Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:57:42 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ  (Đọc 106124 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #20 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2011, 07:34:24 am »

Câu chuyện 14:

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - Bỏ lệ cống người vàng cúi mặt

Theo Lịch triều hiến chương loại chí thì trong chuyến đi sứ này ông còn đấu tranh bỏ được lệ cống người vàng cúi mặt của nhà Mạc trước đây. Lịch triều hiến chương loại chí ghi: “Khi đã đến Yên Ninh, Lễ bộ đường trách về việc người vàng ta đem cống không theo mẫu cũ làm cúi đầu, nên ngăn cản không cho sứ vào chầu. Ông cãi lại: “Nhà Mạc cướp ngôi, danh nghĩa là nghịch, nhà Lê khôi phục lại, danh nghĩa là thuận. Nhà Mạc dâng người vàng cúi đầu thay mình đã làm may mắn. Còn như nhà Lê bao đời làm công thần thì kiểu người vàng ngửa mặt, bao đời còn có. Nay lại bắt theo như lệ nhà Mạc thì lấy gì để khuyến khích chiêu an và trừng phạt?”. Việc đến tai vua Minh, cuối cùng lại theo thể thức cũ của nhà Lê.

Khi ông về nước, chúa Trịnh Tùng kính trọng tài năng và khí phách của ông, gọi là Phùng tiên sinh. Dân gian gọi ông là Trạng nguyên, là Trạng Bùng. Một phái đoàn do Đỗ Uông dẫn đầu đã lên tận Nam Quan để đón ông về nước. Vua Lê qua sông Cái đón ông về kinh đô.

Nhận xét chuyến đi sứ năm 1597 của ông, Lê Quý Đôn viết trong Kiến văn tiểu lục: “Phùng Khắc Khoan phụng mệnh đi sứ, tuổi đã ngoài 70, không những biện bạch quang minh chính đại, đạo đạt được mệnh lệnh của vua, làm mạnh mẽ được thể thống trong nước. Đến như 70 vần thơ dâng mừng khánh tiết và hơn 10 vần thơ đáp lại chánh phó sứ Triều Tiên tài tử chứa chan, cách điệu tươi đẹp y như lúc còn trẻ tuổi, như thế chả phải được tinh khí sông núi giúp đỡ đấy ư?”.

Link http://hanoi.ws/van-hoa/danh-nhan/phung-khac-khoan.html?start=2
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Bảy, 2011, 08:18:35 am gửi bởi thanhh63 » Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #21 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2011, 07:43:33 am »

Câu chuyện 15:

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - Sách lược ngoại giao “văn chương”

Sau khi nhà Lê Trung Hưng lên, việc bang giao giữa nhà Lê và nhà Minh trở nên căng thẳng và phức tạp. Khi lên ngôi vua, các vua Mạc đã tỏ ra yếu hèn, quỵ lụy, tiến cống, hối lộ quá nhiều để mong được vua quan nhà Minh che chở. Nhà Minh đòi vua Lê phải lên tận Nam Quan để chúng khám duyệt các giấy tờ, xác minh xem Lê Thế Tông có đúng là con cháu nhà Lê hay Trịnh giả danh.

Năm 1596, Phùng Khắc Khoan cùng hai anh của vua Lê là Lê Nganh và Lê Hựu mang các giấy tờ có in mẫu ấn An Nam Đô thống sử ti và mẫu ấn An Nam quốc vương cùng một trăm cân vàng và một nghìn lạng bạc lên Nam Quan để quan nhà Minh công nhận. Sau đó 10 ngày thì vua Lê Thế Tông cũng lên Nam Quan để hội khán, nhưng đã bị quan nhà Minh tìm cách không gặp.

Cuối năm 1596, vua sai Đỗ Uông và Trịnh Vĩnh Lộc đem hai tượng người bằng vàng bạc, lọ hoa, bình hương bằng vàng bạc, lụa lên Nam Quan định hội khán cũng không thành. Tháng hai năm Đinh Mậu (1597), Đỗ Uông và Nguyễn Văn Giai lại lên Nam Quan thăm dò tình hình quân Minh, việc không thành. Tháng ba, Lê Thế Tông phải kéo đại quân sang Bằng Tường hội khán với các quan nhà Minh. Quan hệ ngoại giao giữa Lê và Minh là không bình đẳng. Nhà Minh hống hách, quan nhà Minh thường ăn đút lót của nhà Mạc, gây khó khăn cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai triều đại. Trong hoàn cảnh quan hệ khó khăn như vậy, vua Lê đã cử Phùng Khắc Khoan đi sứ. Đi sứ nhà Minh lúc đó thực sự là một đại họa không lường hết được. Vào thời nhà Mạc, Lê Như Hổ đi sứ bị sơn cả hai mắt, Lê Quang Bí bị chúng lấy mất đồ cống, bị vu cho là giả và bị giam cầm đến 18 năm sau mới được tha về. Phùng Khắc Khoan được cử đi sứ lần này lúc tuổi đã 70. Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam thời xưa chưa có một sứ thần nào tuổi già như thế. Ông được cử đi sứ hai lần vào năm 1597 và 1606.

Phùng Khắc Khoan đã nói lên trọng trách của mình trong việc đi sứ và quyết tâm thực hiện trọng trách đó trong bài Đinh Dậu phụng sứ thuật hoài (năm Đinh Dậu, nỗi lòng khi đi sứ):

Bẩy mươi là kế tuổi già nua,
Dáng chẳng bằng ai dám kém thua.
Xe ngựa xôn xao đoàn sứ bộ,
Công khanh trang trọng lớp chào đưa,
Uy vua thế nước nhờ giao thiệp,
Nói khéo, lời hay học chẳng vừa,
Công trạng kết minh đành gắng gỏi,
Bạn bè được mất một mình lo.
(Trần Lê Sáng dịch)

Như vậy là sách lược ngoại giao của Phùng Khắc Khoan đã thể hiện rõ trong cảm tác khi đi sứ, đó là: nói khéo, lời hay (văn hay).

Sứ bộ Phùng Khắc Khoan đến biên giới, quan nhà Minh không cho sứ bộ nhập cảnh với lý do chúng chỉ biết nước Nam có nhà Mạc cai trị, chưa công nhận nhà Lê. Phùng Khắc Khoan đã đấu lý và chắc là có đút lót vàng bạc cho chúng nên cửa ải được mở. Đoàn đi sứ tháng 7 năm Đinh Dậu đến tháng 8 năm sau mới đến Yên Kinh. Lúc đi đường thủy, lúc đi đường bộ qua Nam Ninh, Quảng Châu, Hồng Châu, Nam Kinh, Tế Nam, Thiên Tân, rồi đến Yên Kinh. Hành trình dài như vậy đã làm tiêu hao sức lực con người đã 70 tuổi như Phùng Khắc Khoan.

Sau đây là cảnh sứ bộ Đại Việt do Phùng Khắc Khoan là chánh sứ khi ở Yên Kinh dưới ngòi bút miêu tả của sứ thần Triều Tiên là Lý Chi Phong:

“Sứ thần họ Phùng tên là Khắc Khoan, tự hiệu là Nghị Trai, tuổi ngoại 70, hình dáng lạ lùng, răng nhuộm đen, tóc vận thành búi, áo dài, ống tay rộng. Khăn đội trên đầu thì lấy cả khổ vải đen trùm lên đầu như dáng khăn ông sư, để một nửa rủ về đằng sau xuống quá vai. Ông họ Phùng, người tuy đã già, sức còn khỏe, thường đọc sách, viết sách luôn luôn...” (Trích Hậu chí của Lý Chi Phong, do Trần Văn Giáp dịch).

Sứ bộ Phùng Khắc Khoan đến Yên Kinh, tạm trú ở quán Ngọc Hà trong 5 tháng liền mà không được bàn đến việc chính là sang xin cầu phong cho vua Lê Thế Tông. Chánh sứ Phùng Khắc Khoan phải chịu sự khinh thị của nhà Minh. Sách lược ngoại giao của ông đã được thực hiện: nói khéo và lời hay. Hoàn cảnh của Phùng Khắc Khoan lúc đó có những khó khăn: tuy là sứ giả của nhà Lê, nhưng nhà Minh chưa công nhận vua Lê, chưa đặt quan hệ ngoại giao. Chức sứ giả của Phùng Khắc Khoan chưa phải là “chính danh”, nhà Minh không phải tiếp đón ông như các sứ giả bình thường khác. Có thể các đại thần trong triều chưa biết đến sứ giả nhà Lê sang cầu phong và vua Minh cũng chưa biết là do bọn quan lại trực tiếp làm việc. Cho nên Phùng Khắc Khoan có dâng biểu cũng không thể đến tay các đại thần hoặc vua Minh được.

Bằng sở trường của mình, ông đã có quan hệ văn chương với quan lại nhà Minh. Ông đã nắm được tinh thần cốt yếu của thơ nhà Minh đương thời, đàm đạo văn chương, thù ứng các câu đối, trở thành người bạn văn chương của họ. Thượng thư bộ Lại Trương Vị, một Đại học sĩ dạy thái tử rất kính trọng ông. Ông còn tranh thủ kết bạn văn chương với sứ thần Triều Tiên là Lý Toái Quang, đưa xem thơ, nhờ viết đề tựa. Quan hệ ngoại giao với các quan nhà Minh bắt đầu bằng việc văn chương. Được biết vua Minh Thần Tông sắp tổ chức mừng thọ 80 tuổi nên ông đã chuẩn bị ráo riết, làm xong 31 bài thơ trong tập Vạn thọ thánh tiết để dâng lên vua Minh. Chỉ trong mấy tháng, ông đã hoàn thành một công trình văn học nghiêm túc để phục vụ mục đích ngoại giao. Để Vạn thọ thánh tiết không có một sai sót nhỏ, ông phải tìm hiểu dòng dõi các vua Minh cùng gia tộc, kiêng các điều cấm kỵ và nắm được tình hình phát triển thơ ca đời Minh lúc đó như những vấn đề triết học, nội dung nghệ thuật thơ ca. Ông phải có tứ thơ và nghệ thuật điêu luyện trong những bài thơ dâng vua và có thể còn có nhiều yêu cầu nữa để tranh thủ được cảm tình của vua Minh đối với vua Lê nhằm thực hiện các quan hệ ngoại giao với một nước tự xưng là thiên triều...

Để có tập thơ được hoàn thiện tối đa, ông đã đưa cho sứ thần Triều Tiên xem, nhờ “phủ chính” và có viết lời tựa. Ông cũng đưa cho Thượng thư bộ Lại Trương Vị xem mà xin lời đề tựa. Sau khi hai đại thần đã “phủ chính”, đến khi tập thơ dâng lên vua Minh, nhỡ có điều gì chưa được vừa ý hoặc có vị quan nào đã khích bác ý thơ nào đó thì đã có người đỡ hộ. Trương Vị đã dâng lên vua Minh tập thơ của Phùng Khắc Khoan, vua Minh xem rất lấy làm bằng lòng, vui thích và đã phê: Hiền tài hà địa vô chi. Trẫm lãm thi tập, cụ khiến Phùng Khắc Khoan chi trung khổn, thủ khả thâm gia quốc mĩ, tức mệnh hạ khắc bản ban thần thiên hạ (nghĩa là: Hiền tài đất nào chẳng có. Trẫm xem thi tập, thấy rõ Phùng Khắc Khoan là người trung hậu, thật đáng ngợi khen, mệnh lệnh khắc bản in ngay để ban hành trong thiên hạ).

Trong triều đình nhà Minh lúc đó, có phe ủng hộ sứ giả Phùng Khắc Khoan công nhận vua Lê, có phe ăn tiền của nhà Mạc tìm cách trì hoãn. Được Minh Thần Tông vì nể, ông đã mềm mỏng, ôn hòa và cương quyết buộc quan nhà Minh phải tổ chức để ông được dâng biểu cầu phong của vua Lê lên vua Minh. Yêu cầu cao nhất của chuyến đi sứ của Phùng Khắc Khoan là xin phong vương tuy chưa đạt được (vua Minh chỉ phong cho vua Lê chức Đồng thống), song cũng là một thắng lợi, vua quan nhà Minh phải coi nhà Lê là chính thống, không còn danh nghĩa gì để giúp quân Mạc.

Link: http://hanoi.ws/van-hoa/danh-nhan/phung-khac-khoan.html?start=2
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Bảy, 2011, 08:18:58 am gửi bởi thanhh63 » Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #22 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2011, 08:06:02 am »

( Trích )
NGOẠI GIAO TÂY SƠN − NHỮNG TƯ TƯỞNG ĐẶC SẮC VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ
Trần Ngọc Ánh
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Đăng trên: TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 1(30).2009
......
Thành quả và những tư tưởng ngoại giao đặc sắc của vương triều Tây Sơn

Sau khi Quang Trung đại phá quân Thanh, vua nhà Thanh Càn Long đã ra lệnh động binh chín tỉnh, trù tính xâm lược báo thù, nhưng không thể không e ngại sức mạnh của nhà Tây Sơn. Để dập tắt ngọn lửa binh đao, nhà Tây Sơn, trước tiên cần nêu cao sức mạnh chính nghĩa, khẳng định việc Quang Trung đại phá quân Thanh là không có gì đắc tội với “thiên triều”. Bởi Tây Sơn “không lấn sang biên giới để phải tội với thượng quốc”, cho nên, nếu nhà Thanh động binh xâm lược lần nữa, thì quân dân ta kiên quyết chống lại: “Nếu như sự tình trước đây chưa được giãi tỏ mà thiên triều không chút khoan dung cố gây việc chiến tranh, thì đó là làm nước nhỏ này không được hết lòng cung kính thờ nước lớn, tôi cũng đành phải nghe theo mệnh trời mà thôi”(2).

Đặt danh dự quốc gia lên hàng đầu, sau chiến thắng oanh liệt quét sạch 29 vạn quân Thanh, mục tiêu ngoại giao của Tây Sơn là kiên quyết đấu tranh với nhà Thanh để để không chỉ công nhận Tây Sơn về mặt ngoại giao mà còn đòi huỷ bỏ lệ “cống người vàng” do “thiên triều” áp đặt (bắt đầu từ thế kỷ XV) mỗi khi thay đổi triều đại. Trong thư gửi Phúc An Khang, Ngô Thì Nhậm (viết thay Quang Trung) đã nêu rõ: “Nay vâng đại nhân, đem cái lệ đổi cống người vàng, thế thì quốc trưởng nước tôi được nước, bằng một cách rất minh bạch lại phải sánh hàng với bọn ngụy Mạc, mà tấm lòng kính thuận, sợ trời thờ nước lớn không được ích gì?... Cúi mong đại nhân, noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi về việc đúc dâng người vàng, còn như lễ tuế cống phương vật, dám xin theo y như lệ”(3). Và rồi, trước thực lực cũng như sức mạnh ngoại giao chính nghĩa của Tây Sơn, Càn Long, vị vua kiêu dũng của nhà Thanh, không những phải quyết định đình chỉ việc động binh trả thù, tiếp nhận sứ thần của Việt Nam mà còn buộc phải ra lệnh bãi bỏ lệ cống người vàng, với lời phê rằng, “việc triều trước bắt cống người vàng là đáng khinh bỉ”.

Với “Bang giao hảo thoại”, qua ngọn bút sắc bén, vừa đanh thép, kiên quyết nêu cao chính nghĩa, vừa khéo léo, mềm mỏng, hợp tình hợp lý, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện xuất sắc thiên tài chính trị của Quang Trung là “khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, khi mà nhà Thanh “bị ta đánh thua, nhịn thì thẹn, báo thù thì khó”(4). Vị quân sư số một của Quang Trung, đáng được xếp vào hàng nhân vật đứng ngay sau Nguyễn Trãi trong lịch sử ngoại giao của nước Việt, đáng được liệt vào những người “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời”. Qua Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm, tư tưởng ngoại giao lỗi lạc của thời Tây Sơn đã được hiển hiện rực rỡ. Có thể khái quát tư tưởng ngoại giao của vương triều Tây Sơn qua “Bang giao hảo thoại” của Ngô Thì Nhậm như sau:

Thứ nhất là tư tưởng chủ động tiến công ngoại giao. Sau chiến thắng đại phá quân Thanh, ở đất Trung Quốc, thấy Tôn Sĩ Nghị thua trận tất cả chạy về, nhân tình, dân chúng đều nhốn nháo sợ hãi. “Từ ải Nam Quan trở về bắc, trai gái già trẻ bồng bế dắt díu nhau chạy trốn, suốt vài trăm dặm, lặng ngắt không còn bóng người”(5). Thấy rõ chỗ yếu của nhà Thanh, nhà Tây Sơn đã chủ động mở mặt trận tấn công ngoại giao nhằm chặn đứng âm mưu gây chiến “báo thù” của nhà Thanh. Phát huy thắng lợi về mặt quân sự, nhà Tây Sơn chủ trương: liên tục tiến công kẻ địch về mặt chính trị bằng vũ khí ngoại giao. Thay vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm đã viết những văn thư bang giao với nhà Thanh với lời lẽ khi thì cứng rắn (trong thái độ kiên quyết bảo vệ độc lập của dân tộc), khi thì mềm dẻo (để giữ thể diện cho nhà Thanh) nhằm mục đích giảng hoà, ngăn chặn ngọn lửa binh đao. Trong “Bang giao hảo thoại”, Ngô Thì Nhậm khẳng định: Nam quốc “không lấn sang biên giới để phải tội với thượng quốc. Sĩ Nghị vì cớ tài sức, muốn phù trì người hèn yếu… Bởi thế gây nên việc binh đao rồi bị thảm hại” và cảnh báo: “Ôi! Đường đường Thiên triều so sự thua được với tiểu di, tất muốn cùng độc binh vũ” để thoả lòng tham. Đó là điều trái với đức hiếu sinh của thượng đế, chắc thánh tâm cũng không nỡ thế. Nhưng “vạn nhất việc binh cứ kéo dài mãi không thôi, thì đến chỗ ấy … không được lấy nước nhỏ mà thờ nước lớn nữa”(6).

Thứ hai là tư tưởng ngoại giao dựa trên cơ sở chính nghĩa và sức mạnh quân sự. Sau chiến thắng quân Thanh, trong bang giao với nhà Thanh, Ngô Thì Nhậm luôn luôn chủ trương tiến công ngoại giao trên cơ sở khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của triều Tây Sơn và nền tảng thực lực quân sự hùng mạnh của đất nước: “Nay quân đội cốt ở chỗ đoàn kết một lòng, không cốt ở chỗ đông, binh lính quý ở chỗ tinh nhuệ không quý ở chỗ nhiều. Kẻ khéo thắng ở chỗ vô cùng mềm dẻo, chứ không phải ỷ mạnh lấn yếu, lấy đông hiếp ít đâu”. Mục đích ngoại giao chính nghĩa dựa trên thực lực đất nước của vương triều Tây Sơn là nhằm buộc nhà Thanh phải đáp ứng yêu cầu và mục đích của ta là bãi bỏ chiến tranh và phong vương (công nhận về ngoại giao) cho Quang Trung - Nguyễn Huệ. Nhân danh Quang Trung, Ngô Thì Nhậm chỉ rõ hành động bán nước của vua tôi Lê Chiêu Thống và yêu cầu nhà Thanh trao trả bè lũ bán nước để xét xử: “Còn như mẹ con Duy Kỳ gây nên hiềm hấn, rồi bỏ nước ngầm trốn, hoặc giả lại đến đất biên giới của thượng quốc. Tôi mong Tôn đài điều tra rõ tâu lên rồi đưa cho bản quốc lĩnh về xét xử cho hả lòng dân. Như thế mới là trừ ác trừ tận gốc…”(7). Sau khi Nguyễn Huệ được phong vương, Ngô Thì Nhậm còn chủ trương đưa vua “Quang Trung giả” sang Yên Kinh triều cận vua Càn Long nhà Thanh, một chuyến đi mà “dọc đường người Thanh phải phục dịch chuyển vận rất khó nhọc. Trong ngoài ai cũng biết là giả dối, mà không ai dám nói”(8 ). Đó là một chuyến bang giao chưa từng có trong lịch sử nước nhà mà theo lời Phan Huy Ích, một thành viên trong phái đoàn kể lại, thì “từ trước đến giờ, người mình đi sứ Trung Quốc chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế”.

Thứ ba là tư tưởng chiến lược ngoại giao mang tính chủ động. Qua Bang giao hảo thoại, có thể thấy, trên cơ sở phân tích tình hình thực tế, Ngô Thì Nhậm đã thay mặt vua Quang Trung, tiến hành một đường lối ngoại giao mang tính hoàn toàn chủ động. Bởi thế, trong bang giao Việt - Thanh sau chiến thắng của nhà Tây Sơn, người nắm thế chủ động là nhà Tây Sơn chứ không phải nhà Thanh, cho dù thực tâm nhà Thanh cũng muốn giảng hoà sau thảm bại kinh hoàng, nhục nhã của Tôn Sĩ Nghị. Bấy giờ, người nắm giữ binh quyền của Quảng Tây (Trung Quốc) là Thang Hùng Nghiệp đã nhiều lần bắn tin cho nhà Tây Sơn là triều đình nhà Thanh muốn giảng hòa, nhưng sáng kiến giảng hòa phải do phía Tây Sơn đề xuất trước, có như vậy thì nhà Thanh mới khỏi mất thể diện. Nắm bắt tình thế tiến thoái lưỡng nan của dainhà Thanh (gây chiến báo thù thì sợ thua, chấp nhận giảng hoà thì sợ nhục) với tư tưởng “chiến hoà quyền ở tay mình, mà hoà mục thực ai cũng muốn”(9), Ngô Thì Nhậm đã chủ động tiến công ngoại giao trên tư thế của người chiến thắng, vừa có thế mạnh lại vừa có lực mạnh. Với những lập luận sắc bén và đanh thép, với những lời lẽ khéo léo, hợp tình, hợp lý, Ngô Thì Nhậm đã góp phần đáng kể vào thắng lợi ngoại giao của triều đại Tây Sơn và đứng vào hàng ngũ những nhà ngoại giao lỗi lạc trong lịch sử dân tộc.

Những thắng lợi về ngoại giao của triều đại Tây Sơn mà ngày nay đọc lại chúng ta không thể không cảm thấy tự hào và thích thú, đã làm tươi sáng và vẻ vang thêm lịch sử dân tộc ta. Những thắng lợi đó sở dĩ có được trước hết là nhờ thắng lợi vĩ đại của chiến công “đại phá quân Thanh” vào tháng giêng năm Kỷ Dậu 1789. Những thắng lợi đó còn bắt nguồn từ đường lối ngoại giao đúng đắn, hợp tình, hợp lý của vương triều Tây Sơn với những tư tưởng ngoại giao đặc sắc và đã để lại cho hậu thế những bài học lịch sử quý giá. Những trang sử ngoại giao hào hùng của thời Tây Sơn không chỉ làm chúng ta hôm nay tự hào, ngưỡng mộ mà còn làm chúng ta càng yêu thêm đất nước, thêm tin tưởng ở tương lai và tiền đồ tốt đẹp của dân tộc.

Kết luận

Trên mặt trận ngoại giao thời Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm là người “lĩnh ấn tiên phong”, người khởi xướng và đồng thời là người thực hiện những tư tưởng ngoại giao lỗi lạc. Kế thừa xuất sắc tư tưởng “công tâm” của Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm đã góp công lớn làm nên những trang sử bang giao vẻ vang bậc nhất của lịch sử dân tộc thời kỳ phong kiến, đồng thời để lại cho hậu thế nhiều tư tưởng ngoại giao độc đáo. Ngày nay, lần giở lại những trang sử vẻ vang của ngoại giao thời Tây Sơn, chúng ta không chỉ cảm thấy tràn đầy lòng tự hào dân tộc mà còn tìm thấy những bài học lịch sử quý báu, có thể vận dụng trong quan hệ quốc tế thời đại toàn cầu hóa hiện nay. Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hoa quan hệ quốc tế của Đảng và nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay là hoàn toàn đúng đắn. Với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế hiện nay, việc kế thừa và vận dụng sáng tạo những tư tưởng ngoại giao đặc sắc và bài học lịch sử quý báu của vương triều Tây Sơn thời đại Quang Trung vẫn rất cần thiết và bổ ích.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Ngô Gia văn phái (2001), Hoàng Lê nhất thống chí , Dịch: Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.375.
[2] Ngô Thì Nhậm (2001), Tác Phẩm I, Chủ biên: Mai Quốc Liên, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nxb Văn học, tr.312.
[3] Ngô Thì Nhậm (2001), Tác Phẩm I, Chủ biên: Mai Quốc Liên, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nxb Văn học,tr.349.
[4] Ngô Gia văn phái (2001), Hoàng Lê nhất thống chí, Dịch: Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.385.
[5] Ngô Gia văn phái (2001), Hoàng Lê nhất thống chí, Dịch: Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.384.
[6] Ngô Thì Nhậm (2001), Tác Phẩm I, Chủ biên: Mai Quốc Liên, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nxb Văn học, tr.310.
[7] Văn Tân (chủ biên - 1974), Ngô Thì Nhậm - Con người và sự nghiệp, Ty Văn hoá - Thông tin Hà Tây xuất bản, tr.71.TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 1(30).2009 103
[8] Ngô Gia văn phái (2001), Hoàng Lê nhất thống chí, Dịch: Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 389
[9] Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm (1978), Quyển II, Chủ biên: Cao Xuân Huy - Thạch Can, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 131
Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #23 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2011, 08:30:04 am »

Hoàng Xuân Hãn
(bài đã đăng Đoàn Kết số Giai Phẩm Xuân 80)

Ông kể chuyện rằng : « Khi ta mới tám chín tuổi, học sách Luận Ngữ (Khổng Tử) với cha, đến câu « Làm việc biết điều đáng thẹn, đi sứ bốn phương mà không làm nhục mệnh Vua, như thế có thể gọi là kẻ Sĩ » cha tôi hỏi : « Mầy có thể làm như vậy không ? » Tôi đáp : « Chỉ biết thẹn là khó mà thôi. Còn đi sứ làm vẻ vang Nước nhà, làm trọng mệnh Vua, thì có khó gì ? »

Lê Quí Đôn đi sứ nước Thanh


Nếu ai xét lịch sử Nam tiến của dân tộc Trung Quốc, thì không thể không ngạc nhiên trước sự ngày nay còn có nước Việt Nam tự chủ trong khi các bộ lạc "Man-di" đã bị thôn tính từ triền sông Dương Tử đến sơn tuyến từ Ấn Độ sang Đông Hải nước ta. Các nước ở phương Nam đã không bị biến thành quận, huyện của Trung Quốc, chính nhờ sơn tuyến ấy, chỉ trừ đất Lạc Việt thì có năm đường thủy lục từ biên giới Bắc, châu vào trung nguyên triền sông Nhị, lớn chỉ bằng một phủ của Trung Quốc mà thôi. Sự tồn tại ấy đã nhờ vào các đức tính thông minh, bền bỉ, tự hào của con cháu Lạc dân; biết học tập văn hóa người mà không để thâu hóa; biết lợi dụng hình thế, thời tiết, khí hậu nước mình; biết thừa cơ thế yếu tạm thời của Trung Quốc mà giải phóng nước mình; biết khống chế Nam thùy không để Trung Quốc lừa gạt liên minh để phân tán thế lực ta; biết thâu hóa những dân tộc hoặc cá nhân dị chủng, kể cả những người đến đô hộ mình; và biết nhún nhường, hòa hảo đối với Trung Quốc khi họ không tỏ ý xâm lăng.

Với ý thức ấy, các triều đại nước ta đã nhận quan điểm Thiên Triều và Phiên Quốc, cũng như Triều Tiên, Lưu Cẫu, Miến Điện, vân vân ; nghĩa là coi đất mình là Hoàng Đế Thiên Triều phong cho, để làm phên giậu ngăn cản ngoại xâm cho Trung thổ. Vậy muốn làm vua "chính thức" ở Phiên Quốc, phải được Thiên Triều thừa nhận bằng cách ban sắc phong và ấn; khi mất thì kẻ quyền nối phải cáo ai và phải cầu phong. Đáng lí mỗi năm phải tới Thiên Triều ra mắt một lần, nhưng cũng có thể sai phái bộ thay mình mang phẩm vật tới cống, ấy là lễ tuế cống. Nước ta ở xa, cho nên lễ ấy được giảm dần: lễ vật ít, thời kì ba năm một lễ và đưa tới sáu năm một lần. Với những điển lễ không phiền hà và tốn kém bao nhiêu, mà Bắc thùy được yên, và khi có nội loạn hoặc ngoại xâm, vua mình có chỗ cầu cứu. Vì vậy, ngày xưa khi chưa có luật lệ ngoại giao quốc tế, những hình thức phụ thuộc này được coi là dĩ nhiên.

Những người cầm đầu sứ bộ đều chọn trong đám Triều quan trong ngoài năm mươi tuổi, đời Lê ít ra cũng đậu tiến sĩ giỏi văn từ, mẫn tiệp, hoạt bát. Người được chọn coi sự ấy là một danh dự rất cao. Ngoài những lợi lộc như thăng thưởng phẩm hàm, cung cấp bổng lộc, còn là dịp độc nhất được du lịch nước ngoài, nhất là nước mà họ đã chịu văn hoá hoàn toàn, viếng những xứ, thăm những chùa đền thờ những vị tên tuổi rất quen qua sử sách; lại có dịp ngâm vịnh những cảnh cũng rất quen qua các thi hào, được tiếp xúc với các văn nhân Trung Quốc hoặc Triều Tiên. Lúc về, cũng có thể đem về một số sách và đồ dùng hiếm lạ. Sự sáu năm chỉ mới có ba người được hân hạnh ấy, làm cho cái danh "phụng sứ" được đề cao hơn hết các phẩm tước của vua ban. Khi về, phần lớn góp những sự kiến văn có ghi chép, những thi văn thù ứng và đề vịnh, thành sách để lại cho con cháu và bạn hữu.
....
(còn tiếp)
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Bảy, 2011, 08:36:12 am gửi bởi thanhh63 » Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #24 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2011, 11:13:09 am »

(tiếp)
Lê Quí Đôn đi sứ nhà Thanh
...
Gần cuối triều Lê, đời Cảnh Hưng, hai lễ tuế cống năm 1756 và 1759 cử hành từ kinh đô Thăng Long vào đầu năm 1760. Vả chăng ở nước ta, trước đó 20 năm, đã có chuyện đổi vua mà giấu Thiên Triều. Nguyên là, năm 1735, khi vua Long Đức (Thuần Tông) mất, chúa Trịnh Giang lập em vua lên ngôi với niên hiệu Vĩnh Hựu. Vua Thanh cũng chịu sắc phong. Nhưng đến năm 1740, có phe đảng lập kế truất Trịnh Giang để lập Trịnh Doanh và nhân đó bỏ vua Vĩnh Hựu mà lập con vua trước, với niên hiệu Cảnh Hưng. Việc này tất nhiên không để vua Thanh biết. Vậy thì vua Cảnh Hưng ở ngôi trong 20 năm mà không có sắc phong của vua Thanh. Đối với Thanh, ta vẫn phải lấy tên vua Vĩnh Hựu để giao thiệp, và đối nội thì vua này được tôn làm Thái Thượng Hoàng. Trong khi đang sửa soạn việc tuế cống này, Thái Thượng Hoàng mất (8-6 Kỉ Mão 1759). Triều đình ta nhân dịp, xin phó thêm sứ vụ: việc cáo ai và cầu phong.

Sứ bộ gồm : chánh sứ Trần Huy Mật 45 tuổi, người huyện Đông Sơn xứ Thanh Hóa, đậu tiến sĩ năm 1736; giáp phó sứ (phó sứ số 1) Lê Quí Đôn 33 tuổi, người huyện Diên Hà xứ Hải Dương, đậu bảng nhãn khoa 1752; và ất phó sứ (phó sứ số 2) là Trịnh Xuân Chú 55 tuổi, người huyện Đông Ngạn xứ Kinh Bắc, đậu tiến sĩ khoa 1748. Công chức phụ tá gọi là hành nhân, có 9 người, 3 thông sự (phiên dịch), 2 trung thư (thư kí), 2 y viện (y sĩ) và 2 người thường vụ. Các sứ lại được chọn một số tùy nhân để giúp việc riêng, số là 11 người; và có thể đem theo một người bà con thân cận gọi là môn tử. Lần này với 2 môn tử, sứ bộ gồm tất cả 25 người.

Ngày 28 tháng giêng năm Canh Thìn 1760, sứ bộ qua sông Nhị, đi đường bộ tiến lên Lạng Sơn, rồi tới Ninh Minh là bến đò đầu tỉnh Quảng Tây. Từ đó xuống thuyền, định theo đường sông đến Bắc Kinh, qua Nam Minh, Ngô Châu, Quế Lâm; vượt các cống Linh Cừ nối sông Quế với sông Tương, rồi xuôi dòng đến hồ Động Đình, xuôi sông Dương Tử đến Nam Kinh; chuyển sang sông đào Vận Hà thẳng lên Bắc, vượt Hoàng Hà rồi tới vùng Bắc Kinh. Đến đây đã mùa đông, sông bị giá đóng, sứ bộ phải lên bộ. Ngày mồng 8 tháng 12 mới tới Bắc Kinh. Sứ bộ lưu ngụ Bắc Kinh gần ba tháng, làm trọn các nhiệm vụ sứ thần: hành các lễ Tiến Biểu (dâng tờ trình tuế cống) và Cáo Ai (10-12), lễ Triều Kiến (chào Vua Càn Long, 15-12), lễ Triều Hạ (mừng năm mới 1-1 năm Tân Tị 1761), lễ Yết Văn Miếu (cốt để điều-tra các lệ nghi và tự-khí, 10-l)

Sứ bộ muốn xin về gấp để đón các sứ thần vua Càn Long sai sang phong vương cho vua Cảnh Hưng. Nhưng phải đợi đến ngày mồng 1 tháng 3 mới xuống thuyền về. Lại bị những kẻ tiễn về, lợi dụng sự hộ tống Nam Sứ để buôn bán lậu muối dọc đường, cho nên ngày 24 tháng 12 mới về đến Thái Bình gần bến đổ bộ để về nước. Lệ xưa, quá ngày 23 tháng chạp, thì các việc quan đều đình. Cho nên sứ bộ phải lưu lại trong những ngày tết, và có lẽ phải đợi đến ngày 28 tháng giêng mới qua cửa Nam Quan về nước.

Trong vụ đi sứ lần này, Lê Quí Đôn đã soạn một sách chép hết sức tường tận mọi sự việc, mọi văn từ và đề là BẮC SỨ THÔNG LỤC gồm 4 quyển: Quyển 1 chép tất cả mọi việc và mọi công văn có liên quan đến sứ vụ trong thời kì trù bị (20-l0 Mậu Dần 1758 - 20-12 Kí Mão 1759). Quyển 2 và quyển 3 chép hành trình đi đến Bắc Kinh, các việc làm dọc đường và lúc ở Bắc Kinh; rồi chép hành trình đi về đến quá Nam Kinh. Chẳng may hai quyển nầy có lẽ đã mất. Quyển 4 kể hành trình khi về, từ Sa Châu, trên sông Dương Tử đến Thái Bình trên sông Tả Giang (từ ngày 26-6 Tân Tị 1761 đến quá 7-1 Nhâm Ngọ 1762). Trong quyển nầy, tác giả chép nhật kí, ghi rõ tên đất, tên người, độ đường, câu chuyện vân vân. Qua đó ta thấy rằng quả thật Lê Quí Đôn là một nhà học giả lỗi lạc, có óc khoa học, thiết thực, cụ thể, đủ mọi tài về văn chương, biết làm thơ, biết kể chuyện, biết kí tải, biết giao thiệp. Không những về lí học, mà cả về sử học, lúc mới hơn 33 tuổi mà đã tinh tường.

Ông có trí nhớ lạ thường. Chính ông kể lại, trong khi tham quan mọi nơi, ông đọc các câu đối các biển, lúc về thuyền nhẩm lại đều nhớ hết. Tục truyền rằng ông đọc sách gì một lần đủ nhớ luôn, kể cả những sổ bạ. Người ta lại kể chuyện rằng có lúc ông đọc một bia bị nước lũ dâng chóng ngập chân, ông đã đọc ngang từ dưới lên trên, mà khi về ông cũng chép lại bài bia được. Ví với ngày nay những kẻ có thể đánh cờ trầm mấy chục ván một lần, hay những người tính nhẩm những phép nhân chia hàng chục con số, thì ta thấy rằng những chuyện kể về trí nhớ của ông không ngoa. Từ thủa nhỏ, ông đã nổi tiếng thần đồng. Thi đậu tam khôi (ba lần đầu: ở tỉnh, ở kinh và ở cung điện) trong khi cha, là Lê Phú (sau đổi ra Viết) Thứ đang làm quan Triều và cũng xuất thân Tiến Sĩ. Tuy vậy, ông cũng không đậu đại khoa sớm như hai thần đồng đời Trần: Nguyễn Hiền (13 tuổi) và Nguyễn Trung Ngạn (16 tuổi). Nhờ vậy, ông đã có thời giờ đọc và viết sách nhiều trước lúc ra làm quan. Khoa Nhâm Dần 1752 chỉ có 6 tên trên bảng ; ông đứng đầu với bực Bảng Nhãn (năm bực là : Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, Hoàng Giáp và Tiến Sĩ). Tuy bực rất cao, nhưng ai cũng cầm chắc ông đáng bực Trạng Nguyên, nhưng trong bài thi có câu hỏi một chuyện chính trị đời Đường Thái Tông mà Đường Thư không chép và chỉ có ghi trong sách Trinh Quan Chính Yếu. Riêng ông, ông rất tiếc vì tủ sách nhà vốn có sách ấy nhưng có người mượn mất.
....
(còn tiếp)

Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #25 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 08:26:00 am »

(tiếp)
Lê Quí Đôn đi sứ nhà Thanh
...
Chuyện ông được đi sứ, thì cũng lẽ tất nhiên. Trong bài Đề Từ sách Bắc Sứ Thông Lục, ông kể chuyện rằng : « Khi ta mới tám chín tuổi, học sách Luận Ngữ (Khổng Tử) với cha, đến câu « Làm việc biết điều đáng thẹn, đi sứ bốn phương mà không làm nhục mệnh Vua, như thế có thể gọi là kẻ Sĩ » cha tôi hỏi : « Mầy có thể làm như vậy không ? » Tôi đáp : « Chỉ biết thẹn là khó mà thôi. Còn đi sứ làm vẻ vang Nước nhà, làm trọng mệnh Vua, thì có khó gì ? » Cha tôi cười mà bảo: « thằng bé này có hào khí ! » và dạy rằng: « Ý khí thì cố nhiên nên hào, nhưng không nên quá. Nên không nhún, không rời phẩm cách, nhưng phải nhã nhẵn, nhẹ nhàng, đừng để lộ ra một chút thô suất » Tôi thưa : « vâng.»

Trong tựa sách trên, tựa viết năm 1763, ông lại kể rằng:

« Ở nước Nam ta, tiền bối đi sứ có để lại nhiều tập thơ nhưng chưa ai kể lại các sự việc. Năm Vĩnh Hưu Đinh Tị (1737). Tổn Trai tiên sinh họ Lê (Lê Hữu Kiều, người huyện Đường Hào, đậu Tiến Sĩ khoa 1715) được sung phó sứ đi mừng vua Càn Long lên ngôi, có chép việc sử, nhật trình, đường đi, thơ văn thù ứng, vấn đáp và các sự tích, phong tục nghe thấy, viết thành sách đề là Sử Bắc Kí Sự. Khi ta chưa đậu, ông từng đưa cho ta xem và bảo : « Đây là sách ta lược biên để có thể mang theo trong túi áo. Cậu ngày sau chắc sẽ được chọn đi sứ. Cậu nên sẽ tiếp tục chép nhiều thêm để cho được nhiều sự trạng và lời văn vẻ hơn ».

Theo các chuyện trên, nhiều người đoán trước rằng ông sẽ phụng sứ. Năm 1758, ông được triều đình đề cử trong số sáu người đưa chúa Trịnh Doanh lựa chọn. Trong bài Đề Từ, ông kể rằng: " Chúa thật không muốn ta đi xa. Mùa thu năm Kỉ mão (1759) Chúa bảo Cổn quận công rằng muốn lưu ta ở lại để hầu chính sự; rồi hỏi ý ta. Ta quì tâu: « Cám ơn Thánh Thượng muốn tài bồi cho. Tôi, trên luyến Vua, dưới nhớ cha, há lại không muốn xin ở lại. Nhưng tôi nghĩ rằng từ xưa làm quan, ất nên lịch duyệt cho đủ. Ba năm đi về cũng không phải là lâu. Vậy xin vẫn được đi sang xem chính trị của Thượng Quốc ra sao, nhân vật họ ra sao ? » Chúa bằng lòng ".

Vì còn ít tuổi, chức tước chưa cao, cho nên ông chỉ được sung phó sứ số một, nhưng kì thật thì trong các cuộc ứng đối, ông đứng hàng đầu. Trong phần nhỏ sách kí sự của ông còn lại, ta cũng thấy người Trung Quốc để ý đến ông hơn chánh sứ nhiều. Lời ông viết nối trong Đề Từ: " Từ trước đến nay, văn thần được tuyển đi sứ là trên dưới 50 tuổi. Mà tôi vâng mệnh đi lần này, tuổi mới hơn 30, bề ngoài còn hăng hái sỗ sàng. Tự vui thích chơi bời bay nhảy, cảm tình với xưa, tò mò với nay. Đến đâu cũng đề vịnh (xướng họa với chánh sứ đến vài trăm bài). Đến những chỗ công sảnh, nhà quan, hễ thấy đối liễn, thơ đề trên quạt, ta đều nhẩm ghi để khi về thuyền sao lại . Ta lại được các bậc cao sĩ phu Trung Châu đem thi từ thân tặng. Cho nên trong lúc này có ghi nhiều văn từ thấy ở các công thự, ở phong cảnh núi sông, những lời hỏi đáp với các quan liêu ".

Sự thành tựu của sứ vụ, thì ông tự phê bình trong Đề Từ : " Ta vừa qua Nam Quan, liền gặp quan Tuần Kiêm họ Tra đưa thơ thách họa. Dọc đường gặp các quan liêu, bậc cả, sĩ phu đặt những câu hỏi hóc búa, họ bắt bẻ tranh luận như là kẻ địch. Lại có sứ Triều Tiên, quan Khâm Sai bạn tống đều là những bậc văn hào. Họ đã không coi mình là người nước ngoài mà khinh, đã tiếp chuyện nhiều lần. Tôi may nhờ hồng phúc, dùng văn tự nói chuyện, may khỏi bị khinh khi, mà còn được tán khen. Các sách Quần Thư Khảo Biện và Thánh Mô Hiền Phạm Lục là những sách tôi soạn trước 30 tuổi, được các người thích và giữ như của quí. Vậy mới biết lòng người không khác nhau. Lấy lòng thành thật chính trực đãi nhau, lấy văn tự làm quen nhau thì người bốn bể đều là anh em cả ... Vả chăng nếu mình rụt rè, tự coi mình là người nơi xa vắng, ít giao tiếp, ít nói năng thì bị người ta khinh bạc, mà dùng tiếng Di Ngôn Di Sứ (lời mọi, sứ mọi) mà chỉ chúng ta ".

Chính vấn đề các viên chức Thanh ở biên giới vẫn luôn luôn dùng tiếng DI (mọi) để trỏ người mình, kể cả sứ thần, là một điều mỗi lúc sứ ta sang, đều phải tranh biện phản đối và đòi cải cách. Khi đi về đến Quế Lâm, sứ bộ gửi tờ trình cho viên Tuần phủ Quảng Tây xin cho các viên chức sắp gặp sứ bộ, thôi dùng chữ DI. Đại ý tờ trình như sau : Trong các công văn và khi tiếp đón sứ thần mọi nơi đều gọi hai tiếng An Nam . " Thế mà ngày chúng tôi đến cửa Quan, quan đạo Tả Giang tới mở khóa, sứ thần vào lạy Long Đình, thì lễ sinh xướng lễ chỉ hô : Di quan, Di mục, trỏ rõ sự nghiêm ngặt, làm chúng tôi hổ thẹn rất sâu. Đến khi tới Nam Ninh, yết quan Đạo Đài, đến Ngô Châu yết quan Hiệp, giữa đám đông người mà vẫn dùng chữ DI ". Sứ thần xin theo lệ đời Ủng Chính thứ 9 (173l) giới thiệu các sứ thần bằng chức danh. Viên Bố Chánh biện luận một cách khôn khéo rồi nhận lời, như ta sẽ thấy trong tờ trình của sứ bộ gửi về chúa Trịnh Doanh.
....
(còn tiếp)
Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #26 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 01:38:45 pm »

(tiếp)
Lê Quí Đôn đi sứ nhà Thanh
...
Tờ trình nầy rất quí, vì được làm bằng tiếng Việt, có lẽ để người Thanh không đọc được, nếu chúng tò mò. Tuy cả ba sứ thần cùng kí tờ nầy, nhưng tôi tin rằng chính Lê Quí Đôn đã thảo. Cũng như trong các văn kiện bằng nôm thời xưa, tờ trình nầy thường dùng Hán văn xen vào trong câu Việt ngữ. Tôi sẽ viết những phần ấy bằng chữ nghiêng và kèm lời tôi diễn nôm ở sau trong vòng đơn. Sau đây tôi sẽ trích một vài đoạn (Toàn bài đã được in với chử nôm trong Tập san Sử địa số 6, Sàigòn 1967) :
" Tháng 10 ( năm Tân Mão 1761) ngày mồng 7, chúng tôi đến Quảng Tây tỉnh thành (Quế Lâm) ... Ngày mồng 9, quan phủ Quế Lâm xuống khám thuyền (xét đồ quốc cấm đem về nước). Kì trước, chúng tôi tiến quan (qua cửa Nam Quan) với vào chí kiến (chào) quan Nam Ninh, thì nó cũng chiếu cựu lệ, nó xướng rằng : « Di quan kiến » (quan mọi chào). Kì nầy chúng tôi cũng có đầu văn (nộp thư) nơi quan vũ viện đạo đạt tình diêu xin hành văn đạo, phủ, hễ nghi chú văn thư, đình DI QUAN tự (đến quan Tuần Vũ, kể rõ thắc mắc, xin gửi tờ sức cho các đạo, các phủ, bảo: phàm trong nghi lễ, văn thư, sẽ thôi dùng chữ di quan, nghĩa là Quan mọi). Tối hôm ấy, quan Bố Chánh họ Diệp (tên Tồn Nhân) truyền hai quan bạn tống (quan Thanh đi kèm sứ bộ) với thông sự (phiên dịch) lên Công đường; trước hỏi: « Ủy vấn Cống sứ nhất lộ tân khổ ? » (thăm hỏi các Cống sứ, dọc đường khó nhọc không). Sau lấy trình văn bảo rằng: « Nghiện cá thậm hảo, thuyết đắc hoạt lí. Đoạn cổ ngữ văn : THUẤN sinh ư Gia phùng, đông di chi nhân dã; Văn vương sinh ư Kì chu, tây di chi nhân dã. DI tự nguyên phi khinh mạn Quí quốc. Kim Sứ thần dĩ thử vi ngôn, dĩ mông Vũ đài chuẩn doãn, hành nhất giác công văn, truyền Tả giang đạo cấp các phủ, tự hậu đình hô DI tự xưng AN NAM quốc sứ ...» (Văn này rất hay, nói rất đúng lí. Nhưng lời xưa đã nói : vua Thuận sinh đất Gia phùng, là người mọi phía đông; vua Văn vương sinh đất Kì Chu, là người Mọi phía Tây. Dùng chữ Di vốn không phải để kinh nhờn Quí quốc. Nay sứ thần đã đem sự nầy bày tỏ nên lời thì đã được nhờ ơn quan Tuần vũ bằng lòng nghe. Đã gửi một ống công văn truyền cho đạo Tả giang và các phu, dặn từ rày về sau đừng hô chữ DI nữa, và gọi là Cống sứ nước AN NAM. Sứ có thể về nước thưa với Quốc vương được rõ. . .)

" Vả tiết nầy, chúng tôi trộm xem quan Trung Quốc có lòng kính trọng Bản quốc, dĩ cập kì sứ (vì đó trọng cả sứ ta). Từ ngày chúng tôi tiến Kinh, Hồ Nam, Hồ Bắc, An Huy, Giang Nam, Sơn Đông, ngũ tỉnh ấy, quan Tổng đốc, Tuần vũ đều đặc ủy thuộc liêu, quan viên hộ tống. Khi khởi lục, thì duyên đồ châu huyện bôn tẩu cung ứng, trương mạc kết thể (khi lên bộ thì dọc đường các quan châu huyện chạy cung cấp đồ ăn đồ dùng, trương màn kết vải màu để đón rước). Khi vào triều hạ (chầu mừng vua Càn Long) thì quan Nội các, Lục bộ đại-thần đều tựu vấn, hữu lời tưởng lao (tới hỏi thăm, có lời khen lao). Mấy (với) như cống sứ Cao Li cống sinh nước Lưu Cầu, gặp chúng tôi cũng hỏi han thư từ vãng phục. Kẻ thì rằng lập chí trung hậu, kẻ thì rằng Văn vật chi thịnh. Chúng tôi đều tùy sự đối đáp. Chuyện đối là sứ thần chức phận, chúng tôi không dám ghi lai lịch phiền độc (kể chi tiết làm nhàm tai).

" Chúng tôi bồi thần tam viên, với hành nhân cửu danh, tùy nhân thập tam danh (ba sứ thần, 9 phái viên, 13 tùy phái) muôn nhờ hồng phúc đều được bình ninh. Như môn tử (con em) chúng tôi cũng có đem sang, cũng đều được mạnh khoẻ cả. Chúng tôi gửi dộng (tâu) lạy BỀ TRÊN muôn muôn năm. Tư cẩn khải (nay kính thưa) ".

Tờ khái này có lẽ viết ngày 13 tháng Chạp năm Tân Mão 1761. Sứ bộ tưởng trước Tết sẽ về đến nhà, nhưng phải đợi gần một tháng ở Thái Bình, quan Thanh mới chịu mở cửa Quan. Tiếc rằng bản Bắc Sứ Thông Lục đã bị mất phần cuối, cho nên ta không còn biết hành trình từ Thái Bình về và có quả thật bọn biên lai Trung Quốc có bỏ tiếng DI chăng. Tuy vậy phần còn lại cho ta biết nhiều câu chuyện giữa Lê Quí Đôn với các nhân vật nước Thanh khi phải đợi lâu và ăn Tết ở Thái Bình. Sau đây sẽ kể một vài chuyện. Chuyện khám thuyền - Khi thuyền về đến Quế Lâm, theo lệ, quan Thanh xuống khám thuyền để tịch thu các vật và sách cấm. Đồ cấm có vũ khí và diêm tiêu dùng làm thuốc súng. Các cống sứ phải làm tờ cam kết, trong đó có nói :

" Năm Càn Long thứ 25, chúng tôi vâng mệnh Quốc vương mang tuế cống và tờ biểu và nghi vật tới dâng. May được Thánh ân ban cho quốc vương vải vóc, trong đó có thứ đoạn hoa Đại Mãng, Thổ Qua. Còn như diêm tiêu, quân khí và tất cả những món hàng cấm thì không hề mang về. Đó là điều chúng tôi cam-kết là thật ". Tất cả sứ bộ phải khai các sách đã mua, rồi phải gánh các hòm sách lên Trạm Ân Đình. Quan Thanh giữ lại một số, rồi bảo khai giá tiền mua để được bồi thường. Trong số sách bị thu có bộ UYÊN GIAM LOẠI HÀM là một thứ tự vựng bách khoa về văn học gồm 450 quyển, vua Khang Hi sai soạn. Lê Quí Đôn phải làm đơn xin trả lại, viện lẽ rằng trong sứ vụ Phạm Khiêm Ích (1724) vua Ủng Chính đã ban bộ sách ấy cho vua mình. Quan Thanh bằng lòng, nhưng giữ lại 23 bộ sách khác trị giá chỉ hơn 4 lạng bạc. Đó là những sách có tính cách chính trị, kinh tế, bói toán, địa lí, y khoa, thần tiên. Của riêng Lê Quí Đôn, có 5 sách bị thâu : Phong Thần Diễn Nghĩa, Nam Du Bắc Du, Uyên Hải Tử Bình, Tử Vi Đẩu Số và Mai Hoa Dịch Số. Qua những tên sách nầy ta có thể đoán rằng ông tin bói toán và thích tiểu thuyết phong thần.

Chuyện bút đàm với học giả Trung Quốc - Ngoài những nhịp dọc đường, Lê Quí Đôn tiếp chuyện với những quan địa phương, tặng thơ đáp câu đối, hoặc đàm đạo thường xuyên, Bắc Sứ Thông Lục còn giữ được lời ghi những buổi bút đàm với một Nho gia và sử gia có học uyên thâm, là CHU BỘI LIÊN bấy giờ được phái đến Quảng Tây chấm hương thi. Ý chừng y đang khảo cứu về địa dư vùng Nam qua lịch đại; cho nên y hỏi Lê Quí Đôn về sự biến cải địa danh ở nuớc ta từ đời Tần Hán đến đời Minh. Ông trả lời rất đầy đủ , ghi đến hơn 2000 chữ. Đọc qua, ngày nay chúng ta thấy ông đã thuộc những phần địa chí trong các sử thư Trung Quốc. Không những ông đã dẫn chứng lấy trong Nhị Thập Tứ Sử, mà còn dẫn những ngoại thư như Giao Quảng Xuân Thư của họ Vương và Nhĩ Thu của Trương Tân. Không những ông bàn địa dư Giao Chỉ mà còn so sánh với sử địa Triều Tiên. Trái với nhiều học giả nước ta đời xưa, ông đã để ấn tượng là người uyên bác về quốc sử khi mới hơn 30 tuổi. Ông lại đưa hai quyển sách đã soạn, Thánh Mô Hiền Phạm Lục và Quần Thư Khảo Biện cho Chu xem và xin đề tựa. Chu đã thấy rằng ông có chí, học rộng, cảm thấy nước ta có văn học, và " tiếc rằng Quế Đường (hiệu ông) sinh ở Nam Phiên, không thể ở lâu tại Trung Châu. Nếu được ở Trung Châu vài năm, cùng thầy có tiếng đạo đức văn chương giảng giải và nghiên cứu để tìm tình tứ Chu Công, Khổng Tử, thì ta không thể lường được ông sẽ tiến đến đâu " (Xem tựa sách Thánh Mô Hiền Phạm Lục). Qua câu phê bình đạo mạo của một văn gia đứng tuổi ớ Trung Châu đối với một dân phiên thổ, tuy đậu bảng nhãn, nhưng trẻ vào bậc học trò mình, ta cảm thấy sự ngạc nhiên và kính nể của người cao sĩ Trung Quốc đối với Lê Quí Đôn và đối với nước ta. Nguyên Thủy Chu Bội Liên đã nghe người khác mách rằng sách Thái Tử Tuyên Kí nói rằng An Nam thờ Giải Tấn (một quan nhà Minh sai sang cai trị nước ta sau khi Hồ Quí Li bị bắt. Xem tập-san Khoa-học Xã hội số 4 trang 121) và coi y như bậc Thánh, cho nên khinh thường trình độ văn học nước ta. Y có nói đến sự ấy trong bài tựa dẫn trên. Vì vậy Lê Quí Đôn đã phải biện bác dông dài, kể những người nước ta có văn danh trước khi Giải Tấn tới, Trương Hán Siêu, Nguyễn Bá Quát, Nguyên Trung Ngạn, Phạm Sư mạnh, Chu Văn An đời Trần. Trước nữa đời thuộc Đường, đã có bảy người đậu Tiến Sĩ và Khương Công Phụ lại đậu chế khoa. Cho đến những người Minh sang cai trị An Nam, thì Hoàng Phúc còn để tiếng lại; chứ Giải Tấn thì không ai biết đến.
....
(còn tiếp)
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Bảy, 2011, 01:45:12 pm gửi bởi thanhh63 » Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #27 vào lúc: 12 Tháng Bảy, 2011, 07:00:52 am »

...
(tiếp theo và hết)

Lê Quí Đôn đi sứ nhà Thanh

Ông nói tiếp: « Nó là một khách thương qua chơi, sao có thể đến Quốc tử giám (Văn miếu), mà biết rõ điển chương, văn hiến của nước tôi » (trong Thuyết Linh nói An Nam không thờ Khổng Tử, mà thờ Giải Tấn).

Chuyện kiến trúc thành quách - Chu Bội Liên chấp nhận lời biện bác ấy rồi chuyển sang hỏi về cửa thành.

Y hỏi : « Tôi nghe nói rằng thành xứ Phù Nam (Cam-bu-chia) có bốn cửa, cửa Tiền hướng Đông. Thấy chép như vậy trong sách Giang Đông Cựu Sự, nhưng tôi lấy làm nghi, vậy cửa Tiền ở Quí quốc quả như thế không ? »

Ông đáp : « Từ xưa, dựng đô lập ấp, phải xem âm dương, xét trời đất, nhắm trước sau, thẩm cao thấp; kết-quả là chưa có cửa Tiền thành nào không quay về hướng mặt trời. Ngày xưa, đương triều nhà Nguyên trước, có thể cửa Tiền ở thành Phù Nam ngảnh về Đông, nhưng tôi không thể biết (Lê Quí Đôn có lẽ đã đọc sách Chân Lạp Phong Thổ Kí của Chu Đạt Quan đời Nguyên tả thành Angkor). Còn như Đô Thành nước tôi, thì cùng một chế với thành quách xưa nay. Vả chăng, chín cửa thành Kinh sư (Bắc Kinh) và những dinh thự sáu bộ và các Tự, các Viện đều bởi quan thái-giám nước tôi tên Nguyễn An xây nên đời Vĩnh Lạc Việc ấy được chép trong sách Hoàng Minh thông kỉ. Nhân tiện xin trình ».
Chu nói : « Quí quốc có nhiều người tài nghệ như thế, mà tôi nghe rằng hiện nay, các trị sở tại trấn, phủ, huyện đều không có thành quách, là tại sao ? »

Lê Quí Đôn đáp : « Sách Hán chí chép : Giao chỉ có hơn 60 thành. Gần đây, trong khoảng triều Minh cai trị, cũng đắp hơn 20 thành. Không phải rằng nước tôi không biết giữ nếp cũ, nhưng ban đầu, khi quốc triều (Lê) mới lập, đã san bằng hết. Chỉ ở trấn thị, đắp luỹ đất mà thôi . Tôi trộm nghĩ rằng đó bởi có thâm ý...»

Chu hỏi : « Tại sao ? »

Đáp : « Nước nhỏ tôi và nước lớn Ngài, sự thể không giống nhau. Nay may được Thánh triều ôm ấp vỗ về, hai nước thành một nhà, không phải trở lại lo nữa. Nhưng trong buổi đầu triều Nguyên và triều Minh, bị tụi biên thần tham công mà sinh sự với nước tôi. Chúng tôi sợ bị đột nhập. Nếu tụ nhau ở trong một thành, ngồi để chịu vây đánh, thì chẳng là kế hay. Dân chúng là lính, làng mạc là của. Nếu ở linh tinh phân tán, thì muốn đánh cũng không chỗ nào mà đánh, muốn cướp cũng không thấy đâu mà cướp. Trái lại, nhân chỗ họ mà phá rối, đặt phục mà cản đường. Làm như vậy mới có thể giữ nước ».

Những câu trả lời trên thật là lí thú. Một mặt, nhờ Lê Quí Đôn nhắc lại, chúng ta được biết cái cửa Thiên An Môn cùng 8 cửa khác của thành Bắc Kinh là công trình của người nước ta, cũng như doanh thự trong thành. Việc nầy người Trung Quốc đời nay vẫn biết. Một mặt khác, ông đã giải thích một cách chí lí chiến lược " của không nhà trống ", phân tán du kích, để cảnh giác người Thanh. Chu Bội Liên phải khen rằng: « Sứ quân biện cực tài ! Nhưng cuối cùng, tôi cho rằng như thế không bằng xây thành quách làm hiểm trở mà tự thủ ... ! »

Rồi sau khi Lê Quí Đôn lí luận bác thuyết Việt Thường hiến bạch trị cho Chu Vương và Chu Vương cho xe chỉ nam, Bội Liên mừng rỡ mà khen : « Bàn luận thật là khoái, khiến người thán phục và kính trọng ! ».

Và ngày nay, đọc đến đây, cũng phải thán phục một người trẻ tuổi, học tiếng nước ngoài, phải theo đòi cử nghiệp, mà đã kiến thức mông mênh, lí luận chắc chắn, ứng đối mẫn tiệp như Lê Quí Đôn. Thật ông đã làm đúng như lời hứa với cha khi tám chín tuổi: làm vẻ vang Nước nhà.

Mùa đông năm Kỉ mùi
Hoàng Xuân Hãn


Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #28 vào lúc: 15 Tháng Bảy, 2011, 07:41:44 am »

Câu chuyện 16:
AN TƯ VÌ NƯỚC QUÊN THÂN
(Trích: VIỆT SỬ GIAI THOẠI - tập 3 - 71 GIAI THOẠI ĐỜI TRẦN , Nguyễn Khắc Thuần , NXB Giáo dục 2003 , Tái bản lần thứ tám)

Tháng chạp năm Ất Dậu (tháng 1 - 1285), hơn nửa triệu quân Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu tràn sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Lần này, thế giặc rất mạnh, quân ta phải tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, tìm cơ hội phản công sau. Giặc áp sát kinh thành Thăng Long, tình hình trở nên vô cùng căng thẳng. Đúng lúc ấy, Trần Kiện lại đem toàn bộ gia quyến và liêu thuộc đi đầu hàng, cánh quân một vạn người do y chỉ huy lâm vào thế khủng hoảng nghiêm trọng. Vua Trần Nhân Tông một mặt sai Đỗ Khắc Chung vào thẳng sào huyệt giặc, mượn cớ đi thương thuyết để do thám, mặt khác lại đưa Công chúa An Tư vào hiến cho Thoát Hoan, nhằm khéo léo cản bước tiến của tên tướng hung hãn này. Công chúa An Tư là con gái út của vua Trần Thái Tông ( 1225 - 1258), em của Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Người con gái ấy vì nước mà ra đi, đem tấm thân ngàn vàng để góp phần cứu nguy cho xã tắc.

Tháng 3 - 1285, An Tư vào dinh Thoát Hoan (ở bờ Bắc sông Hồng). Cơn đam mê đã khiến Thoát Hoan chậm trễ tấn công vào Thăng Long, và đó là cơ hội quý giá để triều Trần có thể rút lui một cách an toàn khỏi thủ đô. Về sự kiện này, sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 47 a) chép một cách gọn gang rằng "sai người đem Công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, ấy là muốn làm thư giãn nạn nước vậy".
Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
thanhh63
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2187


« Trả lời #29 vào lúc: 19 Tháng Bảy, 2011, 12:00:02 pm »

Câu chuyện 17
SỞ HỌC CỦA TRẦN NHẬT DUẬT
(Trích: VIỆT SỬ GIAI THOẠI - tập 3 - 71 GIAI THOẠI ĐỜI TRẦN , Nguyễn Khắc Thuần , NXB Giáo dục 2003 , Tái bản lần thứ tám)

Không thấy sử chép chuyện quý tộc họ Trần đi thi, nhưng sở học của những nhân vật như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nguyên Đán ... v.v.. quả là đáng phục vô cùng. Đây chỉ xin theo Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 2 a-b và tờ 3 a) để kể riêng sở học của Trần Nhật Duật, người được coi là nhà ngôn ngữ học lỗi lạc ở cuối thế kỉ XIII đầu thế kỉ XIV :

"Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi ở thôn Bà Già. Thôn này có từ hồi Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Vua Lý bắt được người Chiêm rồi cho về ở đấy, theo tiếng Chiêm mà đặt tên thôn là Đa-gia-ly, sau người đời gọi sai thành thôn Bà Già. Nhật Duật đến chơi, có khi đến ba bốn ngày mới về.

Nhật Duật lại hay đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với nhà sư người Tống, ở lại lâu mới về. Người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến nhà ông. Nếu là khách Tống thì ông kéo ghế ngồi gần, chuyện trò suốt buổi, nếu là người Chiêm hay người các dân tộc thì theo phong tục của họ mà tiếp đãi.

Đời Nhân Tông ( 1278 - 1293), sứ nước Sách-mã-tích (tức nước Tumasik, thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo - ND) sang cống, (triều đình) không tìm được người phiên dịch, chỉ có Nhật Duật là dịch được. Có người hỏi ông vì sao biết tiếng nước họ, ông trả lời rằng thời Thái Tông (1225 - 1258), sứ nước ấy sang, nhân có giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ. Nhân Tông từng nói: "Chú Chiêu Văn (chỉ Trần Nhật Duật, vai chú ruột của vua Nhân Tông - ND) có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc nên mới giỏi tiếng các nước đó". Hồi làm Tể tướng, ông thường qua nhà một người Tống là Trần Đạo Chiêu, nói chuyện với nhau hàng giờ không mỏi. Anh Tông biết chuyện, nói với ông rằng : "Tổ phụ là Tể tướng (Nhật Duật vai ông của Anh Tông nên Anh Tông gọi là tổ phụ - ND), Đạo Chiêu tuy là người Tống, nhưng đã có Hàn lâm phụng chỉ (chức quan lo phiên dịch - ND), há nên ngồi nói chuyện với hắn".

Theo lệ cũ, sứ Nguyên sang phải sai người biết tiếng để phiên dịch. Tể tướng không được nói chuyện trực tiếp với họ, làm thế để lỡ có gì sai sót thì đổ lỗi cho người phiên dịch. Nhật Duật thì không thế. Tiếp sứ Nguyên, ông thường nói chuyện thẳng với họ mà không mượn người phiên dịch. Khi sứ xong việc, về nơi nghỉ ngơi thì dắt tay cùng về, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn quen biết. Sứ Nguyên hỏi ông : "Ông là người Chân Định (vùng thuộc tỉnh Hà Bắc cua Trung Quốc ngày nay - ND) tới làm quan ở đây chớ gì?". Nhật Duật ra sức cãi lại nhưng họ vẫn không tin, có lẽ vì hình dáng và tiếng nói của ông giống người Chân Định".

Logged

Nắng gió cuộc đời, phải chăng đã phũ phàng làm cho mái tóc phai đi, sáng lên màu bạc, nhưng ánh mắt vẫn đọng mãi những đốm lửa của nồng nhiệt và tha thiết...Hãy gom những đốm lửa lẻ loi ấy để bùng cháy thành ngọn lửa!
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM