhiệm vụ. Cái mạng sống của người tình báo đã tự nguyện trao gửi, thì tiền bạc hay tù đày - những thứ dù khó vượt qua nhất họ cũng vượt được. Không biết bao nhiêu đồng chí và các anh chị em liên lạc, bảo vệ tình báo đã hy sinh vì lý tưởng. Tính đến ngày hôm nay vẫn chưa kể xiết được. Cũng vì lý do đó mà đã hai sáu năm qua kể từ ngày 30-4-1975 các cơ quan chinh sách của hai ngành tình báo và công an vẫn còn tồn tại để lo cho công tác này chớ chưa giải tán.
Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #34 vào lúc: 15 Tháng Tám, 2011, 01:01:02 am »

17

Lặn sâu vào lịch sử

Trong một bài viết của mình (ông Ẩn giờ đây rất ít viết gì trên báo chí, trừ công việc nghiên cứu), đã phác ra một bức tranh mang tính tổng kết. Không phải nhà viết sử, nhưng bài viết nhỏ ấy cho thấy ông đã bám sát theo cuộc chiến như thế nào. Đi theo ngòi bút tổng kết ngắn gọn của một tình báo chiến lược, chúng ta có thể lướt trên những mốc sự kiện lớn nhất của cuộc chiến...

Sau hiệp định Genève, Việt Nam tạm chia hai để chờ tổng tuyển cử, nhưng âm mưu của Hoa Kỳ đã làm cho con số 2 năm mà người đi tập kết cùng gia đình họ ở lại Miền Nam đau đáu mong chờ, đã thành 20 năm. Thắng lợi ấy cũng phải do chiến tranh giải phóng đem lại. Mỹ hất Pháp khỏi Miền Nam, thành lập chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm.

Cầu Hiền Lương, Quảng Trị, giới tuyến một thời khi Tổ quốc còn ngăn chia đôi bờ

Đó cũng chính là lúc nhân vật tình báo Phạm Xuân Ẩn vào sâu trong cuộc. Ông được đi cùng các sĩ quan tham mưu tham gia phái đoàn cố vấn Mỹ soạn thảo, tham mưu tổ chức 6 sư đoàn khinh quân đầu tiên trong chương trình xây dựng quân đội. Thời kỳ đấu tranh chính trị 1954 - 1959 bao đau thương, mất mát cho tới cuối 1959 Đảng ta quyết định phối hợp đấu tranh chính trị và quân sự. Chỉ sau đó 4 năm, chế độ Diệm sụp đổ, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam ra đời. Mỹ đã lựa chọn đưa quân vào trực tiếp làm chiến tranh.

Lịch sử chương này sẽ cho thấy các chi tiết: Đại tướng Maxwell D. Taylor cố vấn an ninh Tổng thống được cử làm đại sứ thay Henry Cabot Lodge năm 1964. Mọi chủ trương chính sách chiến lược đều do Hội đồng Tối cao (Mission Council) gồm 4 đại diện: Đại sứ, Đại tướng chỉ huy Quân sự MACV, giám đốc USAID về kinh tế, giám đốc USIS JUSPAO về chính trị. Chúng ta cũng thấy được sự thành công to lớn của cách mạng thể hiện trong ngành tình báo. Họ đã vào sâu được các nội dung quan trọng của cơ quan đầu não này. Phạm Xuân Ẩn chỉ là một ví dụ. Năm 1964 Mỹ đưa chiến hạm Maddox vào Hải Phòng khiêu khích làm cớ mở rộng chiến tranh ra Miền Bắc Việt Nam. Tại Miền Nam, quân ta thắng lớn tại Bình Giã, được coi như biến cố quân sự lớn đánh dấu giai đoạn 2 của quân ta vận động dã chiến sang giai đoạn 3 tấn công toàn diện về quân sự - chính trị. Chính phủ Hoa Kỳ quyết định triển khai đưa đủ mọi binh chủng vào Việt Nam.


Đài kỷ niệm Chiến thắng Bình Giả

Đại tướng Lục quân Hoa Kỳ William Childs Westmoreland (1914-2005), Tư lệnh Bộ chỉ huy Cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (Military Assistance Command Vietnam, MACV) từ năm 1964 đến năm 1968.

Trong hồi ký của tướng Westmoreland, viên Đại tướng đã đến Sài Gòn năm 1964 thay Harkins làm tư lệnh MACV về quân sự, một ứng viên được coi như “người hùng” của chiến tranh Việt Nam tương tự như tướng Dwight Eisenhower trong Đại chiến II và là nhân vật Đảng Cộng hòa đưa ra ứng cử Tổng thống vào cuối 1968. Chúng ta hãy đọc lại những dòng hồi tưởng của Đại tướng Westmoreland về những ngày này:

“Đầu tháng 5, một trung đoàn Việt Cộng, trung đoàn đầu tiên tấn công với lực lượng lớn như vậy kể từ trận Bình Giã trước đó 6 tháng, đã gây thiệt hại lớn ở Sông Bé, thị xã tỉnh Phước Long, dọc biên giới Campuchia, phía bắc Sài Gòn. Chỉ với sự chi viện tích cực của máy bay và tiếp viện một trung đoàn mới cứu được thị xã. Đến cuối tháng ở Ba Gia thuộc tỉnh Quảng Ngãi, một trung đoàn Việt Cộng hầu như đã tiêu diệt sạch một tiểu đoàn của Việt Nam trong một trận phục kích và sau đó đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn khác tìm cách tới ứng cứu, trong đó viên cố vấn Mỹ, đại úy O. Sulivan đã chiến đấu rất dũng cảm. Sức ép của cao nguyên Miền Trung nặng nề tới mức quân chính phủ đã phải bỏ nhiều quận lỵ.

Sau khi đánh tràn vào một quận ở Pleiku, Việt Cộng bắt đầu bao vây một trại lực lượng đặc biệt CIDG (Civilian Irregular Defence Group - Dân sự chiến đấu). Đó là trận đánh do lực lượng đặc biệt - Special Forces chỉ huy ở gần đó. Ngày 10-6 chiến sự lại nổ ra ở tỉnh Phước Long tại quận lỵ Đồng Xoài với một trận tấn công của các bộ phận thuộc hai trung đoàn Việt Cộng. Việt Cộng đã san bằng trại CIDG, lực lượng đặc biệt bên ngoài thị trấn, tiêu diệt đơn vị đầu tiên của một tiểu đoàn dự bị thuộc quân đội Việt Nam được chở đến bằng máy bay lên thẳng, và ngăn không cho số còn lại của tiểu đoàn đổ xuống. Hai tiểu đoàn cứu viện nữa đã bị đánh nặng nề trước khi Việt Cộng rút lui sau đó 2 ngày”.

Điểm qua một đoạn hồi ký của viên tướng tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam để thấy được không khí chiến tranh thật sự được nhìn nhận dưới mắt đối phương. Phạm Xuân Ẩn phân tích đó là giai đoạn cuộc chiến tranh toàn diện ác liệt với hơn nửa triệu quân Mỹ và chư hầu với kế hoạch 4 bước: 1965 đưa quân vào, 1966 triển khai quân; 1967 tấn công toàn Miền Nam, vào 1968: chiến thắng quyết định. Rồi cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 ta đánh ba đợt, vào cả các thành phố lớn, 64 mục tiêu lớn, 107 mục tiêu vừa và nhỏ, trong các mục tiêu có cả Dinh Độc lập và Đại sứ quán Mỹ. Tổng cộng chiến dịch Mậu Thân ta tiêu diệt 630.000 quân địch, phá hủy 13.000 xe, 3.400 máy bay, 1.000 tàu chiến; phá 15.000 đồn bốt và phá rã 1.200 ấp chiến lược. Tổng thống Mỹ Lyndon B.Johnson quyết định không ra ứng cử tiếp. Đại tướng Westmoreland bàn giao trở về Hoa Kỳ. Cuộc chiến tranh sang giai đoạn mới, ứng cử viên Đảng Cộng hòa Richard Nixon lên với chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh nhưng đến 1973 phải ký Hiệp định Paris, rút quân Mỹ. Đến 1975 chiến dịch đại thắng mùa Xuân, mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh đã giải phóng hoàn toàn Việt Nam.

Ngày nay, thiên sử vẻ vang ấy đã trở nên chói sáng và rõ ràng trước toàn nhân loại. Nhưng đối với người Mỹ, việc nghiên cứu và trả lời cho cuộc chiến này không hề dễ dàng, nếu không muốn nói nó vẫn là những chia rẽ nội bộ về nhận định. Như tác giả cuốn Sự nghiệp của một Tổng thống bị đổ vỡ - L.Johnson và Việt Nam, H.Y. Schandler viết:

“Những sự phân hóa và bất đồng ý kiến về việc Hoa Kỳ tham gia vào chiến tranh Việt Nam vẫn chưa phai mờ trong trí nhớ”.

Còn trên báo chí, cho đến đầu thế kỷ 21, khi chiến tranh qua đã 26 năm, đã bao nhiêu tài liệu, sách, phim ảnh được công bố, giờ đây người ta vẫn còn phải bàn cãi xem những báo cáo nói trên 100 ngàn cựu binh Mỹ tại Việt Nam đã tự tử khi trở về Mỹ là đúng, hay là 58 ngàn là đúng. Nhưng dù có là con số nào đi nữa thì một sự thật mang cái tên “Hội chứng Việt Nam” đã là căn bệnh kéo dài cho cả nước Mỹ.

Chẳng thế, mà chỉ riêng những cựu binh Mỹ trở lại Việt Nam, trung bình cứ mỗi tháng có một đoàn. Họ đến khắp nơi trên đất nước này, đầu tiên là về nơi họ đã tham chiến xưa kia, rồi làm cái việc lẽ ra phải làm từ trước khi họ đến lần đầu để đánh trận, là tìm hiểu về xứ sở, con người và nền văn hóa Việt Nam, những thứ mà bây giờ đang được nhắc đến như là những nguyên nhân của thắng lợi.
Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #35 vào lúc: 15 Tháng Tám, 2011, 01:28:56 am »

Một cựu binh Mỹ trở lại Charlie-one, một căn cứ pháo binh cũ của Mỹ - ngụy ngày trước thường nã đạn vào Việt Cộng ở khu phi quân sự, chính tại vùng đất này của Quảng Trị, đã diễn ra phần lớn các trận đánh ác liệt của cuộc chiến tranh từ năm 1965 đến 1975. Và vùng này đã được nhà báo Pháp của tờ Liberation mô tả như sau: “Một cánh rừng cây lúp xúp trải dài xa tít tắp, tận chân những quả đồi tròn như những chiếc bát úp màu đỏ quạch. Một làn mưa bụi và sương mù bao phủ những quả đồi trọc lốc cho đến nay vẫn không có cây mọc vì chất độc hóa học do máy bay Mỹ rải trong chiến tranh. Hai mươi nhăm năm sau cuộc chiến tranh, mảnh đất dưới chân đồi vẫn còn dày đặc bom mìn chưa nổ và cả những bộ xương người”.

Vẫn trong bài báo này, tác giả Philippe Grangereau nhắc tới số lính Mỹ còn mất tích đến nay sau nhiều tích cực tìm kiếm của hai nhà nước, chỉ còn 1.500 người thì số lính Việt Nam mất tích là 300 ngàn người. Vì thế khi đến vùng Quảng Trị, cựu binh Mỹ David Denman nói: “Khi những cựu chiến binh Mỹ đến đây, họ tưởng dân chúng sẽ đón tiếp họ bằng những viên đá. Nhưng họ đã được đón tiếp nồng nhiệt và khi ra đi họ vẫn còn ngạc nhiên và như bị thôi miên”. Còn Suel Jones, một lính Mỹ đã từng chiến đấu tại khu phi quân sự cũ vào năm 1968 nói: “Ngày tôi có thể nói chuyện với những Việt Cộng và gây được cảm tình của họ, là một ngày trọng đại trong đời tôi”…

Những chuyện như thế kể ra thì rất nhiều. Vẫn tác giả cuốn Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ - L. Johnson và Việt Nam cho rằng: “Tất cả các tư liệu lịch sử đều có những hạn chế, gò bó cố hữu của chúng. Người viết sử chẳng mấy khi gặp dịp nắm đủ tất cả các tin tức liên quan. Phần lớn những gì anh ta nắm được đều đã bị chiến tranh hoặc ảnh hưởng của thời gian làm sai lạc trầm trọng… Thực tế, một người từng tham dự các sự biến có thể cho thấy những hiểu biết tường tận có ích. Ngoài ra không có một tác phẩm soạn thảo nào có thể hình thành trong một đầu óc rỗng không, bởi người nào làm việc đó cũng có những ước đoán, hiểu biết và những chính kiến bắt nguồn từ những kinh nghiệm bản thân, văn hóa và thời đại của chính người ấy. Trên phương diện đó, mọi lịch sử chẳng qua chỉ là phản ánh thời đại lúc viết”.

Chỉ riêng ở Mỹ, tính tới năm 1971 đã có 10 quyền sách được viết về việc hình thành các quyết định của Mỹ sau Tết Mậu Thân. Sự chuyển hướng chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam luôn là kết quả của các cuộc tranh cãi nội bộ cao cấp nhất…

Công việc tổng kết cuộc chiến tranh không chỉ diễn ra khá đồ sộ ở phía Mỹ. Tại Việt Nam, nhiều bộ sử lớn về chiến tranh đã và đang tiến hành. Hồi ký của các tướng lĩnh là rất quan trọng bởi đời họ thấm đẫm các chi tiết của sự kiện lớn. Nhưng những người lính thường vẫn chưa có nhiều hồi ký và ghi chép vào cuộc. Ngay cả nhân vật của cuốn sách này, thiếu tướng Anh hùng Phạm Xuân Ẩn cũng không có chủ trương công bố tác phẩm nào về phía cá nhân. Đó là một sự khiêm tốn, một cách sống mang tính nguyên tắc cá nhân có thể đang được tôn trọng nhưng đồng thời cũng là một sự lãng phí xót xa vì những câu chuyện con người cụ thể, mang nhiều phần lịch sử sẽ bị đem đi âm thầm. Đằng sau bức tranh tổng quát nhất về các diễn biến của chiến tranh, sự vĩ đại của chiến công, vẫn còn tiềm ẩn câu chuyện đời của những người Việt Nam. Đó là nỗi khát khao của người viết cuốn sách nhỏ này, muốn như những chớp đèn flash chớp vội, vẽ chân dung tản mạn của một người anh hùng.

Ông có mặt ở nơi cần thiết nhất cho việc có tài liệu giá trị chiến lược loại tuyệt mật trong suốt các giai đoạn khác nhau của chiến tranh. Các kỹ thuật, chiến thuật mới của kẻ thù, các cuộc hành quân lớn, các trang bị của quân viễn chinh, các chiến dịch lớn, đều được chuyển đến Bộ chỉ huy của cách mạng, an toàn tuyệt đối tới ngày chiến thắng.

Chính sự an toàn này, nó cũng là một sự tuyệt mật lớn lao của kỳ tích cách mạng! Sự tuyệt mật này thách đố cả ngọn đèn flash muốn chớp lấy dù chỉ là phần nổi của chân dung con người. Còn bề chìm sâu với những vẻ đẹp dữ dội của các tình huống gay go ác liệt trong hoàn cảnh đặc biệt của ông, vẻ đẹp tinh thần của các chiến sĩ tình báo nữa… Có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được hết hình ảnh cụ thể những người tình báo chiến lược như ông. Tất cả những chuyển động hàng ngày, đòi hỏi sự phân tích, đeo bám của người tình báo. Giống như một sự đối chiếu tương ứng với diễn biến cuộc chiến tranh, chúng ta đã có nhiều bản tiểu sử cá nhân như của ông Ẩn. Nếu đem lý lịch của các cán bộ lão thành cách mạng ra khảo sát, chúng ta sẽ thấy như hồ sơ cá nhân người cách mạng Việt Nam, luôn tương quan với lịch sử. Họ luôn ở ngay trong lòng sự kiện.

1947 - hoạt động ở Sài Gòn.

1948 - xuống Mỹ Tho học tú tài.

1949 - bãi khóa, tham gia phong trào học sinh sinh viên.

1950 - đỉnh cao phong trào Trần Văn Ơn. 1951 - làm thư ký kế toán hãng xăng - rồi thư ký hải quan. Được giao nhiệm vụ tình báo chiến lược. 1

954 - đi lính Pháp, làm bí thư phòng chiến tranh tâm lý Bộ Tổng tham mưu.

1955 - Mỹ qua thay Pháp, ông làm sĩ quan liên lạc của phía Việt Nam trong cơ quan TRIM (3 bộ Tư lệnh nhập lại: Mỹ - Việt - Pháp) và tiếp theo là phái bộ huấn luyện quân sự Mỹ C.A.T.O (Combined Army Training Organization) cho đến đầu năm 1957. 1957 - đi học Đại học tại Mỹ.

1959 - về nước, làm việc ở Sở nghiên cứu chính trị - văn hóa - xã hội, biệt phái sang Việt Tấn xã đến cuối 1960.

1960 đến giữa 1964 - làm hãng Reuters.

1965 đến 1976 - làm cho Tuần báo Time; Ngoài ra đã từng làm cộng tác viên của hai nhật báo: The New York Herald Tribune, và The Christian Science Monitor.

Nhìn hồ sơ cá nhân tóm lược ấy, mới hiểu ông đã “lặn sâu” vào đầu não đối phương tới mức hệ thống như thế nào. Lặn sâu đến mức có hẳn một cuộc đời khác sau tất cả các kỹ nghệ điều tra tân kỳ của thời Mỹ cũng như thời Ngô Đình Diệm.

Vậy nên cũng dễ hiểu khi một tiểu thuyết gia, một nhà văn lớn của Việt Nam, ông Nguyễn Khải đã lấy nguyên mẫu đời ông Ẩn để viết hai cuốn tiểu thuyết. Đó là sau khi đã ngạc nhiên thấy ông mặc quân phục cấp tá trong Đại hội Đảng lần thứ Tư. Trước đó, nhà văn cứ tưởng ông chỉ là một viên sĩ quan ngụy bị “kẹt lại” không di tản kịp.

Tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải (Nhà xuất bản Tác phẩm mới xuất bản năm 1984), tác giả viết dựa trên hình mẫu cuộc đời Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn.

Nhà văn Nguyễn Khải (1930-2008)
« Sửa lần cuối: 15 Tháng Tám, 2011, 02:09:41 am gửi bởi Bộ đội Cụ Hồ » Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #36 vào lúc: 15 Tháng Tám, 2011, 12:42:14 pm »

18

Trong thời khắc lịch sử

Nhưng dù có “lặn sâu” bao nhiêu, ít ra chúng ta cũng phải được biết nhân vật của mình ở đâu, làm gì trong thời khắc mà ai cũng nhắc đến khi nói về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước: Tết Mậu Thân 1968 và ngày 30-4-1975 lịch sử.

H.Y.Schandler viết: “Trận tấn công Tết năm 1968 là một trong những biến cố quan trọng của chiến tranh Việt Nam, là một đỉnh cao của hoạt động quân sự và có thể nói là trận đánh duy nhất người ta nhớ đời. Sự kiện ấy đã được nhiều người xem là một khúc quanh lịch sử làm Hoa Kỳ phải lao vào một đường lối hoạt động mới tại Việt Nam, đã đưa đến việc chấm dứt sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ, đã thay đổi triệt để khung cảnh chính trị nội bộ của nước Mỹ và mở màn cho việc rút quân khỏi Việt Nam. Nhưng quyết định đưa ra trong tháng 3-1968 dính líu đến không chỉ thuần túy chiến lược quân sự mà cả dư luận quần chúng và của Quốc hội, đến tính chất và kỹ thuật thu thập tin tức, đến tâm lý của cả nước, đến cá tính của các nhân vật trong nội bộ làm quyết định cả vòng trong vòng ngoài các giới cao cấp nhất trong chính quyền… Các quyết định trong tháng 3-1968 đã thật sự trở thành một giai đoạn đầy mâu thuẫn trong lịch sử hiện đại”.

Trong cuốn hồi ký của Tổng thống Lyndon B. Johnson Vị trí ưu thế (The Vantage Point) ông có cả một chương về Tết Mậu Thân đặc biệt đầy đủ và chi tiết. Trong tài liệu của Lầu Năm Góc cũng đề cập cuộc tấn công Tết. Nó còn có trong các cuốn Lịch sử Bộ tư lệnh (Command History 1968) và các văn khố của trung tâm quân sự quân đội Hoa Kỳ, trong tài liệu thư viện Tổng thống chưa được giải mật cho các nhà nghiên cứu vì còn phải chờ sắp xếp các thủ tục giải mật. Đó là chưa kể các luận văn trường đại học và sách báo khắp nơi trên thế giới.

Phạm Xuân Ẩn đạp xích lô chở tiến sĩ Hildreth ở California (Ảnh do gia đình cung cấp)

Có một câu hỏi đặt ra là: Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân có thật sự bất ngờ với địch không? CIA có biết tin tức không? Câu hỏi này được đặt ra với ông Ẩn.

“Mỹ biết là sẽ có đánh nhưng không ngờ thời điểm chính xác. Nhưng họ đã đánh giá sai mục tiêu tấn công chính và mức độ. Họ cho là đánh thành phố chỉ là nghi binh, còn mặt trận chính là Khe Sanh. Chính Mác-vi (Macv) nhận định như vậy. Khi đó tôi có được tin từ các nhân vật cao cấp cho hay là Việt Cộng sẽ đánh vào thành phố, nhưng họ vẫn cho là đánh nghi binh cho Khe Sanh, cho nên dù có tin tức họ vẫn bất ngờ. Ngay khi xảy ra rồi, vẫn còn tưởng…”

Ông nhớ lại các phân tích quân sự, đã là các nghiên cứu của ông cách nay mấy chục năm: “Trước đó họ thấy ta pháo kích, tập trung quân ở Khe Sanh. Rạng mùng 1 Tết ta tấn công Miền Trung, Huế - Nha Trang, ở Khe Sanh cũng đánh mạnh. Đêm 30 rạng mùng 1: Miền Trung, đêm mùng 1 rạng mung 2 Miền Nam. Vậy là lúc xảy ra rồi, tôi điện thoại hỏi nguồn tin ở Macv thì ông ta vẫn nói Khe Sanh mới là chính”.

Các tài liệu khác sau này cho thấy thông tin này của ông Ẩn là chính xác. Người Mỹ cho rằng những điểm giống nhau về địa lý và quy luật hoạt động của đối phương khiến Khe Sanh giống Điện Biên Phủ. Điều này thu hút sự chú ý của cả dân chúng lẫn báo giới Hoa Kỳ. Thậm chí Tổng thống đã cho lập một sa bàn khu vực chiến trường ngay trong phòng tình hình của Nhà Trắng để nghiên cứu rất kỹ. Nhưng tướng Westmoreland vẫn tin chắc quân Cộng sản sẽ dồn lực lượng chính vào hai tỉnh phía Bắc của Vùng 1 chiến thuật. Quân đội cũng di chuyển theo nhận định đó: Lữ đoàn lính thủy đánh bộ Nam Hàn từ phía Nam đã chuyển ra vùng Đà Nẵng để thay thế cho lính thủy đánh bộ Mỹ để họ có thể chuyển về phía Bắc nếu có nhu cầu.

Sau này, trong hồi ký, Westmoreland cay đắng cho rằng các tin tức đã có, nhưng rất mập mờ. Thậm chí chính ông đánh giá trước Hội đồng phái bộ Mỹ rằng khả năng 40-60% “địch” sẽ ngừng bắn và đánh sau Tết. Sau này nhìn lại, ông cho rằng một số nhà báo cũng đã đưa dự báo - Oberdorfer đã viết trên Washington Post và Miami Herald, nhưng, “Thế nhưng ai sẽ chịu nghe những lời đó?” Westmoreland viết như kêu lên trong hồi ký “Làm thế nào báo động cho mọi người biết khi mà báo chí, Quốc hội và Nhà Trắng đang lo chuyện Khe Sanh và tác động Miền Bắc chịu thương lượng do việc tạm ngừng ném bom”. Và mãi sau này trong các tác phẩm nghiên cứu, tác giả H.Y. Chandler viết: “Không mấy người Mỹ biết rõ rằng chiến công nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam là trận đánh hào hùng của Nguyễn Huệ (Quang Trung) bất thần tấn công vào quân Thanh chiếm đóng Thăng Long Tết năm 1789”.

Những bất ngờ còn ẩn chứa trong các sinh hoạt đặc biệt của dân tộc này. Chính Westmoreland miêu tả trong hồi ký của mình về Tết của Việt Nam: “Người Mỹ không có cái lễ nào giống dù là giống một cách xa xôi với cái Tết Việt Nam bắt đầu từ ngày đầu năm âm lịch. Dù so sánh nó với lễ Noel, lễ Tạ ơn và ngày 4-7 cũng không đủ để nói lên tầm quan trọng mà người Việt Nam gắn bó cái Tết của họ. Trước Tết hàng mấy tuần lễ, các bà nội trợ Việt Nam đã gói bánh chưng bằng nếp dẻo bên trong những chiếc lá dong mùi rất thơm. Người ta bày bán chè, bánh kẹo, rượu, nếp, mua sắm quần áo mới, trang hoàng nhà ở bằng các thứ hoa. Người thân chuẩn bị về quê làm lễ cúng ông bà, tổ tiên. Trẻ em mường tượng sẽ được mừng tuổi bằng kẹo bánh và giấy bạc 5 đồng. Không có gì, thậm chí cả một cuộc chiến tranh để sống còn, lại có thể cản được lễ Tết”. Chính ông Westmoreland lo ngại: trong số người đi lại như nước ấy, Việt Cộng trà trộn làm sao biết được. Các tài liệu sau này cho biết: ít ra tới nửa quân số của Quân đội Cộng hòa bỏ về quê ăn Tết và chính Tổng thống Miền Nam Nguyễn Văn Thiệu cũng về quê vợ ăn tết ở Mỹ Tho.

Nói lại chuyện chiến sự với người Anh hùng tình báo Phạm Xuân Ẩn hôm nay, ông vẫn nhớ lại các chi tiết buồn cười: “Phải rồi. Dân vẫn đi. Ngay lúc bắt đầu tấn công, dân vẫn đốt pháo. Pháo đốt cả đêm. Súng với pháo nhập nhằng với nhau. Quân đội bị cấm trại 100% nên mới có bài hát “100% em ơi” không đi với đào được”.

Lúc đó ông làm gì?  

“Ngay từ hồi năm 1966 quân Mỹ ồ ạt qua, tôi cũng có ý nghĩ nên phản công. Vào trong mật khu họp hành, tôi cũng có nói ý này. Nhưng lúc đó lãnh đạo nói nên coi cách nó sao đã, nghĩa là phải nắm chắc đường lối của địch. Trước khi tiến hành chiến dịch, tôi cũng được biết trước 3 tháng để chuẩn bị nghiên cứu các mặt chiến lược. Công việc của tình báo chiến lược là vậy: nghiên cứu các mặt quân sự - chính trị - xã hội - kinh tế, xem các yếu tố này và sự phòng thủ của địch thế nào. Vì khá gần gũi và am hiểu phía địch, biết đánh vô thời điểm nào là tốt. Tôi cũng ủng hộ phương án đánh vào dịp Tết, bất ngờ”. Lãnh đạo, đã lệnh cho ông thời gian đó phải ở Sài Gòn nắm tin tức, không được đi đâu xa vắng mặt.

Ông phải có hoạt động cụ thể, hay lúc đó vẫn phải nằm im để khỏi bị lộ? “Tôi phải sống bình thường với công việc nhà báo. Lúc đó tôi làm một lúc cho hai tờ, phải viết tin tức chiến sự, máy chạy liền liền”. Có lẽ đời làm báo với tin tức nóng bỏng và tiếp xúc trực tiếp với các đầu nguồn tin, ông đã được ở một thế quan sát tổng quát cả chiến dịch. “Tôi thường kêu điện thoại sang các nguồn tin quen thuộc ở phòng Hành quân, Tổng tham mưu, Nha Cảnh sát. Đánh đâu, biết liền”.

Trong lúc quân ta tiến đánh thành phố, Chợ Cũ đóng cửa do lệnh giới nghiêm, ông Ẩn cùng với các quan chức ngụy rủ bạn bè đi vòng vòng. Đại tá Nguyễn Bé mời ông đi ăn cơm cùng với Vượng người bạn thân và một cố vấn Mỹ đeo hàm trung tá, nói tiếng Việt giọng Huế. Họ quan sát tình hình, thảo luận thời cuộc và kéo nhau đi ăn. Họ phải gọi cửa, chủ tiệm mới mở cho vào. Vừa ăn, vừa nghe đài, theo sát chiến sự, đánh đến đâu, quân ta vào đến Hàng Xanh, đánh đến Bộ Tổng tham mưu… Khi quân ta tiến công đợt 2, ông cũng ngồi với viên đại tá Thanh Tùng, một trong những sĩ quan chỉ huy chiến dịch phía quân ngụy, theo dõi và viết tin tức theo từng bước tiến quân, làm chiến lược, tổng hợp và báo cáo ra cho chiến khu tình hình địch phản kích như thế nào. Với tư cách nhà báo chuyên về tin tức chiến sự, ông đã được chứng kiến, theo dõi nhịp độ của các trận đánh.

Ông kể lại: “Quân ta vô ban đêm. Một tổ đề kháng của địch gần Dinh Độc Lập, chỗ Thủ Khoa Huân - Nguyễn Du bây giờ, thành ra quân ta bị kẹt ở đó. Có một tiểu đội ngầm ở phía dưới Gia Định, máy bay nó bắn xả xuống. Anh em gan dạ, chết thôi chứ không lên hàng. Tin tức về nhóm anh Tư Hùng đánh Tòa Đại sứ rất dũng cảm. Họ leo qua phía sau Tòa Đại sứ để vào bên trong, gặp phải một tay súng giỏi của nó nằm phục. Ta súng AK phải nhô lên. Nó nằm, phục bắn anh em. Đó là tên đại tá, đại tá George Jacobson có vợ Việt Nam, ở phía sau Tòa Đại sứ. Chúng điều động tụi bảo vệ bên trong. Anh em hy sinh hết, chỉ còn một chiến sĩ ta bị thương, bị bắt, rồi được trao trả nhưng sau này anh bị tai nạn giao thông chết. Tụi nhà báo Mỹ sang đây kiếm anh hoài không được”.

Ông cũng kể về các nhân vật chỉ huy của quân ta rất dũng cảm như ông Tư Cang, cụm trưởng tình báo chiến lược và sau đó là chính ủy Sư 316, hoặc ông Bảy Vĩnh cũng là một chỉ huy giỏi của quân ta. “Ông Tư Cang cụm trưởng tình báo chiến lược và sau đó là Tham mưu trưởng Sư 316, biết rất nhiều chi tiết của chiến dịch. Đợt 2 cũng ông. Mãi đợt 3 sợ lộ, trên mới rút ông ra”. Ông Ẩn cũng còn chứng kiến cảnh thẩm vấn kẻ đầu hàng.
« Sửa lần cuối: 15 Tháng Tám, 2011, 01:44:21 pm gửi bởi Bộ đội Cụ Hồ » Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #37 vào lúc: 15 Tháng Tám, 2011, 12:51:00 pm »

Từ trước khi chiến dịch xảy ra, ông có nhiệm vụ đưa một người quân báo của ta vào nội thành để quan sát mọi mặt. Dưới vẻ ngoài, họ là bà con, bè bạn, đi xem phim, đi chơi các phố xá.  

“Tôi dẫn vào xem các hãng phim Mỹ cho coi các cuộc hành quân của Mỹ, để ông biết đại đội nó đi sao, cỡ tiểu đoàn nó đi sao. Nhờ chỗ tôi thân quen nên coi được những phim tư liệu đó. Chúng tôi tìm hiểu được cả kế hoạch bảo vệ thành phố, tâm lý dân chúng, các mặt binh vận, dân vận. Đó là việc của ông. Tôi thì phải sống bình thường, vẫn đi làm việc. Chỉ có khác là đêm xuống, công việc vãn, tôi quan sát các chuyển động của địch như xe cộ nó chạy, chuyển quân. Tôi thường lái chiếc xe quen thuộc của tôi, trên có con bécgiê, đi vòng vòng quan sát thành phố”. Ông đã dẫn cả người quân báo “đi xem” Sở Thú. Họ coi dò máy, lái phía sau nổ điếc tai. Đi hóng mát chơi bằng đò nhỏ như vậy ông mới có thể chỉ cho người quân báo thuộc trong lòng một cái “bản đồ”. Chỉ huy nó nằm ở đâu. Quân ta sẽ vô hướng nào. Bảo vệ của nó có mấy lớp, cái nào tại chỗ, cái nào di động. Đi đường thế nào…

Ông cũng không quên những chi tiết vui của cuộc đi quan sát ấy. Người quân báo ở vùng giải phóng ra, cứ yên trí là khi nào tấn công vào thành phố, sẽ phải lấy tiền ra cho cách mạng. Ông chăm bẵm nghiên cứu kho bạc. Ông Ẩn kêu lên: “Ở đó kho bạc nhưng không có nhiều tiền đâu. Trời ơi ở đó nó chỉ phát lương thôi. Tiền nó lấy ở Ngân hàng Quốc gia. Tôi dẫn ông vô chỗ mấy đàn em của tôi ở kho bạc, giải thích cho ông tiền bạc chi sao… Mà muốn lấy tiền làm quỹ cho cách mạng, sao không nghĩ tới tòa án. Ở đó mới lắm tiền, lắm vòng vàng, vật chứng của những vụ ăn cướp, buôn lậu đang chờ xét xử”.

Người quân báo còn được anh bạn Ẩn dặn là khi tấn công vào kho bạc hoặc ngân hàng, nhớ đem theo mỏ hàn. “Nhưng đó là việc của ổng. Làm những việc đó không phải nhiệm vụ tôi”. Ông Ẩn kết thúc những chi tiết hiếm hoi của cuộc chuẩn bị cho chiến dịch. Phần việc của ông là thu thập và phân tích chiến lược.

Hai vợ chồng ông Phạm Xuân Ẩn (ngồi giữa), bên cạnh là ông Mai Chí Thọ, phía bên trái là hai chị em bà Tám Thảo. (Ảnh do bà Thảo cung cấp
Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #38 vào lúc: 15 Tháng Tám, 2011, 01:08:00 pm »

19

Tình bạn trong phút cuối

Không ai làm được những cuộc phỏng vấn cụ thể mỗi người Việt Nam, chung một câu hỏi: Ngày 30-4-1975 đang làm gì, ở đâu? Câu trả lời sẽ là phần thịt da toàn vẹn hiện lên đắp đủ cho phần xương - là những sự kiện lịch sử được khái quát. Bức tranh chỉ có thể toàn vẹn khi hiện rõ lên các số phận con người trước cơn bão táp lớn nhất đem lại ngày toàn thắng cho cả một dân tộc thoát cảnh nô lệ.

Nếu chỉ là các số, thì ngày nay người ta có thể biết một cách rộng rãi bước đi cuối cùng của chiến thắng đã diễn ra như thế nào! Ngày 6-1-1975 quân ta giải phóng Phước Long; ngày 1-3 mở chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, đánh chiếm Buôn Mê Thuột, tiểu khu Daklak. Địch hoảng hốt rút bỏ Pleiku, Kontum, Quảng Trị, Huế, đưa lực lượng về cố thủ ở ven biển Miền Trung và bảo vệ Sài Gòn. Quân ta truy kích suốt ngày đêm. Ngày 17-3 Pleiku, Kontum giải phóng. 25-3 toàn bộ Tây Nguyên đã thuộc về cách mạng. 19-3 Quảng Trị, tuần cuối tháng 3 là Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và 29-3 Đà Nẵng giải phóng, từ ngày 1 đến ngày 4 tháng tư 5 tỉnh nữa: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Tuyên Đức được giải phóng. Sau một tháng, quân ta giải phóng toàn bộ Tây Nguyên và duyên hải Miền Trung.

Ngày 26-4 cuộc tổng công kích đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định bắt đầu. Quân ta từ 5 hướng tiến công, làm tan rã các sư đoàn ngụy. Sư đoàn trưởng Sư 5 và 7 tự sát. Hàng loạt sĩ quan, nhân viên chính quyền ngụy kéo nhau chạy ra nước ngoài. Ngày 30-4 quân ta tấn công vào nội thành Sài Gòn và hình ảnh chính quyền ngụy đầu hàng và chiếc xe tăng quân Giải phóng húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập, lá cờ cách mạng được cắm trên nóc dinh, đã là những hình ảnh tiêu biểu nhất trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam.

Sự kiện lịch sử có tính “thống kê niên giám” ấy đã và vẫn đang được các nhà văn, nhà nghiên cứu của Việt Nam và thế giới tiếp tục nghiên cứu, bởi tìm ra những tư liệu mới  mãi chưa thôi. Riêng những ngày này, đã được Frank Snepp, chuyên viên phân tích chiến lược của CIA viết hẳn cuốn sách Cuộc tháo chạy tán loạn (The decent Interval) đưa ra phần nào hình ảnh của những ngày cuối cùng này. Frank Snepp có điều kiện chứng kiến từng chi tiết, diễn biến. Từ cách phản ứng thảm hại của các viên tướng ngụy thua trận bỏ mặc quân lính tan rã, rồi lên máy bay ra tàu USS Midway trên biển Đông để tháo chạy, cho tới cảnh Tổng thống Dương Văn Minh buồn rầu bắt tay lần cuối tham mưu trưởng Hải quân. Tại Nhà Trắng ở Hoa Thịnh Đốn, cũng theo sự miêu tả của Snepp, “Tổng thống Ford mệt mỏi căng thẳng sau một ngày dài lo nghĩ, đã lên giường nằm. Ông sắp uống như thường lệ, một ly bia bơ nóng ở trên bàn. Dưới nhà, Kissinger tiếp tục đọc tin mặt trận. Theo báo cáo mới nhất của chỗ Tướng Smith thì quân đội Sài Gòn đã sụp đổ và bộ chỉ huy không còn”. Quân chính phủ rút lui “như đàn cua trước nước lên” (chữ dùng của Snepp) và cảnh hoảng hốt tán loạn một cách khá chi tiết khi ra đi của các nhân vật như tướng Timmes, Polgar (chủ nhiệm Sở CIA ở Việt Nam), Martin (đại sứ Mỹ) và rất nhiều nhà báo nước ngoài cố gắng hành nghề đến giây phút cuối.

Trực thăng Mỹ đưa những người Mỹ và những người thuộc chế độ cũ rời khỏi Việt Nam năm 1975

Cho mãi đến những năm sau này, báo chí Mỹ và các nước cố gắng tái hiện lại càng chi tiết càng tốt những gì xảy ra ngày hôm đó, một thời khắc hiếm hoi của lịch sử thế giới. “Đó là 4 giờ chiều của Washington, Brent Snowcroft cắt ngang cuộc họp ở Nhà Trắng để trao cho Tổng thống Ford một tờ giấy vừa nhận tin. Đó là giờ phút bắt đầu chiến dịch “Gió lớn” (Operation Frequent Wind) tên gọi của chiến dịch di tản khỏi Sài Gòn”. Vào giờ đó, đài phát thanh Sài Gòn phát bản nhạc hiệu đã quy định như mật hiệu rút lui, bản “White Christmas” báo hiệu cho người Mỹ. Các nhà báo mô tả lại giây phút phải chặt bỏ cả cây me trong Tòa Đại sứ Mỹ để cho máy bay lên thẳng có thể đổ xuống. Hàng ngàn người Việt Nam hoảng sợ la hét trước bức tường Tòa Đại sứ. Chính Snepp và các nhân viên sứ quán phải kéo những người bạn quen của họ qua bức tường để vào bên trong và đạp những người không quen xuống đất bên ngoài. Những cảnh chen lấn hoảng sợ leo lên máy bay lên thẳng ở mái nhà Tòa Đại sứ và mái nhà của cơ quan CIA đường Gia Long đã trở thành biểu tượng của Sài Gòn sụp đổ.

Tuần báo Newsweek đã miêu tả câu chuyện của ông Ẩn trong ngày 30-4 như là một chi tiết, một cận cảnh của bức tranh ấy. Đó là việc ông Ẩn đã “cứu” Trần Kim Tuyến đi di tản chuyến cuối tháo chạy khỏi Việt Nam trong một hoàn cảnh tưởng đã tuyệt vọng!

Tờ Newsweek cho rằng: “Tuyến sẽ bị giết chết nếu ông ta còn ở lại Sài Gòn”. Khi ông Tuyến gọi điện cho Sứ quán Mỹ hôm đó, tìm sự giúp đỡ của CIA đưa ông đi thoát, ông được trả lời là cơ quan CIA đã rời đi hết. Quá hoảng sợ lo cho tính mạng, ông quay lại tìm người bạn thân Phạm Xuân Ẩn, người được đánh giá là có nhiều mối quan hệ rộng vào bậc nhất ở Sài Gòn. Sau này trong các cuộc phỏng vấn của các ký giả quay trở lại Sài Gòn đã giải phóng nhiều năm, ông Ẩn đã miêu tả lại vẻ mặt hãi hùng của ông Tuyến khi tìm ông trong phòng khách sạn dành cho các nhà báo Mỹ. Ông Ẩn vội vã lái xe đưa ông Tuyến đến Tòa Đại sứ Mỹ kiếm tìm cơ hội cuối cùng bất kỳ có được. Nhưng cảnh tượng thật hãi hùng: Tòa Đại sứ đông nghẹt những người cầu cứu hoảng loạn. Chiếc xe cũ Renault của ông Ẩn không sao len vào được. Gọi điện khắp các địa chỉ cần thiết khác trong thành phố, cuối cùng ông Ẩn liên lạc được với một nhà báo Mỹ có thể nhắn cho Tòa Đại sứ. Nhờ thế họ mới biết được còn chuyến di tản tại ngôi nhà của CIA đường Gia Long nơi đã “diễn ra” hình ảnh biểu tượng của Sài Gòn sụp đổ.

Ở tòa nhà này, họ cũng suýt nữa thì trượt chuyến đi. Cánh cửa thép của tòa nhà đã đóng lại khi chiếc xe Renault ông Ẩn chở bạn chạy tới. Người lính gác không mở cửa để tránh dòng người có thể ập vào. “Đề nghị cho gọi ông Polgar!” Ông Ẩn yêu cầu được gặp sếp CIA mà ông quen. Nếu gặp được Polgar, chắc chắn ông ta biết câu chuyện trầm trọng của ông Tuyến, sẽ giải quyết ngay. Nhưng người lính gác không chịu gọi. Vừa may lúc người vợ của anh lính gác đi mua đồ ăn đến. Cánh cửa hé ra cho bà ta vào, thế là ông Ẩn dùng một tay giữ chặt cửa, tay kia đẩy mạnh bạn mình vào lọt. Tờ Newsweek kết luận: Thế là, vị trùm cảnh sát mật vụ Sài Gòn đã được một điệp viên của Hà Nội cứu thoát, leo lên mái nhà để lên máy bay đi di tản.

Trong nhiều bài báo của các nhà báo thế giới khi trở lại Việt Nam tìm tòi mọi câu chuyện, người ta đều chú ý chi tiết này. Một điệp viên tình báo chiến lược đã cứu mạng viên chỉ huy mật vụ, người cộng tác lâu năm của CIA. Bài phỏng vấn của Morley Safer cũng không bỏ qua chi tiết này. “Chuyện gì xảy ra sau khi mọi người đi khỏi?” Ông Ẩn: “Bob Shaplen đưa tôi chìa khóa phòng của anh ta tại khách sạn Continental. Mấy phóng viên ngoại quốc khác cũng làm theo. Tôi trở về nhà đón mẹ tôi và dọn lên ở khách sạn. Tôi biết rằng ở đó có an ninh hơn. Mẹ tôi lúc đó cũng rất đau yếu nên tôi nghĩ có thể chăm sóc mẹ tôi dễ dàng hơn tại khách sạn. Tôi đoán vợ và các con tôi đã ra đi được trên một chuyến máy bay nào đó. Vì sao tôi ở lại? Ngoài việc chúng tôi đã đẩy hết người ngoại quốc ra khỏi xứ sở, giành độc lập, cần phải góp phần xây dựng lại Tổ quốc, thì còn lý do nữa là mẹ tôi đã quá già yếu, không thể đi được. Những điều này thật khó mà giải thích cho người ngoài cuộc hiểu được” Safer kết luận: “Ý thức bổn phận của một đứa con, chọn sự trung hiếu thay vì là Tự do”.

Về câu chuyện ông Ẩn cứu Trần Kim Tuyến, Safer viết: “Tuyến chắc chắn là mục tiêu trả thù đầu tiên của Việt Cộng. Với sự giúp sức của Mỹ, Tuyến đã tổ chức và chỉ huy mạng lưới tình báo đầu tiên của chính quyền Sài Gòn chống lại Cộng sản Miền Bắc. Trong tình hình hỗn mang của Sài Gòn sụp đổ, Tuyến bị lỡ hai chuyến bay do CIA tổ chức cho anh ta và gia đình. Vợ con ông ta thì đã tìm cách thoát đi qua ngả bạn bè ở Tòa Đại sứ Anh. Riêng Tuyến đến ngày cuối cùng không còn ai ngoài Phạm Xuân Ẩn để nhờ cậy. Ẩn đã đẩy Tuyến vào xe hơi của mình chạy vòng vòng trên một Sài Gòn đang sụp đổ để tới một cao ốc của Mỹ, vượt qua lính gác mở cánh cửa sắt đẩy Tuyến vào. Trong một bức ảnh ở ngày cuối cùng ấy, trong lố nhố khuôn mặt nhào tới chiếc trực thăng Mỹ trên nóc tòa cao ốc, có mặt Tuyến. Nhưng Ẩn đã không có mặt trong hình. Anh ta đã ở lại”.

Ngày 30-4 năm 2001, qua đi đã 26 năm, và dường như vị tướng già này vì lịch sử mà phải kể lại, chứ nó không còn là câu chuyện quan trọng nữa. Ông cho nó là chuyện cũ.

Phạm Xuân Ẩn gặp lại nhà báo Robert Shaplen - Ảnh do gia đình cung cấp

Vì sao ông Tuyến lại rơi vào cảnh đó, khi mà ông ta đứng đầu bảng số những người mà Mỹ phải đưa đi? “Ông ta là nhân vật thứ ba sau Diệm - Nhu. Làm Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị - văn hóa - xã hội, người Mỹ gọi là Sở Mật vụ. Trong suốt cuộc đời làm việc, quan hệ lấy tin tức, ông mến tôi. Sau đảo chính Diệm 1963, ông ta cũng bị bắt. Ông ta đi cùng máy bay với ký giả Stanley Karnow từ Hồng Kông về. Ổng bị bắt ngay trước mắt Stanley. Sau lúc ông ta bị bắt, tôi tới nhà thăm, bả đang mang bầu. Vì sao ông ta kẹt lại ngày 30-4 khi vợ con đi cả rồi? Vì ông này ghét Thiệu. Trước giải phóng một tháng, ngay sau khi Đà Nẵng thất thủ, Tuyến vẫn đang trong một âm mưu lật đổ Thiệu để lập chính phủ mới.

Tối 1-4 bác sĩ Trương Khuê Quang, giám đốc trường Quốc gia nghĩa tử, người trung gian của Tuyến đưa Tuyến đến gặp Trí Quang. Đêm mồng 3 rạng mồng 4 Thiệu bắt nhốt hết những phần tử âm mưu đảo chính. Thành ra mới có vụ cả dân biểu, nghị sĩ, nhà báo bị nhốt. Ông Tuyến hy vọng Thiệu đi sớm, sẽ thả đàn em của mình ra. Nhưng mãi khi ông Hương lên rồi vẫn thưa thả, 26 mới thả. Ông Tuyến yên trí CIA đưa mình đi”.
Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #39 vào lúc: 15 Tháng Tám, 2011, 01:39:37 pm »

Ngày 30-4 đó, câu chuyện của ông Ẩn làm rõ thêm hình ảnh cuối cùng: “Người cháu ông Tuyến, một viên thiếu tá chở ông đến bằng xe Hon-đa. Tôi giục nó về lo vợ con, để ông Tuyến lại. Tôi kêu Tòa Đại sứ. 5 cái telephone tất cả. Sự thể diễn ra như báo chí nói rồi. Tuyến đi chuyến cuối cùng của CIA cùng với ông Trần Văn Đôn. Ông Đôn trông cũng thảm, không lên được mấy chuyến trước. Con ông bảo “Ba! Ba! Đừng bỏ cuộc”. Cô bí thư tên là Hà Hiếu Lang, em đại tá Điệp. Sau cô bí thư của ông Polgar, chủ nhiệm CIA nhường 3 chỗ cho gia đình trung tướng Đôn. Người cuối cùng lên máy bay là ông Tuyến. Trong hình, cái người thấp bé là ổng. Chi tiết này sau tôi biết được do đọc báo trong bài người ta phỏng vấn tướng Đôn. Tấm hình cuối cùng đó của một phóng viên hãng UPI. Hãng được sử dụng 20 năm, mới gần đây tác giả mới lấy bản quyền”.

Safer viết: “Ẩn đã can đảm giúp cho Trần Kim Tuyến thoát khỏi Việt Nam. Tuyến là một trong những viên chức cao cấp nhất của CIA tại Việt Nam. Là một tay âm mưu bất trị làm việc cho Thiệu sau đó chống lại chính quyền Thiệu. Vào ngày cuối cùng của Sài Gòn Tuyến vẫn còn nỗ lực thương thuyết với Phật giáo để lập một chính quyền mới”.

Có lẽ những việc cứu kẻ thù này không chỉ diễn ra một lần. Ông đã từng cứu cả những người bạn Mỹ thoát chết trong các tình huống cực kỳ phức tạp của chiến tranh. Vì sao ông làm điều đó? Các nhà báo nước ngoài có phần cho rằng vì ông được đào tạo từ nhiều nền văn minh Pháp - Mỹ, hiểu và sống theo giá trị nhân văn, thoát ra khỏi quầng tối của sự cực đoan nên nhân cách cao quý đã giúp ông làm nên nhiều việc phi thường. Khi ông trả lời Henry Kamm “Những hoạt động của tôi hoàn toàn được chia ra những ngăn riêng biệt” là nói về sự tồn tại khác thường của ông ở cả hai phía. Những cái mâu thuẫn ấy thật không sao tả nổi. Nội làm một cái nghề lấy tin tức báo chí không thôi đã nghịch cảnh rồi. Làm báo, tìm mọi cách moi tin, để rồi đưa ra rộng rãi. Còn làm nhiệm vụ tình báo thì tìm mọi cách lấy được tin tình báo rồi, lại phải giấu biệt đi. Ông thường phải sống với nghịch cảnh đó.

Cái ngày 30-4 ấy hình như bây giờ mỗi khi nhớ lại, ông phát hiện thêm tình trạng của chính mình. Vợ con ông đã đi cả, còn một mình ông với mẹ già ở lại. Ông chưa nhận được chỉ thị gì mới. Đó cũng chính là lúc hỗn loạn, rất có thể một chàng lính trẻ Giải phóng nào đó không biết ông là đại tá trong quân đội Cách mạng, với cây AK47 trên tay thì chẳng có lời giải thích nào lọt tai anh ta. Và rất có thể “tụi nó sẽ giết tôi đồng thời nướng sống mấy con chó của tôi nữa”.

Ông Ẩn ít khi nói về nỗi sợ hãi, không phải ông cố tỏ ra can đảm, mà là cho rằng sợ hãi, lo âu trong đời người tình báo là tất yếu, luôn luôn. “Những lần ấy ông Tuyến làm tôi muốn đái ra máu”, vẫn cái giọng ôn hòa rất hài hước dân dã mà không lộ liễu, ông kể về cuộc cứu ông Tuyến nó gay go thế nào. Không chỉ là việc Tuyến cuống quýt leo lên được chuyến máy bay cuối cùng, mà trước đó nữa, suýt thì ông lâm vào cảnh rắc rối vì Tuyến. “Ông Tuyến đang lo mưu đảo chính. Đà Nẵng mất ngày 29-3, trong này Tuyến càng gấp gáp. Cái đêm cả đám 14, 15 đàn em của Tuyến và lối một chục tên của các tổ chức khác bị nhốt ấy thật đáng sợ. Tuyến rất có thể sẽ bị bắt vì đứng đầu. Tất cả những ai thân thuộc qua lại nhà Tuyến cũng sẽ bị bắt. Nếu có bắt tôi lúc này thì rất kẹt. Sau chiến thắng Ban Mê Thuột là biết địch sẽ di tản. Phải chuẩn bị chờ lệnh mới, mà mình bị bắt, bị thủ tiêu thì thật khủng khiếp. Suốt cả ngày tôi không ăn uống gì được. Tôi vào ngủ trong tòa báo, không dám ở nhà”.

Sau này ông mới biết được cái cảnh ông Tuyến nghe điện thoại vợ con đàn em lần lượt báo tin chồng họ bị bắt. Ông ta mặc đồ Tây sẵn sàng trong đêm để bỏ trốn. Ông Tuyến không bị bắt do có sự can thiệp của Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo. “Còn với tôi, có lẽ họ còn ngại đụng đến người của báo Time”.

Cho dù đã đọc chuyện 30-4 do báo chí viết, cũng như lời ông kể với bạn bè, tôi vẫn thấy ông còn là điều bí ẩn. Có nhiều chuyện tuyệt mật chưa được giải mật chẳng bao giờ ông kể đã đành, nhưng có nhiều điều bình thường ông cũng không kể ra. Nó thoảng qua trong câu chuyện khiến người tinh ý hiểu rằng phía sau còn nhiều chiến công thầm lặng. “Có những chuyến trước khi tôi đi, vợ chồng tôi phải xác định với nhau một là nó bắt, thủ tiêu thì tốt nhất. Hai là đáng sợ hơn nó bắt tra khảo, lộ ra tài liệu thì liên lụy nhiều người”. “Có lần nguy hiểm đến nỗi tay đưa ám hiệu, chân tôi vẫn run bần bật. Dù đã cố trấn tĩnh, nhưng phản xạ tự vệ của cơ thể khiến nó vẫn run lên trước tình thế quá nguy hiểm”.

Trong câu chuyện, ông rất ít trả lời vào những câu hỏi về người vợ mình. Bà đã thôi hẳn công việc của một nhân viên tiểu công nghệ để làm người nội trợ. “Để cho không có môi trường địch có thể đánh vào bên trong”. Ông giải thích sơ lược, vì nó động đến các vấn đề kỹ thuật của nghề tình báo. Dù luôn có ý thức cảnh giác đi nữa, càng ít mối quan hệ với bên ngoài càng tốt cho vợ ông. Bà không đi làm việc ra ngoài. Không có người ở giúp việc. Bà vẫn đi riêng kín đáo theo dõi từ xa mỗi khi chồng giao tài liệu cho giao liên. “Rủi có bị bắt thì bả báo cho cơ sở ta biết”. Mỗi khi ông đến nhà các nhân vật quan trọng, bà đi theo cốt kéo bà vợ hay nghe chuyện của ông chủ nhà ra một chỗ. Hai người vợ nói chuyện, để cho chồng bà nói chuyện với ông chủ nhà.

Từ ngày 23-4 vợ con ông đã được gửi sang Hoa Kỳ. Họ bay trên chuyến bay sơ tán thân nhân những người làm báo Time. Tòa báo muốn tránh cho khỏi vướng vào chiến trường có thể sẽ đẫm máu ở Sài Gòn. Sau này, họ đã trở về được.

Những chi tiết về người vợ chỉ xuất hiện rất ít. Henry Kamm cũng chỉ có được vài dòng sơ qua: “Chỉ có mẹ và vợ của ông Ẩn biết cuộc sống lưỡng diện đầy nguy hiểm của ông”.

Hình như vì nhiệm vụ Cách mạng và công việc khác thường của vị tướng, mà cả gia đình ông cũng sống phong cách Ẩn. Người ta chỉ thỉnh thoảng thấy bóng bà trong phòng khách, ít khi ngồi tiếp khách cùng chồng. Mọi lo toan, sự can đảm của bà êm thấm ở khu sau nhà, nơi mọi sinh hoạt hậu cần diễn ra với tiếng la chí chóe của đứa cháu nội nghịch ngợm nô giỡn. Còn về người mẹ của ông, không có hình ảnh gì nhiều ngoài vài chi tiết. Bà không đi Mỹ với con dâu và các cháu mà đến ở trong tòa báo với con. Qua câu chuyện của ông Ẩn, hình ảnh cuối cùng của người mẹ, cũng chỉ là hình ảnh của một đám ma im lặng.

“Bà già tôi mất ở chính ngôi nhà này. Làm đám ma mà hàng phố trước cửa không ai hay. Làm êm rơ, lúc đưa ra cửa, hàng phố mới biết. Có người nói nhà ông Ẩn cách mạng, làm đám ma nhanh quá, như mấy ông cán bộ. Tôi bảo họ: “Không phải, cách mạng người ta đàng hoàng, đâu như tôi, ông nội!”

Nói chuyện này ông Ẩn không nhìn ra xung quanh. Ông rót nước trà mời khách và cho biết ngôi nhà này sống đã bốn thế hệ, chết một còn ba…

Những người phụ nữ quan trọng nhất đời ông, mẹ và vợ chỉ xuất hiện rất ít trong câu chuyện. Nhưng vì thế lại càng gợi lên bao nhiêu mong muốn tìm hiểu về họ. Càng mong muốn càng gặp sự im lặng. Không phải ông cố giấu, hoặc khiêm tốn. Cũng có thể nhưng có một phần chắc là do lối sống kín đáo cả một đời. Phải chăng vẻ đẹp đó cũng mang chút gì như “bệnh nghề nghiệp?”.

Vị tướng đã yếu ớt do bệnh và tuổi cao. Dáng đi của ông hơi còng xuống, do cao gầy, hay là do thân thể ấy đã mang vác một cuộc đời quá phong phú và gian truân. Chỉ vẻ mặt, đôi mắt to đen thông minh và đôi tai to, người trong nghề nhạc gọi là đôi tai thẩm âm tốt, làm toát lên vẻ linh hoạt, trẻ trung của một trí tuệ vẫn mạnh mẽ.

Tướng Phạm Xuân Ẩn những năm cuối đời (ảnh AFP)


Ông ngồi giơ điếu thuốc, miêu tả cách gói tài liệu tài tình của những chị giao liên. Họ nhét vào bụng cá, để cho hôi rình. “Bọn lính mở ra khám là bố mày đưa trả ngay. Sao chịu được mùi khắm hôi rình”.

Khi giải thích cái từ kỹ thuật nghề nghiệp của người tình báo hoạt động độc lập và cô đơn mà thuật ngữ nghề nghiệp Anh - Mỹ gọi là “Lone Wolf” (chó sói cô đơn) ông lại có một thoáng cười hài hước tự trào của người già thông thái: Trong bầy sói thường có con sói đầu đàn dũng mãnh xông pha. Nhưng khi về già, nó không theo kịp bầy đàn nữa, mà thường tách ra khỏi đàn, đi một mình kiếm ăn cho qua đời.

Cái cười hài hước về thân phận người, không chua chát. Có vẻ gì đó ung dung của một người thông minh chấp nhận quy luật của thiên nhiên.

Có lẽ vì thế mà với những nhà báo phỏng vấn kỳ cựu nhất, tỏ ra hiểu con người nhất vẫn phải chịu cảm giác của Morley Safer: “Những giải thích của Ẩn không làm sáng sủa gì hơn mà lại càng khiến anh ta thêm bí ẩn. Bài toán đố càng trở thành khó hiểu. Ngồi cách tôi không xa trong vùng tranh tối tranh sáng nhìn qua làn kính dày, cặp mắt anh lớn ra một cách tức cười. Ẩn bước ra khỏi cứ điểm, nhưng liệu còn bao nhiêu lớp che giấu nữa và còn thêm những gì tự thú trong tình bạn bè?”

Đúng là cảm giác ấy. Đôi khi ông như bước ra “khỏi cứ điểm” của cuộc đời đầy bí ẩn rồi lại bước vào, bao nhiêu là sự kiện quý báu của lịch sử đã đi qua mà không muốn để lại điều gì về cá nhân mình.

Đây chính là sự bất lực của những ai ham muốn tái hiện cuộc đời ông bằng chữ nghĩa. Ông không cố ý làm họ đau đớn hay thất bại. Giúp ai được gì ông cố giúp, nhưng ông giữ lại cho mình lối sống tự nhiên, rất im ắng đi vào chiến công sáng chói của người anh hùng. Nay lại im ắng rút lui khỏi hào quang sáng chói của sự tôn vinh của xã hội khi mọi việc đã hoàn tất.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM