Câu chuyện 43: Lý Thường Kiệt với việc khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng lại đất nước
Sau khi đuổi được quân Tống về nước, Lý Thường Kiệt tâu vua Lý làm lễ mừng chiến thắng. Vua Lý Nhân Tông liền làm lễ tâu tiên đế ở Thái miếu và tháng 5 Đđinh Tỵ cho mở hội Nhân Vương ở điện Thiên An(1).
Lý Thường Kiệt cũng kịp thời khen thưởng những người có công, an ủi gia đình các tướng sĩ đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu chống giặc. đặc biệt đối với hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đã anh dũng hy sinh sau khi đã chỉ huy quân ta gây cho địch những tổn thất nặng nề, ông sai lập đền thờ để nhớ ơn hai hoàng tử.
Đối với những người mắc mưu ly gián của địch mà theo địch, ông thực hiện chính sách khoan hồng, chiêu dụ họ trở về với đất nước.
Đối với những nơi địch tàn phá khi chúng hành quân đi qua, ông giao cho các tù trưởng và các quan coi địa phương kịp thời giúp đỡ khôi phục nhà cửa để nhân dân nhanh chóng trở về sản xuất, ổn định đời sống. đặc biệt đối với sông Như Nguyệt, ông cho “đắp đê dài 67.380 bước” khoảng 35km vào tháng 9 năm Đinh Tỵ (10/1077) (Việt sử lược trang 112).
Ông cũng ra lệnh cho các lộ, các châu sửa chữa, củng cố lại các thành trì để tăng cường việc bảo vệ đất nước nhất là những thành trì ở các châu biên giới. đầu năm Mậu Ngọ (1078), ông cho sửa thành đại La” cho vững chắc hơn (Việt sử lược trang 112).
Để động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp, ông tổ chức cho vua Lý Nhân Tông, lúc đó đã 12 tuổi đi xem gặt ở Lý Nhân và thăm cửa biển Long Thụy vào tháng 10 Đinh Tỵ (11/1077) (Việt sử lược trang 112).
Đối với những đất Tống đã chiếm trước đây như động Vật ác(1), động Vật Dương(2) và những đất Tống mới chiếm khi phát động chiến tranh xâm lược đại Việt, ông chủ trương kiên quyết và khôn khéo đòi lại cho bằng được.
Đòi châu Quảng Nguyên Cuối năm 1076, quân Tống do Yên đạt và Khúc Chẩn chỉ huy tấn công Quảng Nguyên. Nhưng Lưu Kỷ kịch liệt chống lại nên Tống không chiếm được bèn dùng kế ly gián để cô lập Lưu Kỷ, cuối cùng Lưu Kỷ phải theo Tống, nhưng Tống không tin, liền dùng kế điệu hổ ly sơn, đưa Lưu Kỷ về Biện Kinh và chiếm châu Quảng Nguyên, đổi tên châu này thành “Thuận Châu”. Sau khi quân Tống thất bại phải rút khỏi các nơi thì vua Tống liền cho tướng Đào Bật đến coi châu này, trước mắt nhằm khai thác vàng đưa về Tống, lâu dài nhằm biến châu này thành một bàn đạp để sau này khi có thời cơ sẽ lại phát động chiến tranh thôn tính đại Việt. Với ý đồ đó, vua Tống ra sức tổ chức cai trị châu đó cho chặt chẽ. Ngoài đào Bật, vua Tống còn cử đủ các thứ quan cai trị sang từ thông phán, thiểm thư, phán quan kiểm hạt, đô giám đến đô áp. để động viên các viên quan lại đến nơi khí hậu lam chướng này, vua Tống quy định mỗi năm sẽ thay một quan và ai ở hết hạn thì được thăng một chức và được điều về làm quan ở Biện Kinh. để bảo vệ “Thuận Châu” vua Tống còn cử 17 viên chỉ huy quân sự đến làm nhiệm vụ. để khai thác “Thuận Châu”, vua Tống ra lệnh phải đưa phạm nhân bị tội đi đày đến đây lao động. để khai mỏ vàng, ngay trong chiến tranh, Quách Quỳ đã xin vua Tống cho lập lò luyện quặng vàng bạc ở Quảng Nguyên.
Để thu phục nhân tâm ở Quảng Nguyên, Tống còn đặt các chức quan lại người địa phương coi các việc hành chính và ra sức mua chuộc các tù trưởng đã theo Tống như Huệ đàm, cháu Nùng Thiện Mỹ, Tống còn định cấp ấn son cho các động trưởng để tỏ ra Tống rất quan tâm giao quyền cho các tù trưởng địa phương.
Tuy nhiên những thủ đoạn mị dân đó vẫn không lừa bịp được nhân dân các dân tộc địa phương vì hàng ngày, họ vẫn thấy rất rõ các hành động áp bức, bóc lột của quan quân Tống. Hơn nữa thủ lĩnh Lưu Kỷ vẫn bị bắt giữ ở Biện Kinh. Do vậy nhân dân các địa phương vẫn hướng về nhà Lý.
Về phía Lý Thường Kiệt, sau khi đã khôi phục được các châu Quang Lạng, Tô Mậu và Môn, ông liền tập trung sức vào việc khôi phục châu Quảng Nguyên. Ông chuẩn bị sẵn sàng lực lượng quân sự ở châu Quang Lạng để có thể triển khai vào giải phóng Quảng Nguyên. Tuy vậy ông cũng chưa quyết định dùng biện pháp quân sự mà trước hết dùng biện pháp chính trị, vừa động viên nhân dân địa phương chuẩn bị nổi dậy, vừa đưa tin sẽ đánh Quảng Nguyên để lung lạc tinh thần quân Tống, làm cho quan quân Tống luôn luôn nơm nớp lo sợ ông cho quân vào đánh Thuận Châu.
Trước tình hình đó, bản thân đào Bật, một viên tướng có kinh nghiệm chiến trận, cũng rất lo. Y khuyên các binh sĩ phải hết sức giữ gìn, cố thủ, chớ có khiêu khích quân Lý, khiến Lý có cớ cất quân đánh Tống.
Nắm được tâm trạng đó, một mặt Lý Thường Kiệt vẫn gây sức ép về quân sự, mặt khác ông xin vua Lý cho cử sứ sang Tống để bàn về cương giới nhằm đòi lại những đất mà Tống đã chiếm của ta. Thấy tình hình quan quân Tống ở “Thuận Châu” không được yên tâm lắm, phần thì lo quân của Lý Thường Kiệt đánh vào, phần thì thuỷ thổ không thuộc, nhiều người ốm đau, thậm chí chết ngay trên đất Quảng Nguyên, vua Tống đồng ý tiếp nhận sứ giả sang Tống để bàn về cương giới.
Lý Thường Kiệt liền xin vua Lý Nhân Tông cho cử Lý Kế Nguyên là người rất thông thạo tình hình đất đai ở biên giới, đồng thời là viên tướng đã cầm quân đánh Tống ở đông Kênh dẫn đầu một phái đoàn sang Biện Kinh để đàm phán.
Tuy đồng ý nhận sứ giả ta sang đàm phán, nhưng vì vẫn sợ quân ta sang đánh Ung Châu như trước nên vua Tống hỏi ý kiến Triệu Tiết xem liệu ta có đánh sang nữa không? Triệu Tiết trả lời là Giao Chỉ chưa thể động binh ngay được vì họ cũng cần nghỉ ngơi sau chiến tranh.
Nhưng tháng 10 đinh Tỵ (11/1077), khi ta cử Lý Kế Nguyên sang Tống thì Triệu Tiết lại ngại viên tướng này sẽ lợi dụng đi sứ để nắm tình hình, thu thập tình báo chuẩn bị cho việc đánh Tống. Vì vậy, lấy cớ là trong thư của vua Lý gửi vua Tống có chỗ phạm huý của triều Tống, Triệu Tiết không chịu nhận và yêu cầu ta về sửa lại thư đó.
Biết Tống có ý ngại Lý Kế Nguyên nên kiếm cớ trì hoãn việc đàm phán với ta, Lý Thường Kiệt liền bàn với Lý Đạo Thành xin vua cho Đào Tông Nguyên đi sứ thay cho Lý Kế Nguyên và cũng chiều lòng Tống cho sửa thư của vua Lý để không có chữ phạm huý triều Tống. Tuy Lý Thường Kiệt đã cho quân đánh chiếm lại châu Quang Lạng rồi, nhưng để giữ thể diện cho Tống, trong thư vua Lý vẫn yêu cầu vua Tống trả lại châu Quảng Nguyên và châu Quang Lạng cho ta.
Nhận được thư của vua Lý, vua Tống trả lời là đồng ý nhận sứ giả sang nhưng cương giới thì đến Biện Kinh sẽ “phân xử”.
Thế là đầu năm Mậu Ngọ (1078), vua Lý cử Đào Tông Nguyên mang 5 con voi sang biếu vua Tống và xin trả lại châu Quảng Nguyên và châu Quang Lạng.
Lần này thì vua Tống và Triệu Tiết phải chấp nhận cho đoàn sứ giả của ta tới Biện Kinh. Tuy nhiên vì Tống vẫn muốn chiếm giữ châu Quảng Nguyên của ta nên vẫn sợ ta đem quân sang đánh Tống để đòi lại châu đó. Vì vậy, để đề phòng bất trắc. Triệu Tiết phải xin tăng thêm 5.000 quân đóng ở Quế Châu, tăng binh sĩ luyện tập chiến đấu; mặt khác Triệu Tiết cũng tăng cường các hoạt động tình báo và phản gián để đề phòng hoạt động do thám của ta. Vua Tống còn ra lệnh cho các địa phương có đoàn sứ giả của ta đi qua phải theo dõi và giám sát chặt chẽ các hoạt động của đoàn này.
Khi đoàn sứ giả của ta tới Biện Kinh, vua Tống cho tiếp đãi rất tử tế. Nhưng khi sứ giả của ta đưa ra yêu cầu trả lại châu Quảng Nguyên thì vua Tống nghe theo lời tâu của Triệu Tiết, tìm cách thoái thác không trả và đặt ra điều kiện là ta phải trả các tù binh ta đã bắt trong các trận đánh Ung, Khâm, Liêm. Đào Tông Nguyên đồng ý sẽ trả 1.000 quan lại Tống mà ta đã bắt làm tù binh trước đây. Nhưng vua Tống lại đưa ra một điều kiện khác là ta phải đưa các thủ lĩnh đã gây loạn đến biên giới xử (ám chỉ Lý Thường Kiệt). Vua Lý Nhân Tông đã có thư trả lời vua Tống theo tinh thần Lý Thường Kiệt đã chỉ đạo sứ giả Kiều Văn Ưng khi gặp Quách Quỳ ở bờ bắc sông Như Nguyệt và kiên quyết khước từ việc đưa “những thủ lĩnh gây loạn” ra biên giới xử như vua Tống yêu cầu.
Vì Tống cố tình muốn chiếm châu Quảng Nguyên của ta nên sau khi nhận được thư trả lời của vua Lý, vua Tống lại khước từ việc trả lại châu đó cho ta. Vì thế phái đoàn đào Tông Nguyên không đạt được mục đích đề ra.
Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt chủ trương vẫn kiên trì dùng biện pháp ngoại giao nhưng đồng thời đẩy mạnh sức ép về quân sự để lung lạc tinh thần vua tôi nhà Tống. Thực hiện chủ trương đó, ông cho Nùng Trí Xuân coi động Cung Khuyết cùng với Ma Thuận Phúc coi động Vũ Lăng (thuộc Bắc Cạn) và Hoàng Phu đem quân địa phương tới đánh châu Quảng Nguyên và động viên nhân dân châu Quảng Nguyên nổi dậy chống Tống. Tình hình đó làm cho quan quân Tống ở Quảng Nguyên ăn ngủ không yên. Giữa lúc đó thì Đào Bật, viên tướng coi “Thuận Châu” cáo ốm và xin về Biện Kinh, vua Tống nghĩ rằng đào Bật giả ốm để thoát khỏi Thuận Châu liền cho người thẩm tra thực hư rồi mới quyết định. Sau khi biết rõ Đào Bật ốm thật, vua Tống mới cử Trương Chí Gián thay đào Bật - coi Thuận Châu (28 tháng 10 Mậu Ngọ 05/12/1078). Nhưng Đào Bật chưa kịp về Biện Kinh thì đã chết (11/1078). Ngoài Đào Bật ra, một số quan cai trị của Tống ở Quảng Nguyên tuy chưa hết nhiệm kỳ một năm cũng lần lượt ốm, chết. Còn quân lính Tống mỗi năm cắt 3.000 tên đến chiếm giữ Quảng Nguyên cũng bị ốm đến năm sáu phần.
Trước nguy cơ quan quân Tống bị quân Lý tiêu diệt, các quan lại nhà Tống coi Quế Châu như Triệu Tiết và Miêu Thì Trung thấy không thể giữ được Thuận Châu nữa nhưng phải tìm cách trả sao cho vẫn giữ được thể diện của Tống.
Biết được tình hình đó, Lý Thường Kiệt liền sai đem trả Tống một ít tù binh gồm đủ già trẻ, gái trai mà quân ta đã bắt ở Ung, Khâm, Liêm. để giữ được bí mật nơi giam giữ tù binh và con đường dẫn giải, ông sai cho tù binh vào thuyền trát mui kín, trong thuyền ngày đêm thắp đèn để tù binh không biết ngày đêm ra sao, rồi chở đi. Mỗi ngày thuyền chỉ đi 10 - 12 dặm rồi đậu và lính giả đánh trống cầm canh, khiến cho tù binh Tống tưởng phải đi đến vài tháng mới tới nơi.
Ngày 13 tháng 10 Kỷ Mùi (11/1079), ta trả cho Tống 221 tù binh. Tuy không đủ số 1.000 tù binh mà Đào Tông Nguyên đã hứa và tuy ta đã xăm vào trán vào cánh tay tù binh những chữ “đầu Nam triều” “Thiên Tử binh” và “quan khách”, nhưng Tống vẫn phải nhận và trả lại châu Quảng Nguyên cho ta. Nhưng trước khi trả Tống đã di dân Quảng Nguyên vào đất Tống để dễ dàng áp bức và bóc lột sức lao động. Lưu Sở, viên quan coi Ung Châu đã tâu với vua Tống là: “đã dời 9.929 người đã theo ta vào ở các động gần trong để dễ đàn áp. Dân dời tới Tả Giang thì giao cho các viên tuần kiểm Nùng Bảo Phúc và viên coi Giang Châu Hoàng Thiện Hưng quản. Dân dời vào Hữu Giang thì giao cho các viên coi Điền Châu Hoàng Tiên Sánh, viên coi Đồng Châu Hoàng An Định quan sát” (Trường biên Q.309 tờ 4a).
Trả được châu Quảng Nguyên cho ta, vua Tống như đã trút được gánh nặng, không phải ngày đêm lo cách đối phó nữa.
Dân Tống vì không biết được tình thế mà Tống không thể giữ nổi châu Quảng Nguyên đành phải trả nên đã chế nhạo vua quan Tống bằng hai câu thơ:
Nhân tham Giao Chỉ tượng
Khước thất Quảng Nguyên kim Nghĩa là:
Vì tham voi Giao Chỉ
Nên mất vàng Quảng Nguyên. Đến đây, Lý Thường Kiệt đã hoàn thành việc khôi phục các đất mà Tống đã chiếm trong chiến tranh Tống - Việt. Đòi lại được châu Quảng Nguyên, triều đình ta rất vui vẻ, mọi việc trong nước diễn ra đều tốt lành. đặc biệt đúng năm ta đòi lại được châu Quảng Nguyên, dân lại được mùa to nên mọi người đều rất phấn khởi.
...
(còn tiếp)