Sự manh nha của nhà nước tự chủ:
Thời kỳ Bắc thuộc 北屬時代 là giai đoạn hơn một nghìn năm từ khi Triệu Đà 趙佗 thôn tính Âu Lạc 甌貉 của An Dương Vương 安陽王(207 tCn) lập ra Nam Việt 南越 cho đến khi Ngô Quyền 吳權 giành lại độc lập từ nhà Nam Hán 南漢 (938). Nhưng sử cũ coi nhà Triệu là một triều đình của Việt Nam nên chỉ tính thời kỳ Bắc thuộc từ khi Hai Bà Trưng thất thủ (43) nên mới có câu:
Nước ta từ thủa thuộc người,
Khởi từ Đông Hán đến thời Ngô vương.
Trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thời kỳ vận mạng dân tộc trải qua một thử thách cực kỳ hiểm nghèo, người Việt phải đóng sưu thuế cho triều đình phía bắc. Ngoài số thuế của nhà nước, một số quan cai trị địa phương vì ở xa nên cũng bòn vét thêm của dân. Đúng là:
Dân ta chịu những chiến trường,
Cấy cày chẳng được, muôn đường khó khăn.
Ngoài ách đô hộ của Bắc triều, dân ta còn nhiều phen bị các nước lân bang quấy nhiễu. Đó là Lâm Ấp. Chân Lạp và đặc biệt là Nam Chiếu. Nước Nam Chiếu (vùng Vân Nam, TQ nay) suốt 20 năm quấy phá có lần tiến tới tận thành Giao Bình (862, 863) giết hại vô số dân Việt.
Trong thời kỳ Bắc thuộc dân Việt vẫn ngoan cường tinh thần độc lập, lợi dụng tình hình loạn lạc bên Tầu mà ta cũng có vài thời gian độc lập ngắn ngủi như thời kỳ Hai Bà Trưng (40-43), thời kỳ Lý Bí với nước Vạn Xuân (541-602). Đó là những anh hùng tạo nên thời thế, bởi:
Nước lã mà vã nên hồ,
Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.
Trong các anh hùng làm nên lịch sử thời đó đáng chú ý là các nhân vật sau:
-
Hai Bà Trưng (mất ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão 43) là tên gọi chung của Trưng Trắc 徵側 và Trưng Nhị 徵貳, hai chị em (nhiều tài liệu nói là sinh đôi) là con gái của Lạc tướng Mê Linh (đất Mê Linh nay thuộc vùng giáp giới giữa Hà Tây với Vĩnh Phúc và ngoại thành Hà Nội). Bấy giờ, nhân lòng căm phẫn của nhân dân ta đối với chính sách thống trị tàn bạo của nhà Ðông Hán, lại cũng nhân vì Thi Sách (chồng bà và là con trai của Lạc tướng Chu Diên, vùng giáp giới giữa Hà Tây với Hà Nam) bị Thái Thú Tô Ðịnh giết hại, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị và nhiều bậc hào kết khác, phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa có quy mô rất lớn chống lại quân Hán (漢朝,Han cháo, 206 tCn. - 220 sCn). Khởi nghĩa bùng nổ vào cuối năm 39 đầu năm 40 và nhanh chóng được nhân dân cả nước nhất tề hưởng ứng. Tô Ðịnh phải hốt hoảng bỏ chạy về nước. Hai Bà Trưng lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và tự phong là nữ vương.
“Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”.
Sau khi cuộc khởi nghĩa này bị quân Đông Hán (東漢 25–220) dưới sự chỉ huy của Mã Viện (馬援,một lão tướng khét tiếng tàn bạo và dày dạn kinh nghiệm trận mạc) đánh bại, tục truyền rằng vì không muốn chịu khuất phục, hai Bà đã nhảy xuống sông tự tử. Hàng năm dân gian lấy ngày 6.2 Âm lịch làm ngày kỷ niệm hai Bà Trưng . Đại Việt Sử ký Toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam. Từ sự kiện này mà dân ta có câu: “Giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Phong sử có câu:
Thương chồng nên phải gắng công,
Nào ai xương sắt, da đồng chi đây.
Sau khi đàn áp thành công cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng, Mã Viện đem đất Giao Chỉ về lệ thuộc lại nhà Đông Hán như cũ đóng phủ trị trại Long Biên. Để đàn áp tinh thần quật khởi của dân Việt, Mã Viện cho dựng một cột đồng ở chỗ phân địa giới. Trên cột đồng có khắc sáu chữ: 銅柱折交趾滅 “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, có nghĩa là nếu cây trụ đồng này đổ thì dân Giao Chỉ bị diệt vong. Có thuyết cho rằng, do dân Việt cứ mỗi lần đi ngang qua, đều bỏ vào chân cột một hòn đá, vì thế trụ đồng bị lấp dần đi. Về sau không còn biết vị trí của chiếc trụ đồng nữa là vì vậy
-
Bà Triệu còn gọi là Triệu Trinh Nương 趙貞娘 tên thật là Triệu Thị Trinh 趙氏貞 hay Lệ Hải Bà Vương, sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (226) là một trong những vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam, Bà Triệu còn được gọi là Triệu Ẩu 趙嫗 theo cách gọi của người Trung Hoa, là người Quân Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa và là em của Triệu Quốc Đạt. Năm 246, bà đã cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt dựng cờ khởi nghĩa và sau khi Triệu Quốc Đạt chết (248), bà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại sự xâm lược của quân Đông Ngô, do Lục Dận (cháu của Lục Tốn), thứ sử Giao Châu chỉ huy. Câu thành ngữ “Lệnh Ông không bằng cồng Bà” xuất hiện từ việc tiếng Lệnh của quan huyện Đạt không có hiệu lực tập hợp dân bằng tiếng Cồng của Bà Triệu. Nhiều nghĩa binh đã tử trận vào năm đó. Bà chống đỡ với quân Đông Ngô được 5-6 tháng thì thua chạy đến xã Bồ Điền (nay thuộc khu núi Tùng, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) và tự tử. Khi ấy Triệu Thị Trinh mới 23 tuổi. Kể về việc này dân gian có câu:
Ru con con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Coi bà Triệu Ẩu cỡi voi bành vàng.
- Năm 541, vì chính sự hà khắc của quan lại địa phương,
Lý Bí (李畚, 503-548, là người Thái Bình, phủ Long Hưng, Sơn Tây), với sự giúp đỡ của Tinh Thiều, Phạm Tu và Triệu Túc,... nổi lên đánh đuổi quan lại nhà Lương (梁朝, 502 - 549), rồi xưng là Nam Đế (南越帝,542-548), lập nhà Tiền Lý 前李氏, đặt tên nước là Vạn Xuân (萬春, 544-602), đóng đô ở Long Biên. Đây là triều đại Việt Nam đầu tiên đánh dẹp được quân Chiêm Thành khi người Chăm xâm lấn cõi bờ (năm 543 tại Nhật Nam 日南,Cửu Đức 九德). Năm 548, khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục 趙光復 kế tục sự nghiệp xưng Triệu Việt Vương (趙越王,546-571). Nhưng về sau dẫn đến nội chiến và nước phải chia đôi bởi Hậu Lý Nam Đế (Lý Thiên Bảo 李天寶, Lý Phật Tử 李佛子 556-602) và Triệu Việt Vương. Lúc này bên TQ vào năm 581, nhà Tuỳ (隋, 581-618), được dựng lên. Sau khi thống nhất Trung nguyên năm 589, Tùy Văn Đế 隋文帝 bắt đầu dòm ngó đánh Vạn Xuân. Do lực lượng chênh lệch, nội bộ thiếu thống nhất nên quan quân nhà Hậu Lý 後李氏 nhanh chóng đầu hàng và nước Vạn Xuân mất vào năm 602. Sử cũ ghi chép về số phận của Lý Phật Tử sau khi đầu hàng không rõ.Về thời kỳ này Việt sử diễn âm viết:
Dẹp yên giặc Bắc, phá Nam quân,
Dựng nước mong rằng được Vạn Xuân.
Một sơm giữa hồ trời chẳng giúp,
Đánh đem nghiệp lớn cậy hiền thần.
Kết hiếu lơ là khiến Triệu vong,
Hàng Tùy vội vã thật đau lòng.
Ngàn năm miếu mạo bên bờ biển,
Bội ước thẹn cùng miếu Việt vương.
-
Đinh Kiến: Sau khi nhà Tùy mất, nhà Đường (唐朝,618 – 907) lên ngôi, tiếp tục giữ quyền cai trị nước ta. Năm 687, quan cai quản An Nam Ðô Hộ Phủ của nhà Ðường là Lưu Diên Hựu thu thuế rất tham tàn, khiến cho nhân dân ta rất căm phẫn. Nhân cơ hội đó, một vị hào trưởng là Lý Tự Tiên (nay vẫn chưa rõ quê quán) đã bí mật tổ chức một cuộc khởi nghĩa lớn. Nhưng cơ mưu bị bại lộ, Lý Tự Tiên bị Lưu Diên Hựu giết chết. Tiếp nối sự nghiệp của Lý Tự Tiên, một vị hào trưởng cũng là một thuộc tướng của Lý Tự Tiên đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy. Vị hào trưởng ấy là Ðinh Kiến. Ngay trong năm 687, Ðinh Kiến đã giết chết được Lưu Diên Hựu và chiếm được phủ đô hộ là thành Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay), đồng thời, nhanh chóng thiết lập một hệ thống chính quyền do ông đứng đầu. Ðinh Kiến chưa xưng đế hay xưng vương, cũng chưa đặt quốc hiệu hay niên hiệu, nhưng chính quyền do ông đứng đầu thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ. Hiện vẫn chưa rõ quê quán cũng như năm sinh và năm mất của Ðinh Kiến.
-
Mai Hắc Đế (梅黑帝; ?–722), tên thật là Mai Thúc Loan 梅叔鸞 hoặc Mai Huyền Thành 梅玄成 là vua nước Việt Nam, anh hùng dân tộc, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống sự chiếm đóng của nhà Đường (唐朝, 618 –907) ở Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8 thời Đường Huyền Tông. Đây là cuộc khởi nghĩa mà dã sử gắn với chuyến gánh vải An Nam nộp cống sang Đường để Dương Quý Phi ăn và lần đầu người Việt liên kết với người Chăm phương Nam để đánh quân Hán. Ông quê ở Mai Phụ, Lộc Hà, Hà Tĩnh nhưng sinh ra ở Nam Đàn, Nghệ An. Năm Nhâm Tuất (722) tức năm Khai Nguyên thứ mười, đời Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, Mai Thúc Loan đã khởi nghĩa tại quê nhà, chọn Rú Đụn, còn gọi là Hùng Sơn và dọc theo bờ sông Lam (Nghệ An) là căn cứ chính chống quân chiếm đóng nhà Đường. Ông xưng Đế rồi kéo quân ra chiếm được phủ Tống Bình, tức Hà Nội ngày nay, thái thú nhà Đường lúc đó là Quách Sở Khách bỏ thành chạy về nước. Khi 10 vạn quân Đường do tướng Dương Thừa Húc và Quách Sở Khách kéo sang, sau nhiều trận đánh khốc liệt, từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, thành Vạn An thất thủ, nghĩa quân tan vỡ, Mai Hắc Đế rút vào rừng, sau bị ốm rồi mất 722. Nghĩa quân tan vỡ.
-
Phùng Hưng (馮興; 761-802) là thủ lĩnh cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại sự thống trị của nhà Đường, đuổi được người phương Bắc và cầm quyền cai trị một thời gian. Ông xuất thân từ dòng dõi cự tộc lâu đời ở đất Đường Lâm nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây. Theo truyền thuyết, Phùng Hưng có hai người em cùng sinh ba là Phùng Hải và Phùng Dĩnh. Cả ba anh em đều có sức khỏe hơn người, tay không bắt được hổ. Quan đô hộ nhà đường khi đó là Cao Chính Bình khét tiếng tham lam và tàn bạo, khiến cho nhân dân ta căm phẫn, đồng thời, binh lính của Cao Chính Bình cũng chống đối quyết liệt. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình (Hà Nội) nổi loạn, Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ (Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo còn Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng). Tháng 4 năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh chiếm thành Tống Bình và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất (789). Sau khi Phùng Hưng mất, nội bộ thân thuộc của ông không giữ được sự đoàn kết. Chẳng bao lâu, nhà Đường sai Triệu Xương đem quân sang, vừa đánh vừa chiêu dụ. Thấy thế không chống được, Phùng An phải đầu hàng. Xứ Giao Châu lại lệ thuộc nhà Đường lần nữa. Ông được truy tôn là Bố Cái Đại Vương 布蓋大王, được dân chúng lập đền thờ ông ở ngay xã Đường Lâm và làng Triều Khúc.
-
Dương Thanh (819-820): là một vị hào trưởng của đất Hoan Châu (đất này nay thuộc Nghệ An) và cũng là người được nhà Ðường cho làm Thứ Sử của châu này. Biết Dương Thanh là người giàu lòng yêu nước, quan đô hộ của nhà Ðường là Lý Tượng Cổ đã dụng mưu kế để làm giảm uy tín của ông, đồng thời, tách ông ra khỏi dân châu Hoan. Năm 819, Dương Thanh đã phát động cuộc khởi nghĩa lớn, giết chết được Lý Tượng Cổ, đồng thời thiết lập được hệ thống chính quyền tự chủ do ông đứng đầu Sau nhiều phen đàn áp nhưng bị thất bại, nhà Ðường đã dùng kế li gián để chia rẽ lực lượng của Dương Thanh. Ông bị cô lập dần, để rồi cuối cùng, bị tru di tam tộc vào năm 820. Hiện chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông thọ bao nhiêu tuổi. Cũng như nhiều vị thủ lĩnh kiệt xuất khác, Dương Thanh không xưng đế hay xưng vương, chưa đặt quốc hiệu và niên hiệu, nhưng chính quyền do ông thiết lập ra thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ .
Trên đây là những cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc, gồm nhiều quy mô và tính chất khác nhau. Hẳn nhiên, đó cũng chưa phải là tất cả, nhưng, dẫu nhìn từ bất cứ góc độ nào thì đó cũng thực sự là tinh hoa của lịch sử chống xâm lăng thời Bắc thuộc.
- Cuối thế kỷ 9, đầu thế kỷ 10, lợi dụng sự suy yếu của chính quyền trung ương nhà Đường, trong thời Ngũ Quý (五代,907-959),
Họ Khúc 曲氏 là dòng họ lớn vùng Chu Diên đã nổi lên giành quyền tự chủ. Họ Khúc truyền nối làm chức Tiết độ sứ gồm 3 đời: Khúc Thừa Dụ (承裕,906-907), Khúc Hạo (顥,907-917), Khúc Thừa Mỹ (承美,917-923 hoặc 930), cai trị từ năm 905 tới năm 923 hoặc 930, thực hiện nhiều cải cách hành chính. Sau đó bị nhà Nam Hán xâm lược. Dù không xưng hiệu, họ Khúc vẫn được đời sau tôn như những vị vua. Khúc Thừa Dụ được gọi là Tiên chủ, Khúc Hạo là Trung chủ và Khúc Thừa Mỹ là Hậu chủ. Trong đó, Khúc Hạo là người được nhắc đến nhiều nhất do những đóng góp của ông đối với lịch sử Việt Nam lúc đó. Do Khúc Thừa Mĩ chỉ thừa nhận nhà Lương, không thần phục nhà Nam Hán nên năm Quý Mùi (923) nhà Nam Hán sai Lý Khắc Chính sang đánh và chiếm Giao Châu.
Cha con ba muơi năm dư,
Trị vì thiên hạ được mùa nơi nơi.
Trong thời “Ngũ đại thập quốc” (五代十國, 907-960) đất ta bị nhà Nam Hán (907-971) xâm chiếm và đã nổi lên một số sự kiện báo hiệu nền tự chủ là:
-
Dương Đình Nghệ (楊廷藝; có sách chép là Dương Diên Nghệ 楊延藝, ?-937, Ái Châu) từ các lò võ ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hoá) đã khởi binh đánh đuổi quân Nam Hán giải phóng thành Đại La, tự lập làm Tiết độ sứ, giành quyền tự chủ cho đất nước Việt được 6 năm. Tháng 4 năm 937, ông bị Kiều Công Tiễn, hào trưởng Phong Châu, một tướng dưới quyền ông, giết hại để cướp quyền.
-
Kiều Công Tiễn (矯公羨; ?-938) là người Phong Châu (Phú Thọ, Việt Nam), là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng cai trị lãnh thổ Việt Nam trong thời kỳ Tự chủ từ năm 937 đến năm 938. Ông là người phù tá họ Dương sau phản lại chủ tướng, sai người sang cầu cứu chúa Nam Hán là Lưu Cung. Nhưng chưa kịp nhận sự bảo trợ của ngoại bang đã bị con rể Đình Nghệ là Ngô Quyền từ Ái Châu kéo ra tiêu diệt (4/ 938).
Như thế, các cuộc khởi nghĩa, những lần quyết tâm tự chủ trên, dù cuối cùng đều thất bại nhưng nó chứng tỏ tinh thần ngoan cường của người Việt, nó đảm bảo cho nước mất, nhà tan nhưng dân tộc ta không mất, tiếng ta vẫn còn và là bước tập dượt để đi vào kỉ nguyên độc lập tự chủ sau này.