Thưa các bác:
Đã từ lâu tôi muốn viết một bài khảo luận về nước Nam Giao mà lắm bạn đọc mê truyện chưởng Kim Dung biết qua là nước Đại Lý có những nhân vật như Đoàn Nam Đế (Nhứt Đăng Đại Sư) qua bộ Anh Hùng Xạ Điêu, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự trong bộ Lục Mạch Thần Kiếm & Thiên Long Bát Bộ...; thực tế Nam Giao là một vương quốc có thật, họ lập được nước Nam Giao cả 200 năm trước khi nước Việt Nam giành được độc lập từ nhà Nam Hán (737 vs 939 sau Công Nguyên). Theo tôi nghĩ, nếu không có nước Nam Giao thì dễ gì ông bà chúng ta dành được độc lập từ người Tàu, sau hơn cả 1,000 năm nước mình bị lệ thuộc và xem là một quận/huyện của Trung Hoa! Vì hoàn cảnh nào mà một dân tộc và đất nước kiêu hùng như Nam Giao/Đại Lý đã thành hình rồi mai một vào lịch sử....; Mời các bạn tham khảo và từ từ góp ý... vì Bí Bếp sẽ dán từ từ cho đến khi kết thúc bài viết nầy..!
Nước Nam Giao (có lúc sử/truyện mình còn gọi là Nam Chiếu), đôi khi còn viết là Điền Việt trước khi triều Đại Lý do Đoàn Tư Bình thay thế vào năm 902 sau Công Nguyên. Nước Nam Giao trước kia nằm ở khu vực tỉnh Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên của Trung Hoa mà lúc sung mãn nhất vương quốc Nam Giao bắc giáp ranh với nước Thu Bồn, nam chiếm cả Miến Điện và Giao Châu (Bắc Việt) vào thế kỹ thứ 9 (năm 858), phía đông họ chiếm cả Ung Châu và Thành Đô (Chengdu) của nhà Đường. Nếu dựa theo huyền sử thì có lẽ chúng ta cũng có thể liên đới đến chuyện Lạc Long Quân dắt 50 người con xuống biển, nếu Âu Cơ dắt 50 người con lên núi (miệt Lĩnh Nam) thì các sắc dân của nước Nam Giao chúng ta có thể nhận là anh em của giống Việt tộc (Bách Việt) chăng?
Như chúng ta đã biết theo lịch sử thì khu Vân Nam và miệt Nam của sông Dương Tử đã có người sống từ nhiều ngàn năm về trước mà người Hán trước đó gọi là những nhóm Tây Di, Nam Man, và Bách Việt. Các dân tộc tập trung ở khu Vân Nam trước kia đông nhất là các bộ tộc người Bạch, người Di, người Thổ, người Hmong (Mèo), người Nùng. Người Bạch thuộc nhóm dân của người Thái mà ở Việt Nam cũng còn một số sắc tộc Thái sinh sống (Thái trắng, Thái Đen, Thái Đỏ... tên gọi khởi nguồn từ màu nhuộm chính của trang phục họ mặc). Trước kia, người Bạch sống rải rác quanh hồ Nhĩ Hải (Erhai lake) một vùng đất màu mỡ ở khu vực Vân Nam.
Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc có một vị tướng của nước Sở tên Sung Kiều, mang quân đến khu vực nầy mà lập nước có tên là Điền Việt tuy nhiên sử Trung Hoa không chép nhiều về nước Điền Việt nầy mãi cho đến thời Tam Quốc mà chính Khổng Minh Gia Cát giúp Lưu Bị dựng nước Thục (Hán) cầm quân đánh vào Nam Trung (Vân Nam) để chinh phục quân của Mạnh Hoạch và các sắc tộc mạn Nam Trung cũng chính là các dân tộc tiền thân của nước Nam Giao...; Chính nhờ hậu cứ Nam Trung cung ứng quân lương nồng cốt mà Gia Cát Lượng đã gầy dựng lực lượng để thực hiện việc tiến đánh Bắc Ngụy hầu tái lập nhà Hán có điều "mưu sự tại nhân thành sự tại thiên" nên kết quả mà hầu hết quí anh chị em đã rõ mặc dù quân Tây Thục dưới sự lãnh đạo của Lưu Bị dẫu có đắt nhân tâm nhưng cũng không qua được chướng ngại thiên thời của Bắc Ngụy hoặc địa lợi của Đông Ngô để rồi họ Tư Mã cuối cùng soán ngôi nhà Ngụy, dẹp Đông Ngô và Tây Thục, thống nhất được Trung Hoa để gầy dựng lên nhà Tùy sau đó.
Riêng vùng đất trong Tam Quốc Chí gọi là Nam Trung cũng chính là địa bàn của người Bạch, người Di là hai sắc tộc chính của khu vực Nam Giao quanh hồ Nhĩ Hãi thuộc tỉnh Vân Nam hiện nay. Sau thời Tam Quốc, khu vực nầy vẫn thuộc dạng tự trị, người Nam Giao ít bị sự điều khiển trực tiếp của người Hán. Theo Hán Sử thì người Nam Giao có sáu bộ tộc chính (Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Mông Xá, và Thi Lãng). Bộ tộc Mông Xá nằm ở phương Nam của tỉnh Vân Nam nên có lúc bộ tộc nầy còn được gọi là tộc Nam Giao. Riêng ở Trung Nguyên, sau khi nhà Tấn suy sụp vào năm 420 (sau Công Nguyên), nước Trung Hoa lại bị phân chia loạn lạc; Lưu Dự soán ngôi nhà Đông Tấn tập nên nước Tống ở phương nam, mạn bắc thì nhà Ngụy kết hợp các sứ quân thành lập Bắc Triều. Nội loạn ở Trung Hoa kéo dài cả 200 trăm năm cho đến khi Đường Thái Tổ thống nhất lại Trung Hoa để lập nên nhà Đường từ năm 618.
Ở vùng Nam Trung vào năm 649 có một lãnh tụ tên là Tế Nô La của bộ tộc Mông Xá kết hợp được cả 6 bộ tộc mà thành lập nước Nam Giao. Tế Nô La xin triều cống và gửi con trai đến Trường An (thủ đô của nhà Đường) để làm con tin mà xin được phong vương, tuy nhiên Đường Cao Tông chỉ phong Tế Nô La chức Thái Thú của vùng đất Quế Châu (Vân Nam bây giờ). Sau đó con cháu của Tế Nô La vẫn tiếp tục giúp nhà Đường dẹp được loạn lạc ở Vân Nam từ năm 713-719, và nhà Đường hầu như giao hẵn vùng đất nầy cho người Nam Giao tự trị lấy. Đến năm 732, Bì La Cáp xin chiếu chỉ cùng Đường Huyền Tông để chính thức thống nhất các bộ tộc trong vùng mà chính thức lập thành nước Nam Giao. Trong thời gian nầy, nước Thu Bồn (Tây Tạng) đã trở nên cường thịnh và gây khó khăn cho ảnh hưởng của nhà Đường nên Đường Huyền Tông đồng ý phong vương cho Bì La Cáp hầu dùng nước Nam Giao làm bình phong để ngăn chận sự bành trước của nước Thu Bồn ở mạn Tây Bắc của Trung Hoa. Trên thực tế thì mãi đến năm 738 Bì La Cáp mới chính thức thống nhất được tất cả các bộ tộc của người Bạch và người Di ở trong vùng để xưng Vương. Như thế thì người Nam Giao đã thật sự độc lập cả 200 năm trước khi Ngô Quyền thắng trận Bạch Đằng mà dành độc Lập cho nước ta sau năm 938.
Sau 10 năm lập nước Nam Giao, Bì Lô Cáp mất vào năm 748; con của Bì Lô Cáp là Cáp Lỗ Phong kế vì và nuôi mộng bành trướng nước Nam Giao. Trong giai đoạn nầy, mối quan hệ của Nam Giao và triều Đường ở Trường An bị suy thoái cũng do sự gian tham của thái thú Trương Đà người có trách nhiệm giữ quan hệ với Nam Giao ở vùng nầy. Trương Đà liên kết cùng các thái thú trong vùng mà làm nhục quan thần của nước Nam Giao một khi họ phải đi triều cống; một số tài liệu có ghi rằng chính Trương Đà lắm lúc còn hãm hiếp cả vợ của các sứ thần Nam Giao, một đàng Trương Đà gửi báo cáo láo về Trường An rằng vua nước Nam Giao là Cáp Lỗ Phong có ý tạo phảo Đường triều.
Cáp Lỗ Phong nắm được tà ý của Trương Đà, ông cũng gửi thư giải bày cùng Đường Huyền Tông ở Trường An; nhưng bấy giờ Đường Huyền Tông đang đắm say tửu sắc cùng Dương Quí Phi bỏ mặc việc triều chính cho quan Tể Tướng là Dương Quốc Trung coi ngó. Dương Quốc Trung lúc đó đang dùng quyền thế lo vơ vét làm giàu nào xá gì chuyện cỏn con của đám Tây Di nên chiếu thư của Cáp Lỗ Phong không được Trường An giải quyết. Sau đó Cáp Lỗ Phong cất quân tấn công trả thù và giết được Trương Đà và tiến chiếm cả phía nam của vùng đất Tứ Xuyên. Dương Quốc Trung sau đó mới tìm cách chạy tội bằng báo cáo dối cùng Đường Huyền Tông rằng vua nước Nam Giao đã liên kết cùng nước Thu Bồn mà tạo phản mà đề nghị Đường triều nên dấy binh chinh phạt Nam Giao. Đường Huyền Tông cử 60,000 tinh binh chinh phạt Nam Giao. Cáp Lỗ Phong gửi sứ giả xin cầu hòa nhưng tiết chế của quân Đường (Xianyu...) bắt giam sứ giả và tiếp tục cất quân tiến đánh Nam Giao.
Cáp Lỗ Phong xin hòa không được ông mới lập bàn tế trời mà thề rằng "Nếu Trung Nguyên chấp nhận tôi, tôi vẫn sẽ luôn nhận triều đình là Chúa của tôi nhưng triều đình Trung Nguyên không nhìn tôi, từ nay Trung Nguyên sẽ thành kẻ thù của tôi." Sau đó Cáp Lỗ Phong gửi sứ giả đi liên kết cùng nước Thổ Phồn để cầu viện binh, cùng lúc ông cắt con trưởng dắt kỵ binh đánh phục kích chặn kỵ binh của Đường triều; riêng ông cũng thân chinh mà điều quân tổ chức phản công quân Đường. Do sự kết hợp giữa quân Nam Giao và Thổ Phồn, quân Đường bị đại bại; Sau đó tiết chế của nhà Đường là Lý Mỹ lại tập hợp một đạo quân lớn hơn bao gồm 100,000 tinh binh + 100,000 quân tiếp vận mà tấn công Nam Giao bằng đường bộ lẫn đường thuỷ (qua hồ Nhĩ Hãi). Đạo quân của tiết chế Lý Mỹ bại đại bại ở Hạ Quan (Xiaquan); qua hai trận đánh, quân Nam Giao tiêu diệt cả 260,000 lính của quân Đường; xác chết chất thành núi mà đến ngày nay di tích Mồ Tướng ở Hạ Quan và Mã Vạn Binh (trong công viên Thiên Bảo) vẫn là chứng tích cho sự thảm bại của quân Đường ở Nam Giao. Sau khi nhà Đường bị suy yếu do 8 năm loạn dấy nên bởi An Lộc Sơn (sử chép cả 2/3 tổng số dân Trung Hoa bị chết trong thời gian nầy), Cáp Lỗ Phong đã bành trướng lãnh thổ nắm giữ cả vùng Vân Nam, một khoảng của Tứ Xuyên, phía tây của Quí Châu, bắc của Miến Điện, Thái Lan, Lào, và ngay cả miền bắc của Việt Nam thời nay.
Về chuyện quân Nam Giao đã từng chiếm đóng Việt Nam (An Nam thời đó), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có trích theo sử Đường như sau:
Mậu Dần, 858, (Đường Đại Trung, năm thứ 12). Mùa xuân, người Nam Chiếu kéo đến đông, đóng ở bến đò Cẩm Điền. Vương Thức khi đó là Giao Châu kinh lược đô hộ sứ, sai người đến dụ, chỉ một đêm người Nam Giao đếu lại kéo đi. Nguyên nhân do đô hộ Lý Trác tham lam tàn bạo, mua hiếp bò ngựa của người Nùng, mỗi con chỉ trả cho một đấu muối (2 lít muối), giết tù trưởng Nùng là Đỗ Tồn Thành, dân Nùng oán giận, dẫn đường cho người Nam Giao đến lấn cướp biên giới. Tháng 5 năm ấy, người Nam Giao đến cướp, Thức đánh lui được.
Canh Thìn, 860, (Đường Ý Tông, Thôi Hàm Thông, năm thứ 1). Mùa đông, tháng 12, ngày Mậu Thân, người Nùntg dẫn quân Nam Giao hợp lại hơn 30.000 người, đánh chiếm phủ trị.
Tân Tỵ, 861, (Đường Hàm Thông, năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, vua Đường phát quân Ung, Quản và các đạo lân cận sang cứu Lý Hộ, đánh lại Nam Chiếu. Mùa hạ, tháng 6, ngày Quý Sửu, vua Đường sai phòng ngự sứ Diêm Châu là Vương Khoan làm Kinh lược sứ An Nam. Bấy giờ Lý Hộ từ Vũ Châu thu nhặt quân người địa phương Giao Châu đánh bọn Nam Giao, lấy lại được phủ thành.
Nhâm Ngọ, 862, (Đường Hàm Thông, năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, Nam Giao lại vào cướp phá. Vương Khoan mấy lần sai sứ cáo cấp. Vua Đường sai Hồ Nam quan sát sứ là Sái Tập thay thế, đem binh các đạo Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc, hợp lại 30.000, giao cho Tập để chống cự. Yếu thế, quân Nam Giao rút lui. Mùa đông, tháng 10, Nam Chiếu đem 50.000 người đến cướp, Tập cáo cấp. Vua Đường sai lấy quân hai đạo Kinh Nam, Hồ Nam 2.000 người và nghĩa chinh ở Quế Quản 3.000 người đến Ung Châu chịu lệnh tiết chế của Trịnh Ngu để sang cứu Sái Tập. Tháng 12, Tập lại xin thêm quân, vua Đường sắc cho Sơn Nam đông đạo đem 1.000 quân cung nỏ sang cứu.
Quý Mùi, 863, (Đường Hàm Thông, năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Ngọ, quân Nam Giao đánh chiếm phủ thành. Nam Giao hai lần chiếm Giao Châu, vừa giết vừa bắt gần 150.000 người. Khi rút lui còn lưu lại 20.000 quân, sai Tư Tấn giữ thành Giao Châu. Người Di Lão ở các khe động đều hàng phục cả. Vua Nam Giao cho thuộc hạ là Đoàn Tù Thiên làm tiết độ sứ phủ Giao Châu.
Giáp Thân, 864, (Đường Hàm Thông, năm thứ 5). Mùa thu, tháng 7, vua Đường cho Cao Biền làm Đô hộ tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ.
Ất Dậu, 865, (Đường Hàm Thông, năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, Cao Biền sửa quân ở trấn Hải Môn. Biền đem hơn 5.000 quân vượt biển đi trước. Tháng 9, Biền đến Nam Định, Phong Châu, quân Nùng gần 50.000 đương gặt lúa, Biền ập đến đánh tan, chém được bọn Trương Thuyên, thu lấy số lúa đã gặt để nuôi quân.
Bính Tuất, 866, (Đường Hàm Thông, năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu sai Trương Tập giúp Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô thống Giao Châu. Giám trận nhà Đường sai Vi Trọng Tể đem hơn 7.000 quân đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Giao, giết và bắt sống rất nhiều. Nam Giao thu quân còn sót chạy vào châu thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây châu thành hơn 10 ngày, người Nùng rất khốn quẫn. Biền đến nơi đốc thúc khích lệ tướng sĩ, lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người Nùng dẫn đường cho quân Nam Giao chém hơn 30.000 đầu. Quân Nam Giao trốn đi, Biền lại phá được hai động dân Nùng đã theo Nam Giao, giết tù trưởng. Người Nùng rủ nhau quy phục đến 17.000 người.
Sau đó triều đại Nam Giao bị suy yếu và bị lật đổ vào năm 902; sau ba lần thay ngôi, Đoàn Tư Bình mới thống nhất được các sứ quân Nam Giao vào năm 937 xong đổi tên nước thành Đại Lý. Thời bấy giờ họ Đoàn của nhà Đại Lý đã chịu sự ảnh hưởng sâu đậm của phái Mật Tông của Phật giáo (như triều Lý Trần ở xứ ta); Phật Giáo đã trở thành quốc giáo của xứ nầy. Đoàn Tư Bình đổi tên Đại Lý có ý là lấy giáo lý của Phật làm tên nước. Trước đó đạo Phật đã truyền sang Nam Giao qua ngã Thổ Phồn (Tây Tạng); vị vua cuối cùng của Nam Giao vì quá sùng đạo nên lơ là việc nước dẫn dắt đến sự truất ngôi, phân chia rồi được thống nhất do Đoàn Tư Bình bắt đầu triều Đại Lý.
Bản đồ Trung Hoa vào năm 1142 AD
Nước Đại Lý từ năm 1142
Dòng họ Đoàn của Đại Lý kéo dài được 316 năm, truyền được 22 đời vua trong đó có 10 vị vua bỏ đi tu như Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn Cảnh Hưng, v.v. (nhường ngôi cho con để làm Thái Thượng Hoàng như các vua Trần ở xứ mình).
Nước Đại Lý tuy theo đạo Phật nhưng tinh thần võ sĩ của họ vẫn khá mạnh. Ở mạn bắc quân Mông dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn cũng thống nhất được các bộ tộc mà làm mưa làm gió trên các chiến trường từ Âu sang Á. Quân Mông bị quân Đại Lý cầm chân ở khu vực hồ Nhĩ Hãi khá lâu mà vẫn không phá vỡ được sự phòng thủ của quân Đại Lý. Theo sử liệu, thì quân Mông được có sự chỉ dẫn của một người Đại Lý phải bội, giúp kỵ binh của họ vượt qua đèo ở dãy núi Thương Sơn hiểm trở bằng đường bí mật mà đánh tập hậu phá được quân Đại Lý vào năm 1274. Sự kiện nầy đã dẫn đến sự kết thúc của nước Nam Giao - Đại Lý được thiết lập sau 5 thế kỹ (738-1253).
Sau khi quân Mông thôn tính xong nước Đại Lý, họ mới tính chuyện "mượn đường" từ nước ta mà đánh bọc lên nhà Nam Tống để thâu gọn nước Trung Hoa, mới có cuộc chiến đầu tiên của quân Mông cùng quân Đại Việt. Sau khi nước Đại Lý bị quân Mông chiếm và sát nhập vào Trung Hoa từ năm 1274 để lập nên nhà Nguyên. Suốt thời gian nước Đại Lý bị quân Mông chiếm đóng, các hoàng thân quốc thích của dòng dõi họ Đoàn vẫn tiếp tục nỗ lực kháng chiến; một số đã kết hợp cùng người Hoa mà dẹp được nhà Nguyên để thành lập nhà Minh. Tuy nhiên Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã nuốt lời mà bắt lãnh tụ người Đại Lý là Đoàn Thế phải đổi tên nước thành phủ Vân Nam và nước nầy đã trở thành một tỉnh của Trung Hoa kể từ năm 1398.
Trong giai đoạn chống lại quân Nguyên, một số quân Đại Lý cũng đã chạy xuống mạn nam, một số hoàng thân Đại Lý từ từ thiết lập hậu cứ thành nước Lana Thái, Miến Điện, và Lào. Cũng do sự bành trướng của những nước mới thành lập nầy mà vương quốc Khmer đã bị suy đồi kể từ đó....
TB: Bí Bếp đã soạn dỡ bài viết nầy, mong có dịp sẽ tu chỉnh rõ ràng hơn nhất là có sự đính kèm những nguồn trích dẫn cụ thể sau. Trong lúc chúng ta góp nhặt một số bài viết mang tính cách tìm hiểu hơn là nghiên cứu ... nên mong có sự thông cảm. Bí Bếp lắm lúc suy nghĩ rằng nếu nhà Đường không bị kiệt quệ và tàn rụi sau loạn An Lộc Sơn và thất bại trong việc đối phó với nước Nam Chiếu thì liệu Việt Nam có thể "dành độc lập" từ sự điều khiển cúa Trung Hoa chăng?