Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 05:47:41 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre  (Đọc 67155 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2011, 10:45:15 am »

II

THẠNH PHÚ ĐÁNH BẠI CUỘC HÀNH QUÂN
“PHƯỢNG HOÀNG T.G.1”

Bị thất bại trong kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược ở vùng châu thổ sông Cửu Long, địch tăng cường càn quét, phản kích khắp chiến trường.

Chúng đánh phá các vùng căn cứ kháng chiến, khôi phục đường giao thông, củng cố các vành đai, chia cắt chiến trường hòng xoay chuyển tình hình có lợi cho chúng.

Tại Bến Tre, địch mở cuộc càn quét lớn vào vùng ven biển Thạnh Phú. Vùng này gồm 2 xã Giao Thạnh và Thạnh Phong có chiều dài gần 20km, có nhiều sông rạch chia cắt hình thành nhiều cồn như: cồn Rừng, cồn Tra, cồn Điệp, cồn Bững, cồn Chi v.v… Địa hình hai xã phần lớn là rừng tạp thưa và thấp, phần còn lại là những giồng cát xen lẫn với đồng ruộng. Nhân dân ở đây chuyên làm nghề cá, nghề muối, nghề ruộng và nghề giồng.

Là một căn cứ cách mạng lâu đời, một hành lang chiến lược quan trọng, nhân dân ở đây có một truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường. Lúc cách mạng gặp khó khăn, lúc quân thù lùng bắt cán bộ, vây ráp cơ sở, các mẹ, các chị và tất cả bà con cô bác đã không quản ngại nguy hiểm, hy sinh, tận tình đùm bọc, che giấu, nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên. Cuối năm 1963, hậu phương miền Bắc đã đưa vào đây những chiếc tàu chở đầy súng ống, đạn dược đã được nhân dân gìn giữ, cất giấu và chuyển đi khắp các chiến trường.

Để ngăn chặn đầu cầu tiếp tế và đánh phá kho vũ khí của ta, ngày 7-1-1964, tướng Lê Văn Kim - Tổng tham mưu trưởng quân ngụy, tướng Lâm Văn Phát - Tư lệnh khu chiến thuật Tiền Giang và tên cố vấn quân sự Mỹ cùng tên đại tá Hoàng gia Anh - chuyên viên vùng Đông Nam Á - dùng phi cơ quan sát chiến trường trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân càn quét.

Địch dùng 4 chiến đoàn thủy quân lục chiến gồm 16 tiểu đoàn (có hơn 6.000 quân), 1 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 7 (đóng sẵn tại Thạnh Phú), 6 đại đội biệt kích (ở Mỏ Cày và Hàm Long) tấn công 2 xã Giao Thạnh và Thạnh Phong. Chúng tăng cường cho cuộc hành quân 60 máy bay (phần lớn là HU1B và trực thăng vận tải hai cánh quạt), 14 tàu chiến, 19 gian thuyền, 26 dxe M113, 12 khẩu pháo 105 và 155 ly.

Đây là cuộc hành quân càn quét lớn nhất của địch kể từ sau cuộc phản kích thất bại của 10.000 thủy quân lục chiến vào cao trào Đồng khởi năm 1960.

Địch đánh vào địa bàn ta với chiến thuật mà chúng gọi là “sa mù trận”, “bủa lưới phóng lao”. Chúng dùng phi cơ, pháo binh bắn phá mãnh liệt hủy diệt địa hình. Tiếp đó chúng cho máy bay trực thăng, tàu chiến đổ quân vào Cái Cát (Thạnh Phong), Khâu Băng (Giao Thạnh) hình thành hai cánh quân bao vây chặt hai xã Giao Thạnh và Thạnh Phong. Đồng thời chúng đổ nhiều tiểu đoàn, hình thành những cụm quân chốt từng khu vực ở cồn Rừng, Voi Đước.

Sau đó chúng sử dụng 1 chiến đoàn được gọi là chiến đoàn “phóng lao” đổ quân bằng máy bay trực thăng xuống chợ Hồ Cỏ nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang ta. bom đạn của địch đã giết hại và làm bị thương 50 đồng bào ta - hầu hết là phụ nữ, trẻ em, ông bà lão. Ở chợ Hồ Cỏ, 22 người bị thiệt mạng trong một hầm trú ẩn. Tội ác của chúng nhanh chóng lan truyền khắp vùng.

Về lực lượng của ta có bộ đội huyện, du kích và lực lượng chính trị các xã ấp, đại đội 3 - bộ đội tập trung của tỉnh, trường huấn luyện tân binh, trường quân chính, trường y tá, hai trung đội bảo vệ cán sự của Quân khu và tiểu đoàn 263.

Tiểu đoàn 263 - một tiểu đoàn chủ lực của Quân khu - vừa thành lập cuối năm 1963 do đồng chí Lê Văn Phải (Hai Phải) làm tiểu đoàn trưởng và đồng chí Lê Minh Đào làm chính trị viên. Tiểu đoàn vừa huấn luyện được 31 ngày và đang chuẩn bị kế hoạch cùng với lực lượng vũ trang tỉnh vào chiến dịch đánh phá ấp chiến lược, mở rộng vùng. Khi được tin địch càn quét lớn, tiểu đoàn đã triển khai đội hình đánh địch, quyết bảo vệ địa bàn căn cứ, quyết trả thù cho đồng bào, đồng chí bị địch giết hại. Tại Hồ Cỏ, tiểu đoàn 263 đã phục kích chặn đánh một cánh quân gồm nhiều mũi của 5 tiểu đoàn địch. Cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt. Đây là sự thử thách đầu tiên đối với tiểu đoàn. Sau hai ngày quần nhau với địch quân ta đã diệt trên 200 tên, bắn rơi, bắn cháy 32 máy bay và giữ vững được trận địa. Sang ngày thứ ba chúng tập trung nhiều tiểu đoàn hòng bao vây tiêu diệt tiểu đoàn ta. Lợi dụng đêm tối, ta hành quân di chuyển địa bàn tiếp tục đánh địch.

Tại cồn Rừng (cách chợ Hồ Cỏ 2km) địch định đổ 4 tiểu đoàn bằng máy bay trực thăng. Đại đội 3 đã đánh trả mãnh liệt. Chúng chỉ đổ được một tiểu đoàn và bị kềm chân tại chỗ. Cùng lúc, hai cánh quân ở Cái Cát và Khâu Băng cũng bắt đầu xuất phát liền bị du kích và các tổ võ trang của các trường y tá, trường quân chính, trường tân binh chặn đánh từng mũi trên từng khu vực. Đồng thời hàng ngàn chị em phụ nữ, ông bà lão xuống đường tố cáo tội ác của địch; khiêng người chết, bị thương đòi bọn chỉ huy bồi thường cho gia đình những người bị thiệt mạng; đòi cứu chữa những người bị thương; đòi chấm dứt càn quét.

Tại xã Thạnh Phong, chị em phụ nữ đã đấu tranh trực diện với bọn cố vấn Mỹ. Ngôn ngữ bất đồng, chị em ra dấu biểu thị sự phẫn uất trước những hành động dã man của chúng. Đây là lần đầu tiên phụ nữ Bến Tre đấu tranh chính trị trực diện với quân Mỹ. Cuộc đấu tranh diễn ra liên tục và ngày càng quyết liệt ở Hồ Cỏ, chị em phụ nữ dùng tay bị nòng pháo địch, trì hoãn, kéo dài thời gian hợp đồng giữa các cánh quân của chúng. Tên tỉnh trưởng hoảng sợ buộc phải cho máy bay đến chở những người bị thương vào thị xã cứu chữa.

Lực lượng du kích dựa vào xã ấp chiến đấu đánh địch liên tục. Nhiều tên chết, bị thương vì hầm chông, lựu đạn gài của du kích. Địch sợ hãi không dám lùng sục; chúng vừa hành quân, vừa dõ dẫm. hai cánh quân không hợp điểm được theo kế hoạch. Chiến thuật “bủa lưới phóng lao” bị thất bại. Địch phải trú quân 17 ngày ở Thạnh Phú và Hồ Cỏ. Quân và dân ta liên tiếp tấn công chúng.

Ngày 18-1-1964, hãng thông tin AFP bình luận: “Trận đánh lớn nhứt trong lịch sử chiến tranh trực thăng vận của Mỹ trở thành ngày tồi tệ nhất của chiến thuật này…”.

Trong khi địch càn quét căn cứ Giao Thạnh, Thạnh Phong, Tỉnh ủy, Ban quân sự tỉnh chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh đồng loạt phối hợp tiến công trên khắp các địa bàn. Bộ đội tỉnh đã đánh nhiều vị trí trong thị trấn Mỏ Cày, khu trù mật An Hiệp (Ba Tri), pháo kích thị trấn Giồng Trôm, tiểu khu quân sự và tòa hành chính tỉnh; phục kích bắn cháy tàu Thập ác chở tiểu đoàn 41 - biệt động quân - trên sông Hàm Luông (đoạn Định Thủy - Mỏ Cày). Lực lượng biệt động đánh vào nhiều khu vực ở nội ngoại ô thị xã. Địch nao núng; chúng phải điều một số đơn vị về phòng thủ thị xã.

Qua 21 ngày đêm chiến đấu gian khổ ác liệt trên một địa bàn hẹp, trống trải, ta đã đánh bại cuộc hành quân càn quét qui mô lớn của địch, bảo vệ được lực lượng, giữ được nguyên vẹn kho vũ khí (trên 300 tấn). Được sự phối hợp chặt chẽ của lực lượng đấu tranh chính trị, bộ đội ta đã diệt và làm bị thương 1.200 tên địch trong đó có tên đại tá Hoàng gia Anh; bắn rơi, bắn cháy 47 máy bay; thu 200 khẩu súng. Các đơn vị tham chiến được tặng thưởng huân chương Quân công hạng 3. Trong khi đó, bọn bảo an dân vệ hoang mang cao độ. Hàng chục tên đã bỏ 10 đồn và cuốn chạy theo quân chủ lực.

Tiếp theo chiến thắng Gò Keo, chiến thắng Thạnh Phú đã tạo ra một thế áp đảo quân địch, gây niềm tin mới cho quân và dân Bến Tre bước vào đợt tiến công và nổi dậy tiêu diệt hàng loạt ấp chiến lược, mở mảng, mở vùng khắp các địa bàn trong tỉnh.
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Sáu, 2011, 08:51:01 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2011, 10:47:36 am »

III

DIỆT TIỂU ĐOÀN “Ó ĐỎ”, MỞ MẢNG BA TRI

Cuối tháng 2-1964, Tỉnh ủy đề ra chủ trương: Tiếp tục tiến công tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, kết hợp với thế nổi dậy của quần chúng giải phóng một số vùng, tiến tới đánh bại hoàn toàn kế hoạch gom dân, lập ấp của địch ở địa phương. Về nhiệm vụ của lực lượng vũ tramg, Tỉnh ủy khẳng định: Phải diệt được địch ở hai khu vực Ba Tri và Nam Mỏ Cày, đánh bại các cuộc hành quân càn quét của chúng hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy bao vây, bức hàng, bức rút đồn bót, đập tan ấp chiến lược. Đồng thời ra sức xây dựng và phát triển lực lượng ta lớn mạnh về mọi mặt.

Tỉnh ủy quyết định thành lập Ban chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí: Phạm Văn Bê (Năm Hậu) - Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh đội trưởng; Lê Phát Tân (Hai Hồ) - Tỉnh đội phó, tham mưu trưởng tỉnh; Nguyễn Văn Kiêm (Tư Chi) - Thường vụ Tỉnh ủy, Nguyễn Văn Sông (Năm Hỏa) Huyện ủy Ba Tri, Lê Minh Đào và Lê Văn Phải (Ban chỉ huy tiểu đoàn 263).

Để giành thắng lợi, Ban chỉ huy chiến dịch đã tập trung toàn bộ lực lượng vũ trang của tỉnh kết hợp với tiểu đoàn 263 làm nòng cốt cho cuộc tiến công và nổi dậy đánh phá ấp chiến lược.

Mở đầu chiến dịch, lực lượng vũ trang đã đánh địch đồng loạt ở các huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Bình Đại vừa tiêu diệt, tiêu hao một số đồn bót trên các tuyến giao thông, cắt đứt liên lạc của chúng; vừa nghi binh, thu hút phấn tán lực lượng địch. Đồng thời các Huyện ủy đã huy động và tổ chức quần chúng đấu tranh chính trị, biểu tình liên tục gây cho địch nhiều lúng túng. Chúng vội vã điều trung đoàn 12 sư đoàn 7 từ khu chiến thuật Tiền Giang đến thị xã Bến Tre để đối phó.

Trong lúc địch đang bị động đưa các đội bảo an đi giải tỏa khắp nơi thì tại Ba Tri - vùng trọng điểm chiến dịch - ngày 16-3-1964, một đại đội của tiểu đoàn 263 được tăng cường khẩu ĐK 75 đánh đồn Mỹ Chánh. Đồn này là một căn cứ quân sự trung tâm của khu vực Ba Mỹ (Mỹ Nhơn, Mỹ Chánh, Mỹ Thạnh) do 1 đại đội bảo an Cao Đài đóng giữ. Ta đánh sập đồn; một số tên chết và bị thương. Bộ đội trụ lại vây đồn; hàng ngàn quần chúng nổi dậy đánh trống mõ, uy hiếp địch. Bọn địch trong đồn hoảng sợ lén trốn chạy. Trước khí thế tấn công mạnh mẽ của quân và dân ta, đồn Mỹ Nhơn, Mỹ Thạnh rút chạy về Tân Xuân. Quân địch ở Tân Xuân càng hỗn loạn và sáng ngày 17-3-1964, chúng cũng bỏ đồn rút chạy. Đồn Bảo Thuận (Bảo Thạnh) bị ta vây chặt. Tên quận trưởng Ba Tri đưa 1 đại đội bảo an đến Bảo Thạnh cứu nguy. Đại đội này vừa đến Bảo Thuận liền bị quân ta đánh thiệt hại nặng; chúng phải chạy về thị trấn. Quân địch ở các đồn Phú Lễ, Phước Tuy, Phú Ngãi rệu rã. Chúng cũng chạy luôn về Ba Tri và đồn xã Diệu.

Trước tình thế nguy ngập, địch buộc phải đưa trung đoàn 12 sư đoàn 7 đến Ba Tri. Lực lượng bảo vệ tại thị xã chỉ còn 1 đại đội bảo an. Nắm chắc tình hình, Tỉnh ủy đã huy động lực lượng quần chúng và tổ chức một cuộc đấu tranh rất lớn ngay trong thị xã. Hơn 25.000 quần chúng trong đó có gần 2.000 gia đình binh sĩ được chia thành từng đoàn, từng đội có chỉ huy chặt chẽ tiến vào thị xã. Bị bất ngờ, tên tỉnh trưởng vội vàng ra lệnh cho tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 trung đoàn 12 sư đoàn 7 trở lại bảo vệ thị xã. Tiểu đoàn 3 (trung đoàn 12) địch gọi là tiểu đoàn “Ó Đỏ” liều mạng xuống Ba Tri. Trong lúc đó, quần chúng và gia đình binh sĩ ở Ba Tri đã nhạy bén, liên tục đấu tranh với tên quận trưởng, đòi không cho đại đội bảo an quận đi tiếp viện. Tiểu đoàn “Ó Đỏ” đơn độc hành quân đến mặt trận. Qua trinh sát kỹ thuật, Ban chỉ huy chiến dịch đã nắm chắc mọi diễn biến của địch, nhanh chóng triển khai lực lượng chuẩn bị sẵn sàng đánh địch.

17 giờ ngày 17-3-1964, tiểu đoàn “Ó Đỏ” đến đóng quân ở nền đồn Phú Lễ. Sau khi nghiên cứu địa hình, Ban chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm tiêu diệt tiểu đoàn này. Huyện ủy Ba Tri huy động quần chúng lo việc tiếp tế cơm nước cho bộ đội và đưa 300 dân công phục vụ chiến đấu. Các đơn vị được lệnh hành quân và tổ chức ngay đội hình tác chiến. Tiểu đoàn 263 bố trí từ bắc Phú Lễ đến Phước Tuy - có bộ phận chặn đầu và 2 bộ phận đánh bên sườn phía bắc đội hình được bố trí cách trận địa 1km vận động đánh bên sườn phía nam đội hình địch.

Đúng như dự kiến của ta, 7 giờ sáng ngày 18-3-1964, tiểu đoàn “Ó Đỏ” vừa rời công sự 500 mét; bộ đội ta nổ súng tiêu diệt gọn tiểu đoàn này.

Đây là trận tiêu diệt lớn đầu tiên đánh vào một tiểu đoàn chủ lực địch trên chiến trường Ba Tri. Đó là kết quả của sức mạnh tổng hợp của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Nó chứng tỏ tài năng lãnh đạo, chỉ huy của cán bộ các cấp. Nó đánh dấu bước trưởng thành mới về trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội ta.

Sau khi tiểu đoàn “Ó Đỏ” bị diệt, đồn bót ở khu vực này bị quân ta bức hàng, bức rút; một số địch chạy dồn về xã Diệu. Sáng ngày 19-5-1964, trên 2.000 quần chúng và gia đình binh sĩ ở các xã Phú Lễ, Phú Ngãi, An Bình Tây kéo vào thị trấn Ba Tri đấu tranh suốt 2 ngày liền đòi địch bồi thường thiệt hại do trận đánh gây nên. Tên quận trưởng phải bồi thường 10.000 đồng. Thừa thắng quần chúng kêu gọi binh sĩ trở về với nhân dân. Các đồn xung quanh thị trấn Ba Tri sợ hãi, binh sĩ đào ngũ, rã ngũ hàng loạt. Riêng ngày 20-3-1964 có 165 tên dân vệ, bảo an bỏ ngũ trồn về gia đình.

Như vậy, sau 5 ngày tiến công nổi dậy, quân và dân Ba Tri đã giành được thắng lợi vang dội: tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn chủ lực địch; bức rút 12 đồn; giải phóng hoàn toàn 9 xã (Mỹ Nhơn, Mỹ Thạnh Mỹ Chánh, Tân Xuân, Bảo Thạnh, Phú Lễ, Phú Ngãi, Phước Tuy, An Ngãi Tây).

Chiến thắng Ba Tri đã làm rung chuyển vùng nông thôn rộng lớn; thối động mạnh tinh thần quân địch trên khắp các địa bàn trong tỉnh.

Ở Bình Đại, tên quận trưởng Hoa vốn khét tiếng gian ác và đã nhiều lần được khen về “thành tích” gom dân, lập ấp chiến lược đến nay cũng phải hoang mang dao động.

Không để lỡ thời cơ diệt địch, Ban chỉ huy chiến dịch vừa đề ra kế hoạch nghi binh, vừa điều ngay 1 trung đội của tiểu đoàn 263, đại đội 1 và khẩu đội ĐK 75 của tỉnh bí mật luồn sang Bình Đại hoạt động. Đêm 19-3-1964, một trung đội của tiểu đoàn 263 và khẩu đội ĐK 75 đã tiêu diệt đồn Lộ Ngang xã Vang Quới. Đại đội bảo an quận Bình Đại đến tiếp cứu. Chúng hành quân cùng xe chở hành khách. Để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, đại đội 1 đã phục kích sẵn nhưng không nổ súng. Lượt về chúng đi bộ; đại đội ta nhanh chóng tiến công tiêu diệt gọn đại đội địch, thu 37 súng. Lập tức quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược giải phóng xã Vang Quới.

Binh lực bị suy yếu và sợ bị ta tiến công, bọn chỉ huy tiểu khu quyết định bỏ đồn Thừa Đức, khu trù mật Thới Thuận và dùng 12 tàu rút quân bằng đường sông Ba Lai về thị xã. Nắm chắc tình hình địch, ngày 25-3-1964, Ban chỉ huy bố trí đại đội trợ chiến thành 4 cụm dọc theo tả ngạn sông Ba Lai phục kích đánh đoàn tàu này. Đoàn tàu vượt qua Tân Xuân và khi đến Bình Khương thì bị ta chặn đánh bắn cháy 4 chiếc. Chúng kéo nhau về thị xã. Tại vàm Bần Quỳ (Phong Mỹ) - nơi hẹp nhất của sông Ba Lai - ta bắn chìm 8 chiếc tại chỗ, 4 chiếc còn lại chạy thoát.

Tại mặt trận Châu Thành, với nhiệm vụ thu hút địch, đại đội 2 cùng bộ đội huyện đã tiêu diệt đồn Tân Lợi (Tân Phú) và vũ trang tuyên truyền uy hiếp thị trấn Sóc Sài (Hàm Long) hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng diệt ác phá kềm.

Sau thắng lợi ở Ba Tri, Bình Đại, Ban chỉ huy chiến dịch điều đại đội 2 hoạt động kềm chân địch trên lộ giao thông 26 (đoạn Mỹ Lồng - Giồng Trôm). Đồng thời chuyển toàn bộ lực lượng vũ trang sang địa bàn Mỏ Cày.

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2011, 10:48:36 am »

IV

DIỆT TIỂU ĐOÀN “Ó VÀNG”, MỞ MẢNG MỎ CÀY

Sau khi kết thúc đợt mở mảng Ba Tri, với kế hoạch đã được chuẩn bị trước, đầu tháng 4-1964, lực lượng vũ trang tỉnh và tiểu đoàn 263 chuyển sang hoạt động ở Mỏ Cày. Ban chỉ huy chiến dịch đã nghiên cứu, xác định khu vực trọng điểm đánh địch ở mảng, mở vùng. Sau khi đánh giá thuận lợi, khó khăn nhất là cân nhắc yếu tố bí mật, bất ngờ, mặt trận Thơm (An Thạnh) được chọn làm điểm của cuộc tiến công. Tại đây có hai đồn: đồn dân vệ (ở công sở) có 12 tên trong đo có cơ sở binh vận của ta; đồn bảo an ở ngã ba Cây Điệp có 1 tiểu đội. Hai đồn này từ trước Đồng khởi đến nay chưa bị đánh nên địch rất chủ quan.

Mở đầu cuộc tiến công, theo ý định ban đầu, ta kết hợp với nội tuyến diệt đồn dân vệ xã, tạo điều kiện để đánh quân cứu viện. Đến giờ hợp đồng nổ súng cơ sở không dám hành động. Đêm 8-4-1964, Ban chỉ huy ra lệnh cho đại đội đặc công diệt đồn bảo an ngã ba Cây Điệp, đồng thời bao vây đồn dân vệ xã tạo sức ép buộc địch phải đi cứu viện. Sau 20 phút chiến đấu, ta diệt gọn đồn này. Tên quận trưởng kêu cứu. Sáng ngày 9-4-1964, tên tỉnh trưởng buộc phải đưa quân giải tỏa. Đúng 13 giờ cùng ngày tiểu đoàn 1, trung đoàn 12 sư đoàn 7 được mệnh danh là tiểu đoàn “Ó Vàng” bắt đầu hành quân trên đường giao thông từ Mỏ Cày đến Thơm Mặt trận diệt địch cách Thơm 4km. Địa hình ở đây phần lớn là đồng trống. Nhân dân đã hết lòng giúp đỡ, giữ bí mật, tạo điều kiện cho bộ đội đánh địch. Đại đội 1 và đại đội 3 được tăng cường ĐK 75 bố trí ở phía đông lộ từ 80m đến 100m. Tiểu đoàn 263 phục kích sát phía tây lộ. Địch sử dụng pháo binh, máy bay bắn phá dọn đường, 5 xe M113 và tiểu đoàn “Ó Vàng” hành quân đúng như ta dự kiến tiến vào trận địa. Đại đội 3 nổ súng chặn đầu địch. Đại đội 1 vận động đánh ngang sườn địch. Tiểu đoàn 263 xung phong mãnh liệt. Sau 1 giờ chiến đấu, tiểu đoàn “Ó Vàng” bị tiêu diệt gọn, 5 xe M113 bị phá hủy, 1 máy bay khu trục và 3 máy bay trực thăng bị bắn cháy, bắn rơi tại chỗ. Quần chúng nổi dậy phá thế kềm kẹp, bao vây bức rút các đồn bót, giải phóng hoàn toàn xã An Thạnh.

Bộ đội huyện Mỏ Cày nhanh chóng chuyển thế bao vậy sang thế tiến công tiêu diệt các đồn Phước Mỹ Trung, Hưng Khánh Trung, Nhuận Phú Tân, Thành An và cùng lực lượng quần chúng bao vây bức hàng chi khu Đôn Nhơn (Ba Vát) thu 300 súng; bao vậy bức rút khu trù mật Thành Thới. Đây là khu trù mật “kiểu mẫu” được Ngô Đình Diệm xây dựng từ năm 1959 và luôn có từ 1 đến 2 đại đội bảo an đóng giữ. Trên thế áp đảo quân thù, lực lượng chính trị và du kích từng xã ấp nổi dậy bao vây bức rút, bức hàng một loạt đồn bót ở ác xã An Định, Tân Trung, Cẩm Sơn, Ngãi Đăng, An Thới, giải phóng một vùng rộng lớn ở Nam Mỏ Cày.

Đường giao thông 30 (Mỏ Cày - Thạnh Phú) bị cắt một đoạn dài 10km từ Hương Mỹ đến cống Cây Keo (Đa Phước Hội). Không ngại bom pháo địch, quần chúng đã ngày đêm dũng cảm phá hoại đường này không cho địch sửa chữa. Giao thông tiếp tế của địch bằng đường bộ từ Mỏ Cày đến Thạnh Phú bị gián đoạn.

Tiểu đoàn 263 cơ động xuống Thạnh Phú. Tiểu đoàn đã tiêu diệt đồn Phú Khánh, hỗ trợ, tiếp sức cho lực lượng vũ trang và phong trào quần chúng tiến công và nổi dậy diệt đồn An Qui, An Nhơn, bao vây bức rút căn cứ Cầu Ván (Giao Thạnh), giải phóng nhiều xã ấp.

Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiểu đoàn 263 được lệnh về Quân khu. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn đã để lại trong nhân dân Bến Tre tình nghĩa quân dân sâu đậm. Lực lượng vũ trang của tỉnh hành quân sang cù lao Bảo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2011, 10:50:01 am »

V

SAN BẰNG CỨ ĐIỂM XÃ DIỆU,
MỞ HÀNH LANG VEN BIỂN

Cùng với chiến thắng dồn dập trên khắp mặt trận, ngay 18 tháng 4 năm 1964, đại đội 2 được tăng cường 1 trung đội của đại đội 3, 1 trung đội đặc công phối hợp với cơ sở binh vận tiến công cứ điểm xã Diệu.

Tỉnh ủy chủ trương diệt xã Diệu nhằm gây thối động mạnh cho quân địch, tạo thời cơ bức rút, bức hàng đồn bót giải phóng xã, mở rộng vùng đồng thời diệt trừ tên Tổng Huẩn và những tên ác ôn đưa phong trào quần chúng Ba Tri nổi dậy mạnh mẽ hơn nữa.

Căn cứ xã Diệu nằm trên lộ giao thông Ba Tri - Tân Thủy thuộc xã An Hòa Tây, tiếp giáp với xã Vĩnh Hòa, cách thị trấn Ba Tri 1500 mét. Xung quanh là ruộng và giồng trống trải; bên trong có chợ và nhiều dãy nhà ngang dọc. Cứ điểm này là tiền đồn ven biển của huyện Ba Tri. Ở đây quân địch đã kiểm soát chặt chẽ giao thông vùng duyên hải Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Nó được cấu trúc thành khu tức giác với 3 lô cốt bê tông và 3 cao điểm xây bằng đá xanh. Tường đất cao 2 mét. Quanh bờ tường là những hố cá nhân sâu khoảng 1 mét với nhiều hàng rào kẽm gai và ao mương cắm đầy chông. Căn cứ này thường xuyên có 1 đại đội dân vệ được trang bị mạnh do tên Tổng Huẩn chỉ huy. Đại đội này được thành lập từ thời Pháp và chưa bị đánh lần nào. Ỷ vào công sự kiên cố, chúng đã khoác loác tuyên bố với nhân dân trong vùng là thị trấn Ba Lai có thể mất, nhưng căn cứ quân sự xã Diệu không thể mất. Hàng ngàn cán bộ và đồng bào ta đã bị giết, bị tù đầy, tra tấn, mổ bụng mọi gan. Cưỡng hiếp phụ nữ, cướp giật tài sản của nhân dân là việc làm thường xuyên của chúng. Tiếng căm hờn không sao kể xiết!

Khi nhận nhiệm vụ diệt căn cứ quân sự xã Diệu, cán bộ chiến sĩ đại đội 2 đã hạ quyết tâm “… vì lợi ích của nhân dân sẵn sàng hy sinh chiến đấu…”.

Theo đúng kế hoạch, 24 giờ đêm 18-4-1964, đặc công đã bắt liên lạc với cơ sở binh vận trong đồn. Đồng thời các cánh quân cũng băng qua đường tiếp cận địch. 2 giờ 30 phút, bộ đội ta đang bí mật triển khai lực lượng thì địch đi tuần tra và chúng phát hiện quân ta. Nội ứng nhanh trí nổ súng. Các mũi lập tức tiến công địch trong lúc có tiểu đội, trung đội chưa vào kịp khu vực qui định. Địch lợi dụng điểm cao chống trả quyết liệt. Chiến sĩ ta đã dũng cảm xung phong diệt từng ổ đề kháng của địch. Sau 20 phút chiến đấu, ta tiêu diệt hoàn toàn căn cứ quân sự này. Địch chết và bị thương 80 tên, ta bắt sống 10 tên, một số tên chạy thoát về Ba Tri. Tên Tổng Huẩn phải đền tội ác. Ta thu 70 súng các loại, 21 máy thông tin và nhiều trang bị quân sự. Bọn địch ở đồn Giồng Nham - sát thị trấn Ba Tri - hoảng hốt bỏ chạy. Dân vệ, bảo an bỏ ngũ trên 150 tên.

Xã Diệu bị diệt, tên Tổng Huẩn phải đền tội, nhân dân Ba Tri phấn khởi, hả lòng, hả dạ, trang trọng treo cờ Mặt trận như những ngày lễ lớn. Nhiều gia đình ăn mừng từ nay thoát khỏi cảnh sống lo âu. Nhân dân tặng quà, khao thưởng bộ đội cả triệu đồng. Giải phóng xã Diệu, ta đã giải phóng một vùng nông thôn rộng lớn sát thị trấn Ba Tri, mở rộng hành lang giao thông vùng duyên hải, tạo thế liên hoàn giữa các vùng căn cứ chủ yếu của ba huyện: Ba Tri, Thạnh Phú, Bình Đại. Bộ đội tỉnh đã được rèn luyện thêm một bước về kỹ thuật tập kích diệt cứ điểm địch có công sự vững chắc và tin tưởng hơn về cách đánh hợp đồng chiến đấu với cơ sở binh vận.

Qua hai đợt tấn công và nổi dậy đánh phá ấp chiến lược, quân và dân Bến Tre đã giải phóng phần lớn vùng nông thôn mà rộng nhất là hai huyện Ba Tri và Mỏ Cày. 16 ngàn dân thoát khỏi ách kềm kẹp của địch. Ta đã tiêu diệt, bức rút, bức hàng 40 đồn bót - có 2 khu trù mật, 1 chi khu, 2 cứ điểm quân sự cấp đại đội: diệt gọn hai tiểu đoàn chủ lực địch. Lực lượng vũ trang Bến Tre đã chiến đấu liên tục và làm tròn nhiệm vụ “đòn xeo” cho phong trào ba mặt tấn công đánh phá ấp chiến lược của tỉnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2011, 10:51:53 am »

VI

THÀNH LẬP TIỂU ĐOÀN 516; DIỆT TIỂU ĐOÀN “CỌP ĐEN”;
GIỮ VỮNG VÀ MỞ RỘNG VÙNG GIẢI PHONG

Mùa hè năm 1964, chiến tranh nhân dân địa phương đã phát triển đến đỉnh cao. Đề đáp ứng yêu cầu của chiến tranh, Tỉnh ủy quyết định xây dựng tiểu đoàn chủ lực của tỉnh.

Ngày 24-4-1964 tại xã Tân Xuân huyện Ba Tri, tiểu đoàn 516 được thành lập. Tiểu đoàn được hình thành từ 3 đại đội bộ binh và đại đội trợ chiến của tỉnh với quân số trên 1.300 đồng chí. Những đại đội này đã trải qua quá trình chiến đấu oanh liệt, đã được rèn luyện thử thách qua những năm tháng đầy gian khổ, khó khăn. Đội ngũ cán bộ gồm một số đồng chí đã kinh qua kháng chiến chống Pháp, một số đồng chí đã trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và đã được đào tạo bồi dưỡng ở các trường quân sự của Khu và Miền. Ban chỉ huy tiểu đoàn có các đồng chí: Trần Khắc Chung (Sáu Chung), Nguyễn Văn Nguyễn (Tư Nguyễn), Nguyễn Hữu Vị (Tám Vị), Võ Văn Phát (Chín Võ). Vừa thành lập xong tiểu đoàn đã ra quanh đánh giặc ngay.


Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 516

Tháng 5-1964, đại đội 1 và đại đội 2 tập kích đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn biệt động quân số 41 ở yếu khu Nhơn Trạch (Giồng Trôm). Đại đội 3 tập kích diệt đồn cấp tủng đội ở khu phố An Hóa (Châu Thành) tiêu hao nhiều sinh lực địch, gây ảnh hưởng tốt đối với phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của quần chúng.

Để lập thành tích kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và 2 tháng 9 năm 1964, Ban chỉ huy quân sự tỉnh chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng ở khu vực Châu Thành. Sau khi nghiên cứu tình hình, tiểu đoàn 516 hạ quyết tân diệt đồn cấp trung đội xã Phú Túc, phục kích đánh quân viện trên lộ Thơ xã Thành Triệu bằng ba phương án chiến đấu(1).

Đồn Phú Túc nằm ở ven sông Cửu Long, phía bắc thị trấn Sóc Sải (Hàm Long) và cách chi khu Trúc Giang 5km về phía tây. 1 giờ 30 phút ngày 20-8-1964, đại đội 3 và trung đội đặc công được tăng cường một khẩu ĐK 75 nổ súng tiêu diệt gọn đồn này. Địch chết 13 tên, bị bắt sống 9 tên; ta thu 24 súng các loại. Thắng lợi này đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thân cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn.


(1) Ba phương án: địch hành quân từ Sóc Sải vào Phú Túc bằng lộ Thơ; địch đổ quân bằng tàu và về Sóc Sải bằng lộ Thơ; địch vào Phú Túc bằng nhiều đường và ra lộ Thơ về lộ 27.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2011, 10:53:40 am »

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đại đội 3 trở về đội hình tiểu đoàn làm nhiệm vụ dự bị cho trận phục kích đánh viện ở lộ Thơ.

Lộ Thơ thuộc xã Thành Triệu nằm trong một vùng vườn hoang có nhiều mương, kinh, rạch. Mặt đường rộng 5m nối liền từ Phú Túc đến Thành Triệu và tiếp giáp tỉnh lộ 27. Đoạn đường này đã bị ta phá hoại nên địch không thể hành quân bằng cơ giới. Chúng buộc phải đi bộ trên lộ hoặc bờ kinh rất thuận lợi cho bộ đội ta phục kích vận động tiếp cận đánh địch.

Ban chỉ huy tiểu đoàn có ý định phục kích vận động đánh địch bằng đội hình hai cánh đối diện - có chặn đầu và khóa đuôi - hình thành thế bao vây chia cắt tiêu diệt địch trong phạm vi 1000 mét. 9 giờ ngày 20-8, địch dùng hai tàu lớn đổ 1 tiểu đoàn lính dù ở ấp Phú Mỹ (Phú Túc) và dùng máy bay trực thăng đổ một tiểu đoàn của sư đoàn 7 xuống cạnh đồn Phú Túc. Hai cánh quân này phối hợp càn vào xã Phú Túc. Lực lượng du kích chặn đánh diệt 3 tên, bắn rơi 1 trực thăng. Sau đó (14 giờ) tiểu đoàn biệt động quân số 41 mang danh “Cọp Đen” từ Tường Đa đến lộ đất Phú Túc (ven sông Ba Lai) cùng lúc 1 tiểu đoàn (sư đoàn 7) hành quân càn quét vùng Phú Túc và Thành Triệu. 16 giờ 30 phút chúng chia làm 2 mũi hành quân ra lộ Thành Triệu về Sóc Sải. Như vậy, địch đi không đúng với ý định bố trí đánh địch lúc đầu của ta. Ban chỉ huy tiểu đoàn nhanh chóng chuyển đội hình phục kích sang phương án 3. Các đại đội vận động đánh địch. 16 giờ 50 phút, đại đội 2 nổ súng mạnh vào đội hình phía sau địch; đại đội 1 vận động 150 mét qua kinh đánh vào sườn bên phải của chúng. Các cánh hợp đồng chiến đấu bao vây chia cắt địch thành từng bộ phận nhỏ. Sau 65 phút chiến đấu, tiểu đoàn “Cọp Đen” bị tiêu diệt gọn. Tiểu đoàn chủ lực của sư đoàn 7 bị thiệt hại nặng chạy về đồn Thành Triệu.

Dân vệ trong các đồn bót hoang mang cao độ, đào rã ngũ liên tiếp. Tên trưởng đồn Thành Triệu trốn về tiểu khu. Bọn địch ở chi khu Hàm Long được lệnh truy kích ta. Chúng không dám hành quân; 2 sĩ quan chống lệnh chạy trốn.

Trận này địch chết và bị thương gần 500 tên (có cả Ban chỉ huy tiểu đoàn và 4 cố vấn quân sự Mỹ), bị bắt sống 52 tên. Ta thu 225 súng các loại (có 1 cối 60 ly, 2 đại liên), 25 máy vô tuyến điện, có 2 máy GRC.9, 2 máy siêu tần số TR20 và nhiều loại trang bị quân sự khác.

Lần đầu ra quân, tiểu đoàn ta đã diệt gọn tiểu đoàn địch. “Đây là một trận thảm bại của cả người Mỹ và Sài Gòn. Điều đáng chú ý là việc vận dụng tài tình sáng tạo chiến thuật công đồn đả viện của quân giải phóng”(1). Nó chứng tỏ trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội đã có bước phát triển nhảy vọt. Nổi bật là trình độ chỉ huy linh hoạt, xử trí nhạy bén, kịp thời của cán bộ tiểu đoàn 516.

Bị thất bại nặng, địch tập trung quân chủ lực của khu chiến thuật Tiền Giang đến Châu Thành hòng bao vây tiêu diệt gọn cả tiểu đoàn 516. Địch đã sử dụng 3 tiểu đoàn lính dù, 2 tiểu đoàn của sư đoàn 7, 1 tiểu đoàn bảo an số 23, 2 đại đội hải quân thuộc hải đoàn 21, 2 đại đội thiết xa vận M113, trên 30 phi cơ và 14 khẩu pháo 105, 155 ly.

Chúng bố trí 2 đại đội bảo an Hàm Long, Trúc Giang và 26 xe M113 bao vây dọc theo tuyến sông Hàm Luông và sông Cửu Long từ Tân Thạch đến An Hóa. Các tiểu đoàn chủ lực, bảo an chia ra thành nhiều mũi, nhiều cánh hành quân bộ, đổ quân bằng tàu, bằng máy bay trực thăng vào các xã: Tường Đa, Tam Phước, Phú Đức, Phú Túc, An Khánh, Thành Triệu và rải quân vây chặt các xã này hòng chặn đường rút lui của quân ta.

Sau chiến thắng lộ Thơ, ngày 21 tháng 8 năm 1964 tiểu đoàn 516 rút về xã An Khánh (Châu Thành để củng cố tổ chức.

Quân địch ngày đêm cho phi cơ quan sát, tìm kiếm tiểu đoàn ta. Chiều ngày 21-8-1964, chúng ném bom, bắn pháo vào trận địa. 11 giờ ngày 22 tháng 8 năm 1964, địch đổ quân bằng máy bay trực thăng và tàu chiến (dọc theo sông Cửu Long, sông Ba Lai) và tiến vào trận địa. Địch tập trung 2 mũi nhọn đánh vào đội hình tiểu đoàn. Tiểu đoàn nổ súng đánh địch. Chúng liên tiếp mở nhiều đợt xung phong và bắn trên 10.000 quả pháo vào mặt trận. ta và địch ở thế giằng co quyết liệt. Dây liên lạc giữa Ban chỉ huy tiểu đoàn và Ban chỉ huy quân sự tỉnh bị gián đoạn. Tiểu đoàn hoàn toàn độc lập tác chiến. Sau 35 phút chiến đấu, ta đẩy lùi địch, giữ vững trận địa. Địch chết và bị thương trên 200 tên.

Sau trận này, tiểu đoàn rút quân ra khỏi xã An Khánh để về căn cứ Giồng Trôm, Mỏ Cày. Khi đến xã Tam Phước thì mọi đường hành quân đều bị địch chốt chặn. Tiểu đoàn phải quay trở lại xã An Khánh và tổ chức phòng ngự tại ấp Phước Tự.


(1) Bình luận của hãng AFP ngày 25-8-1964.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2011, 10:54:52 am »

Sáng ngày 23-8, địch ném bom, bắn pháo dữ dội gần khu vực phòng ngự của tiểu đoàn. Máy bay L.19 quần đảo uy hiếp; địch phát loa kêu gọi quân ta đầu hàng. Ban chỉ huy tiểu đoàn đã nhận định hướng tấn công chủ yếu của chúng và đưa nhiều tổ ra xa đội hình chặn đánh địch. 15 giờ ngày 25-8, quân địch chia ra làm nhiều mũi thọc sâu vào trận địa ta. Toàn tiểu đoàn nổ súng chặn đánh nhiều đợt xung phong của địch. Trận chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt. Cán bộ, chiến sĩ đại đội 2 dùng lưỡi lê, dao găm “xáp lá cà” với địch. Đồng chí Tâm trung đội 3 đã hai lần giành giật và lấy lại khẩu trung liên trên tay địch. Sau hơn 2 giờ chiến đấu quyết liệt, quân ta đã làm chết và bị thương gần 100 tên địch.

Trong quá trình chiến đấu, nhân dân đã hết lòng giúp đỡ bộ đội, nhiều bà mẹ, nhiều chị em phụ nữ không quản ngại bom pháo ác liệt đã dũng cảm ra mặt trận tải thương, chôn giấu thương binh, tử sĩ. Mẹ Sáu ở xã An Khánh tuổi cao, sức yếu đã gom góp từng lon gạo “nuôi quân”, đã ra tận công sự đưa từng nắm cơm, ly nước cho chiến sĩ.

Đêm ngày 23-8-64, tiểu đoàn rút ra khỏi vòng vây của địch, về đóng quân tại xã Thành Triệu. Ngày 24 tháng 8, Đảng ủy tiểu đoàn cùng đồng chí Bí thư Huyện ủy Châu Thành đã quyết định phân tán lực lượng, kiên quyết vượt qua lộ 27, lộ 6, qua sông Hàm Luông về căn cứ Giồng Trôm và Mỏ Cày. Các khẩu ĐK75 ly không di chuyển theo đội hình tiểu đoàn được, đồng chí Bí thư Huyện ủy Châu Thành đã có kế hoạch cất giấu an toàn. Đại đội đăc công, đại đội huyện Châu Thành đã phân tán thành từng bộ phận nhỏ bám trụ các xã ấp cùng du kích tiếp tục đánh địch.

Như vậy tiểu đoàn ta chẳng những không bị tiêu diệt như ý muốn của kẻ thù mà trái lại qua hai trận chiến đấu phá vòng vây, ta đã diệt trên 300 tên địch. Thắng lợi này chứng tỏ tiểu đoàn tập trung của tỉnh đã đủ sức độc lập chỉ huy tác chiến tiêu diệt địch.

Lúc này bộ đội các huyện Mỏ Cày, Châu Thành, Giồng Trôm, Bình Đại đã vươn lên đánh tập kích, diệt đồn địch, giải phóng xã ấp. Nổi bật là bộ đội đặc công huyện Mỏ Cày có khẩu hiệu “đã đánh là phải thắng”. Với các đánh áp sát bờ tường, dùng lựu đạn cường tập, xung phong tiêu diệt địch, bộ đội Mỏ Cày đã diệt các đồn Rạch Dầu (Phước Mỹ Trung), Cần Đập, Kinh Ngang (Đa Phước Hội), Phú Sơn v.v…. Năm 1964 đại đội này đã đánh 32 đồn, diệt và bắt sống nhiều địch, giải phóng nhiều xã ấp. Bộ đội Mỏ Cày đã được sự tin cậy của quần chúng nhân dân và tất cả lực lượng vũ trang trong tỉnh, được toàn Quân khu nêu gương học tập và xứng đáng là con chim đầu đàn của lực lượng vũ trang tỉnh.

Cuối năm 1964, sau hai đợt tấn công và nổi dậy đánh phá ấp chiến lược, 57 xã đã được giải phóng hoàn toàn; 27 xã đã dồn địch về 1 góc và nhiều xã đang chuyển lên thế tranh chấp mạnh. Gần 300.000 dân đã thoát khỏi ách kềm kẹp của địch. Đây là thời kỳ mà thế và lực của phong trào cách mạng Bến tre đã phát triển một bước nhảy vọt; là thời kỳ chiến tranh nhân dân địa phương phát triển đến đỉnh cao. Nhân dân vùng giải phóng đã ra sức xây dựng xã ấp chiến đấu, đã cùng với du kích đắp bờ, đắp công sự, ổ, ụ chiến đấu, phát triển “đội quân ong vò vẽ” và các loại vũ khí thô sơ đánh địch càn quét bảo vệ xóm làng. Những bãi, những khu đồng tróng đã được bà con cắm chông sào chống máy bay trực thăng “nhảy giò”. Dọc đường trong thôn xóm thanh niên đã đào hầm hố tránh phi pháo địch. Việc trồng cây, gây rừng, cải tạo địa hình đã trở thành một phong trào rộng lớn của quần chúng. Nhân dân đã tích cực đóng góp sức người, sức của cho cách mạng. 8.000 thanh niên đã tòng quân gia nhập lực lượng vũ trang. Tỉnh đã đưa lên trên 6.400 thanh niên góp phần xây dựng bộ đội chủ lực Khu và Miền.

Các cấp ủy Đảng đã hết sức chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mỗi xã đều có phòng thông tin, trạm y tế, trường học; nhiều đội văn công, văn nghệ được thành lập và đã thường xuyên biểu diễn phục vụ nhân dân sản xuất và chiến đấu. Ban nông nghiệp tỉnh đã hướng dẫn nông dân làm thủy lợi, khai mương, thau phèn; đã đem giống lúa Trà Trung Tử từ miền Bắc về nhân giống, phổ biến rộng rãi trong nhân dân kỹ thuật cấy, trồng, thâm canh, tăng vụ. Nhiều tổ vạn vần đổi công được xây dựng và phát triển thành phong trào làm ăn tập thể của đông đảo bà con nông dân lao động.

Các địa bàn căn cứ chiến lược của tỉnh ở các huyện Giồng Trôm, Mỏ Cày được củng cố ngày càng vững chắc. Các hành lang giao thông liên tỉnh, liên huyện được mở rộng. Việc liên lạc trên dưới được thống nhất.

Quân và dân Bến Tre đã đánh địch mà lớn lên toàn diện và đang giữ vững và phát triển thế chủ động chiến lược trên chiến trường.

Đồng khởi năm 1960 nhân dân Bến Tre đã vùng lên đập tan bộ máy kềm kẹp của địch ở cơ sở, giành quyền làm chủ xã ấp và đã bẻ gãy cuộc phản kích của 10.000 thủy quân lục chiến giữ vững thành quả cách mạng. Năm 1964 nhân dân Bến Tre lại nổi dậy làm cuộc tổng phá ấp chiến lược của địch lập nên thành tích vang dội, góp phần xứng đáng cùng toàn Miền đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2011, 10:55:32 am »

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 18 Tháng Sáu, 2011, 07:43:27 am »

Chương năm

ĐÁNH MỸ DIỆT NGỤY GIỮ VỮNG VÙNG GIẢI PHÓNG
(1965-1967)

I

LIÊN TỤC TIẾN CÔNG ĐỊCH, GIỮ VỮNG ĐỊA BÀN
CĂN CỨ, VÙNG GIẢI PHÓNG

Cuối năm 1964 và những tháng đầu năm 1965, cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam đã giành thắng lợi lớn. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ngày càng khủng hoảng và thất bại nghiêm trọng. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ đã từng bước đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ và chư hầu vào miền Nam, mở rộng hoạt động không quân ném bom bắn phá miền Bắc. Ngụy quân, ngụy quyền lục đục, mâu thuẫn sâu sắc. Những cuộc đảo chính nổ ra liên tiếp.

Vào đầu năm 1965, tại Bến Tre, địch đã tăng cường thêm 62 tên cố vấn Mỹ và một nhóm của phái đoàn USOM(1). Cuối năm, số cố vấn lên đến 162 tên, trong đó có 3 đại tá. Chúng đã nắm quyền chỉ huy trực tiếp đến các chi khu. Địch ráo riết thanh lọc nội bộ. Những tên không ăn cánh hoặc ngả nghiêng trước thời cuộc đều bị thay đổi. Chúng đưa tên Nguyễn Phát Đạt về làm tỉnh trưởng đồng thời đưa những tên đã được huấn luyện về “nghề bình định” từ Ma-lai-xi-a về để tăng cường và củng cố bộ máy chiến tranh ở địa phương.

Chúng tổ chức phòng vệ dân sự thay cho thanh niên chiến đấu. Thanh niên chiến đấu được đôn lên dân vệ, bảo an và quân chủ lực. Đồng thời với việc đôn quân, địch củng cố 5 đại đội bảo an biệt lập, xây dựng thêm 4 đại đội bảo an ở Trúc Giang Hàm Long, Giồng Trôm, Chợ Lách. Lực lượng biệt kích đã tăng vọt từ 10 toán lên 40 toán; mỗi toán từ 1 đến 2 tiểu đội. Chúng tập hợp những tên đầu hàng, phản bội vào cái tổ chức gọi là “lực lượng tuyên vận”.

Ngoài hệ thống trận địa pháo trên địa bành tỉnh, các trận địa pháo ở Gò Công, Bình Đức (Mỹ Tho), Vĩnh Long, Trà Vinh được giao nhiệm vụ bắn sang vùng đông, tây Châu Thành, Bình Đại, Mỏ Cày, Hương Mỹ, Chợ Lách. Pháo ở các hạm tàu cũng được lệnh bắn phá và hỗ trợ các hoạt động của bộ binh.

Trên các cửa sông và trên các con sông Cổ Chiên, Hàm Luông, Ba Lai, Cửa Đại, lực lượng tuần giang, hải thuyền thường xuyên phối hợp hoạt động hòng bao vây chia cắt ba cù lao, ngăn chặn sự vận chuyển của ta trong tỉnh và liên tỉnh. Để tăng cường kiểm soát vùng biển Ba Tri, Thạnh Phú, đầu năm 1965, địch đã tăng cường 1 đại đội hải thuyền cho các căn cứ hải thuyền Tiệm Tôm (Tân Thủy - Ba Tri). Ở Hương Mỹ, Thạnh Phú, Ba Tri, địch xây dựng các bãi đáp máy bay trinh sát L.19. Mỗi chi khu có từ 3 đến 4 bãi đáp máy bay lên thẳng. Sân bay Tân Thành được nâng lên cấp hai.

Địch đã bố trí lại chiến trường, xắt nhỏ địa bàn trong tỉnh thành 24 tiểu chi khu; mỗi tiểu chi khu gồm từ 3 đến 5 xã. Chúng đóng thêm đồn bót, tháp canh từ sân bay Tân Thành (tây bắc thị xã) đến vươn Ươm, cầu Bà mụ (đông nam thị xã) hình thành vành đai bảo vệ thị xã. Trong các vùng địch kiểm soát, chúng vẫn tiếp tục thực hiện kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược, nhưng tập trung vào các huyện Hàm Long, Trúc Giang và Tây Bình Đại.

Ở các vùng giải phóng, địch chà xát ác liệt bằng bom đạn. Những cuộc hành quân lớn sâu vào vùng ta thì địch sử dụng lực lượng chủ lực của khu chiến thuật còn bọn bảo an đánh phá vùng ven. Ở các vùng tranh chấp, chúng tổ chức những hoạt động biệt kích, phục kích đánh phá cơ sở, bắt cán bộ, đảng viên. Ở vùng ven thị xã, thị trấn, các trục đường giao thông, chúng dựng lên nhiều khu định cư để dồn số quần chúng ở các nơi khác không chịu nổi bom đạn chạy dạt về. Và chúng gọi đó là khu “tị nạn Cộng sản”. Tại đây chúng phân phát gạo tiền, vải vóc… hòng mua chuộc, dụ dỗ đồng bào ta. Chúng rải hóa chất độc xuống vùng ven biển, vùng Ba Châu (Giồng Trôm) để phá địa hình các vùng căn cứ của ta.

Ngay từ cuối năm 1964, Quân khu đã tăng cường tiểu đoàn 261 cho Bến Tre và đầu năm 1965 lại tăng thêm tiểu đoàn 265. Như vậy đến lúc này, tỉnh đã có 3 tiểu đoàn tập trung đứng chân trên các địa bàn trọng yếu: tiểu đoàn 261, 516 ở Giồng Trôm, tiểu đoàn 265 ở nam, bắc Mỏ Cày. Đồng thời Quân khu đã chỉ đạo cho Bến Tre lấy tân binh ở địa phương để thành lập tiểu đoàn 267, 269 - chủ lực của Quân khu. Hai tiểu đoàn này được xây dựng tại căn cứ huyện Thạnh Phú. Cũng thời gian này, theo chỉ thị của cấp trên, Ban quân sự tỉnh, Ban quân sự huyện được đổi thành Ban chỉ huy Tỉnh đội, Ban chỉ huy huyện đội. Đồng chí Lê Minh Đào được Quân khu đưa về làm Tỉnh đội trưởng thay cho đồng chí Nguyễn Quân rút về Quân khu.


(1) Phái bộ thông tin tuyên truyền Mỹ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 18 Tháng Sáu, 2011, 07:44:44 am »

Để tiện cho việc lãnh đạo và chỉ huy, Quân khu 8 và Quân khu 9 đã thống nhất việc phân định lại ranh giới địa lý của 2 tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long. Vĩnh Long đã giao cho Bến Tre huyện Chợ Lách gồm 8 xã: Đồng Phú, Bình Hòa Phước, Sơn Định, Vĩnh Bình, Phú Phụng, Long Thời, Hòa Nghĩa, Tân Thiềng. Đồng thời Bến Tre đã cắt 3 xã ở Bắc Mỏ Cày: Vĩnh Hòa, Vĩnh Thành và Phú Sơn nhập với 8 xã trên lập thành huyện Chợ Lách mới.

Lúc này ở Bến Tre hình thái chiến trường thay đổi hẳn. Vùng giải phóng của ta liên hoàn, hành lang mở rộng, vùng tranh chấp áp sát tới thị xã, thị trấn. Phong trào du kích chiến tranh phát triển cao. Thế và lực ta đang mạnh. Địch đang bị tiến công trên nhiều hướng. Phía cù lao Minh, ta vẫn tiếp tục bao vây chia cắt 5 chi khu Mỏ Cày, Hương Mỹ, Chợ Lách bằng đường bộ buộc địch phải tiếp tế lương thực, vũ khí bằng máy bay trực thưng. Phía cù lao Bảo, ta bao vây chi khu Giồng Trôm từ 3 hướng: đông, tây và nam, thường xuyên uy hiếp địch trên liên tỉnh lộ 6A (đoạn Tân Thạch, An Khánh, Phú An Hòa) và tỉnh lộ 26 (đoạn Bình Thành, Lương Hòa, Phong Mỹ). Ở Ba Tri, ta vây đồn địch vào 4 xã quanh thị trấn. Ở tả ngạn thị xã, du kích xã Mỹ Thạnh An thường xuyên bám trụ, bắn tỉa địch trên hữu ngạn sông Bến Tre.

Từ tháng giêng đến tháng 6 năm 1965, ta liên tục đánh vào vùng sâu, vùng yếu của địch, tạo thêm nhiều vùng tranh chấp mới.

Đêm 28 tháng giêng, tiểu đoàn 516 tiến công tiêu diệt đồn Ba Rọi (thuộc tiểu chi khu Nhơn An) cách thị xã khoảng 1500 mét về phía tả ngạn sông Bến Tre và phục kích đánh tiêu hao quân viện. Diệt đồn Ba Rọi, ta đã mở rộng thêm vùng tranh chấp ở các xã Mỹ Thạnh An, Nhơn Thạnh, Phú Nhuận, mở rộng địa bàn đứng chân cho các lực lượng của thị xã, tạo thuận lợi cho việc móc nối, tiếp xúc, liên lạc với cơ sở bên trong nội ô. Sau đó, tiểu đoàn 516 kết hợp với du kích và bộ đội địa phương hai huyện Ba Tri, Mỏ Cày mở thêm khu vực tranh chấp ở Tân Xuân (Ba Tri) và An Thạnh (Mỏ Cày).

Ngày 15 tháng giêng năm 1965, 2 đại đội của tiểu đoàn 261, 516 đã tiến công diệt 2 đồn địch tại ấp Cây Điệp giải phóng hoàn toàn xã Châu Hóa, huyện Giồng Trôm. Quét sạch địch ở đây, vùng giải phóng tây bắc Giồng Trôm được mở rộng kéo dài tới 20km nối tiếp vùng giải phóng đông Châu Thành và tây Ba Tri, củng cố căn cứ hậu cần và nối tiếp hành lang vận chuyển từ Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại và Gò Công.

Để khôi phục lại tuyến đường vận chuyển từ miền Tây về miền Đông Nam Bộ, Quân khu đã chỉ đạo Bến Tre mở mảng phía đông nam huyện Chợ Lách. Ban chỉ huy Tỉnh đội đã tập trung các tiểu đoàn 261, 265, 269, 516 để thực hiện nhiệm vụ này.

Đêm 24-2, ta đánh thiệt hại nặng đồn Cây Xanh xã Tân Thiềng, tiếp tục chặn đánh trung đoàn 13, sư đoàn 9 và 1 tiểu đoàn bảo an từ Vĩnh Long sang giải tỏa. Ta đã diệt gần 200 tên, bắn rơi và bắn hỏng 5 máy bay. Địch đối phó ác liệt bằng bom đạn; bộ đội chủ lực của ta không đứng chân lại được, bộ đội địa phương và du kích hoạt động yếu nên đường không mở ra được. Tiểu đoàn 261, 265 được lệnh của Quân khu rút khỏi chiến trường Bến Tre. Theo chỉ đạo của Bộ tư lệnh Miền, ngành giao bưu vận của tỉnh đã tổ chức một tuyến đường mới - đường vận chuyển vũ khí công khai - bằng ghe hai đáy trên tuyến sông Hàm Luông, sông Tiền, đoạn từ Thanh Tân (Mỏ Cày), Phong Mỹ (Giồng Trôm) đến Cai Lậy tỉnh Mỹ Tho. Một số cán bộ, đảng viên trung kiên, dũng cảm, mưu trí đã đưa nhiều chuyến hàng quân sự vượt qua mặt địch, góp phần làm nên những chiến thắng cho những năm sau này.

Để giữ vững và phát triển thế tiến công, tháng 4 năm 1965, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp và ra nghị quyết phải liên tục đánh mạnh, đánh sâu vào vùng yếu, thị xã, thị trấn, giao thông buộc địch phải bị động đối phó, không rảnh tay để bung ra đánh phá, lấn chiếm vùng giải phóng; phải giữ thế phong trào chiến tranh du kích, tích cực xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch, tiếp tục xây dựng cơ sở nội tuyến nắm tình hình để đánh địch có hiệu quả hơn nữa.

Lúc này, trên chiến trường Quân khu, những trận đánh lớn diễn ra liên tiếp gây tổn thất nạng nề cho địch. Bọn chỉ huy khu chiến thuật Tiền Giang đã vạch kế hoạch hành quân vào vùng bờ biển huyện Thạnh Phú quyết triệt đường vận tải quân sự tiếp tế vũ khí từ Bắc vào Nam, ngăn chặn sức tiến công của ta.

Từ ngày 28-4 đến ngày 5 tháng 5, khu chiến thuật Tiền Giang mở cuộc càn cấp trung đoàn vào các xã An Thạnh, Thạnh Phong huyện Thạnh Phú. Địch sử dụng 2 tiểu đoàn của trung đoàn 10 sư đoàn 7, tiểu đoàn biệt động quân số 41, 4 đại đội bảo an và hàng trăm lượt chiếc máy bay đánh vào khu vực “đầu cầu”(1) này.


(1) Chỉ khu vực tiếp nhận vũ khí chở bằng đường biển từ Bắc vào.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM