vmt
Cựu chiến binh
Bài viết: 959
|
|
« Trả lời #31 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 03:03:19 pm » |
|
Khiêng thương binh ở nhan biều TẠ QUỲNH PHƯƠNG
Chúng tôi chiến đấu ở Quảng Trị đã được khoảng hơn nửa năm. Đơn vị phải bổ sung quân liên tục, lính mới về nhiều, lại là lính chưa hề qua huấn luyện cho nên phải vừa đánh vừa học, học làm pháo thủ, học làm trinh sát ngay tại chiến trường, anh em lính cũ cùng tôi từ Bắc đi vào phần thì hy sinh, phần bị thương, còn lại cũng không được là mấy người.
Khiêng thương binh là chuyện cơm bữa của lính chúng tôi, nhưng lần này tôi khiêng cùng Điền "quáng". Điền da đen (lính chúng tôi dãi dầu nhiều nên không mấy ai có nước da sang sáng một tý), mắt quáng gà. Lần đầu tiên tôi nghe tiếng nói của Điền là một đêm ở Quảng Bình, tiếng nói của cậu ta cứ the thé tôi cứ tưởng là có con gái ở trong rừng. Mắt Điền lờ đờ, nhỏ ti hí, chiến trường không có kính, nên chỉ thấy mờ mờ. Hôm ấy chúng tôi đang ở làng Tả Hữu, khoảng 10 giờ đêm tôi đang say sưa ngủ thì anh Sửu Đại đội phó đến tận hầm gọi tôi dậy bảo tôi vào Nhan Biều khiêng thương binh. Chúng tôi buộc xong cáng rồi lên đường. Riêng cái tên Điền "quáng" cũng đã biết là một anh chàng mắt kém rồi, nhưng tôi vẫn không hình dung nổi mắt anh ta kém đến như thế. Đã cho đi sau cầm lấy đòn cáng đi theo mà Điền cứ ngã dúi, ngã dụi, thương quá cho đi trước thì không thấy đường đi, tôi phải một tay cầm cáng, một tay dắt đi.
Đêm đã khuya mà chúng nó cũng không để cho yên, bom đạn vẫn bắn thường xuyên. Chúng tôi vừa đi vừa chạy, nhiều lúc phải lao nhanh xuống hai bên bờ, ông Điền nhà ta cũng lao bừa, chả cần biết nơi ấy như thế nào. Thỉnh thoảng lại một cột lửa pháo kích bắn gần, tiếng nổ đanh khét lẹt, những bông lửa cứ rơi lả tả. Lần mò mãi cũng đến nơi, chúng tôi chui vào một căn hầm, dưới ngọn đèn tù mù hiện ra một ông già râu ria quai nón xồm xoàm, đen kịt, ngồi lặng yên như một pho tượng (sau này chúng tôi mới biết đó là anh Hùng, anh còn ít tuổi, nhưng tóc râu để tốt, đèn tối nên hai đứa tưởng là ông già). Một lúc sau thương binh được đưa đến, đó là anh Vân Đại đội phó Đại đội 4. Anh bị thương vào đầu và chân, băng trắng toát, tiếng rên khe khẽ. Chúng tôi vội vã khiêng anh lên đường.
Lúc đầu tôi để cho Điền đi trước, tôi đi sau bởi vì đi sau bao giờ cũng nặng hơn, khó đi hơn. Thương binh nặng, đường đất bom pháo cày nát tươm, người bình thường còn khó đi nữa là bị quáng gà, tôi đi sau cứ phải chỉ đạo liên tục, nhưng khốn nỗi mắt Điền chẳng thấy gì cả, cứ đi bừa chẳng cần biết là đường hay là ruộng, gặp hố bom hố đạn cũng không thèm tránh. Tất nhiên mỗi lần trước khi ngã, anh ta cũng cố gượng không để anh Vân rơi mạnh xuống đất, nếu rơi mạnh thương binh chắc không sống nổi. Tôi đi sau, đến là khổ, mỗi lần Điền loạng choạng là tôi cũng lao đao theo, nghiêng cả người hết ngả ra sau lại chúi về phía trước, võng khiêng nhiều khi suýt rơi xuống đất. Mới đi được một quãng mà tôi đứt cả hơi, chân tay rã rời, biết đường còn xa thương binh lại phải đi gấp, nhưng mệt quá không sao chịu nổi đành phải ngồi nghỉ.
Đêm khuya nhưng bom đạn vẫn bắn ầm ầm, đạn bom cứ nhì nhằng xé nát trời đêm vì địch biết đêm là hoạt động của ta. Nghỉ được một tí thấy anh Vân rên nhiều quá chúng tôi lo lại vội cáng đi. Lần này tôi để cho Điền đi sau, cũng không ổn nốt vì Điền còn ngã nhiều hơn, có lần cả hai thằng không gượng nổi ngã dúi xuống, quăng cả anh Vân xuống đất, anh ấy rít lên đau đớn, hai thằng lại vội vã khiêng anh lên. Đi sau không ổn, đi trước cũng không xong, khó quá, nhưng cũng không biết làm sao hơn vẫn phải lần mò từng bước một, tôi hét khản cả hơi, vừa nhìn phía trước vừa ngoảnh cổ ra sau "chỉ đạo" từng bước chân của Điền, chỉ mong sao nó không ngã. Khổ nhất là lúc bị bom hoặc pháo bắn gần, bom đạn nổ ngay bên cạnh, nhưng không thể nằm ngay xuống được phải để võng từ từ xuống đất rồi mới nằm xuống, cũng có lúc không nằm kịp chúng tôi cứ đi bừa đến đâu thì đến, may sao mảnh nó vẫn tránh mình. Lần khiêng sau lại để cho Điền khiêng trước, rút kinh nghiệm tôi chặt cho Điền một cây gậy, đành chơi "chính sách" thầy bói mù dùng gậy để dò đường và cũng để chống cho đỡ ngã. Nhưng có nhiều lúc gậy cũng văng đâu không thấy, khốn khổ cho tôi phải đặt cáng xuống mò tìm gậy cho hắn, bụng bảo dạ không bao giờ đi khiêng thương binh với ông này nữa. Nhiều khi cũng bực nhưng trời sinh thế trách cũng tội nghiệp nên tôi đành cắn răng chịu.
Đường từ Nhan Biều ra sân bay ái Tử chỉ không đầy ba cây số mà chật vật lắm mãi đến tận gần sáng chúng tôi vẫn đi chưa hết sân bay. Điền mệt phờ râu, mặt chảy xị xuống, chân tay quấn áo bộ đội như lính Tàu ô quấn xà cạp năm nào, máu ra cũng kha khá nên Điền mệt lắm. Nhưng vì anh Vân bị thương nhiều hơn, tôi lại động viên Điền tiếp tục đi. Trời đã mờ mờ sáng, bóng Điền đi trước cứ xiêu xó, dặt dẹo thật tội.
Trầy trật mãi cũng đến được nơi, sau khi sơ cứu lần nữa cho anh Vân, lại chuyển về tuyến trung đoàn vì anh Vân bị thương khá nặng. Anh Ngân y sĩ của đơn vị băng cho Điền, chân tay rách nhằng nhịt, máu chảy rơm rớm. Chúng tôi ra về, mệt bã người, hầu như không còn sức nữa, bụng đói như xát muối, cũng chẳng có gì để ăn. Nhìn mặt mày Điền hốc hác, râu ria mọc ở đâu ra mà nhiều thế, mặt mũi đờ đẫn, quần áo rách tả tơi. Tôi chắc mình trông cũng tội nghiệp, nhưng không bằng Điền. Cũng may mà chuyến khiêng thương binh trót lọt, lòng cũng nhẹ nhõm đi đôi chút. Lúc này trời đã sáng hẳn, mắt Điền đã nhìn thấy, nên không phải chỉ huy, nhưng chân không muốn bước. Không bao giờ quên chuyến khiêng thương binh này!
81 ngày đêm chống chọi với tử thần Bác sĩ LÊ VĂN AN Nguyên đại đội trưởng đại đội quân y Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 320B
Cách đây 30 năm (tháng 4-1972), tại thời điểm lịch sử đó, tôi vừa tốt nghiệp Đại học Quân y khóa 1, được giữ lại làm giáo viên. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, nhà trường đã cử 700 cán bộ, giáo viên, học viên đi phục vụ chiến trường. Đoàn cán bộ, học viên của trường (trong đó có tôi) chia thành nhiều cụm, phục vụ từ phía nam Quân khu 4 trở vào chiến trường B5. Riêng vào cụm B5 có 100 học viên khóa 2 năm cuối khối y, 37 học viên năm cuối dược, 10 bác sĩ khóa 1 vừa ra trường và 14 cán bộ, giáo viên.
Tháng 5 năm 1972, tôi có mặt tại Mặt trận B5 cùng 20 học viên năm thứ 6 khóa 2. Thời gian đầu, tôi phục vụ ở đội điều trị 46 đứng chân ở Động Tiên thuộc cánh Tây của mặt trận. Đến giai đoạn 3 của chiến dịch, tôi được điều động từ cánh Tây về cánh Đông (đồng bằng), bổ sung về đại đội quân y Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B chốt giữ Thành cổ Quảng Trị.
Đội phẫu của Trung đoàn 48 cùng ở chung với Sở chỉ huy nhẹ của lực lượng vũ trang hỗn hợp Trung đoàn 48 và Trung đoàn 95 nằm trong tầng hầm của dinh tỉnh trưởng, cách bờ sông khoảng vài chục mét. Tòa nhà hai tầng đã bị bom đạn phá hỏng tầng trên, công binh ta phá sập tầng dưới che phủ toàn bộ tầng ngầm để biến thành hầm chỉ huy kiên cố. Dưới tầng hầm lại được đào thêm ngách hào và hầm trú ẩn. Đội phẫu được triển khai trong gian hầm rộng mỗi chiều chừng 5 mét, có hai ngách thông ra ngoài, có hào để chuyển thương binh.
Thời gian đầu, đội phẫu còn đủ trang bị (1 bộ trung phẫu, các cơ số thuốc chấn thương, thuốc và bông băng) do đồng chí Phạm Văn Bằng chỉ huy. Phần lớn Đại đội quân y của Trung đoàn 48 ở phía sau, đứng chân tại thôn Lập Thạch nhận thương binh từ trong Thành cổ ra và vận chuyển về tuyến sau. Phương tiện vận chuyển thương binh qua sông chủ yếu dùng xuồng cao su, thuyền máy và cáng. Lực lượng vận tải có nhiệm vụ tiếp tế vũ khí, lương thực cho các đơn vị chốt và đưa thương binh ra. Công việc này chỉ được thực hiện vào ban đêm.
Đêm 16 tháng 7 năm 1972, tổ ba người chúng tôi được lệnh vào Thành. Trên đường đi, các làng mạc đã xác xơ vì bom đạn; không một mái nhà, một gốc cây nào còn nguyên vẹn; cây cối bị bom phá đánh đổ ngổn ngang, cảnh tượng như vừa phải trải qua một cơn bão cực mạnh. Mùa mưa ở Quảng Trị cũng đã bắt đầu. Mưa tầm tã, nước sông Thạch Hãn dâng cao dần, trong khi bom pháo các loại vẫn rải thảm trên toàn tuyến, không lúc nào vắng tiếng máy bay và tiếng đạn rít trên đầu. Đến bờ tả ngạn sông Thạch Hãn, chúng tôi phải chờ xuồng cao su để sang sông. Ngồi dưới hầm trú ẩn nhìn sang phía Thị xã Quảng Trị thấy pháo sáng rực trời, bom pháo nổ liên hồi rền vang, lửa đạn tung lên trời như pháo hoa, tưởng chừng như không còn sinh vật nào có thể sống sót được.
Trước sự ác liệt, căng thẳng đó, y sĩ Tiến đi cùng tôi đã tỏ ra hoang mang, dao động và không muốn vượt sông. Thuyền đến, tôi động viên y sĩ Tiến và ra lệnh phải vượt sông để vào Thành cổ dù có thể bị hy sinh. Tới bờ bên Thị xã, chúng tôi vừa tránh đạn pháo, vừa bò men theo mép hào giao thông chạy vào hầm phẫu. Cảnh tượng ác liệt đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là thương binh nằm, ngồi la liệt lẫn với một vài tử sĩ do chưa được chôn cất. Gặp tôi, đồng chí Bằng mừng khôn xiết, trao đổi về tình hình đội phẫu. Tôi quyết định để đồng chí Bằng về phía sau, vì Bằng là sinh viên đã hết thời gian phục vụ theo quy định của nhà trường. Hơn nữa, từ trong thâm tâm tôi không muốn để anh phải hy sinh, vì chỉ có 2 sinh viên tăng cường cho trung đoàn thì Cao Văn Khoan đã hy sinh tháng trước cùng với 15 thương binh tại cầu Lai Phước khi máy bay địch đánh trúng đội hình của đại đội quân y.
Đêm 14 và ngày 15 tháng 9, chiến sự đã ở đỉnh điểm của sự ác liệt. Ta và địch giành giật từng góc Thành, từng công sự, từng tấc chiến hào. Đêm ngày 15 tháng 9, toàn đơn vị được lệnh rút ra ngoài. Đội phẫu lúc này còn 22 thương binh. 19 giờ, chúng tôi tổ chức cho thương binh chuyển về phía sau với phương châm ai còn đi được thì dùng bao ni lông đựng gạo Trung Quốc làm phao bơi qua sông, những thương binh nặng bám vào phao có chiến sĩ vận tải dìu sang và rút trước. 22 giờ đêm, các đơn vị và bộ phận chỉ huy lần lượt rút. Gần 3 giờ sáng, thương binh cuối cùng bị gãy 2 xương cẳng chân được đặt lên phao, tôi cột vào người, vừa bơi vừa kéo sang sông...
Kết thúc 81 ngày đêm cùng đồng đội chốt giữ Thành cổ Quảng Trị, đội phẫu của tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đến phút cuối cùng của chiến dịch. Tổng hợp của Trung đoàn 48, trạm phẫu đã cứu chữa hàng nghìn thương binh thuộc các đơn vị tham gia chiến đấu trong Thành cổ, trong đó có 213 thương binh nặng, 843 thương binh vừa và có 58 thương binh tử vong tại đội phẫu. Riêng 10 ngày cuối chiến dịch, đã thu dung 310 thương binh, có 55 đồng chí tử vong tại đội phẫu. Tổn thất của quân y cũng khá lớn: 100% số y tá đại đội bị thương hoặc hy sinh (3 y sĩ, 1 sinh viên và 26 y tá quân y trung đoàn).
Tôi hồi tưởng và viết lại một giai đoạn khốc liệt trong chiến tranh mà các chiến sĩ quân y đã đóng góp nhiều xương máu cho chiến thắng vẻ vang của dân tộc; để nhớ lại và biết ơn những đồng đội thân yêu của tôi, những con người quả cảm đã khuất, có hoặc không tên trên bia đá. Hôm nay, nếu ai đó cố tình lãng quên những mốc son quá khứ lịch sử ấy là có lỗi với đồng bào, đồng chí, đồng đội từ mọi miền của Tổ quốc đang yên giấc ngàn thu ở mảnh đất Quảng Trị anh hùng./.
|