Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:17:18 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Gió Lửa  (Đọc 68420 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:00:17 pm »

Tác giả: Nam Dao
Nguồn: vnthuquan

Lời ngỏ

Quốc gia nào cũng có Lịch Sử. Ghi lại biến cố, ngày tháng, là loại biên niên thuộc dòng chính sử. Chính sử chẳng phải lúc nào cũng được ghi nhận khách quan. Những biến cố thường được tô vẽ theo những quan điểm thế quyền đương đại một khi có lợi, và ngược lại, bị lờ đi một khi bất lợi.

Ngoài dòng chính sử, còn có phần lịch sử hình thành qua trí tưởng tượng, óc phán đoán, và cao hơn là sự cảm nhận từ quá khứ những vấn đề của con người và xã hội hiện vẫn tồn tại. Ở đây, biến cố lịch sử trở thành đối tượng đem soi dưới lăng kính chủ quan, nhào nặn lại để rồi, qua ngòi bút người viết, thành tiểu thuyết dã sử. Hiểu như vậy, không ai phủ nhận được phần trách nhiệm của những tiểu thuyết dã sử. Soi rọi vào những vấn đề nhân quần xã hội và thân phận con người trong quá khứ là một cách đi tìm sự sống tàng ẩn trong lịch sử. Lịch sử đó là lịch sử sống. Nó tạo được khả năng nhìn vào tương lai dưới một góc độ nào đó. Chỉ kể ra những biến động và sự cố, loại chính sử biên niên đơn thuần ghi lại lịch sử chết. Nó thường bịt ít nhất là một trong hai con mắt ta lại. Thậm chí, như Tocqueville có nói, nó là một phòng triển lãm tranh phần lớn sao chép vì rất hiếm tranh nguyên bản.

Trong Gió Lửa, không gian là nước Việt Nam, thời điểm là buổi Trịnh tàn-Lê mạt vào cuối thế kỷ 18. Mọi nhân vật, kể cả những nhân vật mang tên có thật trong chính sử, vẫn là những nhân vật hoàn toàn tiểu thuyết. Tiểu thuyết là cách tác giả đối thoại với lịch sử.

Tất nhiên đối thoại đó chỉ một chiều và chủ quan. Thậm chí tác giả không câu nệ bất cứ điều gì, kể cả đôi khi cưỡng bức lịch sử để thai nghén ra tiểu thuyết. Liên tưởng đến một không gian khác, một thời điểm khác, hoặc những nhân vật có thật trong thời đại này hay thời đại kia, là thẩm quyền của độc giả.

Ðọc tiểu thuyết, trước tiên là để mua vui. Sau, dẫu chỉ đôi khi,tiểu thuyết dã sử lại tạo dịp đào sâu một số suy tư về quá khứ, hoặc đã tiềm ẩn, hoặc đang xung động. Những trang sử Việt Nam trên dưới năm trăm năm qua phơi trải chiều dài một cuộc nội chiến vẫn ám ảnh đâu đó như một thứ ác nghiệp đang còn rình rập ẩn náu chỉ đợi cơ hội là lại làm cho lệ rơi máu đổ. Tại sao ? Dĩ nhiên, yếu tố tình cờ có, yếu tố khách quan có. Nhưng lịch sử vẫn là, nói cho cùng, sản phẩm của những con người suy tư và hành động trong một mẫu hình văn hoá nhất định. Vậy thì yếu tố nào trong mẫu hình kia là nguồn căn của những cuộc nội chiến mà ta là nạn nhân của chính ta ? Năïn đất sét làm tượng Thành Hoàng, phải chăng chúng ta đã quì lậy thì thụp đến độ mê mụ để trở thành nạn nhân của những quyền lực do chính chúng ta cùng dựng lên, một khi, theo qui luật tồn tại, những quyền lực đó xung đột với nhau ? Tránh cho cảnh lệ lại rơi máu lại đổ, không thể không đặt cả cái mẫu hình văn hoá đó lên bàn giải phẫu để suy ngẫm, hội chẩn và rồi cắt bỏ những phần nhiễm độc trong tâm thức. Chỉ có như vậy, tương lai mới phần nào rõ nét ngõ hầu hiện tại cưu mang được hy vọng để tiếp tục sống còn.

Về phần những vấn đề đặt ra để suy ngẫm, tác giả xin hoàn toàn trách nhiệm, và hy vọng độc giả ở mọi nơi có sự đồng cảm.

Nam Dao

Iles de la Madeleine 17-7-1997

Québec 21-10-1998
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #1 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:01:33 pm »

Vài nét chính sử

Lửa Ðàng Ngoài

Năm Quí Sửu (1673), Trịnh-Nguyễn chấm dứt chiến tranh, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt đất nước. Từ sông Gianh ra Bắc, gọi là Ðàng Ngoài, do vua Lê chúa Trịnh nắm quyền. Từ sông Gianh vào Nam, gọi là Ðàng Trong, do chúa Nguyễn cai quản.

Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh lên ngôi chúa thay Trịnh Giang. Loạn lạc khắp nơi : Lê Duy Mật lấy nghĩa phù Lê, thất bại, chạy về Thanh Hóa (1738). Năm Nhâm Tuất (1742), Nguyễn Hữu Cầu khởi binh đóng Ðồ Sơn, chiếm Kinh Bắc. Năm 1747, Cầu đánh Sơn Nam, bất ngờ tập kích Thăng Long, rồi rút về Sơn Nam, phối hợp với Hoàng Công Chất ở Thái Bình. Nguyễn Hữu Cầu bị bắt (1751) và bị chém sau mười năm khởi nghĩa, lôi kéo được hàng vạn dân nghèo.

Năm 1767, Doanh mất, con là Trịnh Sâm lên thay, dân Kinh Bắc nổi dậy. Lê Duy Mật đánh bại tướng Trịnh ở Nghệ Tĩnh. Hoàng Công Chất chết già (1769), nghĩa quân sau đó bị tan rã. Năm sau, Trịnh Sâm tiêu diệt phong trào phục Lê của Lê Duy Mật đã tồn tại được ba mươi hai năm. Năm 1771, Sâm giết thái tử Lê Duy Vĩ, ép vua Lê hiển Tông lập Lê duy Cẩn lên ngôi Ðông cung.

Năm 1773, Nguyễn Nhạc ở Tây Sơn chiếm Qui Nhơn. Trịnh Sâm cấm đạo Thiên chúa ở Ðàng Ngoài. Tháng chạp năm 1774, Sâm chiếm thành Phú Xuân. Năm 1777, hạn hán ở Ðàng Ngoài, đói liền mấy năm ở Nghệ An.
Tháng chín năm Canh Tý (1780), sủng phi Ðặng Thị Huệ cùng Hoàng Tế Lý mưu giành ngôi Chúa cho con thứ là Trịnh Cán. Con trưởng của Tĩnh đô vương Trịnh Sâm là Tông, cùng Ðàm Xuân Thụ, Nguyễn Khản, Nguyễn Khắc Tuân định việc khởi binh. Việc vỡ lở, Sâm bắt giam Tông và Khản, kết tội tử hình bọn dư đảng. Hai năm sau, Sâm mất.Trịnh Cán lên ngôi chúa. Cán lúc ấy mới sáu tuổi, Hoàng Tế Lý và Ðặng Thị Huệ nắm giữ công việc triều chính.

Tháng mười năm Nhâm Dần (1782), kiêu binh nổi loạn, phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên. Nguyễn Khản và Dương Khuông phụ chính. Tháng giêng năm Giáp Thìn (1784), kiêu binh làm náo loạn kinh đô Thăng Long, đốt dinh Nguyễn Khản và Dương Khuông, giết Chiêm Võ hầu, cướp bóc nhà cửa đám quan lại và công hầu.
 
Gió Ðàng Trong

Năm Bính Ngọ (1306), Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, vua Chiêm Thành. Năm sau, Mân dâng hai châu Ô, Rí dẫn cưới. Tháng năm, Mân chết. Tháng mười, Trần Khắc Chung cướp Huyền Chân mang về Bắc hà. Chiêm Thành đòi Ô Rí, nay đổi tên là hai châu Thuận, Hóa nhưng không được, mang quân đánh châu Hóa (1353). Ðến năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm thắng, vào đến Thăng Long rồi lại rút ra giữ Thanh-Nghệ. Tháng năm năm Canh Thân (1380), Hồ Quí Ly đánh lùi được Chế Bồng Nga. Chiến tranh Chiêm Việt kéo dài cho đến đời chúa Nguyễn. Nguyễn Hoàng lấy Phú Yên năm 1622, chấm dứt trên thực tế vương quốc Chiêm Thành.

Ở Ðàng Trong, chúa Nguyễn lấn đánh Chân Lạp sau cuộc nội chiến với Ðàng Ngoài. Năm Ất Dậu (1705), Chúa Nguyễn chiếm Phiên trấn. Năm Mậu Tý, Chúa Nguyễn liên minh với Mạc

Cửu là người Minh Hương, phong làm Thống binh trấn Hà Tiên. Năm Tân Hợi (1731), quân Nguyễn chiếm Gia Ðịnh và lập Vĩnh trấn. Võ vương lên ngôi chúa (1738), bắt đầu đổi phong tục và bắt dân trang phục theo kiểu Trung Quốc. Võ vương mất, quyền thần Trương Phúc Loan phế Phúc Thuần, lập Phúc Dương còn nhỏ lên thay năm 1771.

Nguyễn Nhạc cùng hai em là Huệ và Lữ dấy quân ở Tây Sơn, chiếm Qui Nhơn (1773) rồi đánh vào Nam-Ngãi. Nhân dịp, Trịnh Sâm và Hoàng ngũ Phúc tiến chiếm Phú Xuân (1774), rồi xuống Quảng Nam. Tây Sơn hòa với Trịnh, đánh lấy Phú Yên. Chúa Nguyễn chạy vào Gia Ðịnh. Nguyễn Lữ (1776) mang thủy quân đánh Gia Ðịnh, chiếm Sài Gòn và ba trấn lân cận, rồi lại về Qui Nhơn. Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, đặt niên hiệu là Thái Ðức.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #2 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:02:08 pm »

Năm 1777, Huệ lại đem quân đánh Gia Ðịnh, bắt giết cả Phúc Dương và Phúc Thuần rồi về Qui Nhơn. Quân Nguyễn, tôn Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi chúa, chiếm lại Sài Gòn. Năm 1778, Nhạc xưng đế, phong Lữ làm Tiết Chế và Huệ là Long Nhượng tướng quân. Ánh đánh chiếm lại Bình Thuận. Năm Nhâm Dần (1782), Nhạc và Huệ mang quân đánh Gia Ðịnh, Ánh phải chạy ra đảo Phú Quốc. Nghe tin Hộ giá Phạm Ngạn tử trận, Nhạc trả thù, giết rất nhiều thương nhân Hoa kiều. Nhạc và Huệ về Qui Nhơn, Ánh lại chiếm Gia Ðịnh ba tháng sau. Năm sau (1783), Huệ và Lữ phản công, Ánh đại bại chạy sang Xiêm, giao con cả là Cảnh mới năm tuổi cho Bá đa Lộc, là giám mục đạo Gia-Tô, mang làm con tin đi Pháp để cầu viện. Năm Giáp Thìn (1784), ba vạn quân Xiêm kéo sang. Huệ mang quân ra đánh tan, rồi để Ðặng văn Chấn ở lại giữ Gia Ðịnh.
Tháng năm, năm Bính Ngọ (1786), Huệ cùng Lữ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ văn Nhậm tiến chiếm Phú Xuân. Cuối tháng sáu, Tây Sơn tiến ra Ðàng Ngoài dưới lá cờ « Phù Lê-diệt Trịnh » đánh tan quân Trịnh, vào Thăng Long. Tháng bảy, Huệ lấy công chúa Ngọc Hân. Lê Hiển Tông mất, cháu là Duy Kỳ lên ngôi, sau lấy hiệu là Lê Chiêu Thống. Tháng tám, Nhạc ra Bắc, cùng Huệ rút quân về nhưng bỏ lại Nguyễn Hữu Chỉnh không cho theo. Chỉnh phải chạy trốn về Nghệ An.

Nội bộ Tây Sơn bất hòa, dẫn đến xung đột. Tháng chín, Trịnh Bồng về lại Thăng Long nhận ngôi chúa, được hai tướng Hoàng Phùng Cơ và Ðinh Tích Nhưỡng ủng hộ. Nguyễn Hữu Chỉnh dấy quân phù Lê, kéo ra Thăng Long đuổi Bồng, được phong làm Bằng Quốc công, thâu tóm lại quyền bính vào đầu năm Ðinh Mùi ( 1787). Xung đột Tây Sơn kéo đến tháng hai thì chấm dứt, lấy Bản Tân làm mốc, trở ra Bắc thuộc Huệ được phong là Bắc bình Vương, về Nam thuộc Nhạc. Nhạc cắt Gia Ðịnh cho Lữ, phong làm Ðông định Vương, còn tự mình xưng là Trung Ương Hoàng Ðế đóng tại Qui Nhơn. Ánh lại mang quân đánh Gia Ðịnh. Nguyễn Lữ về Qui Nhơn tháng sáu âm lịch (1787), ốm rồi chết, để Phạm Văn Tham trấn giữ.

Tháng mười một âm lịch, Bá đa Lộc thay mặt Nguyễn Ánh ký Ðiều Ước Liên Minh Versailles. Khoảng thời gian đó, Huệ sai Vũ văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, bắt và giết. Tháng bốn năm sau (1788), Ngô Văn Sở báo Huệ là Nhậm lạm quyền và có ý phản, Huệ ra Bắc giết Nhậm. Tháng bảy, Lê Chiêu Thống cho người sang cầu cứu nhà Thanh. Tháng mười, trên hai mươi vạn quân Thanh ồ ạt vào biên giới. Ngô Văn Sở theo lời Ngô Thì Nhậm kéo quân lui về núi Tam Ðiệp. Ngày 17-12-1788, quân Thanh dưới quyền Tôn sĩ Nghị vào chiếm Thăng Long.

Năm ngày sau, Huệ làm lễ tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng Ðế lấy hiệu là Quang Trung rồi xuất quân. Ngày 26-12, Huệ đến Nghệ An rồi ngày 15 -1-1789, tức là ngày hai mươi tháng chạp năm Mậu Thân, Huệ đến Tam Ðiệp. Hạ lệnh ăn tết trước, và hẹn ngày mồng bảy Tết sẽ vào đến Thăng Long, Huệ chia quân làm năm đạo tiến ra Bắc. Ngày mồng ba tháng giêng, đồn Hạ Hồi vỡ. Ngày mồng năm, đồn Ngọc Hồi bị đánh tan. Ngày mồng bảy, Quang Trung vào Thăng Long, yết bảng an dân và cho quân Thanh ra hàng.
Tháng năm năm Kỷ Dậu, Quang Trung ra chiếu khuyến nông và lập học. Tháng tám, khoa thi hương dùng chữ Nôm đầu tiên, có Nguyễn Thiếp làm đề điệu, được mở ở Nghệ An. Năm Tân Hợi (1791), tiền « Quang Trung thông bảùo » được ban hành, và Viện Sùng Chính được thành lập, phụ trách giáo dục và phiên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm. Năm 1792, viện đã dịch được bộ Tiểu Học và Tứ Thư, do Nguyễn Thiếp trách nhiệm. Tháng sáu, Nguyễn Ánh mang thủy quân vào đốt phá Thị Nại thuộc Qui Nhơn. Quang Trung gửi hịch kêu gọi quân dân chuẩn bị tấn công Ánh ở Gia Ðịnh nhưng ngày 29 tháng bảy năm Nhâm Tí, Quang Trung băng hà, con là Quang Toản mới mười tuổi lên kế vị, lấy hiệu là Cảnh Thịnh.

Sau đó, thái sư Bùi Ðắc Tuyên chuyên quyền. Nhạc mất (1793), Tuyên sát nhập đất Nam-Ngãi, nội bộ Tây Sơn lủng củng. Ánh xây thành Diên Khánh, quấy phá Bình Thuận. Cuối năm 1794, Ðại tướng Trần Quang Diệu vây Diên Khánh. Tháng năm âm lịch Ất Mão (1795), Tư khấu Vũ Văn Dũng bắt giết Bùi Ðắc Tuyên. Diệu bỏ Diên Khánh, về Phú Xuân, dẫn quân đánh Dũng, may có Phan Huy Ích giảng hòa.

Ngày tàn của triều đại Tây Sơn bắt đầu. Bảo là con Nhạc chiếm Qui Nhơn và định hàng Nguyễn Ánh, nhưng Quang Toản biết, vây thành và giết vào cuối năm 1798. Ánh đánh Qui Nhơn, cuối cùng chiếm được. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng phản công, giữ cửa biển Thị Nại, vây Qui Nhơn liền một năm. Bất ngờ, tháng ba năm Tân Dậu (1801), quân Ánh chiếm Quảng Nam. Ngày ba tháng năm, thành Phú Xuân bị hạ, Quang Toản rút quân ra Bắc. Tháng mười một, Toản và em là Quang Thùy mang ba vạn quân tiếp ứng cho Dũng, Diệu và vợ là Bùi thị Xuân tiến đánh lũy Trấn Ninh ( Hà Trung). Ðó là trận đánh lớn cuối cùng của quân đội Tây Sơn.
 
Tháng năm năm Nhâm Tuất (1802), Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long. Tháng tám, quân Nguyễn hạ thành Thăng Long, Quang Toản chạy lên Kinh Bắc thì bị bắt. Tháng mười một, Ánh xử tội Vua tướng Tây Sơn. Về phần Ngô thì Nhậm, Nhậm bị đánh ở Văn Miếu đến chết vào tháng hai năm Quí Hợi (1803).
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #3 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:03:00 pm »

Chương 1
Tiếng đá

Gió hầm hập từ phía Tây thổi về Nghệ An. Gió lùa cơn nóng đến độ chó ngậm hơi không sủa, trâu bò uể oải nằm dài, rớt dãi chẩy trắng mép, lim dim tựa như vừa no đầy sau cơn xác thịt. Ðợi đến nửa đêm, gió mới hà được một chút hơi lạnh của núi trong tiếng xào xạc từ rừng lá rạc vây bủa trại Bùi Phong.

Căn nhà ba trái nằm yên ả dưới rặng chèm. Tiếng võng thỉnh thoảng kẽo kẹt nhịp cho tiếng quạt phành phạch phẩy gió. Không biết loài chim gì bay ngang, quàng quạc kêu làm vỡ bấy cái êm đềm một đêm nồm ngột ngạt. Lửa đóm lóe lên trong nhà, hắt qua khe liếp những vệt sáng đỏ đục. Tiếng rít thuốc lào sằng sặc, rồi tiếng người sột soạt ra mở then cửa. Nguyễn Thiếp ra đứng, ngửa mặt nhìn trời. Ánh trăng chếch tỏa xuống mầu xanh huyển hoặc trên những lùm cây chập chờn nhẩy múa.

Trước khi gia đình họ Nguyễn ở Nguyệt Ao lên lập trại cuối năm ngoái, khoảng đất bằng phẳng rộng độ hai mẫu ta đất này chỉ toàn là rạc, lá nhọn, sắc, tua tủa chĩa ra như lông nhím. Cũng bởi vì Thiếp nổi tiếng là người sành thuật phong thủy nên tiếng đồn đãi rằng chỏm Bùi Phong ở phía đông ngọn Lạp Ðính trong rặng Thiên Nhận là nơi có mạch rồng, ai để mả ở đó thì đời sau sẽ hạnh phát đế vương. Thế là nghe đâu có vài kẻ cùng một lúc lên quan kiện, ai cũng đưa từ chứng rằng đó là đất của tổ tiên mình. Nhưng chuyện kiện cáo không đến nỗi nhì nhằng. Ở vào những năm cuối cùng đời chúa Trịnh Doanh, ai cũng biết là từ chứng có thể mua bằng tiền, giá thường chỉ bằng giá một đôi gà. Vả lại, miệt Hải Dương có giặc Nguyễn Hữu Cầu, và ngay tại hai trấn Thanh-Nghệ này, Nguyễn Diên mời được Hoàng tôn Lê duy Mật kéo cờ tôn phù vua Lê dấy binh chống chúa Trịnh. Nổi loạn chiếm Ðồ Sơn năm 1742, Cầu thường lấy của nhà giầu ra phân phát cho người nghèo, chống với chúa Trịnh được gần mười năm. Mật là tôn thất nhà Lê, nổi loạn đánh Trịnh Doanh ở Thăng Long, thất bại phải chạy ra Thanh Hóa năm 1738. Trong cảnh loạn lạc, quan huyện La Sơn tìm cách khu sử cho thật gọn. Coi chỏm Bùi Phong là công thổ, quan để cho người đồng liêu họ Nguyễn vừa mới nhậm chức huấn đạo ở Anh Ðô mua lại.

Thuở Hiến sát sứ Nguyễn Hành thụ bệnh qua đời ở Thái Nguyên cách đây mười lăm năm, nỗi đau xót người chú đã nuôi mình ăn học khiến Thiếp mắc chứng cuồng dĩ . Nhẩy xuống ruộng bùn huyện Kim Hoa nằm mê man ba ngày, Thiếp may được người xã Do Nhân mang về nuôi cả tháng, sau mới tìm đường về nhà. Ba ngày trước, tức là đúng vào ngày mùng tám tuần trăng thứ sáu, Thiếp lại lên cơn động kinh. Ðang phạt cỏ tranh bới đất trồng thêm chục gốc chè, Thiếp bỗng ngã vật ra, chân tay co quắp, miệng méo xệch, người giật lên như đỉa phải vôi. Thiếp muốn kêu nhưng cổ tắc lại, nước dãi đặc sệt phòi ra từng vũng sùi bọt trắng. Thiếp ngửng mặt nhìn lên trời: mây đùn lên, bay vùn vụt, bỗng nhiên đổi mầu thành mây bẩy sắc, ráng tía ngày càng chói lọi đến lóa mắt. Trên cao, vô số khuôn mặt từ phương Nam bay lại, sà xuống, mặt người có, mặt ma mặt quỉ có, mặt Thánh mặt Phật cũng có, lúc thì nhe nanh nhe vuốt như chực cắn xé, lúc lại bi thương đại lượng nhỏ nước mắt từ bi.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #4 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:03:54 pm »

Ðột nhiên, một vùng đất nổi lên cao, chung quanh là rừng núi, một đàn voi xông ra, dẫn đầu là một con voi trắng đầu như đầu rồng. Mấy chục con voi lồng lên trong cát bụi mịt mù rượt đuổi một đàn ngựa, con chạy về phương Nam, con dạt về phương Bắc. Tiếng cồng nổi lên nghe đinh tai nhức óc, lẫn vào đó là tiếng tù và, tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng kim khí chát chúa choạng vào nhau, rồi tiếng rên la, tiếng van vỉ, tiếng kêu khóc, tiếng chửi rủa. Thiếp cố xoay người về phía trái, tì tay vào một mô cỏ vừa cào. Mặt trời rát bỏng xối xuống từng chậu lửa sánh sệt, làm cho đống cỏ tranh mới cắt cháy bùng lên. Cháy ! cháy ! cháy rừng ! Thiếp hả miệng hớp lấy chút không khí mỗi lúc một ngột ngạt, cố đến độ cổ họng bung ra thành tiếng « chạy ! chạy đi ! » , rồi lịm dần trong lớp sóng lửa vỗ sôi lên giữa một cái vạc dầu đang từ từ nhận chìm cả nhân loại.

Khi Thiếp mở mắt ra, trời đã tối mịt. Ánh đèn dầu hắt bóng Ðặng-thị lên vách mới trát còn ngan ngát mùi đất ẩm. Thiếp thều thào gọi vợ. Ðặng thị cúi xuống xốc cho Thiếp ngồi lên, giọng nửa mừng nửa tủi :

- Mấy năm nay tưởng yên rồi, nay đột nhiên thầy nó lại ngã bệnh .

Thiếp gượng cười.

- Thầy nói, thầy kêu, rồi lại khóc nữa.

- Nói gì ?

- Thầy bảo bây giờ là thời mạt pháp !

- Còn kêu gì ?

Ðặng-thị im lặng một chặp, ngập ngừng :

- Thầy kêu nhiều lắm, khó nhớ hết được. Có lúc thầy vừa khóc vừa bảo đến thánh thần cũng hư huống chi là người...

- Thế kêu với ai ?

Ðặng-thị lắc đầu, kéo tấm chăn đơn đắp cho Thiếp, nhỏ nhẹ :

- Tôi không biết ! Thầy nó uống cho tôi bát thuốc này đã. Uống cho hạ cơn xuống đêm nay.

Thiếp từ tốn nâng bát thuốc do một người bạn nổi tiếng danh y bốc cho. Từng ngụm thuốc đắng chát trôi qua như đốt cổ họng, song vào đến bụng thì lại thành mát rượi. Thiếp đặt bát thuốc lên cái ghế đẩu kê cạnh giường, nhớ lại ngày nào họ Lê bắt mạch cho mình trên chùa Hương Tích, nửa đùa nửa thật cười bảo «...chẳng biết Cuồng ẩn đó hay Lãn ông này sẽ tạo nghiệp để phải giây vào đám bụi bậm dưới kia ». Thiếp với tay lấy bình nước chè, nhưng mất thăng bằng, ngã chúi xuống chân giường, miệng thở hổn hển. Bóng đèn hắt bóng Ðặng-thị lên vách, hấp tấp đang xốc Thiếp lên. Lúc sau, bấc đèn vặn nhỏ lại khiến cái bóng khổng lồ ngả dài ra rồi biến mất.

Từ hôm Thiếp lên cơn động kinh, cứ chập choạng tối là Ðặng-thị bắt cả ba đứa con đi ngủ sớm. Hai đứa lớn biết nghe, nhưng Thúc Khải mới chập chững biết đi lâu lâu lại khóc đêm đòi mẹ. Bấy giờ đã canh hai, trăng lưỡi liềm đang ngả về phía tây rặng Thiên Nhận. Trại Bùi Phong mơ hồ lẫn vào giấc ngủ chập chờn trong đêm mùa hạ. Tiếng ếch nhái ven con suối cạnh nhà oang oác, phụ họa vào những âm thanh rỉ rả của đủ loại côn trùng than van cơn nóng bức hừng hực chưng bằng lửa địa ngục. Ðặng-thị thỉnh thoảng lại phe phẩy quạt cho Thúc Khải. Giường bên kia, tiếng trẻ ú ớ nói mê. Bước vào nhà, Thiếp đặt mình xuống giường nằm im ngắm ánh trăng qua khe liếp, mông lung nghĩ ngợi.

Ðột nhiên con Vện buộc ở gốc cây đầu nhà tru lên sủa oăng oẳng. Tiếng chân người chạy như ma đuổi mỗi lúc một gần. Khi Ðặng-thị vừa khêu đèn lên thì tiếng gõ cửa đã dồn dập đánh thức cơn ngái ngủ đang chờ ập đến. Cửa vừa mở, tiếng nức nở vang lên :

- Nguyễn công, xin người ...

Ðặng-thị cúi vội xuống xốc nách người con gái đang quì, thảng thốt hỏi. Dưới ánh đèn, mặt người con gái nhợt nhạt, mái tóc dài màu đen huyền xổ tung ra trên hai vai bung toạc những vết rách như dao cứa. Khắp mảng áo trái, máu bầm hoen ố những đường kim tuyến thêu dọc trên những chiếc áo chẽn của phụ nữ miền núi. Người con gái hai tay run rẩy đưa cho Thiếp một quyển sách gáy da, rồi nhũn người khuỵu xuống, hai mắt nhắm nghiền lại. Ðặng-thị vừa lay vừa gọi, nhưng vô ích.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #5 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:04:26 pm »

Người con gái đó tên là Hà Khinh Vân, nhưng mọi người trên bản Mê Thượng đều gọi nàng là nàng Mây. Mây là con gái đầu lòng của Hà công, người trưởng tộc họ Hà đã đến sinh cơ lập nghiệp cách đây hơn hai trăm năm trên rặng Giăng Màn. Rặng này cũng có tên là Khai Trướng, chạy theo hướng Bắc-Nam, nằm về phía Tây rặng Thiên Nhận, chia ranh giới giữa châu Hoan và vương quốc Ai Lao. Hà tộc đông nhất bản, có lẽ là họ đầu đi khai phá Giăng Màn, và đã suốt tám đời làm Chao cai quản bản. Trong gần ba trăm nóc gia, với số trên dưới năm trăm tráng đinh, ngoài họ Hà còn thấy họ Ðinh, họ Lê, họ Nguyễn. Chính vợ Hà công là người họ Nguyễn, mới di cư đến Mê Thượng khoảng hai mươi năm nay. Nghe đâu có dính dáng họ hàng gì với Nguyễn Hữu Cầu đã dấy quân làm loạn, gia đình Nguyễn-thị phải bỏ miệt Ðồ Sơn chạy vào Nghệ An để tránh tróc nã.

Tộc trưởng họ Hà không nhất thiết là dòng con trưởng mà phải là một người có công đầu. Ðể định công, cứ năm năm, họ Hà họp Tộc hội đông đủ mọi chi mọi ngành. Hạch thí gồm hai phần, thi võ và thi văn. Phần thi văn lại trọng về mặt binh thư, và đôi khi có hỏi cả thuật Pháp trị theo sách của Thương Ưởng và Hàn Phi. Không phải kỳ tộc hội nào cũng có người qua được hai phần hạch thí, cho nên đôi khi phải chờ đến mươi mười lăm năm mới được một người. Người này, được gọi là Tộc thứ, làm phụ tá cho Tộc trưởng cho đến kỳ hạch thí sau. Nếu có thêm được người trúng hạch thì Tộc trưởng xuống nhường cho Tộc thứ lên thay mình, còn người mới trúng hạch sẽ được đề làm Tộc thứ.

Trường hợp Hà công, húy là Trường , lên làm Tộc trưởng là một sự kiện khá hãn hữu. Vào tiết lập đông năm Giáp Tý đời Cảnh Hưng thứ ba, bản Mê Thượng bị một con cọp cái khôn đến hóa tinh khuấy phá dữ dội. Nó đến rình vồ người làm mương làm rẫy, và có lần xông hẳn vào bản vật chết một con trâu rồi tha đi. Trai bản sợ, đi đâu phải đi thành toán năm ba người mà vẫn bị nó tấn công, có kẻ thương tích, có kẻ tử vong. Sau một năm nào là đặt bẫy, nào là đánh thuốc, nào là rình bắn tên có tẩm nọc độc, con cọp vẫn vô sự, lại trở nên ranh mãnh và táo tợn đến độ vào tận ven bản rình mò giữa ban ngày ban mặt. Người ở bản chịu thua, đành lập một cái miếu thờ thần Bạch Hổ, rồi cứ mỗi tháng đến nộp một con lợn nái.

Hà công năm ấy mới hai mươi hai tuổi, tính tình xưa nay vốn lầm lì, đọât nhiên hỏi « thần Bạch Hổ là hổ đực hay hổ cái ? ». Không ai trả lời, Hà công liền vác một túi tên, một cây cung dài hai thước, một thanh mã tấu và hai cuộn dây chão to bằng ba đầu ngón chân cái, lẳng lặng đi theo đám người khiêng lợn đến miếu thờ. Khi ai nấy đã ra về, Hà tự buộc mình vào cái chạc ba khá cao trên một cây cổ thụ mọc ngay cạnh miếu, làm một cái đầu thòng lọng to bằng cái nia, rồi cột vào gốc cây. Xong đâu đấy, Hà trèo lên cây, dở cơm nắm ra ăn, bình tĩnh như chẳng có gì. Hà chờ một đêm, sáng hôm sau con cọp đến lấy mồi như lệ thường, không có vẻ nghi ngại, cũng chẳng buồn gầm gừ khi nghe tiếng con lợn tế thần rú lên những tiếng eng éc não nùng vô vọng.

Ðợi đến lúc cọp vục đầu vào cổ con lợn đã bị xé tanh banh, Hà nấp trên cây ném sợi thòng lọng vào đầu con cọp. Ngạc nhiên, con cọp nhẩy lồng lên gầm. Nút thòng lọng thắt lại khiến cọp nghẹt thở. Nó khôn ngoan nằm phục xuống, mắt lừ lừ, tai nghe ngóng, mũi khụt khịt tìm hơi kẻ thù. Hà dương cung bắn sáu phát tên, phát nào cũng trúng nhưng không vào chỗ nhược. Con cọp lại gầm lên, lết nhanh vào bụi cây, quay cổ lại cắn sợi dây chão.

Hà lắp thêm tên, đợi cách bắn ngay vào chỗ giữa hai mắt cọp rồi bình tĩnh chờ. Nhưng đến quá một khắc vẫn không thấy động tĩnh gì, Hà nới dây, tụt xuống chạc cây dưới thì con cọp bỗng đâu nhẩy ào vào, làm Hà tối tăm mặt mũi rơi xuống đất. Con cọp không buông tha xông lại lấy chân tát Hà. Hà chĩa mũi mã tấu lùi ra sau. Con cọp nhẩy qua bên trái, rồi nhẩy qua bên phải, tránh lưỡi mã tấu. Vờn nhau đến lần thứ tư, bất chợt con cọp nhẩy thẳng vào Hà. Mũi mã tấu đâm xốc lên, nhưng con cọp vẫn còn sức đạp Hà ngã xuống, mồm há ra ngoạm vào chân trái Hà. Hà rút dao găm, tay phải kẹp đầu cọp, tay trái kéo một nhát vào cổ. Con cọp nhất định không chịu nhả mồi. Hà lại kéo ngược lại một nhát dao, rồi đau quá, ngất đi.
Khi tỉnh dậy thì trời đã xẩm tối, Hà cố đẩy đầu con cọp ra, nhưng không còn đủ sức. Hà định gọi, nhưng biết không có ai nghe được, lại thôi. Cơn khát làm rát cả cổ, nhưng ống nước mang theo văng đâu mất. Ống chân trái nát nhè trong mồm cọp làm Hà đau đến độ răng đánh vào nhau nghe lách cách như đánh mõ bản. Mờ sáng hôm sau, Hà lấy dao cắt rơi đầu con cọp, vộc miệng vào uống máu cho đỡ khát. Uống xong, Hà nôn thốc nôn tháo rồi lại ngất đi. Trưa ngày hôm đó, Hà tỉnh dậy, thấy ruồi nhặng đã bu đầy vào chỗ chân trái Hà còn dính trong mồm con cọp. Hà thét lên : « Trời ơi! trời có mắt không? » rồi lại mê đi một lần nữa.

Hà nhìn thấy mình bay bổng về phương Ðông, đậu trên đỉnh Thiên Nhận, chung quanh chập chùng những chỏm núi tròn mầu hồng tía nổi bật giữa cái nền xanh ngắt của giãy Giăng Màn. Hà rút ống đinh-bia, loại sáo ngang của người Thái trắng, kề môi thổi lên một khúc, rồi ồ ồ cất tiếng hát :

Trăm thứ hoa không bằng hoa con gái

Trăm thứ trái không bằng trái bông com

Trăm thứ hương không bằng hương con mái

Lúc ấy, Nguyễn-thị tay dâng lên Hà chiếc cần uống rượu, mắt nhìn vào mắt Hà, bảo: «...hoa đây, hương đây ».
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #6 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:05:01 pm »

Hà uống, thấy cổ mát lịm, từ từ mở mắt ra. Chung quanh Hà lố nhố những người. Ông lang mừng rỡ kêu: « Tỉnh rồi! phúc thật lớn ! ». Hà nhớ lại, hỏi cái chân trái mình nay ra sao. Ông lang lắc đầu. Hà đòi ăn một nồi cơm, và xin một vò rượu. Uống sạch vò rượu, Hà hỏi tìm thanh mã tấu của mình. Hà bật cười khành khạch, châm điếu rít thuốc, rồi thình lình xoay người hét lên một tiếng chặt vào khoảng thịt nhầy nhụa trên chân trái. Hà lại ngất đi một lần nữa. Ba hôm sau, Hà mời Nguyễn-thị rồi kể lại giấc mơ của mình. Nguyễn- thị không nói « ...hoa đây, hương đây » nhưng bảo « ...xin cứ cho người đến hỏi ». Cuối năm đó, họ thành thân. Chú rể chống nạng và đã trở thành tộc trưởng họ Hà cách đấy đúng hai tháng.

Ðặng-thị đánh thức Thiếp vào lúc nắng đã chớm vàng rừng cây trên núi Lạp Ðính. Mây vẫn còn thiêm thiếp ngủ, tóc xòa những sợi tơ huyền óng ả chảy xuôi xuống triền thân mỏng mảnh uốn lượn những thác ghềnh mới được thiên nhiên mô phỏng. Thiếp lẳng lặïng đổ nước vào bình trà Lạc Thủy, rồi gắp những mảnh than hồng chèn quanh bình nước sôi bằng đồng mun do chính Hà công mang tặng ba năm về trước. Khi ấy, Hà và Nguyễn-thị ghé về làng Nguyệt Ao, nằng nặc đòi gặp. Quà ra mắt là ba sấp vải, ba sâu tiền, mười cân trà và chiếc bình đồng mun. Thiếp hỏi :

- Tôi làm được gì mà Hà công lại đãi thế này ?

Hà công khẩn khoản :

- Tôi đến đây xin tiên sinh dạy cho một câu mà thôi. Ngài dạy thế nào tùy ngài. Tôi học được gì, cũng tùy tôi. Còn dăm ba món quà này chỉ là ngoại vật, đáng gì mà ngài phải quan tâm.

Ngừng một lúc, Hà công tiếp :

- Thời buổi loạn lạc này, vua không ra vua, tôi chẳng ra tôi, thánh nhân phải sinh ra để cứu đời, nhưng
sinh ở đâu ?

Thiếp nhìn lên trời, thủng thẳng :

- Thánh nhân sinh từ trong lòng. Mong thánh nhân là rồi có thánh nhân.

Hà công gặng :

- Trên có trời, dưới có đất. Giữa đất và trời có người. Nhưng đâu phải ai ai cũng có cái thiên mệnh làm kẻ
cứu đời. Liệu thánh nhân có sinh ra trong châu Hoan này không?

Thiếp ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời :

- Có, đủ lửa thì rồng sẽ cất cánh bay lên.

- Vùng nào đất nào đủ lửa ?

Thiếp cười :

- Nơi nào đủ người hiền thì nơi đó sẽ đủ lửa.

Nhìn ra dãy Giăng Màn nền xanh lam sừng sững phía sau, những chỏm núi thấp hơn của rặng Thiên Nhận nổi lên như những chiếc quạt bằng lụa mầu hồng tía giống hệt như trong tranh thủy mạc, Thiếp chậm rãi :

- Thế này làm sao lại chẳng có người hiền.

Thiếp đứng lên, ý muốn tiễn khách, xin hoàn tất cả tặng vật. Nằn nì mãi, Thiếp đành nhận chiếc bình đồng mun với hai cân chè búp. Ðưa khách ra cửa, Thiếp còn nhớ cặp mắt tròn to của một con bé lay láy nhìn mình, miệng cười chúm chím.

Lần ấy, Mây mới đâu chín mười tuổi. Con bé vẻ hiền lành thuở xưa sao nay lại leo lên Bùi Phong, người bê bết máu? Ðợi hết một tuần trà, nắng vừa lên đầu ngọn cây thì Mây tỉnh dậy. Mây cầm tay Ðặng-thị để lên ngực mình, rồi cúi đầu, nước mắt chảy ra, không nói năng gì. Một lúc sau, Mây xin lên gặp Thiếp. Nàng quì phục xuống đất, đôi bờ vai nhỏ nhắn run bắn lên như con giun đất bị xéo quằn, kêu thảm thiết:

- Nguyễn công ơi ! Thế thì trời không cao, đất không sâu, chỉ còn có người, người có cứu lấy Mây này bé bỏng không ?

Ðặng-thị đỡ Mây dậy, lấy khăn lau nước mắt cho Mây, tay nhẹ nhàng vuốt những sợi tóc rối bời. Cắn môi ghìm cơn nức nở, Mây kể...

Dưới triền tây núi Giăng Màn là bản Mê Hạ, thuộc mường Luang. Trước khi họ Hà đến Mê Thượng hai trăm năm trước, chỉ có một bản Mê gồm hơn trăm nóc nhà, chuyên sống bằng chăn nuôi và trồng trọt. Nước nguồn đổ về xuôi, xoáy vào đất, đục vào đá từ đời nào làm thành con sông Mê rộng độ ba mươi sải ngang, chẩy từ chân Giăng Màn qua mường Luang cho đến tận mường Rây. Có sông Mê, nước ê hề cho trâu bò, gà, lợn. Nước ê hề cho rẫy Luang quanh năm vàng ngô, xanh lúa. Nhưng chỉ ba năm sau khi đã đuổi được người Táy ở Bản Thượng khỏi chỏm Vềnh, Hà tộc đã sai tráng đinh xếp đá xây đập Cheo Reo chặn nước. Vì thế con sông Mê nay ráo kiệt. Nó cạn trơ lòng, chỉ còn phơi những tảng đá trắng tựa nhau đổ dài ra trên hai mươi dặm, giống hệt như xác một con trăn chết khô để xót lại trên mặt đất khúc xương sống ngoằn ngoèo trắng hếu.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #7 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:05:51 pm »

Người Táy bảo với nhau : « Cái giống người gì mà ác thế, đi cắt mó, chặn nguồn làm trâu chết, lợn chết, khoai chết, lúa chết. Thế này thì người Táy cũng sẽ chết dần thôi ... ». Họ tìm cách phá đập. Hơn mười đời ông Trùm ông Chao, hơn mười lần trai Táy xách mai, xách thuổng, xách dao chằm đến Cheo Reo. Họ bảo nhau : « Phải tìm mó kíu nước, nếu không thì không có giống gì sống được ». Người trên bản Mê Thượng có súng bộc hỏa, lại canh giữ rất ngặt nghèo. Vì thế, cũng lại hơn mười phen họ phải khênh xác trai Táy về Mê Hạ. Duy có được một lần họ đánh bật đám tráng đinh Mê Thượng ra khỏi Cheo Reo. Họ thấy đập nước chia làm hai lớp, làm bằng những hòn đá tảng chồng lên nhau, hòn nọ dựa vào hòn kia, sức người không sao lay chuyển được. Vài bô lão còn sống kể rằng khi đó họ cho người Táy về mường lấy bộc lôi đến phá. Con trai Táy đào đường mương, dựa thế nấp vào, rồi dùng cung tên đẩy lùi những lần tiến công của con trai Kinh, cố giữ Cheo Reo được gần ba ngày ba đêm. Cuối cùng họ buộc được bộc lôi vào những gềnh đá đầu chĩa lên nhọn hoắt. Trai Kinh lúc đó đã tiến sát đến tuyến mương phòng thủ. Ông Phìa , người chỉ huy, hy sinh trai Táy, ra lệnh cho nổ bộc lôi. Bộc lôi nổ to đến rách toang màng nhĩ . Ðám voi rừng hoảng hốt vừa đâm dầu chạy vừa hống lên những tiếng tru chéo. Da thịt tóc tai trai Táy lẫn với sạn đá bay bốc lên trời, rồi rơi xuống làm rừng núi đỏ lè lè như lưỡi một trăm con ma thò ra liếm cây liếm cỏ.

Nhưng đập Cheo Reo vẫn cứ vô sự, nước chỉ rỉ rả chảy xuống, vô tình để mặc con sông Mê vẫn cứ mãi trơ lòng cạn kiệt như trước. Từ đó, người Táy tản ra xa, xuôi về đồng bằng, bỏ ý phá đập, và chỉ lúc ông trời ra cơn hạn hán mới lên đập xin nước vào những tháng giữa hạ, khi nước còn quí hơn cả vàng dát trên vòng cổ con gái Táy. Ðời này sang đời nọ, không biết nghe từ đâu mà họ kháo nhau rằng khi nào tìm được mật kíp của bản Mê Thượng thì người Táy mới biết cách phá đập.

Mật kíp như thế nào, chỉ có ông Chao của bản Mê Thượng, nghĩa là những người tộc trưởng họ Hà từ hai trăm năm nay, mới biết tận mắt. Theo lệ, mật kíp được trao tận tay ông Chao. Ông Chao cất giấu mật kíp ở Hang Sau, một nơi không ai được được phép vào. Chỉ khi nào bản gặp những khó khăn đến độ cả bản đòi thì ông Chao mới được mở mật kíp tìm lời giải. Theo lời truyền tụng, mật kíp do chính Hoàng Mười, một vị trong Bát Tiên , đã trao tận tay cho ông Chao sáng lập ra bản từ lúc tạo thiên lập địa. Chuyện thế gian đâu đó yên bài cho nên tất cả mọi việc từ cổ chí kim đã được tiên liệu trong quyển sách thánh này.

Lần gần nhất phải mở sách là lần cách đây hơn năm mươi năm, hai họ Hà và Lê xích mích vì một câu chuyện không đáng gọi là lớn. Trâu một người họ Hà tên là Hà Chiến dẫm nát mương họ Lê, họ Lê sang bắt đền. Họ Hà cậy thế mạnh không lý đến chuyện trâu dẫm, lại xách mé «... mương nhà nào, nhà nấy cứ giữ ! ». Lê Ân, tộc trưởng họ Lê, là một người nóng tính, lại giỏi nghề võ, đánh câu liêm rất tài tình. Ân giận căm gan, song chỉ cười nhạt, sập cửa bỏ về nhà. Dăm bữa nửa tháng sau, đàn trâu của Hà Chiến lại mon men đến mương họ Lê. Ân ngồi trong nhà quẳng câu liêm ra một lần đánh hai con trâu vỡ toạc đầu, hồng hộc kêu rồi chết. Chiến liền rủ một đám tráng đinh họ Hà đến vây nhà Ân liền hai ngày, bắn tên và định phóng hỏa đốt. Sáu đứa con trai của Ân, hai đứa bị thương nặng. Ân gào lên : « bớ ông Chao, ai phân xử đây ? » rồi phanh ngực, mắt đỏ ngầu, sừng sững xông ra, quát : « Có chết, ta sẽ kiện với diêm vương ! ». Tên bắn như mưa găm vào người Ân trông như nhím xù lông, song Ân vẫn không ngã, mắt trợn ngược lên, miệng ứa máu ra, chết đứng. Khi ông Chao bản là Hà Tuyên đến nơi thì cơ sự đã xảy ra mất rồi. Ðám con họ Lê quì xuống xin mở mật kíp. Cả bản thấy truyện thương tâm, bất bình với Hà Chiến, nên đồng ý.

Ðình bản Mê Thượng xây trên hai sào đất vuông vắn trước cửa Hang Sau, nơi cất giấu mật kíp. Lối vào Hang Sau là một ngách nhỏ, có cắm bảng gỗ đỏ đục hai chữ « Cấm Nhập ». Hà Tuyên vái trời, vái đất, rồi vái tượng Thần Bản, miệng lầm rầm đọc . Lách vào trong hang, sau khoảng một tuần trà, Tuyên ra sân đình cung kính nâng cái hộp bằng ngà trong có một quyển sách gáy da đã sờn. Hơn năm trăm người ngồi im lặng đợi. Tuyên quát : « Ðánh cồng lên » rồi quì xuống. Tiếng cồng dội vào giãy núi Giăng Màn, vọng lại từng hồi, nghe như sấm động. Tuyên mở sách trên án thư, mắt chăm chú. Khi tiếng cồng vọng cuối cùng tắt đi như tìm về âm u xa hút, Tuyên đọc : « Ai là kẻ gây sự bạo hành giết người trong bản thì cả nhà phải bỏ bản mà đi về phía Tây, trái lời phải tội chết ba đời, ai muốn giết cũng được ».

Năm ngoái, ngày Mây tròn mười bẩy, Mây rủ mấy đứa con gái đi tắm suối. Suối nằm ngay dưới đập Cheo Reo, nước xuôi xuống chỉ độ ba trăm thước là kiệt cạn. Buổi trưa nồng, gió ùa về từng cơn nóng rát. Mây lõa thể nằm ngửa ra cho nước ào vào tóc, vào mặt, vào yếm. Con Hường giạng chân, váy sắn đến bẹn, đùi thon chắc nhô lên thụt xuống, vừa cười vừa té nước tung tóe bắn thành những hạt óng ánh kim cương nhẩy múa dưới nắng trưa trong suốt. Con Hằng cởi yếm, tay giả như che phần trên cơ thể nhưng vẫn để cặp vú căng nứt nhô ra như sừng trâu, vắt vẻo ngồi trên một hòn đá trắng nhô lên trên nền toàn sỏi hồng, miệng hát

Chiều chiều em dẫn mẹ qua đèo

Em đi bên nớ

Tình tình ơi, anh theo bên nào ?

Chiều chiều dẫn mẹ đi theo

Tình, tình ơi

Nhớ ai em kiếm cuối đèo dấu chân

Tình, tình ơi

Nhớ ai em những khóc thầm

Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa

Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ

Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai ...

Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #8 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:06:26 pm »

Một tiếng sáo đinh-bia bỗng nhiên vẳng lên từ đâu đó, xa vắng, mênh mang. Mây nhỏm dậy rỏng tai, ngước cặp mắt nâu thăm thẳm tròn trĩnh trên khuôn mặt trái soan rám hồng, môi hơi trề xuống, miệng mở hé như cười, chiếc răng nanh khênh khểnh lộ ra làm tăng cái vẻ nghịch ngợm của một cô gái vừa tuổi dậy thì.

Tiếng sáo véo von lên cao hun hút như chạm vào giải mây trắng, xô nhẹ bầu trời trong vắt rồi vẳng lại như lời tỉ tê kể lể một chuyến đi không đến đích. Tiếng sáo có lúc lại ríu rít như đàn chim bất chợt gập lại một mùa Xuân đã tưởng đánh mất, hót lên sự sống hồn nhiên mạnh mẽ tựa măng tre đục đá trồi lên. Tiếng sáo chợt thổn thức tựa như tiếng khóc tủi thân của đứa trẻ tứ cố vô thân bỗng dưng bắt gặp cảnh một mái nhà yên ấm. Tiếng sáo bỗng não nùng tiếng than của kẻ bất đắc chí ngại ngần soi gương nhìn mái tóc mình đang trắng xóa những đám lau già mỗi lúc một thưa đi. Tiếng sáo lúc sau đứt quãng, tức tưởi một nỗi buồn không an ủi được, rồi nghẹn ngào uất ức tựa như lời trăn trối của đám tử tù trước khi lên đoạn đầu đài. Tiếng sáo trầm sâu xuống kể lể nguồn cơn với ngọn gió vô tình đã từ hàng tỉ năm nay chuyên trở vào hư vô vô số những niềm bất hạnh. Tiếng sáo cuối cùng cuống quít, loanh quanh như con chồn gập bẫy, rồi hốt hoảng như đám nai tơ chạy tên đâm đầu vào bụi gai rạc.

Mây nằm xuống suối lắng nghe, cơ thể doãi ra như sắp tan biến trong không khí, để mặc nước mắt cứ ứa đầy mặt hòa tan vào dòng suối róc rách chảy. Mây ngạc nhiên không hiểu cớ sao mình khóc. Nhưng Mây cứ để mặc nước mắt đầm đìa chảy, mơ hồ cảm nhận như bắt gập lại một cái gì thật thân thương đã chót đánh mất từ lâu lắm, có thể là trước cả khi Mây ra đời, không nhớ được nhưng vẫn cứ lờ mờ lúc ẩn lúc hiện. Những giọt nước mắt ấy, tuy vẫn mặn sót như muối, nhưng làm sao lại khiến lòng Mây cứ lơ lửng giốâng như giải mây trắng đang lênh đênh giữa trời xanh văn vắt.

Sau hôm ấy, trưa nào Mây cũng ra suối thẫn thờ đợi tiếng sáo đã vô tình im bặt. Ba tháng ròng, Mây lẩm nhẩm cầu xin : « Ông Xanh trên cao kia ơi, cho Mây tiếng sáo kia nhé.. . ».

Lần nào Mây ra suối, Trần Trung cũng kín đáo đi theo. Từ dạo Trung bắt gập Mây trần truồng ưỡn ngực hứng con nước đổ từ ghềnh cuối Cheo Reo xuống vũng Cắt đầu nguồn sông Mê, Trung ngày đêm thẫn thờ, không thấy Mây là ăn ngủ không được. Mây bây giờ như người mất hồn, chẳng nói chẳng rằng, chiều chiều ra ngồi trên tảng đá, mắt lạc vào hun hút một khoảng không đầy bấp bênh. Trung hái một bó hoa rừng, lẳng lặng mang đến để cạnh chân Mây. Trung nhẹ nhàng : « Có chuyện gì thế hả Mây ? ». Mây cười buồn buồn, chỉ lắc đầu. Sáng hôm sau, Trung quay về chỗ tảng đá, thấy bó hoa vẫn ở đấy, chỉ héo đi trông tàn tạ thảm hại. Trung biết đã mất một cái gì thiêng liêng như chính cuộc sống của chính mình. Nước mắt dàn dụa chảy như suối tràn mùa nước lên, Trung bưng mặt ngồi cho đến hết đêm, mong gặp hổ báo cho rồi đời.
Cho đến một buổi tiếng sáo lại réo rắt đưa về Cheo Reo. Mây mừng đến run bắn người, mắt lại ướt lại những giọt nước mắt xưa. Mây lần theo gió đi tìm, nín lặng nép vào bụi rạc, mê mẩn đến độ gai đâm nát tay chảy máu mà không biết. Nhìn xuống chân chỏm Vềnh, Mây thấy thanh niên ấy nâng cây đinh-bia ngang miệng, mắt nửa nhắm nửa mở, hồn như lạc vào chốn không núi rừng, không cây cỏ, không cả đất, cả trời. Quấn chiếc rông màu xanh thẫm, thân trần cuồn cuộn những bắp thịt đồng mun, tóc dài hoe đỏ phần phật bay trong gió nồm, chàng có thật hay chỉ là ảo ảnh một cuộc đi về từ cái cõi lờ mờ giữa trần thế ? Chàng ngưng thổi, tay vỗ nhẹ vào chiếc sáo bầu tròn, hát :

Gió thổi bụi na

Khăn đào của ai phơi sàn gió thổi

Gió thổi khăn rơi

Khăn rơi khăn rơi xuống mặt đường

Bạn tình ơi

Người đẹp của ai

Hoa trắng nơi vườn dưa

Hoa đỏ nơi vườn mía

Áo em tô dấu son

Thân em hồng màu rượu

Miệng em chúm chím hoa sen

Tóc em hoa đào chải gió

Tay em níu chĩu cành mai ...

Mây ngày nào cũng ra đợi ở chỏm Vềnh cho đến khi Ðèo Kha linh tính thấy mình là một con thú đang bị rình săn. Một hôm, Mây nấp sau thân cây sim già, mắt ngóng, lòng thấm dần nỗi thất vọng và niềm đau xót lửng lơ, không thấy bóng dáng Kha đâu cả. Về chiều, chim bắt đầu nháo nhác bay, ánh tà dương lịm vào cây cỏ tô đậm cánh rừng vòng theo niềm nhớ đã chớm vô vọng. Chợt vai Mây có bàn tay nào nắm lấy, bóp mạnh như gọng kìm sắt, ghì xuống. Mây thất thần quay lại, mái tóc búi xổ tung ra thành thác đổ trào xuống, mắt hoảng hốt căng tròn như nai mắc bẫy. Bàn tay nới lỏng dần ra, Mây nhắm mắt, miệng hé ra, nhếch cười trong cơn mê, cảm thấy đôi môi ướt át áp vào má mình, mặt mình, rồi tai, rồi cổ, lần lần xuống vú, xuống bụng cho đến lúc nàng bật dậy, kéo vội chiếc rông quấn phần dưới cùng của thân thể không biết đã tụt ra từ lúc nào.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #9 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2011, 07:07:05 pm »

Sau này, Mây nũng nịu bảo với Ðèo Kha rằng cuộc gập chiều ấy là giải dây ông Trời buộc, đố ai cởi cho ra. Những lần hẹn hò nhau , Mây và Kha tìm nơi hoang dã, tránh cho xa dân bản, nhưng điều tiếng đã có chút xôn xao. Mây thỏ thẻ : « ... biết đâu ta về ở với nhau rồi thì Mê Hạ và Mê Thượng sẽ lại là một bản Mê như những ngày xửa ngày xưa ». Ðèo Kha, mồ côi từ bé, về xin phép ông chú đã nuôi mình thành người. Ðèo công ở bản Mê Hạ chần chừ. Cái mối oan nghiệt giữa Mê Thượng và Mê Hạ vẫn sừng sững ở Cheo Reo, chặn nước không cho lòng người thông được với nhau. Ông đoan chắc họ Hà ở Mê Thượng sẽ không bao giờ nhận kết nghĩa thông gia với Mê Hạ. Ðèo Kha giục Mây hỏi ý bố mẹ. Mây cũng sợ, nói liều : « ...hay là Kha bắt em mang đi ». Kha lắc đầu bảo : « nếu làm thế thì chắc chắn đinh Mê Thượng sẽ tìm đánh Mê Hạ » , máu sẽ chảy ra thay cho nước sông Mê đã cạn sạch trong cái lòng sông ráo kiệt. Mây càng sợ, bóp bụng định tâm nói trước với mẹ. Nghe Mây nói xong, Nguyễn-thị chỉ thở dài lắc đầu. Ðợi thêm một tháng, Mây cắn răng, mặt nhợt nhạt, ấp úng thưa với cha. Vừa nói được hai câu, Hà công đập ngay chiếc tách trà đang uống xuống đất, bảo :

- Nó người Táy, đâu phải người mình ...

Thuận tay, ông tát Mây một cái trời giáng, tiếp :

- Mày là con tao thì tao chọn rể¨.

Hà phủi tay chống nạng đứng dậy. Từ đó, ông cấm Mây xuống suối, ra lệnh cho Trần Trung dẫn tráng đinh đi kiểm soát nghiêm mật đập Cheo Reo. Trần Trung lòng vẫn yêu Mây say đắm, sai người mai phục định giết
Ðèo Kha một lần, nhưng Kha thoát được. Về phía Mây, miệng ngậm tăm chẳng nói chẳng rằng, nàng không
ăn không ngủ gần một tháng, thoi thóp nằm chờ chết. Nguyễn-thị quì xuống chân Hà công, xin :

- Nghiệp con nó thế, cấm thì nó chết mất, sau lại báo oán vào mình, xin ông nghĩ lại.

Hà công vào nhìn con gái, lòng hận như chính mình bị tình phụ, ứa nước mắt đi ra, bảo :

- Làm thế nào thì làm, nhưng ta thách cưới một thớt voi, sáu trâu, sáu bò, vàng hai mươi lạng và hai trăm
thước lụa Hà.

Ðược tin, Ðèo Kha thừ người ra, bảo với Mây « ...chẳng phải chỉ bản Mê Hạ, cho cả hết Mường Rây dưới
kia gọp lại cũng chưa chắc đã có đủ bằng ấy đâu ». Mây ôm lấy Ðèo Kha, miệng cắn vào vai đến bật máu. Ðèo Kha ứa nước mắt, lẳng lặng gỡ tay Mây rồi lủi thủi xuốâng dốc về Mê Hạ nói chuyện với chú. Ngay tối hôm ấy, Ðèo công cho mời ông Chao, rồi bàn tính thế nào, cả hai người dẫn Ðèo Kha lên gập ông Phìa chủ quản khắp Mường. Sáu ngày sau, Ðèo công xin đưa trước ba trâu, ba bò, và mười lạng vàng, cho Ðèo Kha lên làm ¨ côn hươu ¨ để thử rể, và hẹn sang năm sau sẽ nộp đủ lễ cưới Mây về Mê Hạ.

Ngày Ðèo Kha lên Mê Thượng là ngày Mây hoàn toàn bình phục. Mây ôm chân bố, hôn tay. Hà công lạnh lùng bảo :

- Ðủ lễ, cưới ngay, rồi mày cút đi đâu thì đi.

Ðèo Kha làm đủ việc phục dịch trong nhà, đêm ngủ ở quản, dưới chân nhà sàn, gần chuồng gia súc. Những đêm mưa rỉ rả, mùi phân trâu, phân lợn lẫn vào mùi rơm rạ ẩm ướt bốc lên thối đến phát ọe. Khi đó, Ðèo Kha đành mò ra chân sàn, quấn mình trong chiếc chăn đơn, thu lu ngồi trong mắt chờ sáng. Ðỉnh Giăng Màn, lúc ẩn lúc hiện, trở thành một người lỡ độ đường đến đánh bạn. Kha hỏi :« ... núi ơi ! Thế nào là tình yêu ? ». Một cánh chim đêm xào xạc đến trả lời : « ... là sự không bao giờ chọn vẹn ! ». Kha quát khẽ : « Ta đâu hỏi mi, ta hỏi núi... ». Nhưng đỉnh núi sừng sững cứ lặng im. « Có phải đó là sự cô đơn đôi lứa ? »,
Kha gặng hỏi. Ðỉnh núi sừng sững vẫn lặng im.

« Hay đó chính là vết cào của định mệnh ? ».

Ðỉnh núi vẫn lặng im. Run lên cầm cập, Kha biết vết cào đang ứa máu, kéo chăn trùm lên đầu, nước mắt trào ra, miệng lẩm bẩm : « ... Mây ơi, sao móng tay Mây dài thế ...».

Ðến lúc hương nồng thoáng chút mùi hăng hăng ùa vào mũi, Kha mới kéo chăn, ngoái nhìn ra sau. Nhẹ như bước chân hoẵng, Mây đã ra đó tự bao giờ, hai bàn tay lùa vào mớ tóc Kha còn vương chút sương muối giá buốt. Mây đưa ngón tay để lên môi ra dấu. Kha nắm lấy tay Mây, lòng bồi hồi, vết cào bỗng chốc lành lặn bằng phép lạ. Mở rộng chiếc chăn để Mây ngồi vào lòng mình, Kha không nói năng, hồn trầm lắng vào hơi ấm người yêu đang sưởi cả núi rừng Mê Thượng. Mềm nhũn trong vòng tay Kha, Mây chợt thấy mình bé bỏng, nhưng nỗi sợ hãi không biết thế nào cứ tan đi chứ không như lúc Mây luồn khỏi chăn rồi rón rén leo thang xuống, chỉ sợ đánh thức cha mẹ mình nằm ở trong góc sàn. Mây cởi khuy áo Kha, luồn bàn tay vào mơn man lồng ngực căng nức phập phồng trái tim đang bốc lửa. Không gian thu hẹp đến độ chỉ còn có hai người, mơ hồ khói sương bốc lên từ mặt đất ẩm ướt trở thành lớp tường thành vây bủa bảo vệ cho chuyện tư riêng. Mắt Kha lóa sáng, mũi chàng chỉ thấy hương nồng thơm mùi con gái dẫu rằng chuồng gia súc vẫn bốc mùi phân, và không biết tự bao giờ tay chàng xoay Mây ngồi áp mặt vào mặt, vào ngực mình. Mây ngây ngất bíu vào vai Kha, mặc để cái phần nhớt nhát của cơ thể mở ra đón nhận Kha, run rẩy, rồi hung bạo, như con lươn gặp cạn vùng vẫy trườn lách lên tìm sự sống.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM