Nhân nói về chiến dịch K5 trên toàn tuyến biên giới Campuchia-Thailan, em "lượm " cái này trên mạng chia sẻ cùng các Bác,
nếu các Bác thấy không hợp thì gở ra giúp em nhe!!. ( Đây là thời điểm quân ta mở chiến dịch truy quét toàn tuyến biên giới chuẩn bị cho chiến dịch K5).
http://quandany.com/Khac/News/tabid/90/smid/458/ArticleID/159/Default.aspx "Cụm phẫu thuật quân dân y dã chiến, một sáng tạo trong tổ chức cứu chữa thương binh trên chiến trường Campuchia
Trong thực tiễn tổ chức cứu chữa thương binh tại mặt trận 479 Campuchia, với sự có mặt của đội phẫu thuật thành phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện một loại hình tổ chức quân y chiến dịch mới: cụm phẫu thuật kết hợp quân dân y. Trong quá trình chiến dịch có đợt tấn công quyết định tiêu diệt toàn bộ các cứ điểm của địch dọc biên giới Campuchia - Thái Lan. Do địa hình hiểm trở, nằm xa căn cứ hậu cần của mặt trận 479, đường chuyển thương rất phức tạp không thể sử dụng xe cơ giới, chỉ sử dụng được cáng bộ hoặc đi bộ vì vậy cần hết sức tìm cách khắc phục khó khăn, rút ngắn cung đoạn chuyển thương, đưa kỹ thuật xử trí ngoại khoa cơ bản ra gần tiền duyên; bằng cách đó vừa rút ngắn được thời gian cáng bộ, vừa có điều kiện xử trí thương binh sớm tại phía trước. Từ ý định nghiên cứu trên, quân y Quân khu 7 tiến hành tổ chức cụm phẫu thuật dã chiến có sự tham gia của đội phẫu thuật thành phố Hồ Chí Minh, là một đội phẫu thuật mạnh, có khả năng cứu chữa cơ bản và chuyên khoa kỳ đầu tốt.
Cụm phẫu thuật dã chiến kết hợp quân dân y được tổ chức lần đầu tiên phục vụ trận tiêu diệt căn cứ trung ương của 3 phái Khơ Me ở Cao Mê Lai từ ngày 9 tháng giêng đến ngày 15 tháng hai năm 1985. Địa điểm triển khai tại Nam Sấp cách tiền duyên địch 30 km. Đội hình tham gia cụm phẫu thuật gồm đội điều trị Quân khu 7 (thuộc bệnh viện 7A, 2 kíp mổ), đội phẫu thuật Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh (2 kíp mổ), tiểu đoàn quân y sư đoàn 309 (1 kíp mổ) và đội phẫu thuật mặt trận 479 (thuộc quân y viện 7E, 1 kíp mổ). Cụm phẫu thuật do tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn quân y sư đoàn 309 làm chủ quản về mọi mặt. Trong 36 ngày hoạt động, cụm phẫu thuật đã xử trí 732 thương binh, trong đó có 362 thương binh loại vừa và nặng, 370 thương binh nhẹ. Do có đội điều trị 7A và đội phẫu thuật của thành phố Hồ Chí Minh tăng cường nên số thương binh chuyên khoa bụng, ngực, chấn thương, sọ não, mạch máu được cứu chữa chuyên khoa kỳ đầu (như nhiệm vụ tuyến 4). Số thương binh nặng sau khi xử trí được chuyển về tuyến sau bằng trực thăng, thương binh nhẹ khi khỏi được trả về chiến đấu.
Cụm phẫu thuật kết hợp quân dân y được tổ chức lần thứ hai phục vụ trận tiêu diệt cứ điểm Tala - Tà Lốc của lực lượng Sereika ngày 5 tháng ba năm 1985. Cụm phẫu thuật được triển khai tại Cần Đôn, cách tiền duyên địch 25 km. Đội hình gồm có đội phẫu thuật quân y viện 7E (1 kíp mổ), đội phẫu thuật thành phố Hồ Chí Minh (2 kíp mổ), tiểu đoàn quân y sư đoàn 3 (1 kíp mổ) và đại đội quân y trung đoàn 8, sư đoàn 5 (1 kíp mổ). Cụm do tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn quân y sư đoàn 5 làm chủ quản. Dự kiến ban đầu cụm phẫu thuật phải làm việc trong 10 ngày, thu dung khoảng 300 thương binh, nhưng do lực lượng tiến công của ta mạnh, giải quyết chiến trường nhanh, trong 12 giờ chiến đấu ngày 5 tháng ba đã làm chủ toàn bộ cứ điểm nên chỉ có 7 thương binh về cụm phẫu thuật. Cụm đã hoàn thành nhiệm vụ ngay trong đêm 5 tháng ba và di chuyển đến hỗ trợ cho cụm phẫu thuật bảo đảm cho trận tiêu diệt cứ điểm Tà Tum.
Tà Tum là cứ điểm lớn nhất của lực lượng Molinaka, có 5 Lữ đoàn và cả Bộ tổng tham mưu của Molinaka, được phòng thủ kiên cố với quân số 8.000 tên, nằm ngay trên trục biên giới Campuchia - Thái Lan. Địa hình phức tạp, rừng núi hiểm trở, ở độ cao 400 m. Thời gian trận đánh diễn ra ngày 5 tháng ba cùng với trận tiêu diệt cứ điểm Kala - Tà Lốc. Dự kiến ban đầu là đánh trong 1 - 2 ngày với khoảng 300 - 400 thương binh, nhưng do địa hình phức tạp, trận đánh phải kéo dài tới ngày 11 tháng ba mới dứt điểm và số lượng thương binh lên tới 469 trường hợp. Cụm phẫu thuật triển khai tại Tà Điêu, cách tiền duyên địch chỉ khoảng 18 - 20 km nhưng vận chuyển thương binh rất khó khăn do núi cao vách thẳng, phải cõng thương binh trên vai đưa xuống theo vách núi rồi cáng bộ về cụm phẫu thuật. Vì vậy tuy đã bố trí cụm phẫu thuật tiếp cận đội hình chiến đấu nhưng thương binh sau 1 - 2 ngày mới về tới nơi. Đội hình phẫu thuật gồm có tiểu đoàn quân y sư đoàn 302 (2 kíp mổ), đội điều trị 2/mặt trận 479 (92 kíp mổ), đội phẫu thuật 7A (tách từ đội điều trị 7A, 1 kíp mổ) và tổ gây mê hồi sức tách từ đội phẫu thuật thành phố Hồ Chí Minh. Sang ngày chiến đấu thứ hai, cụm phẫu thuật được tăng cường dội phẫu thuật của sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh, nâng tổng số kíp mổ lên 6. Trong 6 ngày hoạt động, cụm phẫu thuật đã xử trí xong cho 469 thương binh, trong đó có 155 thương binh nặng và vừa.
Bên cạnh việc hoạt động trong cụm phẫu thuật kết hợp quân dân y, đội phẫu thuật thành phố Hồ Chí Minh có những đợt hoạt động độc lập trong những trận đánh lẻ, như trong đợt 1 mở đầu của chiến dịch từ 25 tháng 12 năm 1984 đến 10 tháng 1 năm 1985, đánh chiếm các phân khu của địch chốt chặn dọc biên giới Campuchia từ Bắc Pailin đến Ampin...
Kết hợp quân dân y không chỉ trong tổ chức mà còn kết hợp trong những ca mổ phức tạp, góp phần cứu sống nhiều thương binh với thương tích hiểm nghèo. điển hình như trường hợp của thương binh Trần Đức Nam, binh nhất tiểu đoàn 1 đặc công, sư đoàn 309 bị thương ngày 19 tháng giêng năm 1985 trong trận đánh tiêu diệt căn cứ trung ương của 3 phái Khơ Me phản động ở Cao Mê Lai. Trần Đức Nam bị thương do mìn 652A làm cụt đùi trái và cẳng chân phải. Nam được đồng đội và y tá đại đội cầm máu bằng băng ga-rô cao su được trang bị rộng rãi cho quân y đại đội và cố định 2 chi, cho thuốc giảm đau và viên chống choáng. Do đường vận chuyển khó khăn, sau 3 ngày mới về tới đội điều trị 7A ở Nam Sấp trong tình trạng choáng nặng, mất máu nặng. Với tinh thần còn nước còn tát, một kíp mổ kết hợp quân dân y đã hình thành để xử trí cho thương binh Nam gồm: bác sỹ Lương Hoàng Mai, phẫu thuật viên chính của đội điều trị 7A, bác sỹ Huỳnh Hoà Thanh, phẫu thuật viên chính của đội phẫu thuật thành phố Hồ Chí Minh, cán sự gây mê hồi sức Nguyễn Trọng Điện tổ trưởng tổ gây mê hồi sức của đội phẫu thuật thành phố... Phẫu thuật được tiến hành nhanh chóng, cùng một lúc làm hai phẫu thuật lớn là thào khớp háng đùi trái và cắt đoạn cẳng chân phải. Ca phẫu thuật đã thành công tốt đẹp; 3 ngày sau mổ - ngày 25 tháng 1 năm 1985, thương binh Trấn Đức Nam được chuyển về quân y viện 7E/mặt trận 479 và ngày 12 tháng hai về tới viện quân y 175 ở thành phố Hồ Chí Minh an toàn.
Cụm phẫu thuật được hình thành trên cơ sở kết hợp quân dân y ở chiến trường Campuchia, cứu chữa cơ bản và chuyên khoa kỳ đầu là một sáng tạo thành công của quân dân y Quân khu 7. Việc kết hợp nhiều phân đội quân dân y trong cùng một khu vực, nằm trong đội hình quân y chiến dịch vừa bảo đảm tiếp cận đội hình chiến đấu, cứu chữa thương binh được kịp thời, vừa tăng cường được kỹ thuật cứu chữa tốt cho những trường hợp hiểm nghèo như trường hợp của thương binh Nam đã nêu; tổ chức cụm phẫu thuật còn phù hợp với đặc điểm chiến trường, các phân đội quân dân y có điều kiện hỗ trợ lẫn nhau và việc bảo vệ các trạm quân dân y cũng thuận lợi hơn. Đánh giá về ý nghĩa của cụm phẫu thuật dã chiến kết hợp quân dân y, Đại tá tiến sỹ Nguyễn Sanh Dân chủ nhiệm quân y Quân khu 7 trong giai đoạn 1983 - 1990 viết "... Cụm phẫu thuật dã chiến phù hợp với địa hình của chiến trường biên giới Campuchia - Thái Lan, triển khai nhanh, đưa được kỹ thuật đồng bộ ra phía trước, xử trí vết thương sớm, kịp thời cho thương binh, đáp ứng được yêu cầu bức thiết là rút ngắn được cung đoạn chuyển thương, rút ngắn được thời gian cứu chữa và hạ thấp tỷ lệ tử vong, tỷ lệ tàn phế cho thương binh... Cụm phẫu thuật dã chiến phát huy được tác dụng kết hợp quân dân y trong công tác cấp cứu và cứu chữa thương binh ngay tại tuyến trước, và tùy theo quy mô của tác chiến mà tổ chức ít hay nhiều đội phẫu thuật của dân y hình thành cụm phẫu thuật dã chiến mạnh..." Sáng kiến tổ chức cụm phẫu thuật dã chiến kết hợp quân dân y trên chiến trường Campuchia cuả ngành quân y Quân khu 7 đã được Tư lệnh Quân khu 7 tặng bằng khen và xếp loại A1 trong sáng kiến cải tiến kỹ thuật toàn Quân khu giai đoạn 1986 - 1990, được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tặng bằng khen ngày 3 tháng 5 năm 1991.
Trích “Lịch sử kết hợp quân dân y Việt Nam”, Nguyễn Duy Tuân chủ biên, Nhà xuất bản y học 2006."
Quân Dân Y