Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:01:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Bình Phước kháng chiến (1945-1975)  (Đọc 85878 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2011, 08:14:20 am »

Cuộc kháng chiến tuy vẫn còn khó khăn, song so với những tháng cuối năm 1945 đầu năm 1946, tình hình có những chuyển biến tốt. Các hoạt động tuyên truyền kháng chiến được đẩy mạnh trong vùng cao su và vùng đồng bào dân tộc, nhất là việc phổ biến tin tức được tổ chức thường xuyên. Các hoạt động quân sự đánh địch cũng được tăng cường. Các hoạt động diệt ác, phá tề, trừng trị những tên việt gian nguy hiểm, được phát động rầm rộ trong quần chúng nhân dân có tác dụng làm tê liệt bộ máy tề ngụy ở cơ sở. Ngoài ra, bộ đội còn kết họp với cán bộ địa phương đẩy mạnh công tác xây dựng cơ sở cách mạng trong các thôn ấp, đồn điền cao su; tổ chức lại các đoàn thể cách mạng, từng bước xây dựng lại cơ sở chính trị trong quần chúng. Phong trào kháng chiến dần dần được khôi phục và phát triển.

Tháng 8 năm 1946, sau khi nắm được tình hình trong đồn địch ở Hớn Quản, trung đội 1 thuộc đại đội 3 - đại đội Hớn Quản, Lộc Ninh, có cơ sở nội ứng hỗ trợ, đã tổ chức trận đánh đầu tiên. Mục tiêu tiến công là dinh quận trưởng, đồn cảnh sát, nhà ga, nhà bưu điện, trụ sở xã Tân Lập Phú tại chợ Hớn Quản và nhà đồn trưởng cảnh sát, đồng thời tìm diệt một số tên ác ôn. Ta có thuận lợi do xung quanh là rừng cao su, và do địch chủ quan cho rằng đây là nơi an toàn tuyệt đối, nên trận đánh diễn ra nhanh gọn. Ta đối phá trụ sơ tề, nhà ga, nhà bưu điện, diệt tên việt gian có nợ máu, 3 tên lính khác, thu 2 khẩu súng và một ít đạn dược. Tuy lực lượng ít, những trận đánh đã mang lại thắng lợi lớn về chính trị. Nhân dân các vùng cao su, các xã, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vui mừng phấn khởi trước kết quả đạt được. Ngày 7 tháng 9 năm 1946, phân đội 2 thuộc trung đội 3, đại đội 3 đột nhập thị trấn Chơn Thành diệt tên quận trưởng Hớn Quản cùng một số lính. Trận này làm rung động bộ máy kìm kẹp của giặc tại địa phương. Nhân đà thắng lợi ta bám đường dây xe lửa Lộc Ninh móc nối các cơ sở trong làng, sở cao su để tổ chức lại nghiệp đoàn, vận động phong trào công nhân cao su đấu tranh chính trị.

Các lực lượng dân quân, du kích địa phương được phân công bám vùng ven các tuyến đường quốc lộ 13 và 14, tiếp tục diệt địch, trừ việt gian.

Tháng 10 năm 1946, công nhân cao su ở đồn điền Lộc Ninh diệt tên xu Phú, đốt cháy nhiều quân trang quận dụng của địch trên xe lửa từ Sài Gòn đi Lộc Ninh. Một số cơ sở sản xuất của Pháp thuộc đồn điền Lộc Ninh bị công nhân bí mật phá hủy. Những tên mật vụ, chỉ điểm thường đánh đập công nhân như Cao Đề, Bái đã bị công nhân trừng trị đích đáng.

Thắng lợi của trận tập kích thị trấn Hớn Quản và tin tức về Hội nghị Phôngtennơbơlô(1) với việc ký kết Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946 đã tác động mạnh đến tinh thần cách mạng, gây dựng niềm tin trong nhân dân vùng cao su và đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều hoạt động đã diễn ra như công tác xây dựng và kiện toàn bộ máy kháng chiến, công tác địch vận, lôi kéo nhiều lính ngụy bỏ ngũ theo cách mạng…

Tình hình kháng chiến từ cuối năm 1946 về sau có chuyển biến tốt. Lực lượng bộ đội, các nhóm vũ trang tuyên truyền còn gian khổ, nhưng nhờ sự tiếp tế của nhân dân nên về cơ bản vấn đề lương thực thực phẩm không phải lo như lúc trước.

Các hoạt động tuyên truyền được đẩy mạnh trong vùng cao su và vùng đồng bào dân tộc, nhất là việc phổ biến tin tức được tổ chức thường xuyên. Hình thức là lập từng nhóm nhà rồi phổ biến miệng. Nơi nào có điều kiện thì họp nhóm để phổ biến

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta buổi đầu đã gặp phải khó khăn gay gắt. Chính quyền và đoàn thể ở nhiều nơi tan vỡ. Bộ đội và lực lượng kháng chiến đang đứng trước tình thế hết sức khó khăn: vũ khí, thuốc men đều thiếu. Quân Pháp hầu như chiếm đóng khắp các trục đường giao thông, các đồn điền cao su. Lực lượng vũ trang còn rất non trẻ, chất lượng chính trị chưa cao, trình độ chiến, kỹ thuật và trang bị kém, hạn chế về mặt tổ chức. Nhưng chính trong những ngày gay go ác liệt này, các lực lượng vũ trang tuyệt đại đa số cán bộ, chiến sĩ là những người yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng, được rèn luyện trong đấu tranh, trưởng thành từ phong trào khởi nghĩa toàn dân vẫn kiên quyết bám trụ tại chỗ, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, lập căn cứ tạo thực lực to lớn cho công cuộc kháng chiến lâu dài.


(1) Fontainebleau, Pháp (T,G).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2011, 06:27:04 pm »

III. XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN

Sau khi chiếm được những địa bàn then chốt và kiểm soát các đường giao thông chính ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, mục tiêu tiếp theo của thực dân Pháp là đưa quân ra miền Bắc. Nguy cơ cuộc chiến tranh xâm lược lan rộng đang đến gần. Trước tình hình nghiêm trọng của đất nước, đại diện Chính phủ ta ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946. Với chủ trương chiến lược “Hòa để tiến”, việc ký kết Hiệp định Sơ bộ tạo điều kiện cho ta củng cố và phát triển lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược ở quy mô mới. Tuy nhiên, ngày 7 tháng 3 thực dân Pháp phản bội Hiệp định. Và chỉ 10 ngày sau đó, ngày 15 tháng 3, tướng Pháp Nyô (Nye), tư lệnh quân Pháp ở Nam Việt Nam tổ chức tiến công càn quét căn cứ khu bộ Khu 7. Các đơn vị vũ trang của ta chiến đấu bảo vệ chiến khu nhưng không thể ngăn chặn được bước chân xâm lược của quân Pháp. Ngày 10 tháng 4 năm 1946, Bộ chỉ huy Khu 7 đã đàm phán với đại diện tướng Nyô về việc thực hiện điều khoản ngừng bắn của Hiệp định Sơ bộ, nhưng cuộc đàm phán không đem lại kết quả.

Dự kiến quân Pháp sẽ tăng viện và mở rộng phạm vi đánh chiếm. Hơn nữa, cuộc chiến trang đang ngày càng diễn ra ác liệt trên các chiến trường. Trước tình hình đó, việc xây dựng căn cứ địa và giữ vững mối quan hệ giữa phong trào công nhân trong đồn điền với các hoạt động tại căn cứ kháng chiến trở thành một nhiệm vụ cấp thiết. Vì thế, Bộ chỉ huy Mặt trận Miền Đông đã triển khai lập các căn cứ kháng chiến. Căn cứ chiến khu Đ được xây dựng thành căn cứ lớn của miền Đông Nam Bộ. Đây là nơi đứng chân chỉ đạo của Xứ ủy, Trung ương Cục miền Nam, Khu ủy Miền Đông, nơi huấn luyện đào tạo nhiều cán bộ cách mạng, công nhân cao su. Bên cạnh đó ở mỗi địa phương cũng đã hình thành các căn cứ kháng chiến.

Dựa vào địa thế hiểm trở, núi cao thuận lợi cho việc huấn luyện, trú đóng quân, xây dựng bảo vệ và nuôi dưỡng phát triển các lực lượng vũ trang, là nơi tạo điều kiện cho lực lượng kháng chiến tổ chức phòng thủ cũng như tiến công tiêu diệt địch bằng lối đánh du kích. Nơi đây còn là địa bàn khá quan trọng, có tính chất yết hầu nối liền từ biên giới Tây Nam giáp Campuchia đến các tỉnh cực Nam Trung Bộ, từ chiến khu Đ đến các căn cứ Tây Nguyên. Nên từ năm 1946, trên địa bàn Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp hệ thống căn cứ địa được hình thành tương đối hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang dừng chân phát triển lực lượng, huấn luyện quân sự, thực hành chiến đấu tiêu diệt địch. Mặc dù bị Pháp càn quét, khủng bố liên tục trong những ngày đầu kháng chiến, nhưng các căn cứ địa vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, làm chỗ dựa cho lực lượng vũ trang bám trụ chiến đấu.

Trên suốt địa bàn từ Phước Hòa, Phước Vĩnh đến Phước Long, Bà Rá thuộc tả ngạn Sông Bé, Thuận Lợi có một vị trí khá quan trọng, là nơi thông thương tiếp viện giữa Sài Gòn và Tây Nguyên. Để đi Tây Nguyên Pháp phải qua Phước Hòa, Phước Vĩnh, rồi theo quốc lộ 15 lên Ban Mê Thuột. Đồng thời, Thuận Lợi có giá trị như một chốt điểm làm nơi nghỉ chân và làm bàn đạp tỏa đi các nơi khác, là nơi có số lượng công nhân khá đông. Do đó, ta có thể dựa vào để tiếp tế lương thực, thực phẩm, nắm tình hình địch, tổ chức cơ sở hoạt động cho các lực lượng kháng chiến đóng ở đây. Nhận thức được tầm quan trọng của Thuận Lợi, Bộ chỉ huy mặt trận Miền Đông triển khai lập chiến khu Thuận Lợi. Căn cứ Thuận Lới dự kiến là căn cứ chính. Lương thực, máy móc, cơ sơ vật chất của tỉnh Thủ Dầu Một, Miền Đông được chuyển về Thuận Lợi. Cuối năm 1945, cơ quan quân sự Khu 7 cử một đơn vị vũ trang do đồng chí Vũ Đức làm tư lệnh trưởng về đóng ở chiến khu Thuận Lợi. Lực lượng vũ trang ở căn cứ cùng với quân, dân Thuận Lợi củng cố tổ chức, luyện tập quân sự chuẩn bị kháng chiến ở địa phương. Từ căn cứ Thuận Lợi, hàng trăm công nhân cao su ở đồn điền được tuyển vào bộ đội đem theo nhiều máy móc, lương thực đến vùng Mỹ Lộc, Lạc An, Tân Định lập chiến khu Lạc An để cùng quân dân tỉnh Biên Hòa chống Pháp. Và từ năm 1946, Ban công tác liên thôn 7 của tỉnh Biên Hòa thường xuyên hoạt động trong đồn điền Thuận Lợi với gần một trung đội, được trang bị 19 súng trường do đồng chí Đỗ Bồng Long làm Trưởng ban, đồng chí Lý Quới làm Phó ban. Về sau tổ chức này phát triển thành một phân đội trực thuộc Chi đội 10, Ban công tác thường xuyên đánh quấy rối địch. Ta còn xây dựng được hai cơ sở cảm tình cách mạng ngay trong trung tâm đồn điền Thuận Lợi làm nơi tiếp tế lương thực thực phẩm và cung cấp tin tức cho ta.

Xuất phát từ căn cứ, các lực lượng vũ trang tổ chức nhiều cuộc hành quân ra bên ngoài tấn công tiêu diệt đồn bốt địch, tập kích vào vùng tạm bị chiếm diệt tề trừ gian, diệt sinh lực địch, đánh phá giao thông, cắt đường vận chuyển của chúng.

Đầu năm 1946, đồng chí Nguyễn Đức Thuận được Xứ ủy Nam Bộ phái về Thủ Dầu Một công tác. Đồng chí chỉ định Tỉnh ủy Thủ Dầu một gồm 7 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Văn Tiết làm Bí thư, đồng chí Văn Công Khai làm Phó Bí thư. Và chỉ thị cho đồng chí Lê Đức Anh đưa đại đội 3 về xây dựng căn cứ Truông Ba Trường. Căn cứ này là vùng rừng núi thuộc ba xã Tân Khai, Tân Thành, Minh Thạnh của huyện Bình Long ngày nay. Nơi đây dần dần trở thành địa điểm đứng chân của các cơ quan huyện Hớn Quản và lực lượng vũ trang đại đội 3.

Từ căn cứ Truông Ba Trường, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Đức Anh, đại đội 3 tìm cách xây dựng cơ sở ở các đồn điền Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch, Quản Lợi, xã Tân Quang thị trấn Hớn Quản và các sóc đồng bào dân tộc thiểu số. Sau một thời gian ngắn ta bắt liên lạc được với ông Mười Lũy, anh Bảy Phú, Sáu Lục. Từ những cơ sở ban đầu này, anh em mở rộng cơ sở ra ở xã Tân Quang, các đồn điền Xa Trạch, Xa Cát, Quảng Lợi, Xa Cam, ấp ga Hớn Quản. Sau khi móc nối và mở được cơ sở, việc đầu tiên là vận động bà con ủng hộ lương thực, thực phẩm, tiền bạc cho bộ đội.

Cũng trong năm 1946, nhân dân An Linh, Phước Sang(1) xây dựng khu căn cứ kháng chiến tạo chỗ dựa cho phong trào cách mạng địa phương. Khu căn cứ có 3 vọng gác. Mỗi vọng gác cách nhau 3 km, xung quanh có dựng các chướng ngại vật. Ngoài ra du kích còn đào hầm chông và gài cung(2). Mỗi trạm gác có một tổ du kích tuần tra suốt ngày đêm với nhiệm vụ phát hiện địch, gài trái tự động mỗi chiều, sáng gỡ đi để nhân dân đi lại sản xuất. Nhân dân An Linh, Phước Sang dựa vào rừng núi để vừa chiến đấu vừa sản xuất, làm cho vùng An Linh - Phước Sang trở thành căn cứ kháng chiến lâu dài của ta. Trong căn cứ có đầy đủ các tổ chức đoàn thể cách mạng. Chủ tịch là đồng chí Nguyễn Đình Lập, xã đội trưởng là đồng chí Nguyễn Văn Huỳnh, hai xã đội phó là đồng chí Nguyễn Văn Dẻo và đồng chí Thửa, đồng chí Tám Hóa phụ trách chính trị.


(1) Thuộc huyện Đồng Phú ngày nay (T.G).
(2) Một loại vũ khí của đồng bào dân tộc thiểu số (T.G).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2011, 06:28:34 pm »

Tại khu căn cứ kháng chiến, chính quyền cách mạng tổ chức các lớp học, thành lập các đội văn nghệ. Các tổ chức đoàn thể như thanh niên phụ nữ. Đây là những lực lượng đi đầu trong phong trào học chữ và văn nghệ của căn cứ An Linh - Phước Sang.

Mỗi căn cứ tuy hoạt động tương đối độc lập nhưng không tách rời nhau. Hệ thống các căn cứ địa được thiết lập thành hành lang liên hoàn liên kết với nhau nhằm đáp ứng một cách toàn diện các yêu cầu đề ra của lực lượng kháng chiến.

Cùng với hệ thống các căn cứ kháng chiến, các đồn điền cao su không những đem lại nguồn lợi kinh tế quan trọng mà còn là những vị trí chiến lược rất lợi hại về quân sự. Dựa vào nguồn lương thực thực phẩm sẵn có ở đồn điền, ta đã xây dựng cơ sở cách mạng vững chắc trong các đồn điền, tổ chức thành hậu phương tại chỗ cho kháng chiến. Các làng công nhân cũng là nguồn tiếp tế không bao giờ cạn về sức người, sức của cho kháng chiến, nhiều công nhân được đào tạo, phát triển thành cán bộ nòng cốt. Các cán bộ được cử về các đồn điền cao su bắt liên lạc xây dựng phát triển tổ chức công đoàn, tổ chức công nhân tham gia kháng chiến. Đến cuối năm 1946, trong hầu khắp các đồn điền cao su ở Hớn Quản, Lộc Ninh, việc chỉ đạo phong trào công nhân tại chỗ và các cơ sở bám trụ đã được hoàn tất. Phong trào đấu tranh của công nhân cao su ngày một phát triển hòa cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.

Trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ta xây dựng được một số cơ sở cách mạng, cán bộ cốt cán người dân tộc. Ở Phú Riềng và Nha Bích, có bà Điểu Thị Bách, người Châu Ro, bà Lâm Chung người Khmer. Nhờ sự giúp đỡ của đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều thanh niên công nhân đã trốn vào rừng nhập vào các đơn vị của Chi đội 10; và đại đội 3 của Chi đội 1. Đồng bào còn tham gia phá đường, lập chướng ngại vật, rào làng và dùng những vũ khí tự tạo để đánh địch.

Sự ra đời của các căn cứ kháng chiến đã có ảnh hưởng to lớn, góp phần xây dựng căn cứ hậu phương hỗ trợ trực tiếp cho cuộc đấu tranh tại chỗ của công nhân cao su và phong trào kháng chiến trên địa bàn Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp và là nơi xuất phát khi tiến công địch. Đối với công nhân cao su, các căn cứ kháng chiến là nơi lập nghiệp mới, là sự đổi đời. Tại đây họ có cuộc sống riêng độc lập, tự do tăng gia sản xuất, xây dựng lực lượng dân quân du kích xã ấp, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và là nơi hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của công nhân các đồn điền. Trong công cuộc kháng chiến của quân và dân ta Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp còn giữ vai trò làm nơi tiếp nhận các nguồn chi viện tiếp tế từ các làng bị tạm chiếm, sự chi viện tiếp tế của Trung ương, và từ đây được phân phối đến các chiến trường. Song song đó, mối liên kết chặt chẽ mật thết giữa phong trào kháng chiến ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Ngoài ra, ta còn chủ trương đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở các vùng còn trắng trong khu vực cao su, trong thị trấn và trong đồng bào các dân tộc. trong các xã nông thôn thì xây dựng các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông dân, xây dựng hội phụ lão và Mặt trận Việt Minh; ở các đồn điền thì xây dựng nghiệp đoàn, đồng thời hết sức tranh thủ số các thầy xu, thầy ký của đồn điền; ở vùng đồng bào dân tộc thiểu sốt thì đẩy mạnh công tác tuyên truyền kháng chiến.

Trong thời gian cuối năm 1945 đầu năm 1946, quân dân các quận Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp phải chiến đấu, sinh hoạt trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Với địa bàn ruộng ít, rừng nhiều, lại bị địch càn quét, phá hoại liên miên, khả năng ủng hộ cho kháng chiến của nhân dân rất hạn chế. Bệnh hoạn thiếu thuốc, nhất là bệnh sốt rét, không ít chiến sĩ chết vì sốt rét ác tính. Tuy nhiên, nhân dân vẫn tìm mọi cách để đóng góp cho cách mạng. Phong trào quyên góp tiền gạo, thuốc men cho bộ đội, lấy công binh xưởng, vũ trang phá rối địch phát triển rầm rộ ở khắp các đồn điền, các xóm ấp ở Hớn Quản, Lộc Ninh, Thuận Lợi.

Hoạt động lấy tài sản của tư bản Pháp gửi vào chiến khu phát triển thành phong trào rộng rãi khắp các đồn điền, mỗi đồn điền đều thành lập Ban vận động tiếp tế làm nhiệm vụ quyên góp và vận chuyển ra căn cứ.

Nhằm ngăn chặn việc công nhân tiếp tế cho kháng chiến, bọn chủ đồn điền lập ra “nhà ăn công nhân”, thực chất là để tránh phát gạo cho anh chị em. Công nhân bị bệnh, chúng bắt người bệnh há miệng rồi tự tay bỏ thuốc cho nuốt, nhằm ngăn chặn việc công nhân xin thuốc gửi cho bộ đội. Mặc dù bị giám sát, kìm kẹp, công nhân cao su Hớn Quản, Lộc Ninh vẫn tìm cách tiếp tế thuốc men, gạo cho cách mạng. Nhiều chị em giả bệnh để xin thuốc, bị buộc phải uống tại chỗ nhưng các chị chỉ ngậm thuốc sau đó đem phơi khô gửi cho các chiến sĩ. Ngay ở “nhà ăn công nhân”, nhiều người đã bớt phần cơm của mình mang về nhà phơi khô, tích trữ lại chờ ngày chuyển vào căn cứ. Đó là chưa kể hàng loạt công nhân cao su đã bỏ đồn điền gia nhập lực lượng vũ trang chống Pháp, đi dân công phục vụ chiến trường; ngay cả những người vốn là cai, xu, sếp, từng làm tay sai cho tư bản Pháp cai trị công nhân cũng theo lực lượng kháng chiến, góp phần quan trọng vào thắng lợi của kháng chiến.

Ngay trong vòng tạm chiếm - nơi còn rất nhiều khó khăn cho hoạt động, nhưng bất chấp mọi biện pháp kiểm soát và khủng bố gắt gao của địch, công nhân cao su và quần chúng nhân dân vẫn tìm mọi cách đóng góp sức người, sức của, không tiếc công sức, máu xương, nỗ lực hoàn thành nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp cung. Đó là những thanh tích, những chiến công rất đáng tự hào.

*
*   *

Mặc dù kháng chiến trong điều kiện không cân sức, hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, lực lượng còn rất non yếu, phần lướn cán bộ thiếu kinh nghiệm tác chiến, thiếu huấn luyện, sức chiến sĩ có lúc sút kém; những cán bộ cách mạng lại thường xuyên bị giặc Pháp khủng bố, tàn sát, lùng bắt hòng dập tắt làn sóng đấu tranh của nhân dân; nhưng chỉ trong vòng hơn một năm từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946, quân và dân Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp đã không ngừng vượt qua gian khổ, chống trả quyết liệt quân địch bằng mọi thứ vũ khí, bằng mọi hình thức để bảo vệ chính quyền cách mạng. Những thành quả bước đầu này là sức mạnh để quân và dân vùng bắc Thủ Dầu Một, Biên Hòa sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới trong những năm tiếp theo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2011, 06:30:33 pm »

CHƯƠNG HAI

PHÁT TRIỂN CHIẾN TRANH DU KÍCH,
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG BA THỨ QUÂN,
PHÁ KẾ HOẠCH BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH (1947-1950)

I. PHÁT TRIỂN CHIẾN TRANH DU KÍCH RỘNG KHẮP

Tướng Valluy Tổng chỉ huy quân đội Pháp xâm lược đã chỉ thị cho tướng Nyo, phụ trách chiến trường Nam Bộ: “Nỗ lực chủ yếu của chúng ta là ở Bắc Kỳ nhằm tiêu diệt đơn vị chính quy và cơ quan Chính phủ Trung ương. Nhưng Nam Kỳ vẫn chiếm một vị trí quan trọng, đầu tiên là phải loại trừ Việt Minh ra khỏi Nam Kỳ. Nam Kỳ vẫn là cái nút của vấn đề Pháp - Việt. Hơn bao giờ hết, việc bình định Nam Kỳ phải là hòn đá thử vàng đối với sự khôn khéo giải quyết của người Pháp. Nếu trong vài tháng mà tách được Nam Kỳ ra khỏi chiến tranh thì Pháp sẽ giải quyết được 3/4 vấn đề Đông dương”(1). Và hạ quyết tâm vào mùa thu năm 1947 phải “bình định” xong Nam Bộ.

Chính vì thế mà ngay từ đầu năm 1947, thực dân Pháp vạch ra chương trình bình định Nam Bộ, coi đây là khâu then chốt trong chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của chúng. Trong đó, củng cố và đẩy mạnh hoạt động khai thác cao su ở Miền Đông Nam Bộ trở thành một trong những chính sách quan trọng trong chương trình bình định Nam Bộ của thực dân Pháp. Các đồn điền cao su được xem là “vàng trắng” đem lại nguồn lợi khổng lồ cho giới tư bản. Chính vì vậy, để bảo đảm an ninh cho các đồn điền cao su, kiểm soát được công nhân, Pháp cho tăng cường các đồn bốt khắp các đồn điền cao su Thuận Lợi, Lộc Ninh, Bù Đốp, Quản Lợi. Đồng thời chúng còn tổ chức các cuộc càn quét để ngăn chặn ảnh hưởng của cuộc kháng chiến đối với đội ngũ công nhân đồn điên, đàn áp các cuộc đấu tranh của công nhân nhằm mục đích sản xuất nhiều cao su hơn để bù đắp những thiệt hại do cuộc chiến trước gây ra. Ngoài hệ thống đồn bốt trong đồn điền, còn có các đồn bốt dọc theo các quốc lộ 13, 14; khắp các làng cao su, thực dân Pháp đóng tháp canh dày đặc; tăng cường lực lượng và trang bị thêm vũ khí cho các đòn bốt để trấn giữ các cửa rừng cao su, các trung tâm đồn điền, hỗ trợ cho tư bản Pháp khai thác, kiềm chế đàn áp phong trào cách mạng của công nhân và hoạt động tác chiến của bộ đội ta. Bên cạnh đó, chúng còn gài bọn mật thám, gián điệp vào các buôn làng, các sở cao su một cách chặt chẽ.

Song song đó, để thực hiện chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”, quân Pháp tập trung mở các cuộc hành quân đánh sâu vào vùng căn cứ kháng chiến, tìm diệt lực lượng vũ trang, thường xuyên tổ chức các cuộc càn quét vùng du kích để diệt du kích và chính quyền cách mạng, từng bước mở rộng vùng kiểm soát, thu hẹp vùng căn cứ, triệt phá các cơ sở của ta ở Miền Đông.

Tuy nhiên, những âm mưu đó của thực dân Pháp đã gặp phải sự chống trả quyết liệt của nhân dân địa phương và công nhân trong các đồn điền. Dù với những tháp canh, đồn bốt dày đặc nhưng không rào chắn được lòng người. Đó là căn cứ lòng dân trong đồn điền, tinh thần yêu nước luôn hướng về cách mạng của nhân dân.

Tháng 12 năm 1946, Bộ chỉ huy Khu 7 thành lập 4 liên quân nhằm đánh bại lực lượng phản động Cao Đài do Pháp tổ chức chống lại cách mạng. Hai trung đội thuộc Chi đội 1 tham gia Liên quân B do đồng chí Huỳnh Kinh Trương chỉ huy. Sau một thời gian hoạt động, liên quân B hạn chế được hoạt động của quân phản động Cao Đài. Đầu tháng 6 năm 1947, liên quân B hành quân về Minh Thạnh đánh một đoàn xe địch trên đường Bến Cát đi Minh Thạnh diệt hơn một đại đội, thu 2 trung liên, 10 tiểu liên, 30 súng trường. Ngày 15 tháng 6 năm 1947, bộ phận Chi đội 1 trong Liên quân B trở về đội hình chi đội.

Cuối tháng 12 năm 1946, Khu bộ Khu 7 chấn chỉnh lại cơ quan, đổi tên Khu bộ thành Tư lệnh bộ. Tháng 1 năm 1947, Tư lệnh bộ triệu tập Hội nghị quân sự toàn khu. Hội nghị đề ra nhiệm vụ chủ yếu: chống chính sách mua chuộc giáo phái của giặc Pháp và củng cố xây dựng lực lượng bộ đội, đánh mạnh vào hậu phương của chúng ở các cơ sở kinh tế trong nội thành, rừng cao su và dọc các đường giao thông quan trọng.


(1) Dẫn theo: Lịch sử Đảng bộ Sông Bé, tập 1 (1930-1954), Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sông Bé xuất bản, 1995, tr. 266.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2011, 06:31:53 pm »

Trong tình hình này, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một khẩn trương củng cố và chấn chỉnh tổ chức, phát triển lực lượng, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích và các hoạt động đấu tranh chính trị trên các chiến trường, bằng mưu trí sáng tạo, bằng sức mạnh quân sự của ta và công tác địch ngụy vận, bằng phục kích chống càn, đánh giao thông, diệt đồn bốt ta đã làm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và tăng cường lực lượng của ta. Việc phá hoại cơ sở kinh tế của địch (nhất là các đồn điền cao su), xây dựng, mở rộng các khu căn cứ kháng chiến, quấy rối địch ở vùng tạm chiếm, ra sức giữ người giữ của, giành người, giành của với địch là những hoạt động được tiến hành thường xuyên. Trong các thị trấn, thị xã, đồn điền cao su đều có du kích mật hoạt động, các xã đều có tiểu đội du kích. Trong địa bàn Hớn Quản, Bù Đốp các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy đều được củng cố, hệ thống tổ chức chính quyền cách mạng được chấn chỉnh và xây dựng mới. Xúc tiến công tác kinh tế - tài chính, vận động nhân dân đi lại, mua bán giữa vùng tạm chiếm và vùng căn cứ, phá thế bao vây kinh tế của địch, tìm mọi cách chuyển vào căn cứ lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác. Vận động thanh niên tòng quân, phát triển mạnh mẽ lực lượng vũ trang ở các cấp.

Hoạt động trên địa bàn bắc Thủ Dầu Một, Biên Hòa ngoài Chi đội 1 còn có Chi đội 10, bộ đội Hoàng Thọ, lực lượng Công an xung phong và Quốc vệ đội… Những lực lượng này cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, cướp vũ khí trang bị cho ta. Các chi đội phối hợp cùng với du kích các xã tổ chức tấn công địch, tiêu diệt đồn bốt bằng nhiều cách như gài nội ứng, hóa trang làm binh lính, sĩ quan…; chống địch càn quét, bảo vệ căn cứ kháng chiến. Chiến tranh du kích phát triển ngày một phong phú, đa dạng đã gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.

Tháng 7 năm 1947, Ủy ban kháng chiến hành chính Biên Hòa cử đồng chí Ngô Văn Long cùng một cán bộ là Lê Đình Ngữ và một liên lạc tên là Thái lên vùng Bà Rá để tổ chức, xây dựng cơ sở cách mạng trong đồng bào dân tộc thiểu số. Thông qua các cuộc tiếp xúc với những người thường lên buôn bán ở đây, đồng chí Ngô Văn Long đã tuyên truyền, thuyết phục, cảm hóa được một số người, vận động họ đi theo cách mạng. Cuối năm 1947, từ những cơ sở cách mạng do đội công tác Biên Hòa gây dựng lên, Ủy ban kháng chiến hành chính vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Bà Rá được thành lập. Ta tiếp tục vận động được một số cai tổng như Thạch Tam, Tổng Nhiêu và xây dựng thêm hàng chục cơ sở cách mạng ở vùng này.

Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng, cuối năm 1947, được sự đồng ý của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, tỉnh Biên Hòa thành lập huyện Sông Bé giáp với chiến khu Đ về phía đông - đông bắc(1). Huyện ủy đầu tiên của vùng Bà Rá được thành lập do đồng chí Ngô Văn Long làm Bí thư. Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Sông Bé ra đời, đồng chí Bí thư huyện ủy kiêm Chủ tịch huyện, 2 Phó chủ tịch là người dân tộc thiểu số tại địa phương.

Sau khi ổn định tổ chức, Huyện ủy Sông Bé cử nhiều cán bộ đi xây dựng phong trào du kích trong các buôn sóc và đồn điền cao su. Nhờ đó, lực lượng tự vệ buôn sóc được thành lập và tổ chức thanh từng tiểu đội với các loại vũ khí tự chế như cung tên, nỏ ná, hầm chông, chà gạc để bảo vệ xóm làng. Mỗi phum sóc đều có hàng rào chiến đấu góp phần cản bước các trận càn quét của quân thù.

Tỉnh ủy Thủ Dầu Một còn chỉ thị cho các huyện ủy gấp rút khôi phục các đoàn thể cứu quốc như Mặt trận Việt Minh, Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ. Đồng thời, điều động một số cán bộ trong Tỉnh bộ Việt Minh làm công tác xây dựng các đoàn thể ở trên khắp các địa bàn Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp.

Ngày 1 tháng 10 năm 1947, theo sắc lệnh số 91/SL, Ủy ban kháng chiến hành chính của tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập. Ủy ban gồm có: Huỳnh Minh Chương làm chủ tịch; Võ Văn Đợi, Phó chủ tịch; Trần Khắc Cần, Tổng thư ký; Nguyễn Văn Tiết, Ủy viên chính trị; Trần Minh Phương; Ủy viên kinh tế tài chính; Huỳnh Văn Bộ, Ủy viên xã hội.

Trong năm 1947, Công đoàn Nam Bộ đã phát hành tờ báo “Cảm tử” bí mật gửi đến các đồn điền cao su nhằm tuyên truyền, động viên, bồi dưỡng các cơ sở cách mạng của công nhân ngay trong lòng địch. Nhờ những thắng lợi này, niềm tin vào sức mạnh của công cuộc kháng chiến trong cán bộ, chiến sĩ được nâng lên một bước.


(1) Bao gồm Đồng Phú, Bù Đăng, Phước Long và một phần huyện Lộc Ninh ngày nay. (T.G).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2011, 06:33:56 pm »

Ngoài bộ máy quân sự, bộ máy chính quyền các cấp cũng được tăng cường, phát triển khá nhanh. Đến cuối năm 1947, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một lần lượt hình thành các ngành mới như Ty Giáo dục với Ban Bình dân học vụ làm công tác xóa mù chữ cho nhân dân; Ty Y tế phục vụ công tác khám chữa bệnh, phổ biến là điều trị vết thương cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; Ty Giao thông liên lạc làm nhiệm vụ giao liên đầu mối của các căn cứ kháng chiến; Ty văn hóa kháng chiến phục vụ văn hóa văn nghệ kháng chiến trong các căn cứ, các làng kháng chiến.

Việc mở rộng và đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng lực lượng dân quân rộng rãi trên cơ sở các đoàn thể của mặt trận, xây dựng các đội du kích xã, xây dựng làng xã chiến đấu, bảo vệ nguồn dự trữ của ta, đánh phá cơ sở dự trữ của địch cũng được Xứ ủy nhấn mạnh trong Hội nghị tháng 11 năm 1947. Từ tháng 9 năm 1947, Phòng Dân quân Nam Bộ được thành lập do đồng chí Lê Duẩn là Trưởng phòng. Chấp hành sự chỉ đạo của Xứ ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Ủy ban kháng chiến tỉnh Thủ Dầu Một thành lập Tỉnh đội Bộ dân quân do đồng chí Nguyễn Văn Tiết làm Tỉnh đội trưởng, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Kiệp, và đồng chí Trịnh làm Tỉnh đội phó; đã cử nhiều cán bộ đi xây dựng phong trào du kích trong các buôn, sóc và đồn điền cao su. Nhờ vậy, đội dân quân ở các xã được thành lập và phát triển rộng rãi, ấp xã chiến đấu được xây dựng khắp nơi, hầu khắp các xã đều có tiểu đội du kích. Trong các thị trấn, thị xã, xí nghiệp, đồn điền cao su có tổ chức du kích mật hoạt động, lực lượng tự vệ buôn sóc được thành lập và tổ chức thành từng tiểu đội với các loại vũ khí tự chế tạo như cung tên, hầm chông, chà bạc để bảo vệ xóm làng. Mỗi phum sóc đều có hàng rào chiến đấu góp phần cản bước các đợt càn quét của địch. Tại đồn điền cao su Phước Hòa, ta xây dựng được một đội du kích có 3 súng và một số tạc đạn. Đội du kích này đã tổ chức nhiều tổ phá hoại và thực hiện phá hoại hàng chục hécta cao su, gây thiệt hại đáng kể cho bọn tư bản Pháp.

Từ đầu năm 1948, phong trào công nhân đồng loạt bỏ đồn điền về xây dựng làng xã ở vùng căn cứ kháng chiến diễn ra mạnh mẽ. Ở các xã vùng đồng bào dân tộc như Lý Lịch, Bù Cháp, Bù Tôn, làng chiến đấu được xây dựng vững chắc kết hợp rào, chông với vũ khí là cung tên, đắp ụ chiến đấu, tổ chức các trung đội du kích luyện tập quân sự, tăng gia sản xuất. Thanh niên các dân tộc xung phong tòng quân giết giặc ngày càng đông. Cùng với việc xây dựng các làng xã chiến đấu, phong trào dân quân tỉnh Thủ Dầu Một đã phát triển nhanh chóng, tạo thành phong trào quần chúng sôi nổi. Lực lượng dân quân ở cơ sở gồm dân quân tự vệ và dân quân du kích. Dân quân được trang bị súng, lựu đạn, mã tấu và được luyện tập thường xuyên.

Do được tổ chức và huấn luyện chu đáo, đến cuối năm 1947 khắp các địa phương đã xây dựng được nhiều đội dân quân mạnh chống lại chính sách “bình đinh” của địch ở Nam Bộ. Hội nghị đại biểu Xứ Đảng bộ tháng 12-1947 chủ trương: “Phải triệt để phá hoại giao thông địch, sông ngòi làm cho quân địch cơ động khó khăn, làm cho quân địch hễ đánh vào ta là đánh vào chỗ trống. Giữ quyền chủ động, triệt để áp dụng chiến lược, chiến thuật du kích”(1).

Phong trào xây dựng xã chiến đấu được phát động, tạo điều kiện cho du kích và dân quân bám trụ làng xã đánh địch. Ở khu vực Hớn Quản, Bù Đốp trong năm 1947 nổi bật nhất trong phong trào dân quân là đội du kích xã Tân khai (Hớn Quản). Với hai tiểu đội được trang bị 3 khẩu súng và một số mìn, tạc đạn, du kích Tân Khai kết hợp với đại đội 3 đánh địch nhiều trận. Tháng 7-1947, đoàn xe của Pháp gồm 10 chiếc đi qua ấp 4 xã Tân Khai bị du kích bất ngờ nổ súng, tiêu diệt 3 xe và 30 tên lính Pháp.

Cũng trong đầu năm 1947, hai tiểu đội của Quốc vệ đội bất ngờ tổ chức đánh vào bốt của tên Mosk ở cầu Xa Mát (Nha Bích) có 10 tên lính gác. Ta tổ chức tấn công bằng hai mũi: mũi của đồng chí Năm Kính ở Chơn Thành xuống, mũi của đồng chí Chính Thành ở Nha Bích ra, cùng ập vào chiếm gọn bốt. Trong trận này, ta đốt bốt, bắt gọn 10 tên và thu 10 cây súng.

Đặc biệt đại đội 3 (Chi đội 1) hai lần chống càn tại xã An Tây, thu thắng lợi lớn làm nức lòng quân dân địa phương. Tháng 6 và tháng 8 năm 1947 cũng tại vùng này, đại đội 3 diệt 2 đại đội địch. Cả hai trận đều thu được nhiều vũ khí, trong đó có nhiều súng máy.


(1) Trần Văn Giàu (chủ biển): Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr. 100.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2011, 06:34:57 pm »

Để đối phó với phong trào phá hoại trong các đồn điền cao su, thực dân Pháp tăng thêm quân, cho đóng nhiều tua, bốt để cô lập, chia cắt vùng này với vùng khác. Chúng tổ chức lính luân phiên canh gác và thường xuyên tổ chức tuần tiễu, lùng sục trong các vườn cây về làng cao su. Ngoài ra, chúng còn cho gài mạng lưới mật báo, chỉ điểm vào hàng ngũ công nhân. Vì thế, vào cuối năm 1947 do một sơ suất của một cán bộ ta trong khi đi lại, một tài liệu mật gồm danh sách cơ sở công an quận Hớn Quản bị rơi vào tay địch. Từ đó, nắm được đầu mối tên chủ sở Đờ Lalăng đã chủ trương và tiếp tục chỉ đạo một cuộc truy lùng và tàn sát đẫm máu. Tại chợ Lộc Ninh hàng trăm người yêu nước, cơ sở cách mạng đã bị giặc bắt bắn tại chỗ. Trong số những người bị bắt có đồng chí Ba Đèn, Dậu, Ty, Ngân, Nhuận, Cầu, Kỳ. Đây là những cán bộ cách mạng cốt cán của ta. Ngày 21 tháng 12 năm 1947, đồng chí Ba Đèn bị xử tại sân chợ. Đồng chí Ty bị đưa về Quản Lợi cho cọp xé xác. Còn các đồng chí Dậu, Ngân, Cầu, Kỳ, Nhuận bị chặt đầu tại giếng nước Lộc Ninh, đầu mang lên dốc chợ trước văn phòng Sở cảnh sát, đóng cọc treo lên hòng uy hiếp tinh thần của quần chúng. Những hành động man rợ của thực dân Pháp càng làm bùng cháy lên ngọn lửa đấu tranh của các tầng lớp nhân dân.

Mặt trận kinh tế chiến, giao thông chiến được đẩy mạnh khắp nơi, đánh mạnh vào vận tải tiếp tế của địch. Tư lệnh Khu 7 chỉ đạo mở hàng loạt trận phục kích dọc đường giao thông, đánh vào các đoàn xe quân sự, phá hoại những đoạn đường bộ, đường sắt mà địch thường qua lại. Các đường giao thông huyết mạch: đường sắt từ Sài Gòn lên Lộc Ninh, đường 13 cũng từ Sài Gòn lên Lộc Ninh chạy qua Campuchia, qua Lào đều bị ta đánh phá. Đối với đường sắt, nhân dân gỡ tà vẹt, tháo ốc vít đem từng đoạt đường ray về rèn cuốc, dao, rựa phá được đường sắt thì việc vận chuyển của địch tiếp tế cho đồn điền và chở mủ cao su về Sài Gòn đem xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn.

Ở các làng, xã dân quân đã đào hào, đắp mô, cắm chông, gài lựu đạn, mìn trên các đường lộ lớn nhỏ, làm cản trở việc càn quét, tiếp tế cho các đồn bốt của địch, đánh phá đường giao thông làm cho xe cơ giới địch vận chuyển không được, tổ chức các đội canh gác để bảo vệ các khu căn cứ của ta. Những con đường bị phá thành những mô đất, những hào trũng là công sự chiến đấu của bộ đội và du kích chống địch.

Với sự chỉ đạo linh hoạt, khéo léo của Tỉnh ủy Biên Hòa và Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, phong trào kháng chiến chống Pháp ở các địa phương (thuộc tỉnh Bình Phước ngày nay) đã phát triển rầm rộ.

Khắp nơi ở Hớn Quản, Bù Đốp phong trào phá hoại kinh tế địch diễn ra mạnh mẽ. Nổi bật nhất là phong trào phá hoại cao su của Pháp “mỗi sở cao su là một mặt trận”. Nhiều xã đã có cơ sở Đảng, nghiệp đoàn ở các đồn điền cao su tổ chức các cuộc đấu tranh đình công, lãn công, bỏ sở, biểu tình đòi quyền dân sinh dân chủ, các đợt phá hoại cao su cũng diễn ra sôi nổi. Công nhân tìm mọi cách làm giảm mức thu lợi của chủ tư bản Pháp bằng cách phá hoại máy móc, đổ mủ nước, mủ dăm, đập chén đựng mủ, đốt mủ thành phẩm, đốt nhà kho, xưởng chế biến… Ngoài các đội du kích chuyên trách làm nhiệm vụ phá hoại cao su, công nhân tổ chức thành từng tổ, nhóm chịu trách nhiệm phá hoại từng khu vực. Riêng năm 1947, công nhân các đồn điền cao su Hớn Quản, Minh Thạnh, Xa Cam, Xa Cát, Thuận Lợi đã chặt và vạt vỏ hơn 1.000 hécta cao su, phá hủy hàng trăm ngàn chén đựng mủ, hàng chục kho lương thực, kho chứa mủ. Riêng đồn điền Hớn Quản, công nhân đã phá hủy 450 tấn mủ, 2 kho chứa mủ, 200 thùng đựng mủ, 3 kho lương thực, 1 máy đèn; phá hủy 325.800 chén máng hứng mủ, 1.000 lít mủ, 2 nhà xông, 1 máy cán mủ… Ở đồn điền Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Minh Thạnh, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cho địch. Quần chúng cách mạng ở các xã trong huyện Hớn quản rút vào rừng lập nên những căn cứ như Tân Thành, Minh Thạnh, Tân Khai. Kết hợp với lực lượng vũ trang - đơn vị Vệ quốc đoàn tổ chức phá hoại kinh tế của địch như chặt phá cây cao su ở các đồn điền, phá cầu, phá đường, chặn đường 13 đánh các đoàn xe chở vũ khí, lương thực tiếp tế cho các đồn điền ở Hớn Quản, Lộc Ninh. Phá hoại ban ngày bị địch phát hiện, công nhân chuyển sang phá hoại ban đêm; đêm đêm đến từng khu vực lô cây để chặt phá, đổ mủ. Những nơi không có điều kiện chặt phá cây, ta đập chén đựng mủ, đổ mủ xuống đất. Chúng cho đổi chén sành thành chén nhôm, ta gom hết chén nhôm đem về cho bộ đội và du kích làm chén ăn cơm…

Sau những đợt công nhân phá hoại cao su, bọn chủ đồn điền tiếc của tìm cách bắt bớ, tra tấn công nhân. Ở Quản Lợi, năm 1947 nhà máy bị phá hoại, bọn lính lôi 11 anh em ra tra khảo và đã bắn chết cả 11 người. Còn ở Lộc Ninh, tên chủ sở phát hiện cây cao su bị chặt, chúng bắt những công nhân gần đó tra hỏi không có kết quả, chúng ra lệnh cho bọn lính chặt đầu 2 người. Những hành động này chỉ gây thêm lòng căm thù trong công nhân và thúc đẩy họ quyết tâm ủng hộ kháng chiến.

Hoạt động phá hoại kinh tế địch trong năm 1947 mặc dù chưa đạt kết quả cao, nhưng đã góp phần làm giảm công suất hoạt động của các nhà máy, hạn chế nguồn lợi kinh tế của tư bản thực dân Pháp; đồng thời cung ứng một phần quan trọng nhu cầu của ta ở các căn cứ.

Càng khó khăn bao nhiêu thì tinh thần cách mạng của các chiến sĩ, công nhân cao su, đồng bào dân tộc càng rực sáng. Trong cảnh tù đày chết chóc, hy sinh, gian khổ tất cả vẫn một lòng hướng về cách mạng, thủy chung với kháng chiến.
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Bảy, 2011, 04:42:24 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2011, 06:36:02 pm »

*
*   *

Bên cạnh các hoạt động tiêu hao, tiêu diệt địch, diệt đồn bốt bằng mưu trí, sáng tạo, bằng địch ngụy vận, bằng sức mạnh quân sự của lực lượng vũ trang; Tỉnh ủy Thủ Dầu Một còn chỉ thị cho các huyện ủy gấp rút khôi phục các đoàn thể cứu quốc như Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ; đồng thời, điều động một số cán bộ trong Tỉnh bộ Việt Minh làm công tác xây dựng các đoàn thể. Ở vùng Hớn Quản, đồng chí Trần Quang Sang được giao trách nhiệm vận động, tổ chức đồng bào dân tộc thiểu số; thành lập hai đội công tác vũ trang tuyên truyền ở phía đông và phía tây đường 13. Nhóm công tác phía đông đường 13 đã tiếp xúc được với bà con người Khmer ở Nha Bịch, Xa Trạch, Quản Lợi. Nhờ đồng bào và cơ sở cách mạng giúp đỡ, ta phát triển lên phía bắc rồi mở đường sang vùng Tà Bái, hướng lên Bù Nho, Bù Đinh, đông nam Lộc Ninh. Nhóm công tác phía tây đường 13 đã tuyên truyền vào các sóc Phú Lố, Bình Phú ven đồn điền Xa Cam, các sóc phía Tây thị trấn Hớn Quản. Nhiệm vụ chung của Đội công tác tuyên truyền là phát động đồng bào xây dựng cơ sở, nắm tình hình phục vụ chiến đấu; xây dựng xong cơ sở ở nơi này lại tiếp tục đi nơi khác.

Để đối phó với âm mưu của địch, bảo vệ cơ quan lãnh đạo, bảo vệ nhân dân và cơ sở cách mạng; các lực lượng tự vệ mật, du kích mật tổ chức nhiều đợt đánh đồn bốt địch, tập kích sâu vào vùng bị tạm chiếm diệt tề trừ gian, đánh phá giao thông, cắt đường vận chuyển của chúng. Tự vệ mật, du kích mật còn phối hợp với các chi đội vệ quốc đoàn hoạt động tác chiến đánh địch trong đồn điền, cùng với “quốc gia tự vệ cuộc” phục kích trên đường giao thông, tập kích đồn bót, chống càn quét. Tháng 4 năm 1947, bộ đội Hớn Quản khoảng 150 người do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy đã đánh địch ngay trong quận, vừa diệt địch, phá cầu đường, vừa đột nhập vào đồn điền Quản Lợi phá kho lấy vũ khí, lương thực và vận động nhân dân tham gia đấu tranh. Đồng thời, lực lượng này còn tiếp tục đánh vào đồn điền Xa Cát, Xa Trạch lấy được một số lương thực, thực phẩm, đốt cháy nhà kho, nhà mủ, nhà giấy. Tại đồn điền Quản Lợi, nhờ du kích mật cung cấp tình hình, ta đặt mìn phá 3 trong 5 máy phát điện, đốt 5 bồn nhiên liệu, gây cháy lớn cả một khu vực bao gồm nhà máy, xưởng thợ và nhà giấu.

Tại đồn điền Lộc Ninh, tên chủ Lalan khét tiếng tàn ác. Từ khi bị giết hụt trên đường 13, mỗi khi có việc cần về Sài Gòn hắn đi bằng máy bay chứ không dám đi bằng đường bộ. Ở Bình Long nhiều lần ta tấn công vào các đồn điền Xa Cát, Xa Cam vừa rút được thanh niên, công nhân bổ sung cho bộ đội, vừa giải thoát được nhiều chiến sĩ, du kích và đồng bào Bắc Bộ bị chúng bắt trong các cuộc càn quét ngoài ấy đưa vào đây buộc làm công nhân cạo mủ cao su. Số anh em được giải thoát đều xin gia nhập vào bộ đội.

Các trận đánh đã gây gác động mạnh đối với nhân dân, gây được niềm tin vào sự trưởng thành của lực lượng vũ trang chiến đấu, nhờ đó phong trào kháng chiến phát triển mạnh, các cơ sở bên trong được phục hồi và củng cố.

Quân và dân Hớn Quản, Bù Đốp được trang bị tốt hơn bằng những vũ khí chiến lợi phẩm và ngày một kinh nghiệm hơn trong việc tổ chức đánh địch. Bội đội đóng quân ở đâu cũng được dân thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, mối tình quân dân càng thêm mật thiết gắn bó.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2011, 06:37:25 pm »

II. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG BA THỨ QUÂN,
ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TÁC CHIẾN TIÊU DIỆT ĐỊCH

Để đưa cuộc kháng chiến tiến tới, nhiệm vụ cấp bách của ta là phải hoàn chỉnh lực lượng vũ trang ba thứ quân nhằm tiếp tục phát triển chiến tranh du kích đồng thời đẩy vận động chiến từ quy mô nhỏ lên quy mô ngày càng lớn. Trước nhiệm vụ và yêu cầu ngày một cao của cuộc kháng chiến, ngày 27 tháng 3 năm 1948, Hội nghị toàn quân Khu 7 đề ra nghị quyết xây dựng 10 trung đoàn và 1 tiểu đoàn chủ lực đứng chân hoạt động ở các địa phương. Theo đó Chi đội 1 của tỉnh Thủ Dầu Một chuyển thành trung đoàn 301, Chi đội 10 của tỉnh Biên Hòa chuyển thành trung đoàn 310. Trung đoàn 301 tổ chức thành 3 tiểu đoàn: tiểu đoàn 901 ở Lái Thiêu và Thủ Dầu Một, tiểu đoàn 902 ở vùng Châu Thành; tiểu đoàn 903 với 3 đại đội 2707, 2708 và 2709, trong đó đại đội 2709 do đồng chí Trần Quang Sang làm đại đội trưởng, hoạt động ở địa bàn Hớn Quản. Đại đội này tuy không đủ quân số nhưng vẫn phân tán lực lượng thành nhiều tổ, đội vũ trang tuyên truyền bám vào vùng đồn điền và vùng đồng bào dân tộc để xây dựng, mở rộng cơ sở.

Việc xây dựng lực lượng vũ trang tập trung với quy mô trung đoàn là một bước tiến mới đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng chủ lực.

Để có lực lượng địa phương làm nòng cốt cho chiến tranh du kích và có bộ đội tập trung mạnh; sau Hội nghị quân sự của Xứ ủy Nam Bộ tháng 3 năm 1948, ngày 18 tháng 11 năm 1949, Bộ Tư lệnh Nam Bộ ra mệnh lệnh số 137 thành lập các Liên trung đoàn. Trung đoàn 301 sáp nhập với trung đoàn 310 thành Liên trung đoàn 301-310 do đồng chí Nguyễn Văn Thi làm Liên trung đoàn trưởng. Đồng chí Nguyễn Quang Việt công tác ở miền Tây Nam Bộ được Xứ ủy điều về làm Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một kiêm chức vụ chính trị viên liên trung đoàn 301-310. Liên trung đoàn này hoạt động chủ yếu trên hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Đến đây, lực lượng vũ trang ba cấp đã hình thành rõ rệt. Trên toàn tỉnh Thủ Dầu Một có tiểu đoàn chủ lực cơ động, huyện có đại đội độc lập va du kích tập trung, xã có du kích và tổ chức dân quân rộng rãi.

Tháng 4 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương. Nhiệm vụ của bộ đội địa phương là làm nòng cốt cho chiến tranh du kích ở địa phương, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực tác chiến trên các chiến trường.

Cũng trong tháng 4 năm 1949, Khu 7 lập tiểu đoàn chủ lực lấy phiên hiệu 303, do Hoàng Thọ làm Tiểu đoàn trưởng, sau đó, đồng chí Lê Văn Ngọc thay thế.

Sự củng cố lại hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể cách mạng từ đầu năm 1947 cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh du kích, lập làng xã kháng chiến đã làm cho lực lượng vũ trang ba cấp phát triển mạnh mẽ ở hầu khắp các địa bàn tỉnh Bình Phước ngày nay. Đây là nguồn lực to lớn thúc đẩy phong trào kháng chiến ở tỉnh Bình Phước phát triển thêm một bước mới.

Hoạt động vũ trang diễn ra sôi nổi trên địa bàn Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp lúc bấy giờ, bên cạnh Chi đội 1, Chi đội 10 còn có lực lượng Công an xung phong và Quốc vệ đội. Lực lượng bộ đội địa phương huyện và du kích xã đã kết hợp đánh quấy rối, tiêu hao sinh lực địch, cướp nhiều vũ khí trang bị cho ta. Lực lượng vũ trang, bán vũ trang của địa phương cùng với công nhân cao su, nhân dân, đồng bào dân tộc thiểu số hợp thành đội quân hùng hậu, lúc nào cũng sẵn sàng vây hãm, tiêu diệt địch. Các lực lượng gắn bó máu thịt với nhân dân, được đồng bào thương yêu giúp đỡ, chia sẻ từng miếng cơm, manh áo trong những lúc gian nan khổ cực nhất.

Đầu năm 1948, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một thành lập Phòng quốc dân thiểu số do đồng chí Trần Quang Sang làm trưởng phòng. Phòng quốc dân thiểu số có nhiệm vụ đi sâu vào các vùng đồng bào dân tộc, trong đồn điền cao su, thành lập các mũi xung kích để vận động nhân dân xây dựng cơ sở cách mạng. Cũng thời gian này, Phòng quốc dân thiểu số của tỉnh Biên Hòa được thành lập hoạt động trên địa bàn huyện Sông Bé. Các hoạt động tuyên truyền kháng chiến được đẩy mạnh ở mọi nơi. Phổ biết nhất là hình thức tuyên tuyền miệng trong từng nhóm gia đình. Với phương thức vận động linh hoạt này, đồng bào dân tộc thiểu số được giác ngộ đã nhận rõ sự lừa mị của thực dân Pháp đã cùng với công nhân cao su trong các đồn điền hăng hái tham gia kháng chiến chống Pháp ngày càng nhiều hơn. Cuối năm 1949, Phòng quốc dân thiểu số tỉnh Thủ Dầu Một và hai đội vũ trang tuyên truyền Lộc Ninh được Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ tuyên dương là “Đơn vị dẫn đầu trong công tác thiểu số vận”.

Trong năm 1949, Khu y lập ra Khoa quốc dân thiểu số đóng tại bến Cây Chanh do đồng chí Mười Thìn làm Khoa trưởng. Nhiệm vụ của Khoa Quốc dân thiểu số là tổ chức các lực lượng vũ trang để tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc, tổ chức cho đồng bào tham gia kháng chiến. Khoa quốc dân thiểu số thành lập 5 đội vũ trang tuyên truyền, lấy quân số từ  các đại độ và tiểu đoàn của Liên trung đoàn 301-310, thường xuyên hoạt động ở phía nam và đông nam đường 14. Khoa quốc dân thiểu số đã tuyên truyền, giáo dục và vận động đồng bào vùng Bà Rá, Hớn Quản biết được âm mưu thâm độc của kẻ thù, từ đó nhiệt tình tham gia và ủng hộ kháng chiến. Nhiều buôn sóc đã trở thành căn cứ cách mạng như: Lý Lịch, Bù Cháp, Bù Tôn…

Tháng 7 năm 1947, Hội nghị dân quân toàn Khu 7 được triệu tập. Hội nghị chủ trương phát triển lực lượng dân quân du kích, đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng xây dựng lực lượng dân quân du kích vùng đồng bào dân tộc thiểu số và thành lập các làng ấp chiến đấu, tiến tới tự đảm nhiệm nhiệm vụ chống càn và bảo vệ địa phương.

Cùng với quá trình phát triển của cuộc kháng chiến, từ những đơn vị nhỏ lẻ, lực lượng vũ trang của tỉnh Thủ Dầu Một nói chung và trên địa bàn Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp nói riêng ngày một lớn mạnh, phát triển thành chi đội, trung đoàn, liên tủng đoàn và các tiểu đoàn chủ lực cơ động, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu và công tác xây dựng nội bộ, góp phần thúc đẩy phong trào kháng chiến phát triển mạnh mẽ.

Có thể nói, nửa đầu năm 19498 là mốc quan trọng đánh dấu thời kỳ thống nhất, trưởng thành của các đơn vị bộ đội, tạo nên sức chiến đấu mới, đáp ứng tình hình cuộc kháng chiến đang ngày càng trở nên quyết liệt, phức tạp, đầy khó khăn trên chiến trường miền Đông.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 30 Tháng Sáu, 2011, 06:38:51 pm »

*
*   *

Sau thất bại trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, từ năm 1948, thực dân Pháp đứng trước những khó khăn to lớn. Trên chiến trường Việt Nam, quân số bị thiếu hụt nghiêm trọng, tinh thần chiến đấu sa sút. Còn tại nước Pháp, phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp đòi giảm ngân sách quân sự, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Những cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các phe phái làm cho chuộc khủng hoảng chính trị ở Pháp ngày càng trở nên sâu sắc. Với khủng hoảng về chính trị, những khó khăn về kinh tế và thất bại về quân sự trên chiến trường đã buộc thực dân Pháp phải chuyển hướng chiến lược chiến tranh. Từ chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”, địch chuyển sang chiến lược đánh lâu dài, từ dùng quân sự là chủ yếu chuyển sang dùng chiến trang tổng lực, kết hợp cả quân sự, chính trị và kinh tế, thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt”. Thực dân Pháp coi Nam Bộ là nơi “bình định” trọng điểm trong suốt quá trình tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhằm biến Nam Bộ thành kho dự trữ chiến lược cho cuộc chiến tranh. Để thực hiện điều đó, chúng dành một bộ phận lớn quân đội đóng thêm đồn bốt, cứ điểm, chi khu quân sự ở các đồn điền và đường giao thông chạy qua vùng cao su, xây dựng các đơn vị ứng chiến cơ động, sẵn sàng càn quét, bảo vệ sản xuất. Ở đồn điền Thuận Lợi, Lộc Ninh, Bù Đốp, Quản Lợi chúng liên tục tổ chức nhiều cuộc càn quét vào các khu căm cứ, khu tập trung đông dân cư, nhất là trên địa bàn 3 xã Tân Khai, Tân Thành, Minh Thạnh và khu vực đông - đông nam Xa Trạch. Chúng đã cấp tốc điều động đội biệt kích và sử dụng cả lực lượng lính lê dương để bảo vệ đường sá và các căn cứ quan trọng. Nhiều đồn biệt kích và đồn lính lê dương được lập ra ở vùng Bà Rá, Đồng Xoài, canh gác nghiêm ngặt trục lộ 14. Sau khi phát hiện ra căn cứ Truông Ba Trường là nơi đóng quân của bộ phận tiền phương tiểu đoàn 903, thực dân Pháp cho lính càn quét quyết liệt, cho xe ủi chia cắt khu rừng này từng khu vực nhỏ, âm mưu đánh bật lực lượng bám trụ của ta.

Ở khu vực đường lộ 13, tây lộ Nha Bích, địch tổ chức lực lượng đi lùng sục các địa bàn, đánh phá liên tục vùng căn cứ. Một số người phải chạy vào làm ở đồn điền tá túc với bà con công nhân. Bên cạnh đó vẫn có một số người kiên quyết bám rừng làm ăn sinh sống, làm nhà ở tạm, nhưng địch lùng sục đốt nhà liên tục, có tháng bà con phải dời đi hai ba chỗ, thậm chí có chỗ nhà chưa làm xong địch đã đã đến đốt phá. Ý đồ của chúng là ép đồng bào vào các đồn điền để dễ kiểm soát. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số thì chúng dồn bà con vào các phum sóc nằm sâu trong đồn điền. Song song với việc tổ chức càn quét địch còn triển khai làm con đường mới từ đồn điền Minh Thạnh qua đồn điền Xa Cát, thông qua lộ 13 để cắt ngang căn cứ phía tây lộ 13 và sông Sài Gòn đồng thời chuẩn bị ủi một con đường từ Sóc Tranh thông qua Sóc Chà Ngõa, nối liền với đường Chơn Thành - Nha Bích tại khu vực Nha Bích, nhằm khống chế khu vực phía đông lộ 13.

Ngoài ra địch còn tiến hành đánh phá kinh tế vùng căn cứ nhằm làm kiệt quệ nguồn lương thực; đồng thời một mặt gây mâu thuẫn giữa đồng bào Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số, mặt khác cho lính đi theo canh gác công nhân đi làm lô, nhằm ngăn chặn họ tiếp tế lương thực, thực phẩm cho kháng chiến.

Đi đôi với càn quét, biệt kích, giặc Pháp còn tăng cường hoạt động gián điệp. Chúng cho tình báo, gián điệp trà trộn trong nhân dân, trong căn cứ kháng chiến để làm tai mắt cho hành động quân sự và chính trị của chúng, gây chia rẽ trong hàng ngũ ta.

Chỉ tính riêng năm 1948, số lính Pháp và lính đánh thuê ở các đồn điền cao su đã tăng lên 1,5 lần so với đầu năm 1947. Riêng đồn điền cao su Lộc Ninh có 1.230 tên, Quản Lợi có 5 bốt với 200 tên, Xa Ca có 1 bốt với 100 tên. Trong năm 1948, chúng đã tấn công ta 220 trận với quy mô từ 200 đến 1.000 quân vào 6 tỉnh xung quanh Sài Gòn. Trong đó địch tấn công Thủ Dầu Một 12 trận, Biên Hòa 44 trận .

Sự tăng cường càn quét đánh phá của địch đã gây cho ta nhiều tồn thất trong năm 1948. Địa bàn 3 xã phía tây lộ 13 bị địch chà đi xát lại không biết bao nhiêu lần, nhân dân phải chịu nhiều thiệt hại về người và tài sản, bộ đội hy sinh khá đông, một số cơ sở mật ở đồn điền bị vỡ. Riêng việc đánh trả địch trên đường 13 và đường mới Minh Thạnh - Xa Cát, anh em ta cũng bị tổn thất không ít. Việc bảo vệ mùa gặt lúa rẫy đã làm hàng chục người bỏ mạng. Hoạt động ở các vùng đồn điền và vùng dân tộc thiểu số cũng chịu nhiều hy sinh tổn thất, nhất là những đêm đột nhập vào ấp, bị phục kích trên đường đi, hoặc bị đột kích ở những nơi tạm trú. Tuy gặp nhiều khó khăn to lớn, nhưng phong trào kháng chiến vẫn diễn ra ngày một mạnh mẽ, quần chúng cơ sở và đồng bào cọ xát nhiều với địch, được thử thách nhiều hơn, có kinh nghiệm nhiều hơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM