Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 04:37:01 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Gia Định Thành Thông Chí  (Đọc 41672 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #30 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:32:18 pm »

QUA CHÂU (<115><287>)

Tục gọi là cù lao Bí, ở phía tây sông Cường Thành, thuộc hạ lưu Hậu Giang. Trên giáp cù lao Châm Pha đồng thời làm ruộng vườn thôn An Hòa, dưới giáp cù lao Thủy Liễu (Cù lao Bần), đó là phía bờ tây Du Giang, hình thế xuyên xỏ tới lui <67b> như sao Tam Thai, thổ sản ở đây có dưa, bí, thuốc lá. Người dân chuyên dùng sức lực làm lụng mà ăn.

SA CHÂU (CÙ LAO CÁT (<116><288>))

Ở hạ lưu sông Cường Oai thuộc Hậu Giang, có thôn Tân Lộc ở đấy. Đường đi đầy lau lách, chim biển và cò quen dạn bóng người, đây là vùng hoang vắng.

HOẰNG TRẤN CHÂU (CÙ LAO HOẰNG TRẤN) (<117><289>)

Tục gọi là bãi Bà Lúa, lại có tên là cù lao Tân Din, dài 30 dặm, bề ngang bằng nửa bề dài, cách trấn về phía nam 130 dặm rưỡi. Nơi đây dòng sông ngoằn ngoèo hiệp nhau, gò đất cao rộng, vì bấy giờ có đề nghị cho rằng địa thế Hậu Giang rộng lớn, rừng chằm um tùm, vùng Ba Thắc, Cần Thơ, Trà Vinh có nhiều sóc của người Cao Miên mà lại cách xa dinh Long Hồ, nên cần đặt một trấn lớn để khống chế, vả lại cũng cần khai mộ dân nhằm khẩn ruộng đất nơi đây, nên vua Thế Tổ Cao hoàng đế vào năm thứ 2 (Kỷ Hợi - 1779) dời dinh Long Hồ đến đây, đổi tên là dinh Hoằng Trấn. Nguyên trước đây vua Cao Miên Nặc Ong Ton (<118><290>) (Neac Ang Ton) được triều đình ta lập nên làm vua nước phiên thuộc. Đến khi Tây Sơn vào cướp chiếm, 2 dinh Trấn Biên và Phiên Trấn từng bị quân giặc <68a> quấy nhiễu nhiều lần, trong nước không yên, Xiêm La thừa cơ hộ tống phản thần Cao Miên là Nặc Ong Non về đánh Cao Miên nhưng không thành. Sau Nặc Ong Ton nhường ngôi cho em là Nặc Ong Vinh (tục xưng vua Trị) làm Chính vương, còn Ton tự giáng làm Nhị vương, em thứ là Nặc Ong Thâm làm Tam vương. Khi ấy Nặc Ong Vinh từng trái mệnh nhiều lần nhưng triều đình ta chưa rỗi rảnh để hỏi tội ngay. Năm Đinh Dậu (1777), Nặc Ong Vinh mưu giết Nặc Ong Thâm và bức tử Nặc Ong Ton ( khi ấy Ton đang bệnh, nghe có biến, bực tức nên thổ huyết mà chết). Nặc Ong Vinh cai trị tàn bạo, nên mùa xuân năm Kỷ Hợi (1779), Chiêu trùy Mô, Đê đô Luyện và Ốc nha Liên Đồng Trùy (<119><291>) chiếm cứ phủ Phong Xoài để chống lại. Nặc Ong Vinh đem binh tới đánh nhau. Vị Bôn Sưu chiếm La Vách để tiếp ứng cho Chiêu trùy Mô. Vinh đem quân trở lại đánh Sưu rất gấp. Tháng 4, Sưu cấp báo với dinh Hoằng Trấn xin viện binh, nhưng đường sá xa xôi cách trở, đi lại chậm trễ, đến tháng 6 mới có lệnh sai Đông Sơn<68b> Thượng tướng Phương Quận công (<120><292>) tiến đánh, bắt giết Nặc Ong Vinh rồi lập con Nặc Ong Ton là Nặc Ong In (<121><293>) làm Quốc vương Cao Miên, lúc đó trong nước nầy mới yên. Năm thứ 3 Canh Tý (1780) chuẩn nghị rằng: dinh Hoằng Trấn ở vùng riêng lẻ hẻo lánh, nếu Cao Miên hữu sự thì rất khó tiếp ứng chế ngự, nên bỏ dinh mới mà đem về chỗ cũ Long Hồ, đến nay vẫn còn ở đấy. Còn đất ấy thì để cho dân ở. Bờ phía đông của cù lao có con sông, cũng gọi sông Tân Din, rộng 6 tầm, sâu 1 tầm, cùng nguồn, ở bờ phía tây đối diện với sông Cái Sách (<122><294>).

HUỲNH DUNG CHÂU

Tục gọi là cù lao Dung (<123><295>), ở phía tây hạ lưu Hậu Giang. Phía bắc từ sông Thong Đăng (Tham Đăng), phía nam đến sông Ngang Đô, dài 35 dặm, làm bình phong cho sông Ba Thắc. Nơi đây có nhiều dừa nước. Dân ở đây làm nghề bện lá dừa thành từng tấm đem bán. Cù lao nầy có nhiều cọp, nên còn có tên là cù lao Hổ. Có 2 thôn An Thạnh Nhứt, An Thạnh Nhì ở đấy.

---------------------------------------

Chú thích:

(<1><173>) Thoại Sơn: Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì núi này còn có tên là Toại Sơn. Trên núi có đền thờ Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại xây năm 1882.

(<2><174>) Nguyên văn Ba Thê viết là 葩梯. Ba có nghĩa là tinh hoa đẹp đẽ, thê (梯) là cái thang. Vậy Ba Thê có nghĩa núi cao vút đẹp đẽ như "cây thang huê dạng".

(<3><175>) Núi Tà Chiếu (斜照山). Tà Chiếu có nghĩa là "Bóng xế tà", chớ không phải nghĩa theo tiếng Khơ me là ông Chiếu (tà là ông). Trong PCGBC của Trương Vĩnh Ký lại chép là Tà Chiêu.

(<4><176>) Núi Khê Lạp (溪臘). Chữ 臘 này đọc là lạp. Vương Hồng Sển khi đọc PCGBC của Trương Vĩnh Ký đã ghi là Khê Lập theo ông Ký, có thể do lỗi morasse nên chép lạp thành lập. Theo di cảo của TVK thì núi này có tên cũ bằng tiếng Khơ me là Phnom crack Cơn Kan.

(<5><177>) Núi Chút Sơn (崪山). Chữ崪Nôm còn đọc là tụy. Nhóm dịch giả VSH đọc là thốt có lẽ nhầm lẫn vì chữ Nôm thốt phải viết là啐. Nhưng theo chỗ chúng tôi tâm đắc khi nghiên cứu cách viết chữ Nôm của cụ Trịnh Hoài Đức trong GĐTTC thì đây là chữ Tốt (卒) đọc là Chốt trong môn cờ Tướng, thêm山 bàng để chỉ thuộc tên núi mà thôi và đọc trại là chút. Vậy xin đọc là núi Chút. Trương Vĩnh Ký trong PCGBC cũng ghi là núi Chút.

(<6><178>) Núi Tà Biệt (斜別山) chữ Nôm 別 còn đọc là bẹt, bét, béc nhưng qua nội dung đoạn nói về núi này, tác giả có giải thích vì nó không đứng chung hệ, cùng dãy với các núi khác nên gọi là biệt. Vậy xin gọi là Tà Biệt. Di cảo của Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép tên núi này là Tà Béc.

(<7><179>) Núi Ba Xùi (波J山). Chữ J tra nhiều tự điển Nôm không thấy, chỉ có chữ吹 có thể đọc là xùi, xui, xuôi. Như chúng tôi phát hiện đây là chữ吹 thôi, còn thêm Sơn đầu là để chỉ núi theo cách viết của Trịnh Hoài Đức trong GĐTTC. Núi này trong PCGBC của Trương Vĩnh Ký đọc là núi Bà Xôi.

(<8><180>) Súc sa mật (縮砂蔤) gọi tắt là súc sa, thân cọng cao chừng một mét ngoài, lá nhỏ mà dài, trổ hoa lúc giao mùa xuân hạ. Trái có vỏ cứng màu vàng đỏ sậm, trong chứa chừng 10 hạt, ngoài màu dà (nâu đỏ), trong trắng, có hương vị cay như hạt bạch đậu khấu, tục gọi sa nhân.

(<9><181>) Núi Ất Giùm (M森山): Núi này nhiều người đọc là Ngất Sâm, Ngất Sum, Ngật Sum. Trương Vĩnh Ký trong di cảo ghi là Ất Giùm. Chữ M theo cách viết tên Nôm của núi sông, cây cối, chim muông trong GĐTTC, tức là chữ乙 (Ất), còn thêm bộ Sơn (山) trên đầu là để chỉ thuộc núi thôi. Vậy chữ này phải đọc ất (乙) chớ không thể đọc ngật. Chữ 森 đọc theo Hán là sum, sâm, nhưng đọc theo Nôm là giụm, hay giùm, viết đủ là N. Tuy nhiên trong PCGBC Trương Vĩnh Ký lại chép tên núi này là Ác Giùm.

(<10><182>) Núi Nam Vi (南圍山). Chữ Nôm 圍 có thể đọc vầy, vây. Theo di cảo Trương Vĩnh Ký thì tên núi này đọc theo tiếng Khơ me là Phnom pi. Có lẽ, Nam Vi là do đọc trại theo âm tiếng Khơ me Phnom pi. Trong PCGBC Trương Vĩnh Ký cũng ghi là Nam Vi sơn.

(<11><183>) Núi Đài Tốn (臺巽山). Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì núi này là Đài Tố sơn. Theo cách giải thích của tác giả, trong đoạn này thì có lẽ tên gọi là Đài Tốn, vì núi như cái đài cao hướng thìn tỵ, tức hướng đông nam thuộc cung Tốn.

(<12><184>) Núi Chơn Giùm (真森山). Trương Vĩnh Ký trong PCGBC gọi núi này là Chơn Giùm sơn. Chữ 森 đọc theo Hán là sum hay sâm nhưng nếu đọc theo chữ Nôm là giùm hay giụm, viết đủ là N.

(<13><185>) Phủ Chơn Giùm (真森府). Là một trong 5 phủ ở Tây Bắc Hà Tiên mà vua Khơ me đã hiến cho Tổng binh Mạc Thiên Tứ để đền ơn an định ngôi vua. Đó là: Sài Mạt (Ban tay Mas); Vũng Thơm (Kompong Som); Cần Vọt (Kampot); Linh Quỳnh (Hà Dương); Chơn Giùm (Chan Sum).

Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #31 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:32:50 pm »

(<14><186>) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép tên núi này là Thong Đăng sơn.

(<15><187>) Núi Đại Bà Đê (大碆底山). Chữ Nôm 碆 tra tự điển chữ Nôm không thấy, chỉ có chữ波 trong Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính, phiên âm ba mà không chua nghĩa là gì. Xin đoán chữ碆 nầy có lẽ chỉ là chữ波 ba được thêm bộ Thạch dưới để chỉ thuộc về tên núi theo cách viết Nôm của Trịnh Hoài Đức trong GĐTTC, vậy chữ này nên ghi là ba và tên núi này là Đại Ba Đê sơn.

(<16><188>) Sông Long Hồ (竜湖江). Trương Vĩnh Ký trong PCGBC gọi sông nầy là Long Hồ giang.

(<17><189>) Sông Ba Kè (波棋江). Trương Vĩnh Ký ở PCGBC gọi sông nầy là Kiên Thắng giang. Thượng Tân Thị năm 1910 có làm bài thơ tức cảnh sông nầy như sau: (Trích Nam kỳ Lục tỉnh Địa dư chí ( NKLTĐDC) của Duy Minh Thị - Thượng Tân Thị dịch):

Gần tối ra chơi đứng giữa cầu Dựa bãi leo heo đèn xóm lưới

Chim bay cá liệng biết về đâu Ngay dòng lững đững bóng thuyền câu

Ngược xuôi nước chảy chia ba ngã. Thân nầy đây khách mười năm trọn

Lui tới mây tuôn dạng một mầu Biết lấy chi chi gởi mối sầu.

(<18><190>) Hậu Giang (後江). Còn gọi là sông Hậu, sông Bassac. Miền Hậu Giang được tính từ bờ Nam bắc Mỹ Thuận (nay là cầu Mỹ Thuận), người Pháp gọi là Le trans bassac. Tiền Giang tính từ bờ Bắc cầu Mỹ Thuận và tiếng Pháp gọi là Le Cisbassac.

(<19><191>) Mạt Cần Đăng (末芹O). Đây là một địa danh gồm ba chữ mà nhóm dịch giả VSH lại dịch là "đăng Vị Cần" thì e là vừa đọc nhầm mặt chữ mạt (末) thành vị (未) vừa không đúng tên gọi của người địa phương. Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì tên chữ của Mạt Cần Đăng là Hiến Cần Đà, và ông gọi sông này là Mặc Cần Đăng hay Mật Cần Dưng.Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

(<20><192>) Cửa biển Ba Thắc (波忒海門): Tức cửa sông Hậu trổ ra Nam Hải, 2 bên là cửa Trấn Di và cửa Định An.

(<21><193>) Đại Tuần giang (大巡江). Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC sông này gọi là sông Vàm Tuần.

(<22><194>) Hàm Long (Luông) giang (含龍江). Nguyên văn là Hàm Long nhưng vì kỵ húy tên vua Gia Long (mặc dù miếu hiệu vua với chữ Long (隆) là đầy đủ, nhưng đọc âm hai chữ đều là Long nên phải đọc trại đi là Luông). Di cảo của Trương Vĩnh Ký chép tên tiếng Khơ me sông này là Tonlé prek kompong luon.

(<23><195>) Sông Tiên Thủy (仙水). Vì vùng này có nhiều Sãi Khơ me nên tên Nôm gọi là Sóc Sãi Hạ.

(<24><196>) Sông Kinh trong, sông Vị đục. Sách Chu truyền ký chép: "Sông Kinh từ Kê Đầu sơn chảy tới Cao Lăng thì nhập với sông Vị. Nước sông Kinh trong, nước sông Vị đục. Nhưng khi sông Kinh chưa nhập vào sông Vị thì nước sông Vị tuy đục nhưng ta không thấy rõ lắm, chừng hai sông nhập làm một thì sự trong đục phân rất rõ". Về sau muốn chỉ trong đục khác nhau người ta thường lấy thành ngữ Kinh thanh Vị trọc làm thí dụ, như thơ Tô Thức: Hung trung Kinh Vị phân nghĩa là "trong lòng phân trong đục".

(<25><197>) Sông Mỹ Lồng (美籠江). Chữ籠 Nôm đọc là lồng, không phải viết lung hay long mà phải đọc theo tiếng miền Nam là lồng như Vương Hồng Sển đã viết trong cuốn Tự vị tiếng Việt miền Nam.

(<26><198>) Cái Sậy (丐R). Nguyên văn chữ Nôm viết丐R phải đọc là Cái Sậy. Đọc Cái Chẻ là nhầm vì "chẻ" chữ Nôm phải viết là扯 hay U. Có người đọc Cái Sẻ e cũng lầm vì chữ sẻ chữ Nôm viết là S hay T.

(<27><199>) Bình Phụng giang (平鳳江). Tục danh sông Cái Muối. Nguyên văn viết丐V, dịch Cái Múi là không đúng. PCGBC của Trương Vĩnh Ký chép Bình Phụng Giang. Nam kỳ lục tỉnh Dư địa chí có chép bài thơ Vịnh sông Cái Muối của Thượng Tân Thị rất hay, xin ghi lại đọc chơi:

Muối thì mặn chát lẽ nào không. Bần đơm cao nghệu không ngăn gió.

Mà muối đây là một cái sông. Cát nổi vun chùn dễ đón dông.

Sóng vỗ vòi lên màu trắng trắng. Ngó lại trong vàm xa thẳm thẳm.

Trời soi mặt xuống dạng hồng hồng. Người ta nhà cửa cũng đông đông.

(<28><200>) Nguyên văn bản Nguyễn Tạo chép là Thị Kinh (市涇) tức kinh Chợ.

(<29><201>) Cần Thay Thượng (芹台上). Nguyên văn viết芹台. Chữ 台 nếu chữ Hán phải đọc là thai như Thiên thai chẳng hạn. Ở đây chữ 台 này là chữ Nôm phải đọc là Thay có nghĩa là thay đổi. PCGBC của Trương Vĩnh Ký cũng ghi là Cần Thay.

(<30><202>) Thượng Thầm giang (上椹江). PCGBC của Trương Vĩnh Ký chép Thượng Thầm giang, tức Cái Dâu Thượng.

(<31><203>) An Vĩnh giang (安永江). PCGB của Trương Vĩnh Ký chép An Vĩnh giang, tục gọi Cái Mơng (Mơn) Lớn. Nguyên văn viết丐茫, tức mượn âm của chữ Hán Mang (茫) nên chuyển sang âm Nôm Mơng phải viết có chữ (g).

(<32><204>) Ba Vát thị (波越市). Nguyên văn viết Ba Vát 波越như người địa phương gọi nơi này là Ba Vát. Theo ông Vương Hồng Sển, Ba Vát là một địa danh lịch sử quan trọng vì nơi đây xưa kia được một vua Cao Miên đến trú ẩn và đây cũng là nơi Tân Chính vương bị quân Tây Sơn bắt. Chữ Nôm 越 đọc là vát, chớ không phải viết Ba Việt (波越).

Ý nghĩa chữ Ba Vát được giải thích nhiều cách. Theo Đại đức mekon (chủ tịch Hội đồng sư sãi toàn tỉnh của đồng bào người Việt gốc Khơ me Vĩnh Bình), thì Ba Vát là đọc trại âm chữ Preas - Watt là chùa Phật, nhưng chùa Phật thì đâu mà chẳng có nên luận lý không được thuyết phục. Theo Vương Hồng Sển thì âm Ba Vát khá gần âm tiếng Khơ me Posvêk là rắn hổ, vì xứ này có nhiều rắn, cũng như xứ Cần Đước có nhiều cua đinh, cần đước vậy.

(<33><205>) Lê Đầu giang (犁頭江). Lê (犁 hay 犛) là cây cày. Đầu (頭) là cái đầu, tức phần đầu, dịch thoát là mỏ, cũng là phần đầu của con vật. Vậy Lê Đầu dịch là Mỏ Cày như nhân dân địa phương thường gọi.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #32 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:33:13 pm »

(<34><206>) Ba La giang (波羅江). Vì Ba La hay Ba La Mật là cây mít nên Ba La giang gọi là rạch hay xẻo Cái Mít. Rạch này ở làng Hiệp Hưng, tổng Bảo Phước (cũ), tỉnh Bến Tre.

(<35><207>) Vĩnh Đức giang (永德江). Tên Nôm là Ba Tri Ớt. Tên Khơ me sông này theo di cảo của Trương Vĩnh Ký là Prêk bà ti camkà motés. Prêk là sông rạch. Bà Ti nói trại thành Ba Tri. Camkà: Chamca, Chamcar = vườn rau; motés = ớt. Vậy Prêk bàti camkà motés là sông rạch có vườn trồng ớt = Ba Tri Ớt.

(<36><208>) Châu Thới giang (周泰江). Là sông Ba Tri Cá, tên tiếng Khơ me trong di cảo của Trương Vĩnh Ký là Prêk bàti phsar trei. Prêk = sông rạch. Bàti = Batri; phsar = chợ. Trei (Khơ me Krọms đọc tẹi) là con cá. Vậy Prêk bàti phsar trei là sông Ba Tri có chợ bán cá, tức Ba Tri Cá.

(<37><209>) Châu Bình giang (周平江). Tục gọi Ba Tri Chàm. Nguyên văn viết藍là chữ Nôm đọc là Chàm. Theo Vương Hồng Sển thì xứ này là Ba Tri Rơm, nhưng chữ Nôm Rơm phải viết là薕hoặc A; Hay do tên sông này như di cảo của Trương Vĩnh Ký chép là Prêk bàti barei nên có thể Ba Tri Rơm là do đọc trại âm từ Bàti barei?

(<38><210>) Mân Thít giang (斌沏江).

(<39><211>) Ngã ba Cái Nhum (丐W): Cái Nhum nằm ở khoảng Cái Mơng và Chợ Lách. Từ Cái Mơng đi 3km tới Cái Ga, đi 3km nữa tới Cái Nhum, đi 6km nữa tới Chợ Lách.

(<40><212>) Song Tông giang (雙棕江): PCGBC của Trương Vĩnh Ký gọi sông này là Song Tòng giang. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me sông này là Prêk ponà ku trong đó chữ Ku có nghĩa là "đôi" tức "song".

(<41><213>) Kiên Thắng giang (堅勝江). Tục gọi sông Ba Kè. Xem chú thích "sông Bà Kè" ở trước.

(<42><214>) Láng Thé giang (浪涕江): Hai chữ浪涕nếu đọc theo chữ Hán là Lãng Đế, nhưng đây là chữ Nôm phải đọc là Láng Thé. Đây là địa phương nổi tiếng ở Trà Vinh với câu chuyện bà hiền phụ của ông Bùi Hữu Nghĩa đội trạng ra tận triều đình Huế minh oan cho chồng là ông huyện Láng Thé bị vu cáo xúi dân làm loạn. Trong PCGBC của Trương Vĩnh Ký tên sông này là Láng Thé giang. Rạch Láng Thé chảy qua tổng Bình Khánh Hạ, Bình Hóa và một phần Ngãi Long Thượng, nối Cổ Chiên qua rạch Cái Hợp bằng con rạch Dừa Đỏ và nối Cổ Chiên qua Hậu Giang bằng kinh Luro, kinh Venturini và rạch Cần Chông. Ở Trà Vinh tỉnh Vĩnh Long (cũ) không có con sông nào là sông Láng Đế. Nhóm dịch giả VSH dịch là sông Lãng Đế chưa chính xác. Bản dịch của Nguyễn Tạo và Aubaret cũng vậy.

(<43><215>) Cần Chông tiểu giang (芹苳小江): Tức rạch Cần Chông, di cảo của Trương Vĩnh Ký gọi sông này bằng tên tiếng Khơ me là Srok Kancon.

(<44><216>) Trà Vang giang (XY江): Tên gọi theo tiếng Khơ me là Prêk préah trapéang, có nghĩa là sông tìm được một vị Phật (Préah) bằng đá giữa ao nước.

(<45><217>) Ốc nha (屋牙). Ốc nha là tên một chức quan của Khơ me ngày xưa tùy theo chữ đi liền mà có địa vị cao thấp, thí dụ Ốc nha Cao la hâm là vị quan mặc áo đỏ chức vụ tương đương Bộ trưởng Hải quân. Thường Ốc nha cai quản một hạt hay đạo. Ốc nha là đọc âm tiếng Oknà hay Oknha. (Có người dịch Oknha là Công tước - Bt). Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

(<46><218>) Nha Mân giang (牙斌江). Nha Mân giang theo di cảo của Trương Vĩnh Ký gọi là Prêk oknà mẵn. Vậy có lẽ Nha Mân có nghĩa là vị quan (Oknà) tên Mân (Mẵn)?

(<47><219>) Trà Cát: Nguyên văn viết茶吉. Trong NKLTDĐC, Thượng Tân Thị dịch là Trà Ket (Kiết), nhưng chữ Nôm ket phải viết là拮 hay咭. Vậy, chưa biết ket, hay cát chữ nào đúng.

(<48><220>) Sa Đéc giang (沙Z江). Di cảo của Trương Vĩnh Ký chép tiếng Khơ me sông này là Tonlé phsar dèk.

(<49><221>) Hồi Luân Thủy tam kỳ (回輪水三岐): Tức ngã ba Nước Xoáy. Di cảo của Trương Vĩnh Ký cho biết tên tiếng Khơ me của sông nầy là Prêk tưk vil. Prêk là sông, tưk là nước, vil là chóng mặt (tức xoáy mòng mòng). Vậy sông Nước Xoáy (Hồi Luân Thủy) là dịch theo ý tiếng Khơ me vậy.

(<50><222>) Cái Tắt Lai Vung (丐'來\): Ở trang 605 sách Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển viết "...Nguyễn Tạo không rành tiếng địa phương và cứ coi theo sách dịch ra, nên Cái Tắt Lai Vung ông dịch Cái Dắt Lai Phong, không ai hiểu là gì..."

Về nghĩa, tắt có nghĩa là lối đi tắt, để đi từ con sông nầy qua con sông kia theo lối gần nhất. Thí dụ Tắt Cậu là khúc sông thật ngắn chừng 800 m làm ngã tắt nối liền hai con sông Cái Bé và Cái Lớn ở xã Bình An, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Gọi là Tắt Cậu vì đầu tắt có miếu Bà Cậu. Khoảng giữa tắt gọi là lòng tắt. Cuối lòng tắt nhìn qua bên kia bờ sông Cái Lớn là Xẻo Rô. Tàu biển vào sông Cái Lớn, quẹo lòng tắt qua Cái Bé, quẹo trái vào chợ Rạch Giá.

(<51><223>) Nguyên văn viết phu công (膚功). Phu (膚) có nhiều nghĩa, trong ngữ cảnh này có nghĩa là lớn. Vậy "phu công" là công trận lớn.

(<52><224>) Long Phụng giang (竜鳳江): Sông Long Phụng nay thuộc tỉnh An Giang, tức khi xưa thuộc đạo Đông Khẩu.

(<53><225>) Tân Đông giang (新東江): Trong PCGBC Trương Vĩnh Ký sắp sông này thuộc tỉnh An Giang cũ, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp (Sa Đéc).

(<54><226>) Nguyên văn: Thủy triều ngộ kinh 水潮誤經: Tức khi nước ròng thì bãi bùn này lồi lên ghe thấy tránh chỗ khác không bị cạn, nhưng khi nước lớn thì nước phủ bãi đủ che mắt người không nhìn thấy. Ghe lạ không biết lỡ đi vào đó là mắc cạn. Ngộ kinh (誤經) có nghĩa là "lầm đi ngang qua".

(<55><227>) Mương Đào: Nguyên văn viết Mương Đào茫陶, nhưng có người viết là Mương Điều là vì tránh gọi tên Đào, là tiếng gọi đào hát bội không được kính trọng. Di cảo của Trương Vĩnh Ký cũng chép là Mương Đào.

(<56><228>) Rạch Sa Nhiên: Nguyên văn viết Sa Nhơn (Nhân) 砂仁, nhưng đọc Sa Nhiên vì kỵ húy tên tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn đời Gia Long có mộ chôn ở Sa Đéc.

(<57><229>) Mỹ An giang (美安江), tục gọi sông Đất Sét. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me của sông này là Pàm prêk dei kraham, chữ dei có nghĩa là đất; Kraham, Krâhâm có nghĩa là màu đỏ sậm, đúng là màu đất sét.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #33 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:33:35 pm »

(<58><230>) Hội An giang (會安江): Sông Hội An còn gọi là Cái Tàu Thượng. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me của sông này là Pàm prêk sampou lơ. Sampou là hải thuyền, tức tàu, hay cái tàu. Lơ là trên, tức thượng.

(<59><231>) Nguyên văn VHN lưu trữ và nguyên văn in kèm bản dịch Nguyễn Tạo chép Ngọ Châu (午洲) còn nguyên văn bản của VSH chép Ngưu Châu (牛洲). Di cảo của Trương Vĩnh Ký chép tên Khơ me là Koh krabei. Krabei là con trâu, vậy xin dịch "cù lao Trâu" tức chọn từ "Ngưu châu".

(<60><232>) Nguyên văn bản VHN và bản của VSH đều chép là Doanh Châu (瀛洲).

(<61><233>) Cựu Chiến Sai thủ sở (舊戰差守所). Thủ sở, thủ ngự sở, gọi trại thành thủ ngự là nơi đóng đồn trên bộ để phòng giặc kiêm luôn thu thuế khóa như Thủ Thiêm, Thủ Đức, Thủ Đoàn, Thủ Dầu Một, Thủ Thừa v.v... trong khi tấn là đồn đóng ở cửa sông cửa biển để chống hải khấu như vàm Tấn ở Sóc Trăng. Liên quan đến thủ Chiến Sai có câu hát ví rất hay:

Thủ Thiêm, Thủ Đức, Thủ Đoàn,

Anh phải lòng nàng tại thủ Chiến Sai!

(<62><234>) Lễ Công giang (礼公江). Tức vàm Ông Chưởng, là nơi nhân dân lập miếu thờ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, ngoài Bắc gọi là Kính.

(<63><235>) Hùng Sai thủ ngự sở: 雄差守禦所. Có lẽ do Hùng Sai thủ ngự đọc tắt gọn lại là Hùng Ngự, tức nay là Hồng Ngự?

(<64><236>) Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh: 掌奇禮成侯阮有鏡. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phía nam. Tại đây, với tài ba và đức độ, Nguyễn Hữu Cảnh đã di dân khai khẩn đất hoang, thành lập huyện Phước Long xứ Đồng Nai, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn, an định người Hoa chống Mãn Thanh bỏ xứ sang Gia Định. Về võ công, ông có công bình định Cao Miên nhiều lần. Cù lao Ông Chưởng chính là nơi ông đồn binh khi đi bình Cao Miên về và cũng chính tại đây ông bị nhuốm bịnh rồi sớm qua đời (cũng có sách nói ông cùng tử trận với Đốc binh Vàng). Về địa lý kinh tế, vàm Ông Chưởng có rất nhiều tôm cá nên dân gian có câu:

Bao phen quạ nói với diều

Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.

(<65><237>) Ông Thiệu Công tên là Thích, con thứ Chu Văn vương làm chức Phương bá nên thường gọi là Thiệu Bá, khi mất thụy là Khang. Ông đi tuần hành ở phía nam, thường ở dưới cây cam đường để bàn chính sự, về sau người ta nhớ ông nên không nỡ chặt cây cam đường. Ông là người có đức chính, là Tam Công đời Thành vương. Thiên Thiệu nam ở Kinh thi có chép thơ Cam Đường để khen Thiệu Bá.

(<66><238>) Mã Viện, đời vua Hán Vũ đế được phong làm Phục Ba tướng quân, sau có đền thờ ở Việt Đông. Nguyên văn ba bản đều chép Việt Tây.

(<67><239>) Gia Cát Lượng, đời Tam Quốc, đi đánh Mạnh Hoạch ở Vân Nam, sau có miếu thờ ở đây. Gia Cát Lượng được phong là Vũ (Võ) Hương hầu, tên miếu là Vũ Mục vương.

(<68><240>) Hội điển là sách biên chép tất cả tên tuổi các thần được cúng kiếng của nhà nước thời phong kiến. Phải là bậc đại quan có công với đất nước mới được tế lễ theo cấp bậc quốc gia, như quốc táng là lễ đám ma cấp bậc nhà nước, dành cho người có đại công với nước nhà. Quốc gia tế lễ này được ghi vào Hội điển của triều đình. Lễ các phúc thần không được ghi vào Hội điển.

(<69><241>) Chữ汎洨 này, nếu đọc theo chữ Hán thì là phiếm Hào (chữ Hán phiếm cũng có nghĩa là vàm sông), nếu đọc theo chữ Nôm là vàm Nao. Người tại địa phương nầy gọi đây là vàm Nao, vậy phải đọc theo tên Nôm là vàm Nao. Theo tác giả Trịnh Hoài Đức chú thêm ở đoạn nầy chữ nao vốn viết là: B nhưng nay thông dụng viết là 洨. Thật ra chữ Nôm Nao chỉ cần viết C là đủ, nhưng Trịnh Hoài Đức thêm bộ thủy (氵) bàng là chỉ chữ này là tên sông rạch. Đây là lối viết riêng của cụ Trịnh trong GĐTTC, nên chữ 洨không có trong các tự điển chữ Nôm.

(<70><242>) Phiếm khẩu (汎口) là cửa sông, cũng còn viết là _. Vậy chữ Hán汎cũng có nghĩa là cái vàm còn chữ Nôm汎đọc là vàm, có nghĩa ngoài cửa sông. Vàm Nao hiện nay ở An Giang, nối liền Tiền Giang và Hậu Giang theo hướng đông bắc - tây nam, một bên sông là Hòa Hảo, bên kia là Chợ Mới. Ngày xưa sông này hẹp, theo người cố cựu kể lại thì phu dịch đào sông Vĩnh Tế trốn về khi qua sông này chỉ cần đu ngọn tre là qua bờ bên kia. Nhờ ghe tàu chạy nhiều nay thành sâu rộng.

(<71><243>) Ưu Đàm giang (優曇江): Trương Vĩnh Ký trong PCGBC cũng gọi tên Nôm sông nầy là Tắt Cây Sung như Trịnh Hoài Đức viết trong GĐTTC.

(<72><244>) Tân Giang (新江): Sông Cái Mới. Khác với rạch Cái Mới là một con rạch nhỏ ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

(<73><245>) Cổ Cà (古`): Chữ Nôm ` đọc là cà, không phải đọc là Kha như nhóm dịch giả VSH.

(<74><246>) Cổ Cang (古棡): Chữ Nôm 棡. Đã tra các tự điển chữ Nôm của người Việt cũng như của người Nhật Yonosuke Takeuchi nhưng chưa thấy. Có thể là chữ Nôm cang岡 Trịnh Hoài Đức thêm bộ木 bàng cốt ý để chỉ đây là gò cây cối như lối viết chữ Nôm thường thấy của ông trong GĐTTC.

(<75><247>) Mật Luật (密律): Theo Vương Hồng Sển, Mật Luật là âm đọc trại của tiếng Khơ me Meát Chruk tức xứ Miệng Heo (Châu Đốc).

(<76><248>) Ca Âm náo khẩu (歌音淖口): Chữ náo khẩu (淖口) Trịnh Hoài Đức đã chú thích rất rõ ràng, nhưng một nhà nghiên cứu đã hiểu nhầm. Phiên âm nguyên văn đoạn: "Ca Âm sơn cao thập trượng, chu thất lý, khúc tiểu nhi trường, cự náo khẩu đầu nam tam lý" theo định nghĩa của cụ Trịnh Hoài Đức ở đoạn nói về náo khẩu Ca Âm: Nê đồ nhu thậm viết náo, nghĩa là "Bùn lầy nhão nhoẹt gọi là náo". Như vậy, câu trên có nghĩa là "Núi Ca Âm cao 10 trượng chu vi 7 dặm, gấp khúc cao vót mà dài, cách đầu phía nam láng bùn (bưng bùn) 3 dặm". Náo khẩu đúng ra cũng không có nghĩa "Cửa bùn hay vàm bùn" mà là một đoạn, một vùng đất sình lầy có khi rất dài như láng bùn Ca Âm tả trong đoạn nói về sông Vĩnh Tế. Chữ náo còn được dùng chung Náo Môn, Náo Pha, trong đoạn nói về núi Nam Vi, ý muốn nói chữ náo có thể đi với bất cứ danh từ nào để chỉ nơi có tính chất bùn sình nhão nhoẹt, chứ không phải chỉ có đi chung với chữ khẩu. Ngoài ra về địa lý hình thể, náo khẩu Ca Âm tức đoạn láng bùn, bưng bùn Ca Âm nằm khoảng giữa sông Vĩnh Tế, còn địa phương Vàm Nao ở vùng Chợ Mới, Hòa Hảo phía nam Tiền Giang, cách nhau rất xa không thể là một nơi. Xin hiểu náo khẩu là láng bùn hay bưng bùn.

(<77><249>) Tương đương 30 lít.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #34 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:33:54 pm »

(<78><250>) Chữ 淖 thiết âm "Nô giáo" tức náo, lại cũng thiết âm "Xích ước" tức xước - bùn sình nhão nhoẹt gọi là náo.

(<79><251>) Đầm giang (潭江): Chữ Nôm潭 đọc là Đầm, hợp với cách gọi Cái Đầm.

(<80><252>) Bà Dơm (婆a): Nguyên văn chữ Nôm bản VHN lưu trữ viết a đọc là Dơm. Nguyên văn in kèm bản dịch nhóm VSH viết冘 đọc là Dăm, De, nhưng đọc là Nhũng e là chưa đúng, vì chữ Nôm Nhũng phải viết là冗.

(<81><253>) Thoại Hà (瑞河): Tục gọi là Ba Rách (巴b). Trong PCGBC, Trương Vĩnh Ký còn gọi sông nầy là Toại Hà, gọi tên Nôm là Ba Rạch hay Ba Lạch. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký sông nầy đúng ra là kinh Rạch Giá nhưng nay ta vẫn gọi nôm na là sông Long Xuyên.

(<82><254>) Tiền Tràng giang (錢場江). Tiền Tràng (錢場) là chỗ đúc tiền, tức lò đúc tiền vậy. Chữ 場 nầy có thể đọc trường hay tràng nhưng thường người ta hay đọc là tràng, tuy nhiên nhân dân địa phương lại gọi là sông Trường Tiền, tức cái trường, nơi đúc tiền.

(<83><255>) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép đây là sông Bò Ót, tên chữ Hán là Bầu Ót.

(<84><256>) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép Ô Môn giang có tên Nôm là Tắt Ông Thục.

(<85><257>) Vồn giang (湓江). Chữ Nôm湓tra không có trong các tự điển chữ Nôm, chỉ có chữ盆đọc vồn. Vậy chữ vồn được viết với chữ vồn盆thêm bộ Thủy氵bàng để chỉ thuộc về sông. Đây là lối viết Nôm riêng của Trịnh Hoài Đức trong GĐTTC như đã trình bày. Vậy湓đọc là Vồn giang, tức sông Cái Vồn, Cần Thơ.

(<86><258>) Trà Ôn giang (茶溫江). Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký tên sông Trà Ôn do đọc trại theo tên Khơ me Traòn.

(<87><259>) Bản của VSH chép Vĩnh Chánh tổng (永正總)

(<88><260>) La Vách (羅壁). Đây là La Vách Trà Ôn, không phải thành La Vách (Lovek) phía bắc Oudong trên đất Campuchia.

(<89><261>) Ba Thắc giang (波忒江). Tiếng Pháp gọi là Bassac. Từ Bassac có ba nghĩa:

a) Chỉ vùng đất hướng đông tây từ mé Hậu Giang trải dài đến vịnh Thái Lan, hướng bắc nam từ Châu Đốc xuống tới Bạc Liêu, Khơ me gọi là Srok Bassac, Pháp gọi là Trans Bassac. Ngày nay trong Bãi Xàu cũ Sóc Trăng còn ngôi cổ miếu thờ ông Ba Thắc tức Neak Tà Bà Săt.

b) Tên một nhánh của Cửu Long giang, gọi là sông Hậu, là tên trong đoạn sông Ba Thắc này, từ biên giới Campuchia chảy ra Nam Hải qua An Giang, Vĩnh Long, Phong Dinh, Vĩnh Bình, Ba Xuyên (Long Xuyên, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng).

c) Tên của một trong ba cửa của Hậu Giang. Đó là:

- Cửa Định An ở vùng Trà Vinh.

- Cửa Bassac

- Cửa Trấn Di mà sách Pháp viết lầm là cửa Tranh Đế hay Tranh Đề.

(<90><262>) Trấn di là chặn quân Cao Miên (quân man ri (di) theo cách gọi phân biệt của chế độ phong kiến).

(<91><263>) Chợ Bố Thảo thuộc huyện Thuận Hòa tỉnh Sóc Trăng. Nơi đây có chùa Ông Bổn rất linh ứng. Có tài liệu ghi Búa Thảo là sai tên thực tế địa phương.

(<92><264>) Tương truyền ở Bãi Xàu (罷D) xưa, nhóm người Khơ me nổi dậy chống lại triều đình do Xà Na Téa, Xà Na Coln lãnh đạo. Bị quân triều đình rượt đuổi, chạy đến nơi nầy tạm dừng đào lỗ nấu cơm ăn thì quân triều đình lại rượt tới khiến họ phải vội vã chạy tiếp và than thở bày chau (bày là cơm, chau là chưa chín) là cơm chưa chín. Người địa phương đọc trại âm tiếng nầy thành Bãi Xàu như ngày nay.

(<93><265>) Trà Nô (茶奴). Cũng gọi là Trà Nho, tức huyện Vĩnh Châu, tỉnh Bạc Liêu. Xưa đường bộ Bạc Liêu đi xuống đến Vĩnh Châu là đụng biển hết đường. Thật ra chữ Nôm奴phải đọc là nua, viết đủ là孥Trà Nua tức đọc trại âm tiếng Khơ me Chụi Nìua.

(<94><266>) Ngao Châu hải môn (螯洲海門): Theo Vương Hồng Sển trong Tự vị tiếng Việt miền Nam thì Bãi Ngao này trong sách Géographie của Alinot chép là Cone - gao, conne - gao, rồi người Việt mình đọc trại đi thành Cung Hầu hay Cung Hậu. Luận cứ nầy khá thuyết phục vì trong PCGBC của Trương Vĩnh Ký, cũng như trong di cảo của Trương Vĩnh Ký chép và ngay cả trong GĐTTC của Trịnh Hoài Đức đều không thấy ở bất cứ chỗ nào có nhắc đến tên cửa Cung Hầu hay Cung Hậu. Vậy đây đúng là cửa Bãi Ngao quê hương ông Phan Thanh Giản-đại thần của triều Nguyễn.

(<95><267>) Giá giang (架江): Đây không phải Rạch Giá ở Kiên Giang vì sông nầy ở Vĩnh Long rất xa Rạch Giá. Có người nói sông nầy là sông Dừa vì chữ 椰đọc theo Nôm là Dừa, đọc theo Hán Việt là Gia cũng có nghĩa cây dừa.

(<96><268>) Rạch Xuôi Trối (瀝d±): Nguyên văn chữ Nôm viết d± đọc là Xuôi Trối. Có người nói rạch nầy là rạch Ốc Lồi, nhưng chữ Nôm ốc (con ốc) phải viết沃hoặc e, còn lồi phải viết耒hoặc f. Hoặc giả, dân địa phương còn gọi nơi nầy là Ốc Lồi?

(<97><269>) Nguyên văn viết: Tiễn diệp biên phiến (剪葉編片) nghĩa là: cắt lá bện thành tấm. Có hai loại lá tấm: nếu để nguyên các miếng lá lấy dây cà bắp xỏ bện lại bề ngang chừng một mét thì gọi là lá chầm. Nếu chẻ cọng lá làm nòng rồi bẻ gập miếng lá làm đôi cặp vào nòng ấy rồi cũng dùng dây cà bắp kết lại dài khoảng 2 m thì gọi là lá cần đóp.

(<98><270>) Nguyên văn viết 乾g: Chữ g đồng nghĩa chữ 蝦chỉ tôm tép. Vậy乾g can hà có nghĩa là tôm khô.

(<99><271>) Bích Trân châu (碧珍州): Cũng gọi là cù lao Bát Tân.

(<100><272>) Vĩnh Tùng châu (永松洲): Có người gọi là cù lao Vĩnh Tòng e không đúng, vì tuy chữ 松có thể phiên âm là tùng hay tòng nhưng Petrus Ký trong PCGBC chép rõ đây là cù lao Vĩnh Tùng.

(<101><273>) Tân Cù châu (新虬洲): Có người gọi là cù lao Tân Gù, nhưng chúng tôi thấy trong PCGBC, Trương Vĩnh Ký gọi là Tân Cù châu, vậy xin dịch theo là cù lao Tân Cù.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #35 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:34:23 pm »

(<102><274>) Hương toán: Cây cao, quả như trứng ngỗng (?), da khi chín màu vàng, thịt cũng vàng, ăn bùi miệng, ngon ngọt (theo Từ Nguyên). Đó chính là cây xoài, nhưng trái thì hình thể đa dạng, không phải chỉ như trứng ngỗng.

(<103><275>) Ý tác giả muốn nói ảnh chú Cuội và cây đa trên mặt trăng.

(<104><276>) Phụng Nga châu (鳳i洲): Gồm cù lao Nga và cù lao Phụng.

(<105><277>) Lấy ý ở sách Mạnh tử: Thương Lang chi thủy thanh hề khả dĩ trạc ngô anh, nghĩa là "Nước sông Thương Lang mà trong thì ta dùng giặt dải mũ..."

(<106><278>) Lạc Dương (洛陽): Thuộc tỉnh Hà Nam, là đất hiểm yếu, khi xưa trải nhiều triều Trung Quốc đều là nơi đặt đô, sinh hoạt phồn hoa náo nhiệt.

(<107><279>) Dinh châu (瀛州): Tục gọi cù lao Diên. Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC còn gọi là cù lao Giêng, Gieng, cù lao Đầu Nước.

(<108><280>) Nguyên văn là giang đồn (江豚) theo Từ Nguyên còn gọi là thủy trư, ngực có vú, đầu phun nước, tức con cá nược. Loại cá nầy ngày xưa ở các con sông lớn như sông Cần Thơ, Cái Côn.., người chèo ghe thường gọi to "Ông Nược ơi lên đua chơi" là chúng nổi lên cả bầy bơi tranh cùng ghe khiến người chèo vui mà bớt mệt.

(<109><281>) Tê châu (犀洲): Còn gọi là cù lao Tây. Tê tức con tê ngưu, tê giác.

(<110><282>) Cù lao Dao Lửa: Tên chữ Hỏa Đao (火刀). Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me cù lao nầy là Koh phlơn, hay phloeng có nghĩa là lửa. Trong PCGBC Trương Vĩnh Ký chép là Giao Lửa e nhầm chính tả chữ Dao.

(<111><283>) Long Sơn châu (竜山洲): Tục gọi là cù lao Cái Vừng (chữ Nôm viết mấy cách như暈,j, k,l). Chữ暈nếu là chữ Hán đọc Vựng, nhưng chữ Nôm phải đọc Vừng.

(<112><284>) Đồ Bà châu (闍|洲): Tục gọi cù lao Chà Và. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tiếng Khơ me của cù lao nầy là Koh cva. Cva là tiếng Khơ me để gọi người Chà Và (Đồ Bà) vậy.

(<113><285>) Năng Gù châu: 能衢洲. Chữ衢nếu chữ Hán âm Cù, nếu chữ Nôm âm Gù, còn viết là E. Người địa phương gọi nơi nầy là Năng Gù. PCGBC của Trương Vĩnh Ký cũng chép là Năng Gù châu.

(<114><286>) Vàm Nao (viết汎Bhay汎洨) ở phía nam sông Hậu không phải là náo khẩu Ca Âm (歌音淖口), tức láng bùn hay bưng bùn Ca Âm ở khoảng giữa sông Vĩnh Tế, tức khoảng giữa đồn Châu Đốc và phía bắc biển Hà Tiên: Bưng bùn nầy dài hơn 18 dặm. Không phải chỗ nào cũng là vàm Nao như một số người nhận định.

(<115><287>) Qua châu (瓜洲): Tục danh cù lao Bí (秘).

(<116><288>) Sa châu (沙洲): Trong PCGBC Trương Vĩnh Ký gọi là cù lao Cát, tức dịch chữ Sa châu vậy.

(<117><289>) Hoằng Trấn châu (弘鎮洲): Còn gọi là cù lao Tân Dinh, tục gọi bãi Bà Lúa. Nguyên văn viết chữ Nôm穭 đọc là Lúa. Nếu ghi bãi Bà Lụa e là không chính xác. Về cù lao Tân Dinh, theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me của cù lao nầy là Kòh tin. Chữ tin tức kting ta dịch là Din. Theo Huỳnh Tịnh Của là tên một giống bò rừng hay trâu rừng nhỏ con, tính hay ăn rắn nên sừng nó là một vị thuốc mát, trị được ban trái, đồng thời để trong nhà tránh được hỏa hoạn, vì sừng Din kỵ lửa. Ngày nay trên thị trường thuốc bắc, bọn gian lấy sừng bò thường hơ uốn giả làm sừng Din bán mắc tiền. Còn ngay cả sừng Din thật làm thuốc có hiệu nghiệm không, và có thật kỵ hỏa hoạn không còn là vấn đề phải nghiên cứu. Vậy xin dịch là cù lao Tân Din.

(<118><290>) Nặc Ong Ton (匿翁噂): Chữ Ton nguyên văn viết là噂, chữ Nôm nầy phải đọc là Ton chứ không phải Tôn, Nặc Ong Ton tiếng Khơ me là Neac Ang Ton, là vị vua được sách GĐTTC nhắc đến ở nhiều chỗ, trong đoạn nầy có câu: "Nguyên trước đây vua Cao Miên là Nặc Ong Ton được triều đình ta lập nên là vua nước phiên thuộc". Câu nầy có liên quan đến chuyện hoàn cảnh vua Nặc Ong Ton mà Trịnh Hoài Đức chép lại tỉ mỉ như sau: Năm Đinh Sửu (1755), ở Nam Vang có loạn, vua Cao Miên là Nặc Ong Ton chạy về Hà Tiên làm con nuôi Mạc Thiên Tứ. Mạc hầu tâu lên chúa Nguyễn xin lập Nặc Ong Ton làm vua Cao Miên và được triều đình chấp thuận. Để trả ơn, Nặc Ong Ton đã đem năm phủ Khơ me ở phía bắc Hà Tiên là Vũng Thơm (Kompong som) cũng còn gọi là Hương Úc, Chơn Giùm (Rùm) tức Chan Sum, Sài Mạt (Bantay mas), Cần Vọt (Kampot) và Lình Quình (Raung veng), còn gọi là Hà Dương dâng cho Mạc Thiên Tứ. Thiên Tứ tâu trình với triều đình và được chúa Nguyễn cho sáp nhập vào đất Hà Tiên của Thiên Tứ. Vùng đất nầy còn gọi là Tầm Phong Long, trải dài từ Châu Đốc qua Sa Đéc xuống tận bãi biển Bạc Liêu.

(<119><291>) Cả đoạn Chiêu trùy Mô, Đê đô Luyện, Ốc nha Liên Đồng Trùy gồm vừa chức vụ và tên đọc theo tiếng Khơ me rất khó xác định. Vậy xin tạm diễn đạt như trên.

(<120><292>) Đông Sơn Phương Quận công (東山芳郡公): Tức Đỗ Thanh Nhơn, chúa quân nghĩa dũng Đông Sơn Đồng Tháp Mười.

(<121><293>) Nặc Ong In (匿翁印): Nguyên văn viết chữ印. Chữ nầy nếu là Hán đọc là Ấn, nếu là Nôm đọc là In. Trong GĐTTC tên người Khơ me, người Xiêm, tên thú cầm, hoa thọ, đất đai hầu như đều viết bằng chữ Nôm. Vả chăng chữ nầy Trịnh Hoài Đức có chưa thiết âm Ân Tín nên chắc chắn phải đọc là In. Nặc Ong In tiếng Khơ me là Neac Ang Eng.

(<122><294>) Cái Sách (丐柵): Nay thuộc huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Cái Sách là đọc trại từ Kế Sách ra vậy.

(<123><295>) Huỳnh Dung châu (黃容洲): Tục gọi cù lao Dung thuộc vùng Sóc Trăng, cũng gọi là cù lao Hổ. Cù lao nầy có nhiều lá dừa nước. Tục bện lá thành tấm có ở đây từ năm 1863. Để nguyên tấm lá kết lại thì gọi là lá chằm. Bẻ đôi lá gập theo cọng nòng bằng sóng lá thì gọi là lá cần đóp. Xé đôi tàu lá theo chiều dọc, chặp hai mặt âm dương lại lợp thì gọi là lá buôn hay lá hét.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #36 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:35:14 pm »

2e.
Trấn Hà Tiên

BÌNH SƠN (NÚI BÌNH)

Ở về phía tây của trấn lỵ độ 1 dặm, dài 2 dặm, cao hơn 5 trượng, các ngọn chồng chất, khoanh cuộn nối góc bể. Thế núi chon von, vòng quanh làm bình phong mặt sau cho trấn. Ngoài có suối sâu chảy bao quanh về hướng nam rồi đổ ra biển. Phía bắc giáp Mương Sâu nối liền với suối Bạch Tháp rồi chảy ra Đông Hồ, làm hào của trấn thành. Bình Sơn (San) điệp thúy (núi Bình trùng biếc) là một trong 10 cảnh đẹp ở Hà Tiên.

NGŨ HỔ SƠN (NÚI NGŨ HỔ)

Ở về phía bắc trấn thủ chừng nửa dặm. Thế núi vai khum, đầu cúi, giống như cọp co mình tựa vào góc gò, là dãy núi hộ vệ cho trấn thành, có thể gần mà không thể khinh nhờn được.

PHÙ DUNG SƠN (NÚI PHÙ DUNG)

Cách trấn thự về phía tây bắc hơn 1 dặm. Ở đây hang hố xanh rậm lâu đời; chùa Phù Dung ở phía tây nam <69b> chân núi, tiếng chuông mõ pha trộn, tiếng kệ kinh lẫn tiếng ồn ào của phố thị, thật là cảnh nửa tăng nửa tục.

LỘC TRĨ (MŨI NAI)

Cách trấn về phía tây 43 dặm. Cây cối lửng lơ lưng núi, ngọn núi nhọn đứng chọc trời cao, vượt qua đất bằng mà gối đầu bờ biển. Suối ngọt, đất tốt, nhà cửa nhân dân ở vây quanh dưới bóng núi. Trong 10 cảnh đẹp của Hà Tiên thì Lộc Trĩ thôn cư (xóm quê Mũi Nai) là một cảnh vậy.

DIẾU SƠN (HÒN NÚC)

Ở về phía tây của trấn, cách thôn cư Lộc Trĩ về phía tây 2 dặm rưỡi, núi bao quanh vũng biển, có 3 ngọn đứng thẳng thế chân vạc. Cây cối rậm rạp, những nhà dân chài ở quanh bến nước, những sóc của người Thổ ở phía bìa rừng, riêng có lạc thú của miền sơn hải.

ĐỊA TẠNG SƠN (NÚI ĐỊA TẠNG)

Ở về phía bắc của trấn, cách núi Phù Dung 5 dặm. Trên núi có chùa Địa Tạng, vì vậy nên có tên là núi Địa Tạng <70a>. Chùa nầy công đức trang nghiêm, ai vào cửa chùa bỗng thấy tắt hẳn tục niệm tham sân, thật là cảnh giới làm bậc thang để đến non Thứu. Đây là cảnh Tiêu tự thần chung (chuông mai chùa vắng) là một trong số 10 cảnh đẹp của Hà Tiên.

VÂN SƠN (HÒN MÂY)

Cách núi Địa Tạng về phía bắc 1 dặm rưỡi. Trong núi có dựng chùa Bạch Vân, quang cảnh ở đây vắng vẻ, lối tre thông ngõ vắng, phòng tăng hoa cây im, nham động trên đỉnh chon von, sớm chiều hút nhả khói mây xa mờ. Trong 10 cảnh Hà Tiên thì đây là cảnh Thạch động thôn vân (động đá nuốt mây) vậy.

BẠCH THÁP SƠN (HÒN BẠCH THÁP)

Ở cách phía bắc Vân Sơn 5 dặm. Thế núi quanh co, cỏ cây xanh tốt, có nhà sư ở Quy Nhơn (Bình Định) là đại hòa thượng Hoàng Long vân du dừng gậy trụ lại đó. Đến đời Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế năm thứ 13 là năm Đinh Tỵ (1737), (Năm thứ ba niên hiệu Vĩnh Hựu đời Ý Tông nhà Lê; Năm thứ hai đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), hòa thượng viên tịch, đồ đệ của ông dựng tháp 7 cấp để trân tàng xá lợi; mỗi khi đến tiết Tam nguyên và Phật đản thì sáng có <70b> con hạc đen đến chầu, con vượn xanh cúng quả, lưu luyến bồi hồi như có ý muốn tham thiền nghe pháp; đáng gọi là cõi tịnh độ tiêu sái của vườn Kỳ viên vậy. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

TÔ CHÂU SƠN (HÒN TÔ CHÂU)

Ở bờ phía đông con sông, làm tinh biểu chầu trấn thành. Rặng núi chon von đẹp đẽ, cây cối um tùm, có thôn xóm Đồ Bà (Chà Và) ở phía bắc, đất Lão Cử trải dài ở phía nam, dưới núi có bến đò thông qua. Trước trấn, lúc sắp rạng đông nhìn thấy cảnh: cận quách loạn sơn hoành cổ độ, dã trang kiều mộc đới tân yên. (Nghĩa là: gần thành núi non vắt ngang đò cũ, thôn trang cây lớn cuộn vấn khói mai.)


LINH QUỲNH SƠN (NÚI LINH QUỲNH)

Cách trấn về phía bắc 120 dặm. Núi đẹp đẽ thanh cao, um tùm vắng vẻ, có suối chảy cuồn cuộn. Phía tây bắc có nhiều gò rừng, phía đông nam nhiều chằm ruộng; người Việt, người Tàu và người Cao Miên ở xen nhau lo cày cấy, cũng gọi là vùng đất phì nhiêu vậy.


SÀI MẠT SƠN (NÚI SÀI MẠT)

Ở phía bắc trấn lỵ. Sườn gò quanh co lồi lõm, cây tốt, suối trong, người Việt, người Thổ ở chung <71a> nhau rất đông đúc. Ngày xưa là đất của Cao Miên do người họ Mạc chiếm ở, nên người Cao Miên oán ghét, thường đến gây sự tranh giành. Đời vua Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế (Võ vương Nguyễn Phúc Khoát), năm thứ 2 (Kỷ Mùi - 1739), (Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Hựu đời Lê Ý Tông. Năm thứ 4 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh) Nặc Bồn của Cao Miên cử binh đến xâm chiếm Hà Tiên. Mạc Tông đánh đuổi chạy đến phủ Sài Mạt, ngày đêm quyết đánh, người người bỏ cả việc ăn uống. Lúc ấy vợ Mạc hầu là Nguyễn thị tập hợp vợ lính lo việc nấu cơm cung cấp cho họ. Quân sĩ ăn no đủ, đều hiệp lực đánh phá binh của Nặc Bồn. Tin thắng trận tâu lên, triều đình khen thưởng đặc biệt tiến phong cho Mạc Tông chức Đô đốc tướng quân và ban cho đủ cả bộ áo hồng bào cùng mũ kim phốc, và phong cho Nguyễn thị hàm Phu nhân. Từ đó, Cao Miên không dám dòm ngó Hà Tiên ở phía nam nữa.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #37 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:35:59 pm »

CHÂU (CHU) NHAM

Tục gọi là Bãi Ớt, cách trấn về phía đông 22 dặm rưỡi. Đỉnh núi tròn trịa, sườn đá lởm chởm, chạy thẳng đến bờ biển; có những gành đá chênh vênh, vũng sâu bùn cát, quanh bọc 2 bên tả hữu. Trong đó có đá <71b> tinh quang, ở dưới nhiều sò vằn đỏ. Tương truyền khi Mạc Cửu còn hèn mọn đến dưới Châu Nham nhặt được viên ngọc đường kính gần cả tấc ta (gần 3,3 cm) quý vô giá, ông kính dâng lên chúa. Bên bờ Châu Nham có vực sâu, là nơi hang ổ của cá tôm, chim cò bơi lội kiếm ăn từng bầy. Đây là cảnh Châu Nham lạc lộ (Cò đậu Châu Nham), một trong 10 cảnh ở Hà Tiên.

HỒ LÔ CỐC

Ở phía đông cách trấn 48 dặm, chu vi 2 dặm. Núi cao chót vót, hang hố khô khan mà hiểm trở, chẳng có cỏ cây mọc, dưới có vực biển sâu, gành rạn lởm chởm, thuyền bè không ra vào được. Phía ngoài có nhiều đảo nhỏ, suốt ngày sóng dập, tiếng vỗ như sấm.

KÍCH SƠN

Tục gọi là núi Hòn Chông. Sừng sững cao vút, sừng đá nhọn đứng thẳng như cây kích, chu vi chừng 2 dặm. Phía đông cách hang Hồ Lô 9 dặm. Chạy dài theo bãi biển, chân núi phía đông có phường Bồn Chử, nhân dân tụ tập ở đó khai thác nguồn lợi núi và biển. Gò đầu phía bắc trồng nhiều hồ tiêu, vườn tược thì trồng hoa quả rất tươi tốt.

ĐÔNG THỔ SƠN (HÒN ĐÔNG THỔ)

Ở cách Kích Sơn về phía đông 77 dặm. Núi rải rác có hòn lớn hòn nhỏ, nhô lên chu vi chừng 5 dặm, sỏi sạn gập ghềnh chạy xuôi biển. Khe Vạn Thanh giáp phía đông, suối Dừa giáp ở phía tây, cây cối um tùm. Ở chân núi phía bắc có nhiều thợ săn chuyên sống bằng nghề lấy sáp ong và săn bắt thú rừng.

TÂY THỔ SƠN (HÒN TÂY THỔ)

Cách Diếu Sơn (Táo Sơn?) về phía tây 28 dặm. Ngòi Trư giáp phía đông, sông Phương Thảo giáp phía tây, rừng rú chạy dài liên tiếp, có các sóc dân Cao Miên sống quây quần ở trong khoảng rừng sâu, tre dầy, đất đai còn rất thưa trống.

TIÊN KY CHỦY

Tục gọi là gành Bà, cách núi Tây Thổ về phía tây 30 dặm. Đá núi trải dài, đường dốc cao hiểm; ngó xuống góc biển, sóng vỗ ì ầm, gió xoáy cuồn cuộn, thuyền đi qua thường phải cẩn thận. Từ đó thẳng ra phía bắc, <78b> quanh lên phía tây, núi liên tiếp, khe suối đứt quãng, cây cỏ hoang vu, là vực hang, rừng sác của loài cầm thú.

BẠCH THẠCH NHAM (NÚI ĐÁ TRẮNG)

Hình thế chót vót đứng tựa bờ biển, chu vi chừng 2 dặm, ở cách đạo Long Xuyên (Cà Mau) chừng 20 dặm. Mặt trước giáp biển cạn có nhiều loại sam, cáy, trai, sò, cá.

BẠCH MÃ SƠN (NÚI BẠCH MÃ)

Ở về phía cực tây của trấn, giáp địa giới Xiêm La, Chân Lạp. Núi trải dài quanh co, hoang vu hẻo lánh. Thuở xưa đây là nơi Trần Thái họp đảng cướp. (Việc nầy chép trong Cương vực chí).

ĐẠI KIM DỮ (HÒN KIM DỮ LỚN)

Ở vùng bãi biển phía nam trấn, chu vi 193 trượng 5 thước ta. Đảo nầy ngăn sóng giữ, ấy là hạt ngọc biển của trấn. Nơi bờ có bắc cái cầu ván để thông lối ra vào, phía sau có viện Quan Âm, là chỗ Tống Thị Sương thêu tượng Phật Bà tịnh tu; phía trái có điếu đình, khi có gió mát trăng trong, khách du ngoạn thường buông câu ngâm vịnh <73a>. Phía trước có đặt trại thủ bị, phía tây nam xây lũy đá bao quanh để giữ giặc biển. Đây là cảnh Kim dữ lan đào (đảo Kim(vàng) ngăn sóng), một trong 10 cảnh đẹp ở Hà Tiên.

TIỂU KIM DỮ (HÒN KIM DỮ NHỎ)

Ở ngoài cảng Hà Tiên, chu vi 74 trượng, như con cá Kim Ngao trấn nơi cửa biển, làm trụ tiêu cho thuyền bè ra vào.

NỘI TRÚC DỮ (HÒN TRE TRONG)

Chu vi chừng 5 dặm, ở biển phía nam của trấn thự. Hình đảo to nhỏ vòi vọi, thông, tre ở đây rất xanh tốt.

NGOẠI TRÚC DỮ (HÒN TRE NGOÀI)

Chu vi chừng 7 dặm, làm bình phong ngoài cho trấn. Đây có 2 hòn đảo đứng đối nhau, tre xanh rậm rạp, tiếng suối đá róc rách, đêm vắng lặng nghe giật mình như tiếng rồng kêu núi biển.

CHÂU DỮ

Ở biển phía đông nam của trấn thự, chu vi 10 dặm. Đá núi lởm chởm, nham động lồi lõm, ở đây sản xuất các loại yến sào, đồi mồi và ba ba biển (con vích).

<71B> MÃNH HỎA DỮ (HÒN DẦU RÁI)

Chu vi 50 dặm, ở biển phía đông nam của trấn thự, đi thuyền nửa ngày thì đến. Nơi đây hang hốc sâu thẳm, cây cối xanh tươi, sản xuất các loại yến sào, dầu rái, than củi. Dân miền biển sống quanh chân đảo.

UẤT KIM DỮ (HÒN NGHỆ)

Chu vi 20 dặm, ở về biển phía nam của trấn. Ở đây cây tốt tre cao, động đá tối tăm, sản xuất các loại yến sào, dầu rái và than củi. Dân miền biển dựng lều quanh bờ khe triền núi.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #38 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:36:37 pm »

THẠCH HỎA DỮ (HÒN ĐÁ LỬA)

Ở biển phía đông của trấn thự, có 3 hòn đứng chồng nhau đối diện với miệng hang Hồ Lô, chu vi chừng 4 dặm. Nơi đây cỏ cây tiêu điều, có đá dùng nẹt lấy lửa; hang động cao dốc, chim én biển làm tổ trong ấy. Ngày trước có dân Đồ Bà (Chà Và) ở đây, nay đã đi nơi khác.

TRÚC DỮ (HÒN TRE)

Ở biển phía đông nam của trấn, chu vi 20 dặm, làm án ngoài cho hải cảng Kiên Giang. Trên đảo nham động sâu thẳm, <74a> sản xuất yến sào. Trước đây có dân cư, nay đã dời vào đất liền. Bên cạnh đảo có cái động, miệng rộng gần 2 thước ta, lòng rộng hơn 10 trượng, có ánh sáng mặt trời lọt vào khiến vật nhỏ như cây kim sợi chỉ cũng thấy được. Trong có cái vò xưa, bề ngang lưng độ 3 thước ta, là vật không biết của đời nào sót lại, khi xưa do lối nào mà đem vào được.

PHÚ QUỐC ĐẢO (ĐẢO PHÚ QUỐC)

Ở giữa biển, về phía tây nam của trấn, hành trình mất một ngày đêm mới đến. Trên đảo có những ngọn núi lớn, cao chất ngất, dãy núi đều chầu về phía bắc, từ đông sang tây cách chừng 200 dặm(?), từ nam lên bắc cách 100 dặm(?). Đảo này không có cọp beo, chỉ nhiều heo rừng, trâu rừng, nai hươu, yến sào, mây to, gỗ tốt, đồi mồi, hải sâm, quế, mắm; đất đây thích hợp với lúa sớm, các thứ đậu, bắp và dưa quả, ít có nếp dẻo. Trên núi có thứ huyền phách, ấy là tinh quang của đá đen, sáng đẹp như đồ sơn mài, dùng làm ngọc đeo, có thứ lớn đường kính đến 3 tấc ta, có thể khắc chạm làm hộp trầu và cốc đĩa rất quý giá <74b>, thỉnh thoảng cũng tìm được Long diên hương, lại có thứ Mặc ban hương, núi nào cũng có, ngoài vỏ lấm tấm đốm đen như thứ trầm hương non, mà chất nhẹ, vị lạt, lòng cây to rỗng có thể dùng làm ống đựng bút.

Ở phía tây nam có cửa Dương là nơi thuyền bè đến núp đậu. Dân biển ở thành thôn xóm; thật như câu thơ Nam minh thiên ngoại hiệp, Bắc hộ nhật biên khai (Biển phương Nam liền với chân trời, cửa phía bắc gần bên mặt trời mọc). Phía nam có đảo nhỏ Long Cảnh (Cổ Rồng), phía đông nam có đảo Dừa. Thế Tổ Cao hoàng đế ta khi bôn ba đã từng ngự xe rồng ra đảo ấy, dân trên đảo hết sức giúp đỡ và trung thành, họ đi xem xét tận tường tình hình quân địch và cung ứng vật dụng. Sau khi bình định xong, vua gia ơn miễn xâu dịch cho xứ ấy, tuy thuyền bè buôn cá cũng không đánh thuế. Duy đảo ấy nằm riêng ra ngoài biển xa, nên phải phòng bị giặc biển Đồ Bà (Chà Và) thừa cơ cướp bóc, cho nên phải đặt quan thủ ngự, dùng dân làm lính, cho đầy đủ khí giới để cùng nhau tự bảo vệ để giữ bờ cõi nơi đó.

<75A> THỔ CHÂU DỮ <ĐẢO THỔ CHÂU (CHU)>

Ở bờ biển phía đông của trấn thự, chu vi hơn 100 dặm, làm cái án xa cho đạo Long Xuyên và Kiên Giang. Nơi đây cây cối xanh um, nham động u ảo, chim hải yến làm tổ trong đó và các loại đồi mồi, ba ba biển, hải sâm sinh sản ở dưới vực sâu của đảo; đảo có dân cư, họ đều theo nghề chài lưới.

CỔ SON DỮ (HÒN CỔ SON)

Ở biển phía đông nam của trấn, chu vi 30 dặm; cây cối tre nứa tươi tốt, làm chằm vực cho cá mắm ở.

CỔ CÔNG DỮ (HÒN CỔ CÔNG)

Ở biển phía tây của trấn, phía đông cảng Hương Úc, chu vi 60 dặm. Nơi đây có núi đá chớm chở, cây cối um tùm, dưới có vũng sâu, ngoài có bình phong che chắn, thuyền bè qua lại thường ghé đậu nơi đây nghỉ ngơi; có nhiều thứ cá lớn, đồi mồi và hải sâm. Chỗ nầy khi xưa là sào huyệt tụ tập của bọn giặc biển Hoắc Nhiên (chép rõ ở Cương vực chí).

CỔ CỐT DỮ (HÒN CỔ CỐT)

Ở phía tây đảo Cổ Công, cách đảo Dang Khảm trong biển Đại Đồng thuộc địa đầu Xiêm La nửa ngày đường, chu vi hòn đảo 50 dặm, có nhiều gỗ to, dầu rái, than củi, mây, đồi mồi, hải sâm, cá tôm, trai, sò, nhân dân thường đến đây để khai thác nguồn lợi.

BIỂN

Hà Tiên ở về phía tây Gia Định. Thỏi đất Long Xuyên của đất ấy (đất Hà Tiên) phòi ra biển, tụ lại dần rồi chuyển qua hướng nam, lại có hòn Tiểu Thự (hòn Khoai Nhỏ) đứng ngoài để ngăn chặn sóng to và bồi lấp cồn bãi; cùng những đảo lớn nhỏ khác dăng ra la liệt, thẳng lên phía tây tiếp liền với cửa biển Bắc Nôm của nước Xiêm La. Phần giữa có vũng sâu rộng là Dương Trì của Hà Tiên, có những bãi cát, gành, vực, sâu cạn khác nhau, mối lợi ở đây là sản xuất nhiều thứ cá lớn, hải sâm, con vích, đồi mồi, trai, sò, tôm khô, cá mắm, con điệp (hải kính) và ốc tai tượng v.v... Gió nam và gió bắc ở đây là gió nghịch. Người làm chài lưới cứ đến tháng 3 hành nghề, thuyền bè người Quảng Đông, Quỳnh Châu (Hải Nam), thường đến đậu ở các đảo ấy, dùng lưới đánh bắt hải sâm, làm cá khô, cùng xen lẫn với dân ta, thuyền buồm nối nhau. Bọn cướp biển Trảo Oa có khi đến núp trong các đảo chờ cướp của bắt người <74a>, cho nên chỗ ấy đều được trang bị đủ khí giới để tự phòng bị, mỗi khi gió nam đến, thuyền tuần thám của trấn binh đi tuần tiễu rất cẩn mật, nếu chỉ một lúc sơ hở thì thấy nạn cướp bóc xảy ra ngay.

NAM PHỐ

Là lỵ sở Hà Tiên, nằm theo hướng Kiền (Càn) (tây - bắc) ngó về hướng Tốn (đông - nam), mà cuộc đất thì theo hướng Tý (bắc) nhìn đến hướng Ngọ (nam), cho nên các bến ven biển gọi là Nam Phố. Ngày xưa, Quận công Mạc Tông vịnh 10 cảnh ở Hà Tiên trong có cảnh Nam Phố trừng ba (Sóng lặng bến Nam) ấy là chép việc thực vậy.

ĐÔNG HỒ

Ấy là hồ ở trước trấn thự, phía nam khóa thủy khẩu của hải cảng Hà Tiên chặt chẽ để giữ địa khí, bề ngang 5 trượng, sâu 10 thước ta. Phía bắc tiếp với hạ lưu sông Vĩnh Tế. Lòng hồ mênh mông rộng 71 trượng, gọi là hồ Hà Tiên, còn gọi là Đông Hồ, vì hồ ở về phía đông vậy. Giữa hồ có nổi cồn cát non, phía đông và phía tây nước sâu trên dưới 5 thước ta, thuyền bè ở sông ở biển đến đậu chen nhau, người buôn tụ hội đông đảo <74b>. Cảnh trăng nước mênh mang; trong 10 cảnh ở Hà Tiên đây là cảnh Đông Hồ ấn nguyệt (trăng in Đông Hồ).

LƯ KHÊ (RẠCH VƯỢC)

Ở cách trấn về phía đông 7 dặm rưỡi, lại cách về phía đông núi Tô Châu 4 dặm rưỡi. Phía nam thông với biển cả, phía tây có điếu đình (nhà ngồi câu) là di tích của Mạc Quận công khi rảnh đến ngồi câu. Khe rộng 2 trượng rưỡi, sâu 5 thước ta, dài 5 dặm rưỡi, dòng khe uyển chuyển lên bắc chảy quanh ra Đông Hồ. Bờ phía đông có dân cư thôn Tiên Thuận ở đấy. Thỉnh thoảng có người dắt bạn (đêm), chèo thuyền đi dưới bóng cây sạch mát, rượu thịt ê hề, hừng đông tỉnh giấc Tô Tử; canh gỏi tươi ngon, hơi thu động niềm Trương công. Dân địa phương hay khách lạ tạt qua đều vui cảnh ấy, nên trong 10 cảnh ở Hà Tiên, có cảnh Lư Khê nhàn điếu (rảnh câu Lư Khê), ấy là ghi chép một việc lạc thú vậy.

CẦN VỌT CẢNG (CẢNG CẦN VỌT)

Ở về phía tây cách trấn 165 dặm rưỡi, rộng 49 trượng, <75a> sâu 5 thước ta, có sở thủ ngự Đồ Bà ở đấy. Suối từ núi chảy dài, rừng cây xanh tốt, khi trước là đất của Mán bỏ trống, người Việt kéo đến lập thành thôn xóm Tiên Hương; người Tàu, người Cao Miên, người Đồ Bà (Chà Và) hiện nay đến ở rất đông, có cả chợ phố nhỏ. Nơi đầu nguồn có sóc An Phủ Ghê của Cao Miên, ở đó có công quán vùng địa đầu làm chỗ cho sứ Xiêm La, Chân Lạp đến nghỉ.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #39 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:37:10 pm »

LŨNG KỲ GIANG (SÔNG LŨNG KỲ)

Ở phía tây trấn sở, có núi xanh đứng che chắn dòng nước trắng xóa nguồn xa. Đây là đất khi Mạc Cửu mới đến phương Nam làm chức Ốc nha (tên chức quan) cho Cao Miên, khai khẩn chiếm cứ, chiêu tập người Việt, người Hoa, người Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) đến ở, lập nên làng xóm chợ búa. Tháng 2 năm Ất Mùi đời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Tô Quốc công Nguyễn Phúc Chu), năm thứ 25 (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11, Đại Thanh Khang Hy thứ 54, 1715), Nặc Ong Thâm cầu viện quân Xiêm La về đánh Cao Miên, thủy binh đến cướp phá Hà Tiên, Thống binh Mạc Cửu đánh không lại, chạy qua giữ Lũng Kỳ <77b>, Nặc Ong Thâm cướp phá Hà Tiên rồi đi; qua tháng 4 Mạc Thống binh mới trở về đất ấy.

Trước đó vì Hà Tiên không phòng bị, quân Xiêm kéo đến bất ngờ, Mạc Cửu đánh một trận không thắng nên phải chạy xuống Lũng Kỳ. Người vợ của Mạc Cửu là Bùi Thị Lẫm (người xã Đồng Môn ( Đồng Mun) trấn Biên Hòa) đương có thai, đêm mồng 7 tháng 3 sinh ra Mạc Tông. Đêm ấy, bà đang ở giữa sông bỗng có hào quang chiếu sáng, lần theo dấu tìm thấy tượng Phật vàng cao 7 thước ta, dọi sáng đáy sông, sáng ra toan khiêng lên, nhưng sức cả ngàn quân cũng không khiêng đi xa nổi, bèn cất chùa nơi sông để thờ. Đầy tháng, Mạc Cửu đem Mạc Tông về lại Hà Tiên, lo tăng cường phòng thủ, đắp thành đất, đặt trạm để quan sát nơi xa và đặt các đồn ở các nơi hải đảo và quanh Giang Thành.

Mạc Tông thuở nhỏ thông minh sáng láng, đọc sách chỉ trông qua một lần là thuộc lòng, người đương thời khen là vị Bồ tát giáng thế.

Xét sử Cao Miên, năm Kỷ Sửu (1709), Nặc Ong Thâm trở lại ngôi vua, liền dời dân gây chuyện, sóc Ba Di <76a> của người Lào không phục, bèn cùng Tù trưởng của họ Lạch Trà Xí Thi theo về với người anh của Thâm là Yêm, còn Phiên liêu là Côn Bút cũng đem người Cao Miên ở rừng hoang chạy sang Gia Định. Năm Giáp Ngọ (1714), Nặc Ong Thâm cử binh đánh Yêm, Yêm xin viện binh ở thành Gia Định. Quân ta điều bọn Côn Bút tiến đánh Nặc Ong Thâm ở thành La Vách, vây hãm 3 tháng, Thâm cùng người em là Tân bỏ chạy qua Xiêm, rồi Yêm được lập làm vua. Mùa đông năm Ất Mùi (1715), vua Xiêm sai bọn Phi nhã Bồ Diệt đem 1500 quân đưa Thâm về Cao Miên xin giảng hòa. Yêm không chịu, đem quân chống lại ở phủ Tầm Bôn. Mùa xuân năm Bính Thân (1716), bọn Bồ Diệt kéo nhau về Xiêm, Thâm xin vua Xiêm sai em của y là Tân về trước để chiêu tập binh 2 phủ Tầm Bôn và Vô Lật. Yêm dò biết bèn cùng với quân ta tiến đánh tên Tân ở phủ Vô Lật; vua Yêm bắn trúng <78b> vai của Tân. Tân chạy về núi Sư Sinh dưỡng bệnh. Mùa đông năm Đinh Dậu (1717), Phi nhã Chất Tri ở Xiêm đem 10.000 quân bộ đến đồn trú ở Tầm Bôn. Tháng 2 năm Mậu Tuất (1718), Phi nhã Cù Sa đem 5.000 thủy binh hợp đồng với quân Thâm cướp đường kéo xuống Hà Tiên cướp phá. Mạc Thống binh không địch nổi phải tạm xuống Lũng Kỳ, gặp khi có cơn gió lớn thổi mạnh, thuyền bè của quân Xiêm bị chìm, người chết rất đông, Cù Sa bèn thu tàn quân trở về Xiêm La, chỉ còn Thâm thì chạy đến chỗ binh thứ của Tân ở thủ phủ Bô Bô. Khi ấy một mình Yêm chống với Thâm và lén sai sứ nạp lễ cống cho vua Xiêm. Quân của Chất Tri ở lâu mà không làm được gì, nhân đó mới đem bọn Thâm, Tân cùng về Xiêm La, từ đấy nơi biên cảnh mới yên tĩnh. Xét việc ấy chép cũng có chỗ giống chuyện Lũng Kỳ nầy, chỉ có năm tháng là khác nhau mà thôi. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

HƯƠNG ÚC CẢNG (CỬA HƯƠNG ÚC)

Ở biên giới phía tây trấn, phát nguyên ở núi Ca Ba, Cao Miên, chảy dài từ xa đến, làm <76a> thành hải cảng; nơi đây có người Việt, người Thổ ở thành thôn xóm.

KIÊN GIANG CẢNG (CỬA RẠCH GIÁ)

Cách trấn phía đông hơn 193 dặm. Đạo Kiên Giang ở bờ phía tây trong cảng, ở đây phố chợ đông đúc, thuyền buôn tụ họp đông đảo, phía đông đến đồn Trấn Giang thuộc Hậu Giang cách 303 dặm rưỡi, ở khoảng giữa có bia giới bằng cây ngô đồng. Cảng này lắm bùn lầy nước đọng, cây cỏ um tùm, mùa xuân nước cạn ghe thuyền không đi được, lại có nạn nhiều muỗi mòng và đỉa vắt. Năm Gia Long thứ 16 (1817), đào thông sông Thoại Hà, nước sâu mà đường đi lại gần, nhân dân được nhờ thuận lợi.

ĐẠI MÔN CẢNG (CỬA ĐẠI)

Ở phía đông đạo Kiên Giang 26 dặm, thông với sông Kiên Giang. Bên trong có nhiều mương ngòi, phía đông tiếp giáp sông Ba Thắc, có tôm khô, nước mắm nhỉ (?), mắm cá đồng. Dân làm nghề này tụ họp thành thôn xóm.

THẬP CÂU (MƯỜI NGÒI) - CŨNG GỌI LÀ MIỆT THỨ

Ở phía tây nam đạo Long Xuyên, từ ngòi thứ Nhứt đến ngòi thứ Mười trải dài cân nhau, do nước từ ao chằm, <77b> đồng ruộng chảy thông ra ngoài biển; ở đây sinh nhiều cá, tôm.

ĐỐC HUỲNH CẢNG (CỬA ĐỐC VÀNG) (CỬA SÔNG ÔNG ĐỐC)

Rộng 4 trượng, sâu 10 thước ta, cách đạo Long Xuyên (Cà Mau) về phía tây 107 dặm rưỡi. Trong đạo có quán xá đông đúc, thuyền bè tấp nập. Từ cảng cách 84 dặm đến ngã ba sông Khoa Giang rồi thông ra biển. Năm Đinh Dậu (1777), Tây Sơn vào xâm chiếm, thành Gia Định thất thủ; khi ấy Thế Tổ còn ở tiềm để, cưỡi thuyền buồm nhỏ theo vua Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) lưu lạc đến đây, đến khi giặc Tây Sơn đánh úp, ngự giá đang tạm trú ở thủ ngự Long Xuyên thì bị quân Tây Sơn bắt giải về mạn bắc, quan binh hộ tống đều bị bắt cả, chỉ có thuyền buồm nhỏ tách riêng đậu ở sông Khoa Giang nên được bình yên. Vua muốn thừa lúc đang đêm chạy ra biển để đi xa nhưng thuyền tới đâu cũng bị cá sấu cản đường không sao chạy được, dù chỉ là gang tấc, trong thuyền ai nấy đều kinh hãi. Sáng ra dân ở đấy bẩm báo rằng đêm qua thuyền giặc vây khắp dọc theo bờ biển, chúng đi tuần tiễu bốn phía <80a> không thấy bóng dáng quan binh đâu cả, đến quá trưa quân địch mới dẫn nhau đi mất. Khi ấy thuyền buồm nhỏ mới chạy ra đảo Thổ Châu (Chu) được yên ổn. Như vậy là trời sắp sinh ra thánh nhân để thành tựu khai sáng nghiệp lớn, Trung hưng như ngày nay nên đưa đến chỗ nguy mà ban phước, cho gặp khó mà bảo toàn, khiến cho có mưu sâu để nhận trách nhiệm to lớn; sông núi giúp linh, loài sấu theo bảo vệ, thật như rồng lên mây thoát khỏi ao tù, có quỷ thần hỗ trợ, ngăn cấm những việc chẳng lành. So với việc Hán Cao Tổ được trận gió lớn ở sông Tuy Thủy, Hán Quang Võ được nước đóng băng ở sông Hô Đà thật chẳng khác nhau vậy.

HÀU KY CẢNG (CỬA CẢNG GÀNH HÀU)

Làm ranh giới tột cùng của phía đông trấn, cách phía đông đạo Long Xuyên (Cà Mau) 120 dặm rưỡi ; phía tây nam hiệp với thượng lưu cửa Bồ Đề, phía tây bắc chảy ra cửa Đốc Huỳnh (sông Ông Đốc), phía đông nam chảy khuất khúc 109 dặm rưỡi đến cảng Ba Thắc. Trong đấy có nhiều mương ngòi đan thông nhau, nguồn lợi lùm chằm dùng không bao giờ hết.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM