3j.
Trấn Định Tường
Đất trấn Định Tường khi mới được khai thác, dân ở đó bị phân ra lắm mối, bởi vì đất Nông Nại (<1><92>) quá rộng nên cần mộ dân đến ở. Trước hết là lập ra 2 huyện Phước Long (<2><93>) và Tân Bình (<3><94>), nhưng dân ở cũng chưa hết đất (<4><95>), đất ấy lại cách Biên Hòa và Phiên An hơi xa mà lại hiểm trở. Tình thế ấy chưa thể vội dùng pháp luật để ràng buộc được, cho nên phải tính toán bằng nhiều cách, bèn phải lập ra sổ biệt nạp, biệt đái gồm 9 khố trường là Qui An, Qui Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Gian Thảo, Hoàng Lạp, Tam Rạch, Bả Canh và Tân Thạnh, để cho dân tùy nghi khai hoang lập ấp cho ngày càng rộng ra. Nhưng ở những nơi ven rừng dựa biển, vùng hẻo lánh lẻ tẻ, cũng có <45b> người làm ăn nương lợi chốn núi rừng chằm ao mà không có ai quản lý. Do đó mà phải lập ra trang, trại, man (chỗ cư dân ở liền nhau gọi là man, nghĩa giống như cỏ mọc lan ra tiếp nhau vậy), nậu (nậu là bừa ruộng làm cỏ, tục gọi đám đông là nậu, ý nói họp đông người lại để làm ruộng) để tập hợp dân chúng và tùy vào nghề nghiệp từng người mà nạp thuế má cho có hệ thống, cốt sao để ruộng đồng được mở mang khai khẩn thêm rộng mà thôi. Như vậy tuy là có sự hỗn tạp ngổn ngang nhưng tất cả đều được quy tập thành đầu mối.
Ban đầu ở xứ Mỹ Tho lập ra đạo Trường Đồn rồi dùng chức thư ký để làm việc. Năm Kỷ Hợi (1779) đời Thế Tổ Cao hoàng đế thứ 2, lập địa đồ, vạch ra địa giới của Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ, Hà Tiên và bỏ 9 khố trường biệt nạp, trừ các hạt trước đây tùy thuộc vào các nha <46a> thì lấy số dân và số ruộng ấy làm thành huyện Kiến Khang, lập ra dinh Trường Đồn, đặt các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục để cai quản, lỵ sở đặt ở giồng Kiến Định (tục gọi chỗ đất bốn phía bằng phẳng mà ở giữa nổi lên cao gọi là giồng), lãnh 1 huyện, 3 tổng.
Tân Sửu (1781) năm thứ tư, đổi thành dinh Trấn Định rồi dời lỵ sở qua chợ Mỹ Tho ở thôn Mỹ Chánh. Tháng Giêng năm Mậu Thìn (1808) niên hiệu Gia Long thứ 7, đổi thành trấn Định Tường, lãnh 1 phủ, 3 huyện, 6 tổng. Đây là vùng đất phì nhiêu, đất nước liền bến nhau. Phía đông giáp biển, tây giáp nước Cao Miên, bắt đầu từ Vàm Dừa, Rạch Cỏ, Tuyên Oai, sông Bát Chiên, chuyển quanh qua hướng bắc đến sông Hưng Hòa (tục gọi là sông Vũng Gù, tại địa đầu hai huyện Kiến Hưng và Kiến Hòa), xuống sông Tra Giang, xuôi đông ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp) theo dãy Trường Giang, bờ nam của dãy sông là ranh giới của trấn Định Tường. Phía nam từ thủ sở Hùng Ngự (Hồng Ngự) đạo Tân Châu theo Tiền Giang qua bắc ngoặt qua đông, theo sông Hàm Luông <46b> rồi thẳng đến cửa biển Ba Lai; bờ bắc sông ấy là ranh giới của trấn này. Từ đông sang tây cách 430 dặm rưỡi, từ nam đến bắc cách 348 dặm, từ lỵ sở đến thành Gia Định xa 149 dặm rưỡi. Đây là vùng ao chằm chằng chịt hiểm yếu, sông nguồn thông suốt. Danh mục thay đổi của phủ, huyện, tổng, thôn, ấp kê như sau:
PHỦ KIẾN AN (Trước là huyện, nay nâng lên thành phủ)
Lãnh 3 huyện, 6 tổng, 314 thôn ấp.
HUYỆN KIẾN ĐĂNG (Trước là tổng nay đổi làm huyện)
Gồm 2 tổng, 87 thôn. Phía đông giáp Rạch Chanh, kinh mới Ba Lai thuộc tổng Kiến Xương, huyện Kiến Hưng; Tây giáp phủ Cầu Nôm của nước Cao Miên; Nam lấy sông Tiền Giang, qua cửa sông lớn Hiệp Ân, Cái Sao (có chỗ chép là Cái Tử), Cổ Lịch của trấn Vĩnh Thanh làm giới hạn; Bắc giáp trấn Phiên An, gối đầu với biên giới Cao Miên, vòng qua sông dài Bát Chiên và Bát Đông.
<47a> TỔNG KIẾN HÒA (<5><96>) (mới đặt)
Gồm 44 thôn. Phía đông giáp kinh mới Ba Lai và sông Chanh, tổng Kiến Xương, huyện Kiến Hưng; Tây giáp tổng Kiến Phong, lấy nhánh nhỏ sông Bát Chiên thẳng đến cửa sông Mỹ Lương (tục gọi là Cái Thia ở thôn Mỹ Lương); Nam giáp Tiền Giang, dọc theo sông lớn Mỹ Lương, Ba Lai; Bắc giáp sông Bát Chiên và Bát Đông.
• Thôn Kim Sơn. • Thôn Giao Long.
• Thôn Phú Phong. • Thôn Bình Chánh Trung.
• Thôn Bình Chánh Đông. • Thôn Bình Chánh.
• Thôn Mỹ Đông Chánh. • Thôn Mỹ Hòa.
• Thôn Mỹ Đông Trung. • Thôn Mỹ Đông.
• Thôn An Thủy Đông. • Thôn Long Phú.
• Thôn Phú Hòa An. • Thôn An Thủy Tây.
• Thôn Tân Sơn. • Thôn Long Điền (mới lập)
• Thôn Mỹ Quới. • Thôn Mỹ Ân.
• Thôn Trà Luật (Luộc). • Thôn Mỹ An.
• <47b>. Thôn Phú Long. • Thôn Mỹ Trang.
• Thôn Mỹ Tường. • Thôn Mỹ Trinh.
• Thôn Tân Hội. • Thôn Tân Hòa.
• Thôn Hòa Thuận. • Thôn Hữu Hòa Thanh Sơn.
• Thôn Hội Sơn. • Thôn Xuân Sơn.
• Thôn Cẩm Sơn. • Thôn Phú Thuận Đông.
• Thôn Bình Chánh Tây. • Thôn Phú An.
• Thôn Bình Phú. • Thôn Mỹ Hạnh Đông.
• Thôn Mỹ Hạnh Trung. • Thôn Mỹ Hạnh Tây.
• Thôn Phước An. • Thôn Phú Mỹ.
• Thôn Đông An. • Thôn An Mỹ.
• Thôn Bình Hiệp (mới lập) • Thôn Mỹ Hưng (mới lập)
TỔNG KIẾN PHONG (mới đặt)
Gồm 43 thôn. Phía đông giáp nhánh nhỏ của sông Bát Chiên, tổng Kiến Hòa, thẳng đến cửa sông Mỹ Lương; Tây giáp phủ Cầu Nôm của nước Cao Miên; Nam giáp các sông lớn Tiền Giang, Hiệp Ân <48a>, Cái Sao, Cổ Lịch; Bắc giáp đoạn chảy ngang của sông Bát Chiên tiếp với đất Cao Miên.
• Thôn Tân Đức. • Thôn Tân Hiệp.
• Thôn Tân Phú Sơn. • Thôn An Bình Đông.
• Thôn An Bình Tây. • Thôn An Thành.
• Thôn Mỹ Chánh. • Thôn Mỹ Thạnh.
• Thôn Hòa Mỹ. • Thôn Mỹ Đức Đông.
• Thôn Mỹ Đức Tây. • Thôn Mỹ Thiện (Thiện Mỹ). (<6><97>)