Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:41:50 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khúc tráng ca thành cổ Quảng trị  (Đọc 45186 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #20 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2011, 10:17:57 pm »

                               
Vượt sông
TRỊNH HOÀ BÌNH
Cựu chiến binh Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325

Tôi vượt sông Thạch Hãn để vào Thành cổ lúc 5 giờ chiều ngày 31/8/ 1972. Lúc ấy trời đã tối. Mưa đầy trời và những đám mây như bay sạt qua đầu. Phía trước có tiếng đạn pháo nổ vọng lại trong ánh chớp nhì nhằng, báo hiệu cho biết đó là chiến trường. Có tiếng lao xao: "Nhan Biều", "Bến vượt"... rồi có lệnh dừng lại để vượt sông.

Cả đơn vị dừng lại, tôi cố căng mắt nhìn quanh mà không nhận ra khuôn mặt nào quen thuộc. Chúng tôi là lính thuộc Tiểu đoàn 58 Trung đoàn 59 Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô, cùng nhập ngũ tháng 4 năm 1972. Sau ba tháng huấn luyện, đầu tháng 8 chúng tôi lên đường vào chiến trường. Trước đó vài hôm, cả đơn vị vào đến Bãi Hà, nhận thêm quân trang và vũ khí đạn dược. Một ngày sau tôi được chọn cùng một số anh em lên đường đi trước. Cứ nghĩ là mình đi tiền trạm như bao chặng hành quân khác, bây giờ tôi mới biết, mình được chọn để vào trận ngay, chiến trường đang cần người.

Dùng tấm tăng để gói ba lô làm phao, tôi đặt khẩu AK lên trên đúng như những gì được dạy, có lệnh vượt sông. Hai tay bê chiếc ba lô và khẩu súng, tôi đi theo cái bóng trắng phía trước. Cả đoàn quân đang vượt sông. Mưa vẫn rơi, mỗi lúc một nặng hạt. Nước sông khá lạnh và có vẻ chảy xiết. Vượt sông mà nước xiết thế này thì mệt đây... Rồi lại có lệnh truyền từ trên xuống, mỗi tiểu đội lên một chiếc thuyền để vượt sông... Mà không phải thuyền. Đó là một chiếc xuồng cao su vá lỗ chỗ, tôi sờ thấy những miếng vá to gần bằng bàn tay. Từ chỗ tôi ngồi có bốn miếng vá, vậy chiếc xuồng này có khoảng bốn mươi miếng vá như thế ư? Chiếc xuồng này cũ quá rồi, sao người ta không thay đi nhỉ?

Tôi cứ ngồi nghĩ lan man mà chẳng dám hỏi ai. Hai người lính công binh đang ra sức đưa chúng tôi vượt sông. Có một sợi cáp thật to, có lẽ phải bằng cổ tay tôi được căng ngang sông. Tôi nhìn sợi cáp, nó như hút vào đêm tối. Tôi nắm lấy sợi cáp như để ước lượng, cũng muốn giúp hai anh lính công binh. Sợi cáp run bần bật trước sức nặng của con xuồng và dòng nước xiết. Đã ra được nửa sông chưa nhỉ? Tôi có cảm giác da tay mình bật ra và ứa máu. Anh bạn ngồi phía trước tôi bất giác ho khùng khục. Sau tôi mới biết anh chàng này là sinh viên khoa Toán của trường Đại học Sư phạm, quê ở Nam Hà, bị hen nhưng giấu bệnh và tình nguyện nhập ngũ, là lính của Tiểu đoàn 60. Đêm lạnh, mưa lại to đã khiến anh ho lên như thế. Người lính công binh có dáng người thấp đậm cúi sát vào tai người vừa ho, giọng đánh gằn: "Im cái mồm, An Tiêm kia kìa!". An Tiêm... An Tiêm... Một cái tên thật đẹp, sao anh ta lại mang ra gắt với đám chúng tôi.

Mặt trận có vẻ đã gần hơn. Tôi đã nghe rõ tiếng đạn pháo bay vi vu và nhìn thấy ánh đèn dù thấp thoáng trong bóng mây. ở phía bắc và hướng thượng nguồn có những dây chớp sáng xa xa. Đó là chớp của  B.52 rải thảm. Mưa vẫn rơi và mây như bay sạt qua đầu. Mặt trận đây rồi. Đó sẽ là nơi mà tôi và những người lính trên chiếc xuồng này sẽ lao vào với tất cả tinh thần và sức lực của mình. Năm ấy tôi vừa tròn mười bảy tuổi, ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, có một gương mặt nhung nhớ khắc trong tim nhưng chưa phải là tình yêu.

Sau này, còn nhiều con sông nữa tôi đã cùng đồng đội vượt qua, lúc bằng xuồng, lúc bơi lội... Nhưng kỷ niệm về con sông Thạch Hãn ở Thành cổ Quảng Trị, của cái đêm vượt sông lần đầu tiên nếm trải mùi vị của chiến tranh là không thể quên, giống như con sông Hồng quê tôi đã cho tôi kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu; con sông Thạch Hãn khiến cho tôi lớn lên, từng trải, cùng tôi đi qua cuộc chiến tranh. Sau này tôi đã được ngắm con sông vào những ngày thanh bình. Đó là con sông trong xanh, hiền hòa như bao con sông khác trên quê hương tôi, quê hương Việt Nam!
          Trịnh Hòa Bình
Logged
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #21 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 02:23:55 pm »

                             
                                                     Nhật ký
                                                      Của Đào Chí Thành*
                                                      (Trích)
                                                      Cựu chiến binh - Đại đội 14 Trung đoàn 95 thuộc Sư đoàn 325
                                                      Nguyên sinh viên lớp A3 Khoa Toán Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1

Ngày 12-7-1972
 Qua 12 ngày đêm hành quân, hôm nay đã đặt chân trên đất Quảng Trị. 9 giờ sáng ngày 11 tháng 7 chúng tôi đã vượt qua sông Bến Hải, qua thượng nguồn của nó. Một con sông nhỏ nước trong và mát - lội đến bụng chân. Tối 11 tháng 7 qua tiếp Cam Lộ rồi sẽ qua Cù Đinh. Toàn trèo đèo vượt suối mang nhẹ nhất cũng trên 30 kilôgam: chân pháo 19 kilôgam và ba lô. Người sút nhiều và mệt đâm ra hay nóng nảy, cần sửa ngay.
Ngày 15-7-1972
Qua nửa tháng hành quân vô cùng gian khổ: trèo đèo, lội suối, xuyên rừng, vượt đồi, chúng tôi đã tới Quảng Trị... vị trí tập kết để nhận nhiệm vụ chiến đấu. Tại đây là xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong. Hôm qua ngày 14 tháng 7, chặng hành quân cuối cùng thật là gian khổ và vô cùng dũng cảm. Qua một loạt đồi chừng hơn 10 kilômét toàn là những đồi cỏ gianh nham nhở vết cháy hoặc đã trụi đi vì bom đạn Mỹ. Tại những ngọn đồi này, quân ta đã xua tan lũ giặc. Vượt qua quãng đồi trống và những bãi bom bi ngổn ngang súng đạn trong lúc trên đầu tụi OV10 luôn dòm ngó, trinh sát, thật là nguy hiểm. Thỉnh thoảng lại một vài tốp phản lực bay qua oanh tạc những vùng lân cận do OV10 chỉ điểm. Đường dài, trống trải, khó đi, nắng rát cộng với sự khẩn trương hành quân có lúc gần ba giờ đồng hồ không được một phút giải lao đã quần cho khá mệt. Người sút đi hốc hác. Quần áo bẩn bụi đường, chân tay mặt mũi sờ lên toàn là cát và đã hai ngày nay chỉ ăn cơm nắm thiu và lương khô, nước suối. Song do sự cố gắng vượt bậc và được rèn luyện nhiều trong quân đội cuối cùng chúng tôi đã vượt qua tất cả và đặt chân lên vùng tập kết.

Ngày 16-7-1972
ở lại đó một ngày. Đêm đi lấy đạn và gạo. Phải qua sông bằng bè chuối. Mỗi chuyến năm người (kể cả lái). Thật là lâu trong khi pháo sáng và OV10 trên đầu. Bom và đạn pháo nổ xung quanh rung bần bật, toé lửa. Khoảng 12 giờ đêm về đến nhà. Nhận lệnh mới phải cơ động ngay. Thế là lại để ba lô và gạo ở lại. Mỗi người mang theo vũ khí, tăng võng, 1 kilôgam gạo, thuốc, lương khô... lên đường ngay.

Ngày 17-7-1972
1 giờ đêm đang hành quân thì bị lạc, tối quá, đi giữa đồng không bám sát được thế là lạc cả khẩu đội, tìm không thấy đơn vị, theo đường 1 bị tắc vì gãy cầu. Đành quay về, bị mưa. Ngủ đến sáng thì đồng chí Ca về gọi đi. Đơn vị để lại B trưởng và một đồng chí của khẩu đội để đón. Thế là lại khăn gói lên đường. Ngày hôm nay vẫn ở Triệu Giang, cách làng cũ khoảng 2 kilômét, gần đường 1.

Ngày 18-7-1972
Khoảng 2 giờ 20 phút sáng. Đơn vị về lấy đạn. Thế là đã bắt được liên lạc. Thật mừng, quay về làng cũ lấy ba lô và đạn. Sáng qua máy bay Mỹ đã oanh tạc vùng này. Hai quả bom bi nổ ngay đầu nhà và trước cửa nhà mình ở... Khoảng 5 giờ sáng mới bắt đầu hành quân đến vị trí nhận nhiệm vụ của đơn vị. Khoảng 4 kilômét, đường 1, sợ trời sáng phải vận động thật mệt. Đường 1 to và thẳng, hai bên rất trống trải và bằng phẳng. Qua sân bay ái Tử... đến vị trí ở một làng mà dân đã sơ tán được 5 ngày, cách Thị xã theo đường chim bay khoảng 500 mét. Tại đây chúng tôi sẽ bắn vào Thị xã và ái tử, đường sắt.

Ngày 21-7-1972
Không khí vẫn ầm ầm xung quanh đến nhức cả đầu. Chỉ có tắm giặt mà cũng khó khăn. Một bộ quần áo mặc đến bốn lần mới giặt được. Cứ vừa thò ra giếng là đạn pháo đã nổ rầm xung quanh, thật là bực mình…..

 
 
                                 Nhật ký
                                 của Trần Quốc Hưng
                                  (Trích)
                                   Nguyên sinh viên năm thứ  ba Khoa Toán Đại học Sư phạm Hà Nội 2 - Đơn vị Đại đội 2 Trung đoàn 68 thuộc Sư đoàn 304

Ngày 26-5-1972
 Hôm nay bắt đầu hành quân vượt sông ái Tử tiến về Quảng Trị. Đường bộ gặp nhiều may mắn, cứ những chỗ qua rồi chúng mới thả pháo sáng. Khi vượt sông anh em phải cởi quần dài ra lội, tới giữa dòng thì pháo sáng bủa vây. Nước sông trong quá, tôi muốn nhúng chiếc khăn lau mặt mà không được... Song chúng không đánh, chắc là không phát hiện được. Qua sông an toàn. Đêm nay ngủ rừng.

Ngày 10-6-1972
Tới làng Như Lệ thì trời sáng. Chúng tôi xin gạo và nấu cơm ăn. Từ khi vào đây hôm nay mới chính thức được ở với dân và sinh hoạt cùng dân. Họ quả là những người dân tuyến đầu. Không ai ở nhà cả, mọi người chuyển xuống dưới hầm trong lòng đất, những gian hầm rất to. Bom toạ độ và pháo kích ngày đêm thường xuyên đe dọa họ nhưng sao vẫn thấy họ thản nhiên lắm.

 Có một điều đáng chú ý là dân trong này từ già tới trẻ đều rất diện, vận toàn quần áo vinilon. Con gái thì may bó sát lấy thân, mới trông họ thì khó mà cảm tình được, nhưng ai ngờ đó chính là những o du kích và bộ đội địa phương. Nói chuyện với họ thật là vui vẻ.

Ngày 22-6-1972
H. yêu quý của anh! Hôm qua anh được gặp bố trong giấc ngủ H. ạ! Bố đi công tác gì đó mà lại qua trận địa của anh. Có lẽ vì mệt nên giấc mơ nhòa đi không nhớ nữa. Anh chỉ thấy có một điều là bố già hơn là em thường nói với anh. Tóc bố đã lốm đốm hoa râm, trên vầng trán cao của bố đã đính lên một vài khắc của thời gian. Song trông bố vẫn khỏe lắm.

Anh vẫn rất mong thư của em. Anh thường xuyên nhắc tới em. Anh thường kể cho các bạn của anh nghe về giọng hát đầy tình cảm của em. ở giữa chiến trường khô khan đầy bom đạn này cái tiếng hát tưởng tượng của bọn anh sao mà trong mát làm sao. Các bạn anh thường ước có em ở đây để hát vài bài cho nghe.

Tự nhiên anh thấy nhớ cái tiếng hát trầm trầm âm ấm bay ra với tất cả tình cảm chân chất trong tâm hồn em, một cô gái trẻ đã tìm thấy hạnh phúc và cuộc sống.
Yêu em lắm H.ơi! Hôn em.
 Ngày nay vẫn trực chiến. Tin chiến thắng báo về pháo bắn tốt, bộ binh hoan nghênh. Và họ đã vượt sông Mỹ Chánh cùng tăng xông lên cao điểm 52. Bọn địch đang rút chạy toán loạn.

 Ngày 9-8-1972
 Tôi đã có ý định tạm không ghi nhật ký nữa. Bởi vì những điều hàng ngày đang xảy ra quanh tôi không vui chút nào hết. Tôi không muốn ghi vào cuốn sổ này những dòng mà nó hiện thân của những chuỗi thở dài vô tận trong lúc lửa đời tôi rực cháy. Tôi chỉ muốn ca ngợi, chỉ muốn reo vui thôi. Tôi chán ngán những dòng nước mắt lắm rồi, tôi ghê tởm sự đau khổ chua chát đến tột độ. Tôi không muốn nhắc đến những cái gì chua đắng của lòng người. Tôi chỉ muốn chung quanh tôi đều hạnh phúc.

Tôi là một sinh viên trong số hàng nghìn những sinh viên khác phải tạm rời sách bút và sự nghiệp của mình để lên đường chiến đấu. Tôi cũng như trăm nghìn những sinh viên khác đang bước vào thời kỳ đẹp nhất của cuộc đời. Tôi cũng có người yêu. Chúng tôi yêu nhau chân thành và tha thiết. Chúng tôi đã vẽ cho nhau hướng đi tới ngày mai, chúng tôi đã xác định hạnh phúc và chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào hạnh phúc vì hạnh phúc nhất định sẽ thuộc về chúng tôi. Chính vì vậy mà tôi tha thiết sống. Cầu mong cuộc sống đừng sớm phụ bạc với mình. Tôi chỉ muốn cho ngày thống nhất đến nhanh hơn nữa để tôi được trở về trường học tiếp cùng với các bạn tôi hoàn thành sự nghiệp của mình. Và rồi tôi sẽ xây dựng hạnh phúc - sống hạnh phúc. Khi đó có lẽ tôi cũng không đòi hỏi gì cao hơn là chúng tôi được hạnh phúc với nhau trong một căn phòng ấm cúng. Khi đó vợ tôi ngày ngày sẽ tới viện làm việc, còn tôi cũng sẽ làm việc trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, cái mà tôi vẫn ôm ấp từ lâu. Ôi hạnh phúc, cứ nghĩ đến hạnh phúc là tôi lại cảm thấy sung sướng lạ. Một cảm giác khoái lạc say sưa lại xâm chiếm cơ thể tôi.

H. ơi! Em yêu quý của anh! Giờ này em đang làm gì? Em đang học tiết thứ năm hay tan học vì bây giờ đã gần 11 giờ 30 phút rồi. Nghĩ tới em anh thấy nhớ quá H. ạ, nỗi nhớ của anh không biết chứa vào đâu cho hết. Chỉ khi nào bên em anh mới hết nhớ thôi. Anh nhớ em từng phút, từng tích tắc, nhớ em không thể nào tả được. Thương em quá. Em sẽ phải chờ anh đến khi nào nhỉ? Anh tin rằng "Chúa sẽ che chở cho chúng ta". Hạnh phúc nhất định sẽ thuộc về chúng ta. Nhớ anh lắm phải không H.? Bố bảo: "Mọi sự cố gắng đều được bù đắp", chúng mình sẽ lấy câu nói của bố làm lẽ sống phải không H. Đúng, mọi sự cố gắng đều được bù đắp H. ạ! Em hãy cố gắng học và chờ anh. Khi nào về anh sẽ đền bù cho em. Anh sẽ nguyện phục vụ em đến suốt đời mình. Anh mong tin của em quá đi mất. Chưa bao giờ anh thấy mong tin của em như hiện nay. Em có khỏe không? Mẹ có khỏe không? Em đã nghỉ hè về thăm thầy mẹ chưa? Kỳ thi vừa rồi kết quả ra sao?... Anh mong quá!
Nhất định anh sẽ về với em. Về cho hết nhớ, về để đền bù những ngày đã chịu đựng của em. Về để sống hạnh phúc bên em!./.
 
Logged
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #22 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 02:26:19 pm »

                                                      Tiếp :

                                                 Những ngày Quảng Trị
                                                 LÊ XUÂN TƯỜNG
                                                 Nguyên cựu sinh viên - chiến sĩ, Thành cổ Quảng Trị 1972

Sau gần một tháng hành quân khi bằng xe, khi bằng canô và cả đi bộ nữa, chúng tôi dừng chân ở Bãi Hà - trạm giao liên cuối cùng trên đất Bắc. Bãi Hà nằm ở miền Tây Vĩnh Linh, gần thượng nguồn sông Bến Hải. Đây là một khu rừng già của đại ngàn Trường Sơn, những thân cây cổ thụ cao vút với dây leo chằng chịt. Quân ra, quân vào nườm nượp, bộ đội, thanh niên xung phong gặp nhau cười nói râm ran với đủ các chất giọng từ các miền quê khác nhau… Tại đây chúng tôi được bổ sung vũ khí, trang bị, lương thực, thực phẩm. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ khẩu AK của tôi số hiệu IAG 4245 của Liên Xô sản xuất năm 1954. Chúng tôi sẽ được tăng cường cho các đơn vị bộ binh đang chiến đấu tại mặt trận Thị xã Quảng Trị.

Đêm cuối cùng trên đất Bắc, thao thức không làm sao ngủ được. Nhớ lời anh Được hẹn tới ngày trở về sẽ cùng nhau đi lang thang khắp phố phường Hà Nội để bù cho những chuỗi ngày xa cách và thưởng thức những món ăn do mẹ làm. Mẹ anh mất sớm nên anh rất thèm được bàn tay người mẹ chăm sóc. Nhớ tới anh Oanh chăm lo cho mình suốt dọc đường và tất cả những người bạn đã gắn bó với tôi suốt chặng đường hành quân từ Bắc vào. Bãi khách rất đông, tăng võng mắc kín đặc, văng vẳng trong đêm tiếng đài của ai đó đang đưa tin máy bay Mỹ tiếp tục đánh phá Hà Nội.

Sáng ra chúng tôi lên đường, dọc đường từng đoàn thương binh đi ngược lại, không ít thương binh nặng phải cáng bằng võng. Tình hình mặt trận rất căng thẳng, địch đang phản kích dữ dội để chiếm lại Thị xã Quảng Trị, quân ta thương vong nhiều chủ yếu do phi pháo địch.
Chúng tôi vượt sông Bến Hải ở thượng nguồn, hai bên bờ những tán cây rừng xòa xuống mặt nước. Dòng sông như một con suối, nước chỉ ngang đùi. Qua hết sông cô giao liên mới nói: "Đây là sông Bến Hải, từ giờ trở đi các anh đã đặt chân lên đất miền Nam", sững người vì câu nói đó chúng tôi quay ngay lại dòng sông: thằng thì trằm mình, thằng thì vục mặt vào dòng suối mát lạnh đó, có thằng quỳ sụp dưới nước đầu hướng về bờ Bắc vái lấy vái để… mỗi thằng một kiểu. Từ Bắc vào đây qua bao sông, bao suối nhưng chỉ có đây thôi khi nhớ tới bài học thời ấu thơ về dòng sông giới tuyến như vết dao cứa vào lòng đất nước, đã làm chúng tôi xúc động như vậy.

 Qua khỏi sông một quãng tôi thấy thầy Khôi dạy Toán của trường đi ngược lại. Thầy trong tốp về Trung đoàn 95, nhưng dọc đường được gọi ra nhận nhiệm vụ khác. Mong cho thầy không phải vào nơi hòn tên mũi đạn và được ở đơn vị nào phù hợp với tuổi tác và trình độ của thầy.

 Ra đến đường 9, đội hình hành quân giãn cách từ 10 đến 15 mét với cành cây trên đầu. Bầu trời xanh trong vắt bị rạch nát bởi những vệt khói của  B.52 và đủ loại máy bay chiến đấu của địch. Nhưng khó chịu nhất là thằng OV10 như gọng bừa đang vè vè trên đầu, thỉnh thoảng nó lại lao xuống bắn đạn khói đen chỉ điểm, vài phút sau lũ phản lực lao đến cắt bom. Nhưng chúng lại không ngờ rằng hơn trăm người chúng tôi giữa ban ngày đang bám theo đường 9 để về Đông Hà. Đường 9 trải bê tông nhựa rất tốt, những hố bom pháo chi chít trên đường. Dọc hai bên đường là những đồn bốt, những khu quân sự tan hoang. Khu vực này ta giải phóng vào đợt hai chiến dịch cuối tháng 4 năm 1972. Gần một tháng hành quân từ Bắc vào khi thì đi xe, khi thì đi bộ tưởng rằng đi trên đường nhựa sẽ ngon lành hơn đi đường rừng nào ngờ mới có vài cây số mà hai bắp chân đã ê ẩm không buồn nhấc nữa. Cảm giác này khi trên đường Trường Sơn không hề có, phải chăng do nền đường bê tông cứng nên dội vào hai bắp chân làm cho ta không thể chịu được. Cứ lết đôi chân, thằng nào cũng thế, nhiều thằng lăn ra vệ đường mặc cho những bụi gai xấu hổ đâm vào người. Thế rồi quá trưa chúng tôi đến Đông Hà. Thị trấn nằm ở ngã ba đường 1 và đường 9 chỉ còn những đống gạch vụn. Trận  B.52 lúc sớm giội vào đây, nhiều chỗ khói bom còn bốc nghi ngút. Ngay ngã ba có một tháp canh cũ của Pháp còn sót lại, bên vệ đường mấy gốc phượng bị bom phạt xác xơ cụt lủn nhưng lạ thay vẫn còn vài bông phượng đỏ rực như thách thức bom đạn. Thật kỳ lạ vào mùa này ở đây vẫn còn hoa phượng mà lại lớn hơn phượng ở Hà Nội.

  Ngày đầu tiên chúng tôi vượt dòng Thạch Hãn để về trung đoàn là như thế đó. Nơi chúng tôi vượt sông là bến vượt sang thôn Đầu Kênh, xã Triệu Long thuộc huyện Triệu Phong. Đây là nơi Trung đoàn 101 của chúng tôi đứng chân trong suốt mùa hè đỏ lửa năm 1972 tại đông - bắc thị xã và Thành cổ Quảng Trị.

Đã hơn ba mươi năm trôi qua, khi mái tóc trên đầu không còn xanh nữa, nhưng ký ức trong những ngày đầu tiên trên đất Quảng Trị vẫn nguyên trong tôi như mới ngày hôm qua. Điểm lại những khuôn mặt đồng đội cùng tôi ra đi từ Tân Đức ngày ấy và cùng về Trung đoàn 101 thuộc Sư đoàn 325 giờ này thiếu vắng anh Tạo, anh Lâm, anh Long, Tiến, Triệu, Tuấn, Sơn… và nhiều người lắm, không thể nào nhớ hết được. Các anh mãi mãi nằm lại mảnh đất này, thân thể của các anh đã hóa thành sông nước, thành cát trắng, thành gió lào hắt lửa, thành dai dẳng của mùa mưa Quảng Trị.

                                Hà Nội, những ngày tháng 10 - 2005
Logged
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #23 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 02:30:18 pm »

                                             
                                                     Người lính già của trung đoàn
 
                                                      LÊ XUÂN TƯỜNG
                                                      Cựu chiến binh Đại đội 3 Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 101 thuộc Sư đoàn 325 Quân đoàn 2.

Ông là một người lính già - như ông vẫn nói với chúng tôi - là một vị chỉ huy quả cảm của Trung đoàn 101 trong những thời khắc ác liệt nhất của cuộc chiến tranh giải phóng Tổ quốc.

Ba mươi tư năm về trước, tại khu vực Chợ Sải, An Tiêm, Nại Cửu… phía đông bắc thị xã Quảng Trị dưới sự chỉ huy của ông, những gã lính trẻ chúng tôi xuất thân từ mọi tầng lớp và từ mọi miền quê khác nhau đã gồng mình trước mưa bom, bão đạn của B.52, của đủ loại pháo bầy, pháo dàn từ hạm đội 7 Mỹ trong suốt Mùa hè đỏ lửa 1972. Lớp này ngã xuống, lớp khác xông lên giành đi giật lại từng mảnh đất thiêng liêng của Thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Cũng những ngày này cuối tháng 1 năm 1973 ấy, tại cao điểm 12 phía nam Cửa Việt, khi xe tăng địch cùng Lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến của chúng đã thọc sâu vào khu vực Chỉ huy sở Trung đoàn, ông đã cùng các chiến sĩ, vệ binh, thông tin của mình và các cán bộ chiến sĩ, cơ quan trung đoàn bộ với tiểu liên AK và lựu đạn trong tay xông lên cản phá quân thù, quyết tâm giữ vững Cửa Việt dù phải hy sinh đến người cuối cùng, quyết không để cho địch chiếm được cảng. Mùa Xuân năm 1975, với cương vị Tham mưu phó sư đoàn, ông đã dẫn dắt chúng tôi ngược lên Trường Sơn đánh xuống tây Thừa Thiên cắt ngang đường số 1 tại Phú Lộc để tiến vào Huế, cắm lên Phú Văn Lâu ngọn cờ giải phóng của Trung đoàn 101 - đứa con của mảnh đất cố đô - lúc 13 giờ ngày 25 tháng 3 năm 1975.
 Vượt đèo Hải Vân, ông cùng chúng tôi tiến đánh bán đảo Sơn Trà, giải phóng Đà Nẵng; băng qua duyên hải miền Trung, công phá phòng tuyến Phan Rang - Tháp Chàm, sân bay Thành Sơn. Trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975 không thể nào quên ấy, dưới sự chỉ huy của ông chúng tôi đã giành giật với địch từng căn nhà, góc phố tại Nước Trong - Long Thành để mở đường cho pháo tầm xa của ta vào Nhơn Trạch, đánh chiếm bến phà Cát Lái, tiến vào giải phóng Sài Gòn.

Với chiến sĩ, ông là một con người bình dị, rất nhân từ nhưng không kém phần nghiêm khắc. Cánh lính sinh viên Hà Nội chúng tôi vẫn thường mắc căn bệnh cao ngạo, ngang ngạnh, không phục và hay châm chọc những cán bộ chỉ huy có trình độ văn hoá thấp hơn mình nhưng lại mắc bệnh nói dai và hay áp đặt. Chúng tôi đã truyền tụng nhau câu chuyện ông đã gặp một số lính sinh viên và mắng thậm tệ những tật xấu đó. Nhưng ông cũng đã từng nói với những cán bộ cấp dưới: "Trong chiến công của trung đoàn năm 1972 thì lính sinh viên đóng góp một phần không nhỏ, chỉ huy họ không thể giống như những người lính khác...".

Tôi cũng là một người lính sinh viên. Tôi ra trận với cặp kính cận ba
đi-ốp. Trong trận Chợ Sải ngày 16 tháng 9 năm 1972, Đại đội 3 của tôi bị bao vây, tôi bị thương khi phá vây và lết về tới chốt của Đại đội 6. Tại đây, lính Đại đội 6 cho rằng tôi là thám báo ngụy vì "chỉ có lính địch ra trận mới đeo kính", may mà đại đội trưởng của tôi bị thương nằm ở đó nhận ra. Sau khi ra viện trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu, cho tới một hôm, đại đội trưởng gọi tôi lên đưa cho một đôi pin "con thỏ" và nói rằng: "Từ tháng này trở đi tiêu chuẩn nhu yếu phẩm của đồng chí được thêm một đôi pin đèn, đây là lệnh của Trung đoàn trưởng".

Cầm đôi pin trong tay, tâm trạng tôi lúc ấy rất khó tả, thời đó chỉ có cán bộ trung đội trở lên mới có tiêu chuẩn pin đèn, mà tôi chỉ là một anh lính quèn mới được phong từ binh nhì lên binh nhất. Khoảng cách giữa người lính với vị chỉ huy trung đoàn xa lắm, thế mà ông biết đến một người lính trong số hàng nghìn lính của ông mắt bị cận đã phải vất vả như thế nào trong đêm tối, nhất là những đêm mưa dai dẳng của mùa mưa Quảng Trị để cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Cái ơn đó theo tôi suốt cuộc đời cùng với ký ức của chiến tranh khốc liệt với những kỷ niệm không thể nào quên về những người đồng đội thân yêu.
 Mới đầu năm ngoái thôi, sau lễ mừng ông thượng thọ 80 tuổi, ông còn gửi thư và quà cho mấy thằng lính Đại đội 3 chúng tôi vì bận việc không về với ông được: "... cho người lính già hỏi thăm và có chút quà tới con cháu những người lính trẻ...".

Và tháng 5 vừa qua trong dịp công tác qua Hải Phòng, tôi tới thăm ông sau hơn ba mươi năm. Đây là lần đầu tiên tôi trực tiếp hầu chuyện ông, tôi kể lại câu chuyện đôi pin năm nào, ông không còn nhớ nữa. Với ông bây giờ là sự quan tâm lính của mình hoàn cảnh gia đình ra sao, kinh tế thế nào, đã được mấy cháu gọi bằng ông… Ông vui khi biết có những thằng lính của mình giờ đã trưởng thành, ông buồn vì quân của ông còn quá nhiều thằng vất vả. Nhắc đến những trận đánh ác liệt với bao người lính của mình ngã xuống, mắt ông rưng rưng ngấn lệ. Suốt hơn hai tiếng đồng hồ, ông đã bốn lần nhắc lại câu hỏi: "… Ngày ấy chúng mày chết nhiều quá, có oán bố không?".

Dường như câu hỏi đó day dứt trong lòng ông như một món nợ của cả một thế hệ đã chiến đấu và hy sinh vì sự tồn vong của dân tộc. Và cũng chỉ có ở những người chỉ huy như, ông nghĩ tới những người lính của mình với tấm lòng phụ tử mới có thể thốt lên những nỗi đau như vậy. Tuy về nghỉ, nhưng ông vẫn tập hợp tất cả những người lính cũ của trung đoàn ở mọi vùng quê khác nhau từ Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội, ra đến Quảng Ninh… để động viên giúp đỡ nhau vượt qua những khó khăn của ngày hôm nay cũng như ngày xưa ông dẫn dắt chúng tôi xông lên tiêu diệt quân thù.

Đầu tháng 9, trong lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Trung đoàn 101 Cao Vân (5-9-1945 - 5-9-2005), thiếu vắng ông, lòng chúng tôi se lại khi biết ông không còn khoẻ nữa…Thế mà ông đã rời xa chúng tôi. Trên đường ra Hải Phòng để tiễn biệt ông, xem lại bức ký họa Lê Duy ứng vẽ ông trong căn hầm chỉ huy tại cao điểm 12 cuối tháng 1 năm 1973, ông đang chỉ huy tác chiến qua điện thoại. Lần này, ông ra đi thực sự để trở lại những nơi ngày xưa ấy, nơi những người đồng đội, những người lính của ông đang chờ đợi mà với tấm lòng nhân hậu của mình ông vẫn thường nhắc đến họ từ trong vô thức sâu thẳm của cõi lòng của một người lính già.

Cho tôi được dâng lên ông bài viết nhỏ này như một nén nhang để tưởng nhớ tới một người lính già, một người chỉ huy quả cảm, một người cha già nhân hậu của trung đoàn. Ông là Đại tá Bùi Đức Ngoan, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 101 Sư đoàn 325 trong những năm 1972-1973 tại mặt trận cánh đông Quảng Trị.

                                            Nhớ lại trận đánh tại nhà thờ Tri Bưu
                                               BÙI DUY DÂN
                                               Nguyên lính Đại đội 10 Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 thuộc Sư đoàn 320B
Như một quy luật, đời người có nhiều kỷ niệm, nhưng kỷ niệm dễ nhớ, khó quên nhất vẫn là những kỷ niệm của những năm tháng cam go, một sống hai chết, hòn tên mũi đạn, xanh cỏ đỏ ngực, đi không trở về... kỷ niệm về một thời quân ngũ, khi tuổi xuân còn ngẩn ngơ, chập chững bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Đang là học sinh ngồi trên ghế nhà trường, nghe theo tiếng gọi của hồn thiêng sông núi, tôi hồn nhiên, tình nguyện vào lính như bao người bạn cùng trang lứa. Vào lính, vào chiến trường Quảng Trị, 81 ngày đêm đỏ lửa tại Thành cổ, tôi tham gia không trọn vẹn vì bị thương sớm (18-7-1972) nhưng kỉ niệm về một trận đánh vẫn còn tươi nguyên trong đầu óc tôi suốt 35 năm qua - trận đánh vào nhà thờ Tri Bưu, một hang ổ đầy gian nan, khó tiếp cận, đổ máu, hy sinh nhiều nhất phía sau bờ sông Thạch Hãn.

Từ Đông Hà, xe Viettel hành quân qua các làng bản, qua cầu Quảng Trị, qua Thạch Hãn, đưa chúng tôi về Thành cổ Quảng Trị. Cái đích Thành cổ bây giờ sao lại thênh thang, thuận lợi đến thế. Ngồi trên xe chúng tôi muốn xe đi chậm lại để suy ngẫm, nghe lại bước chân hành quân, hình dung lại những trận rượt đuổi thù năm xưa. Song cái gì đến sẽ đến, Thành cổ hiện ra trước mắt chúng tôi, bỏ lại sau lưng biết bao kỷ niệm mà chúng tôi chưa kịp mường tượng hết. Xuống xe, tôi và các cựu chiến binh Đại đội 10, những anh Bằng, Điệp, Luỹ, Hùng, Đức v.v... toả ra chạy vội đến nhà thờ Tri Bưu để tận mắt nhìn lại nơi diễn ra cuộc chiến ác liệt xưa.

Đoàn Cựu chiến binh Phủ Lý - Hà Nam đến Tri Bưu, mỗi người một tâm trạng khác nhau, buồn nhất là anh Hùng, người đã có người em ruột hy sinh tại đó (vẫn chưa tìm thấy mộ), anh thắp nén nhang, khóc nức nở, cầu xin hương hồn em trai anh trong niềm tuyệt vọng. Riêng tôi, trước đây Tri Bưu là một hình ảnh lờ mờ, vì thời đó năm 1972 ban ngày thì trú ẩn, ban đêm mới xông trận, cây cối trơ trụi, gạch đá ngổn ngang, cả Thành cổ ta địch lẫn lộn, làm sao nhớ nổi? Nay có dịp vào ban ngày cộng với những ký ức xưa dội về đã cho tôi một bức tranh toàn cảnh về Tri Bưu.

Tri Bưu hôm nay đẹp đẽ, hiền hoà, biểu tượng của sự pha trộn giữa đạo và đời. Quanh Tri Bưu xóm làng đông đúc, phủ kín cây xanh, đường đi lối về đàng hoàng hơn. Đến đó, tôi vội chạy phía sau một nhà dân tìm lại con đường nhựa nhỏ năm xưa, đường đó nay vẫn còn, đường không tên nhưng chính nó là một chướng ngại vật rất trống trải buộc chúng tôi phải vượt qua để tiếp cận nhà thờ. Nhà thờ Tri Bưu tháng 7 năm 1972 tồn tại như một thách thức giữa ta và địch. Trong nhà thờ có ngụy, có dân; diệt ngụy là diệt cả dân, diệt cả thì nhanh lắm nhưng ta là quân đội nhân dân, chiến đấu vì dân, chẳng nhẽ lại làm như vậy sao? Bằng nhiều cách tiếp cận, cách dùng loa kêu gọi nhiều lần, để giãn dân, ít đổ xương máu địch vẫn không nghe, chúng ngoan cố tử thủ đến cùng. Đã nhiều lần các đơn vị nhận nhiệm vụ đánh vào nhà thờ đều vấp phải sự kháng cự quyết liệt của kẻ thù. Ta - địch tổn thất thương vong khá nhiều. Mỗi lần đánh như thế, khi rút quân ra ta lại gom còn ai lại vào trận, bất biết người lính đó ở đơn vị nào. Sự chiến đấu, hy sinh tình nguyện là nguồn mạch để củng cố tinh thần tướng sĩ. Có lúc, có khi chúng tôi chẳng biết thủ trưởng mình là ai, vì họ đã hy sinh, bị thương cả rồi.

Tối 18 tháng 7 năm 1972, lệnh từ trên xuống, yêu cầu Tiểu đoàn 9 xung trận. Màn đêm buông xuống, tôi và đồng đội vào trận như bao trận đánh trước, các mũi, hướng đã bố trí sẵn sàng. Chúng tôi những người lính được lệnh của cấp trên bảo đi là đi, bảo đánh là đánh, cả đại đội dồn vào có lẽ được hơn một trung đội. Tôi đi theo mũi do Tiểu đoàn phó Kiều Ngọc Luân dẫn đầu. Sau một hồi tiếp cận gian nan, vất vả, địch chống cự mạnh mẽ. Trên trời pháo sáng, máy bay lượn vè vè, dưới đất thì đạn, cối, pháo tầm xa bắn như mưa. Mũi chúng tôi vấp phải ổ trung liên từ phía cửa sổ tầng hai nhà thờ bắn ra rát mặt, không sao tiến lên được.

Tạm trú ở một hố bom sâu nhỏ, chờ lệnh cấp trên, chờ đợi giữa cái sống và cái chết trong gang tấc, nghĩ lại thật là khủng khiếp! Tối đó, tôi được phân bắn B40 (chiến trường hồi đó mà cầm hoả lực thì cái chết chắc trong tay), mục tiêu là nhắm vào cửa sổ tầng hai nơi ổ trung liên. Tôi khom người, tìm mục tiêu bóp cò, đạn B40 bay đi để lại phía sau một vệt sáng và khói mù. Bắn xong tôi lao xuống hào, lập tức vài quả cối cá nhân từ hướng nào bắn tới nổ quanh tôi. Rất may, tôi vẫn an toàn nhưng bỗng tôi thấy nhói ở thái dương, sờ vào thấy máu chảy đầm đìa. Vết thương nhỏ thôi nhưng phải chỗ hiểm nên máu ra nhiều... Tôi được ai đó băng bó trắng toát cả đầu và đưa ra phía sau. Nhưng sau phát B40, tiếng súng trung liên của địch im bặt (sau tôi được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba tại trận này). Tôi được chuyển vào hầm nhà tỉnh trưởng, đêm đó ta thương vong nhiều, ngổn ngang thương binh trong hầm, mỗi người một vẻ. Tối sau, tôi được thuyền chuyển qua sông Thạch Hãn ra Vĩnh Linh điều trị, sau vài tháng chữa chạy vết thương và an dưỡng, tôi lại trở lại chiến trường tham dự trận đánh Cửa Việt trước giờ ngừng bắn ngày 27 tháng 1 năm 1973.

Tản mạn nhớ chuyện ngày xưa, chuyện người lính còn nhiều lắm, mực nào viết hết, giấy nào in xuể. Với tư cách một cựu chiến binh, một lần nữa xin cám ơn Ban liên lạc Trung đoàn 64 thuộc Sư đoàn 320B đã cho tôi một cơ hội để giãi bày tâm sự người lính hồi kết của cuộc chiến tranh ái quốc
vĩ đại.
                   Hà Nội tháng 7 năm 2007
 
Logged
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #24 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 02:32:42 pm »

                             
                                                        Một trang sử hào hùng
                                                        Đại tá NGUYỄN HẢI NHƯ
                                                        Nguyên Tham mưu trưởng Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 320B

Đầu tháng 5 năm 1972, Đông Hà - ái Tử, Thị xã Quảng Trị được giải phóng, địch phải lui về cố thủ tỉnh Thừa Thiên - Huế. Không cam chịu thất bại, chúng mở cuộc phản công hòng "tái chiếm" Quảng Trị cho tới khu giới tuyến với mục đích đầu tiên là thị xã tỉnh lỵ. ở đây đã diễn ra các trận đánh vô cùng ác liệt ngay từ những ngày đầu, cho đến khi Hiệp định Pa-ri được ký kết vào cuối tháng 1 năm 1973. Ta đã đánh lui nhiều đợt tấn công của địch từ La Vang, ngã ba Long Hưng, Quy Thiện, Tri Bưu và trục đường 1, với ý chí kiên cường và lòng dũng cảm, đã bám trụ và giữ vững trận địa suốt 81 ngày đêm.

Xin kể lại một số trận chiến đấu đáng nhớ cũng như cảm xúc của bản thân về 81 ngày đêm đó. Địch âm mưu đánh chiếm Thị xã Quảng Trị để cắm cờ trên Thành cổ vào ngày 10 tháng 7, gặp phải sức chiến đấu ngoan cường và đầy mưu trí của ta, chúng không thực hiện được.

Đến ngày 12, địch chiếm được nhà thờ Tri Bưu ở phía bắc, cách Thành cổ khoảng 1 kilômét. Nếu địch chiếm được chỗ đó thì chỉ còn cách ta có 500-600 mét. Khi nắm được thời cơ này, Tư lệnh quân đoàn 1 quân đội Việt Nam Cộng hòa Ngô Quang Trưởng hạ lệnh cho quân dù bằng mọi giá phải cắm được cờ lên Thành cổ ngay trong đêm đó vì sáng hôm sau, ngày 13 tháng 7 diễn ra phiên họp của Hội nghị Pa-ri. Tối, chúng tôi nhận được điện của Tư lệnh chiến dịch hạ lệnh đêm nay không được để tên địch nào lọt được vào Thành cổ. Tiếp theo là điện của Quân ủy Trung ương hạ lệnh chỉ thị cho Trung đoàn 48, Tiểu đoàn địa phương 3 Quảng Trị là lực lượng trực tiếp giữ Thành, phía sau có Trung đoàn 95 của Sư đoàn 325 đóng ở bờ sông phía bên kia từ Nhan Biều đến ái Tử, sẵn sàng vượt sông sang để chi viện cho Trung đoàn 48.

Sáng ngày 14, địch cho một lực lượng biệt kích vào cắm cờ ở phía đông Thành cổ, quãng 3-4 giờ sáng, chủ yếu để chụp ảnh, bị Đại đội 14 hỏa lực của Trung đoàn 48 phát hiện, địch phải bỏ cờ lại đấy. Tôi nhớ hôm đó phóng viên ảnh Đoàn Công Tính vào, tôi còn điện xuống hỏi cờ địch còn không để chụp ảnh, nhưng không thấy, có thể đã rơi xuống hào nước xung quanh.

Địch tiếp tục củng cố lực lượng quân dù, chết bao nhiêu lại bổ sung đầy đủ ngay. Mỗi sư đoàn như thế bổ sung 500 tên. Qua ngày 18, địch vẫn không đạt được mục đích. Chúng mở cuộc tấn công quyết liệt nhất từ ngày 23 đến ngày 26, cố gắng đánh hủy diệt Thành để vào. Trong khi đó quân ta cố gắng giữ vững vị trí, đào công sự, nhanh chóng củng cố, làm thất bại kế hoạch của địch.

Không chiếm được Thành cổ, nhằm mục đích tuyên truyền, địch tổ chức cắm cờ giả ở đình làng Trầm Lý, phía đông bắc, cách thị xã 3 kilômét. Tối ngày 25, đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố quân mũ nồi đỏ đã vào Thành cổ, chuẩn bị sáng mai làm lễ chào cờ. Sáng hôm sau, địch đốt hỏa mù lên, cho quân leo qua tường giả làm tường Thành. Địch dự định tổ chức họp báo có cả cố vấn Mỹ và phóng viên phương Tây đến quay phim chụp ảnh. Nhưng ta đã phát hiện, nên khi địch đưa bộ binh vào diễn thì pháo của ta bắn cấp tập vào đội hình của địch và cuộc cắm cờ giả không thành. Sau đó địch thay quân dù bằng thủy quân lục chiến ở khu vực này.

Ngày 3 tháng 8 khi mưa vừa tạnh, địch bắt đầu tấn công và cuộc tấn công kéo dài cho đến ngày 10, song chúng gặp phải sự kháng cự kiên cường của quân ta, tinh thần của bộ đội mình còn, trận địa còn. Thủy quân lục chiến địch biết không thể tiếp tục lối đánh ồ ạt được, chuyển sang chiến thuật mới là dũi dần từng bước, đánh chiếm từng công sự một. Chiếm xong chúng mang dây thép gai và công sự lắp sẵn phía sau lên trận địa. Cho đến hết tháng 8 hai bên giằng co nhau, địch chiếm, ta phản kích. Địch đánh ban ngày, ta chuyển mọi hoạt động vào ban đêm, tập kích giành lại. Lúc này Thị xã và Thành cổ hầu như bị phá hủy hoàn toàn.

Trong tháng 9, sau một thời gian quyết tâm lấn dũi, địch quyết định tăng cường hỏa lực, thêm các liên đoàn biệt động xe tăng và dù, lợi dụng mùa mưa bão, tập trung đánh vòng ngoài hỗ trợ đánh dứt điểm các vị trí trong Thị xã. Tình hình diễn biến trong tháng 9 nổi lên một địa bàn quan trọng, phía đông có khu trại Mỹ đóng quân ngày trước, tường dày hàng thước; khu vực Tri Bưu… Có chỗ địch chỉ cách cổng Thành chừng 400-500 mét. Có hướng xa hơn như Cầu Sắt, nhưng ở hướng làng Thạch Hãn đi lên cửa nam chỉ còn cách 500-600 mét. Hai bên áp nhau, các trận đánh trở nên vô cùng ác liệt. Đặc biệt vài ngày một lần, ta dùng thuyền máy chạy dọc sông Thạch Hãn tiếp tế đạn dược, lương thực từ Tả Kiên qua Chợ Sải vào Thành cổ, để khi ra chở thương binh.

Diễn biến những ngày còn lại: địch tiếp tục dũi và ta chống cự. Nhưng ta thực sự khó khăn, các phương tiện chi viện rất hạn chế. Vận chuyển đường thủy bị tắc. Quân số trong Thành chỉ khoảng trên dưới một nghìn mà hỏa lực lại mỏng. Trong tình hình khó khăn đó, ta đã đánh trận ngày 9 tháng 9 tương đối có kết quả. Sau đó ta tổ chức tập kích lại trên các hướng. Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương được bổ sung quân và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 48) sau khi ra nghỉ ngơi, đã trở lại vào cuối thượng tuần tháng 9. Tuy quân số trong Thị xã không nhiều lắm nhưng vẫn đánh tiếp dưới trời mưa lớn.

Ta dự định đưa Trung đoàn 18 của Sư đoàn 325 sang để phản kích nhưng không kịp. Tối 15, địch đã vào cả ba góc Thành, trừ góc tây bắc còn Tiểu đoàn 2 của ta. Tiểu đoàn này quân còn khá, có đại đội còn 7 đến 8 người, có đại đội độ 20 người. Sở chỉ huy họp với nhau và thấy rằng chỉ còn chờ vào khả năng bên ngoài bổ sung để phản kích, lại thêm nan giải là thương binh bị ùn lại, không có cách gì chuyển qua sông. Trung đoàn 18 thì chưa vào tiếp viện được, lực lượng tại chỗ hầu như mất sức chiến đấu nên quyết định rút khỏi Thị xã và Thành cổ theo thứ tự thương binh đi đầu, ở xa đi trước, ở gần đi sau, cuối cùng là lực lượng vệ binh. Tôi ở lại cùng rút ra với bộ phận cuối cùng này.
Trong 81 ngày đêm ở khu vực này, quân ta hy sinh nhiều. Khi vào Quảng Trị hôm giao lưu, tôi có gặp người nhà của một liệt sĩ, có lên ti vi nhờ đi tìm thi hài. Tôi có hỏi là báo tử ngày nào, nếu là ngày 23 tháng 7, thuộc Trung đoàn 101 thì lúc đó đang đánh ở An Tiêm, Nại Cửu, vì vậy nên tìm nghĩa trang xã đó; chứ không phải cứ nói đến Quảng Trị là chỉ có Thành cổ.

Trong trận chiến hậu phương là nguồn động viên rất lớn như thư từ, điện báo… Ngay như tôi, khi đó bà xã mới đẻ, đặc biệt may mắn biết sau đó ba ngày. Lúc đó điện báo là con gái, nhưng sau khi ký Hiệp định Pa-ri, đoàn nhà văn có Xuân Quỳnh, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Phạm Hổ có qua nhà tôi mang ảnh và thư vào thăm chiến trường, lấy tài liệu, tôi mới biết là con trai.
 
                                                           Nhớ Lại những ngày cuối bảo vệ Thành cổ
                                                             Đại tá NGUYỄN VIỆT
 
Trung tuần tháng 8 năm 1972, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 quyết định giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 325 chỉ huy lực lượng bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Lúc này, Sở chỉ huy cơ bản của Sư đoàn đóng ở khu vực Cao Hy - phía tây Đông Hà độ 15 kilômét trên một bãi bom  B.52 địch đã đánh nát.

Tôi được mời lên gặp anh Lê Kích - Sư đoàn trưởng và được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy lực lượng của Sư đoàn phòng thủ Thành cổ Quảng Trị. Anh động viên tôi và nói rõ: "Nhiệm vụ rất khó khăn. Sư đoàn tin tưởng nên trao trách nhiệm nặng nề cho anh. Vào trong đó, cần chấn chỉnh lực lượng phòng thủ, cương quyết giữ vững trận địa, tạo điều kiện cho các sư đoàn bạn phản công từ hướng tây - nam và hướng đông".

Tôi cùng cậu Hùng công vụ và một liên lạc viên khẩn trương lên đường. Chúng tôi đi bộ giữa ban ngày, dựa theo vệt đường xe cơ giới qua dãy đồi lúp xúp, động Quai Vạc, Tân Vĩnh chi chít hố bom B.52, khét lẹt mùi thuốc nổ, cây cỏ bị đốt cháy nham nhở, xám xịt. Đây đó những xác xe tăng địch, xe vận tải của ta nằm rải rác, đen thui. Chúng tôi rẽ vào Sở chỉ huy Trung đoàn 95 ở ven sông Vĩnh Phước nắm tình hình mới nhất. Tôi gặp đồng chí Trung đoàn trưởng. Nhưng nói chung tình hình do anh cung cấp đều không cụ thể bằng những tài liệu mà Sư đoàn đã có.
Trên đường đi qua căn cứ ái Tử, một bên là sân bay lát ghi sắt máy bay phản lực lên xuống được, một bên là căn cứ đồ sộ của sư đoàn Mỹ cũ, sau là của sư đoàn ngụy, ngổn ngang cơ man nào là công sự bao cát, nhà cửa, chòi canh, cột điện. Không biết bao nhiêu của cải đã đổ vào đây. Những lô cốt xi măng, gỗ đất chi chít cả một vùng. Những cột điện dã chiến bằng gỗ thông sơn hắc ín đường kính từ 20 đến 30 centimét thẳng vút cao đến 20 mét, những chòi canh kiên cố sắt thép đen sì khống chế toàn khu vực. Đây đó dăm ba chiếc xe tăng M41 đổ chổng kềnh. Hàng chục xe tải GMC cháy nham nhở, lốp bẹp gí. Cả một vùng chết chóc, ảm đạm. Lác đác những cây cỏ mới chồi lá xanh, biểu thị sức sống mãnh liệt của vùng đất đỏ ba dan nhiệt đới.

Đến Nhan Biều, chúng tôi vào làng, cây cối đổ ngổn ngang, nhà cửa tốc mái ngả nghiêng. Lẻ tẻ còn một ít dân trụ bám trong hầm kèo chữ A làm bằng đủ thứ gỗ, sắt, tôn loại tốt, kể cả ghi đường băng sân bay. Đến hậu cứ cung cấp của Sư đoàn và Trung đoàn 95 sau hai ngày hành quân từ Sở chỉ huy Sư đoàn cơ bản, chúng tôi vào nghỉ ngơi, ăn vội vã bữa cơm chiều bằng gạo sấy với ruốc mặn Trung Quốc. Vừa lúc đó, đồng chí Chính ủy Trung đoàn 48 cũng mới từ Tả Kiên đến, anh em trò chuyện, trao đổi tình hình chiến đấu và bảo đảm hậu cần của các lực lượng bên Thành. Anh nêu những khó khăn cụ thể và đề nghị ở bên này để lo việc cho bên kia. Bên Thành đã có Chính ủy Trung đoàn 95.
 Sở chỉ huy Thành cổ ở ngay sát mép sông, dưới một căn hầm rượu của dinh tỉnh trưởng Quảng Trị đã bị bom đạn làm đổ nát, gạch đá gỗ sắt đổ ngổn ngang bao phủ cả khu hầm dày tới 4-5 mét, bom ném bên cạnh cũng chẳng hề gì, trừ trường hợp bom khoan đúng lỗ, nên nói chung là khá an toàn.

Tổng số quân trong Thành khoảng 1.300 người, tinh thần cán bộ chiến sĩ đều tích cực dũng cảm, ngày chốt giữ, đêm đi tập kích. Ngày 20 tháng 8 trước sức tiến công của địch, các chốt của ta vẫn được giữ vững.

Sáng hôm sau, tôi tranh thủ đi trinh sát địa hình Thị xã. Đứng ở đài quan sát gần Sở chỉ huy, nhìn bao quát toàn Thành, thấy Thị xã gần như bị san bằng, chỉ thấy nhà cửa cây cối đổ ngổn ngang, còn trơ lại một ít mái bằng hoặc mảng tường cao hình thù đủ loại, trơ ra cốt thép cong queo tua tủa. Khu Thành cổ tường cao độ ba đến bốn mét, xám xịt màu rêu phong, đây đó đã bị sập đổ từng đoạn. Đến gần, chung quanh có hào nước sâu, nhiều quãng đã cạn nước. Ta tổ chức từng chốt đại đội dọc bờ Thành, đã cải tạo tường Thành thành công sự chiến đấu và trú ẩn, chủ yếu bằng gỗ đất, có bao cát phủ dày tới một vài mét khá vững chắc.

 Tất cả cảnh vật ấy từ bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây đều đổ nát hoang tàn chết chóc. Khói bom đạn mù trời không ngớt. Ta và địch đang đứng trước một cuộc đọ sức quyết liệt mà phần ưu thế binh hỏa lực thuộc về chúng.

Anh em rất bỡ ngỡ với chiến trường, với súng đạn, nhưng với tinh thần hăng hái của tuổi trẻ (độ 17-18 tuổi) lại được cán bộ dìu dắt, hướng dẫn tập luyện ngay tại chốt: tập tháo lắp súng, bắn súng, ném lựu đạn, vận động bí mật qua gạch đá, tôn ván… nên cũng quen dần và đã thực sự chiến đấu được ngay. Tôi động viên anh em và nói vui: "Lớp trẻ các cậu thật anh hùng. Nếu mình có quyền thì gắn ngay tại trận địa huân chương cho bất kể chiến sĩ nào đã cởi quần áo bơi qua sông và vào được đến đây. Nhưng mình lại không có quyền đó. Biết làm sao bây giờ. Thôi hãy tranh thủ từng giờ để tập luyện đi. Kẻ thù đang ở trước mặt ta đó, cách đây có vài trăm mét thôi". Một vài anh em trẻ măng góp vui: "Chúng em sẽ quyết tập và quyết giữ. Nhưng thủ trưởng nhớ Huân chương Vượt sông vào Thành cổ nhé...".

 Trong 81 ngày đêm chiến đấu, chúng ta đã bổ sung trung bình một ngày một đại đội tân binh cho Thị xã. Nhiều thanh niên tân binh chưa kịp huấn luyện đã cấp tốc hành quân từ miền Bắc, hăng hái đến thẳng sông Thạch Hãn, cởi quần áo bơi vượt sông sang Thị xã dưới làn phi pháo, hai bên bờ sông luôn chớp lên ánh lửa và vang lên tiếng nổ bom đạn quân thù.

Tìm lại Sở chỉ huy Thành cổ trước đây dưới hầm dinh tỉnh trưởng, thì nay chỉ là một bãi phẳng lì, cỏ mọc xanh rì. Không còn lại một vết tích gì, dù là một góc tường, một bậc thềm, một ngách hào về nơi chỉ huy đầy bão tố cách đây 15 năm ngắn ngủi. Tôi thầm nghĩ giá có cột bia ghi giản dị vài hàng chữ: "Nơi đây, năm 1945 ta đã nổi dậy giành chính quyền, và năm 1972 ta đã bám trụ chỉ huy 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ" thì hay quá.

Hỏi thăm anh Nam cán bộ xã đội gan lì, anh Mến, anh Vữ chỉ huy tiểu đoàn bộ đội địa phương xông xáo, o Kim, o Lan đen giòn, xinh xắn với đôi mắt lúng liếng, bộ ngực căng đầy sức sống, hai o du kích Nhan Biều dẫn đường chúng tôi đi ái Tử - Xuân An - Tả Kiên… thì cũng chẳng biết hỏi ai, ai biết mà thăm.

                               Tháng 5 năm 1987
Logged
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #25 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 02:37:43 pm »

                         Đánh bại cuộc hành quân "Sóng thần 9"
                          Thiếu tướng NGUYỄN ĐỨC HUY
                           Nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 18 thuộc Sư đoàn 325

 
Đầu tháng 10, tôi được điều về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 18, đồng chí Phạm Công Nhân về làm Chính uỷ. Trung đoàn lúc này đủ ba tiểu đoàn 7, tiểu đoàn 8, tiểu đoàn 9, quân số được bổ sung đạt khoảng sáu mươi phần trăm, hoả lực cũng được tăng cường tương đối mạnh, ngoài hoả lực bản thân còn được tăng cường một đại đội cối 120 ly, một đại đội cối 160, một đại đội hoả tiễn 14 (có 3 dàn), 1 tiểu đoàn ĐKB (Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 84), một đại đội xe tăng 6 chiếc, khi xảy ra tác chiến còn được pháo binh của Sư đoàn và Mặt trận chi viện trực tiếp.

Đêm hôm đó trời mưa rét, rất tối, 4 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1972, tôi kiểm tra tình hình các đơn vị, Tiểu đoàn 8 báo cáo không có gì xảy ra, nhưng chỉ sau khoảng 30 phút, đồng chí Chung -  Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 báo cáo gấp là đã có khoảng 2 đại đội địch bí mật vượt sông sang chiếm bãi cát Nhan Biều 1, trước chính diện của Đại đội 5 và Đại đội 7. Đây là điều rất bất ngờ, tôi lệnh cho kiểm tra lại thì được biết địch bí mật vượt sông khoảng 1 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1972. Trung đội đồng chí Thiều Chí Đinh phát hiện, nhưng chỉ cho là bọn thám báo, nên cử một tổ ra đánh và không báo cáo với Tiểu đoàn. Địch đã đưa được 2 đại đội và cơ quan chỉ huy tiểu đoàn 6 Thuỷ quân lục chiến qua sông, chiếm toàn bộ bãi cát trước mặt thôn Nhan Biều 1 dài khoảng 300 mét, có nơi chúng vào sâu chỉ cách đường số 1 độ 500 đến 600 mét, mở đầu cuộc hành quân "Sóng thần 9".

Mờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1972, hàng trăm quả pháo địch từ các trận địa trong Thị xã Quảng Trị, La Vang, Hải Lăng bắn vào trận địa phòng ngự của hai Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 9; hàng chục máy bay phản lực đánh bom vào thôn Nhan Biều 1 và ái Tử, cao điểm 20, cao điểm 21, sân bay ái Tử;  B.52 cũng rải thảm hai đợt vào trận địa phía sau của Trung đoàn.

Được chi viện hoả lực mạnh của pháo binh và không quân, khoảng hơn 7 giờ, địch tổ chức tấn công thành hai hướng, một hướng tập trung đánh chiếm chốt lô cốt do trung đội đồng chí Đinh phụ trách, một hướng chừng một đại đội chia làm 2 mũi đánh vào Đại đội 5.

Quân ta dựa vào các công sự đã chuẩn bị, để địch vào thật gần tới 20-30 mét mới nổ súng, nhiều tên địch đã bị diệt ngay từ loạt đạn đầu, nhưng chúng vẫn tiếp tục xông lên, cuộc chiến đấu diễn ra rất quyết liệt, đặc biệt là khu vực lô cốt địch cố chiếm bằng được, vì nếu chiếm được nơi đây sẽ là bàn đạp tấn công vào đường số 1 và đảm bảo cho lực lượng vượt sông sang tiếp được thuận lợi. Quân ta chiến đấu rất ngoan cường, súng cối 60 ly, 82 ly bắn trực tiếp vào đội hình địch trên bãi cát, nhiều tên địch chưa kịp ngóc đầu đã bị diệt; cối 160 ly, hoả tiễn BM14 đánh trúng đội hình tập kết bờ đông sông, nên địch không thể vượt sông sang tiếp ứng được. Sau chừng 30 phút tấn công, địch bị thiệt hại nặng phải lui lại phía bãi cát và mép sông để củng cố, đồng thời pháo binh địch kể cả pháo hạm Mỹ bắn mãnh liệt vào trận địa của ta.

Gần 9 giờ, địch tổ chức một đợt tấn công tiếp nhưng bị quân ta bẻ gãy. Khoảng 10 giờ, tôi xuống thôn Nhan Biều gặp đồng chí Trần Minh Thiệt1 - Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 8 nắm tình hình và giao nhiệm vụ tổ chức phản kích diệt toàn bộ quân địch đã vượt sông. Dự kiến 12 giờ sẽ thực hành phản kích, nhưng do tổ chức không kịp nên mãi đến 14 giờ 15 phút mới thực hiện phản kích được. Để tăng thêm lực lượng cho Tiểu đoàn 8 phản kích, Trung đoàn đã điều một trung đội của Tiểu đoàn 7 tăng cường cho Tiểu đoàn 8.

Ta chủ trương đêm 2 tháng 11 năm 1972 sẽ dùng đặc công phối hợp với bộ binh để diệt nốt quân địch co cụm, nhưng do hiệp đồng không chặt nên không tập kích được.
Sáng 3 mùng tháng 11 năm 1972, ta sử dụng cối 82 ly, cối 60 ly chi viện cho lực lượng của Đại đội 5 và Đại đội 7 thực hành phản kích nốt quân địch co cụm.
Sau hai ngày chiến đấu, ta đã diệt gọn hai đại đội và cơ quan chỉ huy tiểu đoàn 6 Thuỷ quân lục chiến ngụy (diệt khoảng 350 tên, trong đó có tên Nghĩa thiếu tá - tiểu đoàn trưởng, bắt sống 1 tên) thu rất nhiều vũ khí, trang bị, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội địch nữa ở bên kia sông Thạch Hãn.

Ta nhanh chóng bẻ gãy hoàn toàn cuộc hành quân "Sóng thần 9" của địch. Sau chiến thắng, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 đánh giá: "Đây là trận chiến đấu phòng ngự xuất sắc nhất, mở ra kinh nghiệm đánh tiêu diệt gọn bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng trong phòng ngự"1.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khen và đánh giá:
"Trận chiến đấu phòng ngự của Trung đoàn 18 thắng lợi đã góp phần đánh bại ý chí của địch phản công lấy lại vùng đã mất sau ngày 30 tháng 3 năm 1972 tại bắc Quảng Trị".
         (Nhân dịp 35 năm chiến thắng Nhan Biều Quảng Trị Ngày 2-11-1972 - 20-11-2007)
 
                                             Về lại Quảng Trị
                                             TÙNG NGUYÊN

Cuối hè năm 1971, có nhiều đợt tuyển quân khẩn cấp. Sinh viên các trường đại học và học sinh hết cấp III lũ lượt lên đường. Cuối năm 1971, nhiều sư đoàn ngoài Bắc lần lượt chuyển dần vào miền Trung. Quảng Trị là điểm nóng nhất của chiến tranh lúc này, khi mọi diễn biến ở Hội nghị Pa-ri đều phụ thuộc vào chiến trường. Tết năm 1972, Sư đoàn 325 của tôi vừa chuyển từ huấn luyện quân tăng cường thành sư đoàn chiến đấu, cũng vào Hà Tĩnh thay cho các sư đoàn khác vào sâu hơn.

 Mùa hè năm 1972, tôi tròn hai mươi tuổi và theo đơn vị vào chiến dịch Quảng Trị. Sư đoàn tôi tham gia bảo vệ Thị xã và Thành cổ từ giữa tháng 7 năm 1972, vào giai đoạn quyết liệt nhất của chiến dịch. Tiểu đội trinh sát của tôi có nhiệm vụ theo dõi các trận đánh tại Thị xã và vùng ven với hai đài quan sát ở làng Nhan Biều và đầu cầu Thạch Hãn, đi điều tra hoặc lấy tin ở các nơi cấp trên cần. Từ làng Nhan Biều trông qua bên kia sông Thạch Hãn là Thị xã và Thành cổ. Nhan Biều là điểm bộ đội tập kết trước khi vượt sông sang bổ sung cho các đơn vị bảo vệ Thị xã, là nơi thương binh từ Thành đưa về để chuyển ra tuyến sau, là nơi tiếp đạn và lương thực… và cũng là một túi bom và đạn pháo.
 Đêm 13 tháng 9, hai gã trinh sát chúng tôi được lệnh ngụy trang tìm cách qua sông đến Sở chỉ huy trong Thành cổ nhận nhiệm vụ. Lên được bờ, chui xuống hai tầng hầm sâu, chúng tôi gặp được Ban chỉ huy Trung đoàn bảo vệ Thị xã và được giao nhiệm vụ trinh sát phía trước. Dưới hai tầng hầm sâu là những căn hầm nhỏ. Xung quanh tôi la liệt thương binh chưa được qua bên kia sông. Vòng vây thu hẹp dần, đêm 14 tháng 9 không ai qua sông được. Đêm 15 tháng 9 chúng tôi cùng rút ra với quân trong Thành.

Một ngày cuối tháng 11 này của ba mươi năm sau, trên đường đi tham gia trại huấn luyện công nghệ thông tin ITBC3, tôi được về đây rưng rưng nhớ lại những ngày xưa, nhớ đến các anh, nghĩ đến tất cả những người đã ngã xuống nơi đây, những người đã hóa thân thành sông nước, thành cát trắng, thành nắng rát, thành dai dẳng mùa mưa Trị Thiên.

Vẫn lất phất mưa như ngày nào. Vẫn lặng lẽ sông Thạch Hãn ra biển như ngày nào. Chỉ cây cối đã xanh lên. Chỉ nhà mới đã mọc lên. Và ngỡ ngàng giọng Quảng Trị của mấy em nhỏ với nụ cười trên môi xưa tôi chưa từng nghe từng thấy bao giờ. Thương biết bao những người đã ngã xuống. Mong biết bao những người đang sống đều biết đến, chia sẻ và xây đắp cho Quảng Trị, cho mỗi mảnh đất đã từng chịu nhiều máu lửa trên quê hương mình.
                            Tháng 12 năm 2002
 
Logged
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #26 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 02:39:41 pm »

 
                                                Những ngày ở Thượng Phước
                                                 TẠ QUỲNH PHƯƠNG

Thượng Phước một cao điểm nhỏ bên bờ sông Thạch Hãn, dạo ấy địch điên cuồng dồn hết lực lượng đẩy quân ta sang bên này sông, hòng chiếm hết hữu ngạn lấy sông Thạch Hãn làm phòng tuyến thay cho sông Bến Hải và gây sức ép với ta tại Hội nghị Pa-ri, vì vậy giao tranh ở đây ác liệt lắm. Đơn vị tôi được lệnh đặt một đài quan sát ở Thượng Phước.

 Chúng tôi gồm anh Vương Tùng - đại đội trưởng, anh Khanh - trung đội trưởng, Phong, Cường1, Cẩn và tôi. Chúng tôi phần lớn là sinh viên nhập ngũ. Trong số chúng tôi chỉ có anh Tùng là người nhiều tuổi nhất nhưng chưa vợ con gì nên vẫn sống vô tư lắm. Anh có khuôn mặt chữ điền, da đen lấp lánh, tóc xoăn tít như dân châu Phi, chỉ có nụ cười tươi, chúng tôi thường nói đùa anh mà đi quảng cáo kem đánh răng "Hi Nốt"2 chắc là đắt khách. Khanh "râu" thì nổi bật với bộ râu quai nón, da đỏ như gà chọi, sinh viên Tổng hợp Văn với những câu chuyện tiếu lâm ở một vùng quê Thanh Hoá nghèo túng và nhiều hủ tục. Anh kể chuyện rất dí dỏm, có nhiều chuyện không hay lắm, nhưng với tài kể chuyện cộng với những điệu bộ hòa theo, chúng tôi cười đến vỡ bụng, vui đáo để. Những đêm âm u trong hầm tối anh lại kể chuyện, bao giờ cũng bắt đầu bằng bộ râu quai nón rung rung, cặp mắt cứ hay háy, nhiều đoạn biết là anh bịa, nhưng hay và rất hợp lý nên chúng tôi say sưa ngồi nghe. Nghe chuyện cho đỡ nhớ nhà, đỡ buồn.

 Cao điểm này chi chít hố bom, đạn, cày đi xới lại không sót một tý màu xanh cho có gọi là, cây cối đổ ngổn ngang, thỉnh thoảng còn vài ba thân cây đen sì sì trơ trụi, nhằng nhịt vết bom đạn, đất đá thì đã nát tươm rồi mà bom đạn vẫn thi nhau xáo đi, xáo lại, trộn kỹ thế. Được cái màng nhĩ lỗ tai nghe nhiều tiếng nổ dày ra nhiều nên cũng đỡ điếc tai và cũng phải mặc kệ, chúng mày cứ bom, cứ đạn, việc chúng mày chúng mày làm, việc ông ông làm chứ chờ ngớt bom ngớt đạn thì họa chăng phải đợi đến hoà bình. Khi nào bom đạn nổ sát gần lại lăn vào một hố đạn, hoặc hố bom để tránh xong lại tiếp tục làm. Chúng tôi chọn địa điểm rồi làm hầm, cũng không phải đào cứ chọn hố bom cũ xong chặt một thân cây làm nóc rải cọc sắt, rải tôn rồi lấp đất lại.

 Phía bên kia sông là Tích Tường, Như Lệ, hình như là hai cái tên làng gì đó nhưng bây giờ thì chẳng còn một dấu tích nào của làng mạc nữa, chỉ còn màu đỏ của đất đồi nham nhở. Đồi Chè là một cao điểm thâm thấp sát sông, cái tên đồi Chè gợi nhớ một màu xanh mướt mát nay chỉ còn lại cái tên, còn chè gốc cũng chẳng có. Ở phía bên này sông nhìn sang thấy địch nhỏ xíu bằng cái đầu đũa, nhiều lúc chúng trồi lên khỏi mặt hầm. Nhất là những hôm mưa, chúng tôi gọi về trung đoàn xin dùng pháo giã cho chúng một trận, nhưng vì đạn dược ít, đành chịu ngồi nhìn; khi nào chúng tấn công đạn ta mới được nện. Phía bên này sông ĐKZ, SKZ, 12,7 ly cối ta nện sang, đạn A12, H12 cứ reo vu vu ở trên đầu như nghe nhạc. Tuy vậy để tiết kiệm đạn, khi chúng rụt lại ta phải dừng để dành cho hôm sau. Bên chúng bom đạn còn hơn ta nhiều, cứ gọi là xả ra, ta bắn một, chúng chơi mười, hai mươi, chúng chơi suốt ngày đêm, nhất là cối 81 ly, cối cá nhân nổ như ngô rang, nổ như pháo băng nổ, cứ cạch đùng liên hồi, khói bụi mù mịt. Địch với ta tranh nhau từng tấc đất một, giao tranh ác liệt, đánh nhau cứ ùng oàng cả ngày, địch chiếm được một đoạn ta đánh bật chiếm lại, thế giằng co nhau. Bên địch có thằng Lâm khét tiếng cả Quảng Trị là lì, hắn lớn lên trong một cô nhi viện không cha không mẹ nên chẳng sợ chết, quân ta vật nhau với nó cũng khá vất vả.

  B.52 chúng đánh thường xuyên, mà đánh về đêm nên khát nước vô cùng, bom nổ trên diện rộng, cũng không biết do không khí bị đốt cháy khô hết hay là trong bom có cái chất gì gì mà bom đánh xong khát nước lắm, khát khô cả họng. Nước để trên miệng hầm bom hắt đổ hết. Nhiều đêm khát quá, không tài nào chịu nổi, một, hai giờ sáng rồi tôi phải lọ mọ đi bộ đến 3, 4 cây số để lấy nước. Một mình một súng AK báng gập, trèo qua hố bom này lại đến hố bom khác. Trời thì tối thui, đèn đóm không dám thắp, bom mới đánh đất đá ngổn ngang, cây cối trơ trụi khó mà định hướng được, tìm cho đến nơi cũng không phải là dễ. Mò mẫm mãi cuối cùng cũng đến chỗ gặp nước sướng quá cúi đầu xuống uống lấy uống để. Chà, nước sao ngon thế, từ thời cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa được uống nước ngon như thế này bao giờ đâu. Mang nước về, tưởng đang ngủ cả, ai ngờ mọi người ngồi thức chờ nước, chẳng ai ngủ được vì khát, sáu người lại quây quần "liên hoan" nước, ngon hơn một bữa đại tiệc hay một bữa cơm thịnh soạn. Nước chảy đến đâu thấy sự sống hồi sinh đến đấy, mát và đã quá.
 Bom đạn chán rồi, sang tiết mục chất hoá học, thường thường hôm nào gió nam là lại chơi pháo hoá học vì hôm ấy gió sẽ thổi chất độc về phía quân ta. Pháo nổ từng hồi, nghe cứ "bục, bục" và một màn khói trắng bao trùm. Mặt nạ phòng độc sáu người chỉ được hai cái, cứ phải thay nhau, những người còn lại lấy khăn mặt Trung Quốc gấp đôi lại dấp nước có cho "ê te" đắp vào mặt. Mặt rát như bị bỏng và rất khó thở khi nào chịu không nổi, xin đổi ca. Chúng chơi cái món "hoá học" này đến cả tiếng đồng hồ, ruột gan ngấm chất độc đau quặn như ai đào bới bên trong, nhiều lúc có cảm giác như rữa hết cả ra rồi. Sau đấy bụng trướng phình lên to như trống "lâm thôn", mặt mũi và người đỏ rực như bị "lở sơn" rát vô kể. Cả ngày cứ vác cái bụng chẳng cơm chẳng nước gì được cả, đau và bức bối vô cùng, chỉ muốn rạch bụng ra cho nó nhẹ bớt đi chứ chịu không nổi. Được cái anh nào cũng khệ nệ nom như sếp cỡ bự cả. Ngồi chẳng yên, tức bụng, nằm thì ruột gan nó cứ xào xáo, đành phải trăn trở hoài lúc ngồi lúc nằm, khi thì nửa nằm, nửa ngồi.

 Thời gian thấm thoắt trôi đi, chúng tôi bây giờ nhiều người đã thành ông cả rồi, cũng có lần tôi về Quảng Trị nhưng vì đi công tác vội vã chỉ ghé qua Đông Hà và một vài nơi, chưa đến được nơi này, không biết Thượng Phước bây giờ ra sao, đồi chè bây giờ đã mướt mát chưa. Tích Tường, Như Lệ đã trù phú chưa. Nhớ quá!

                                    Hà Nội những ngày tháng 10 năm 2005
 
                                                       Chuyện cũ nhớ lại
                                                        LÊ VIỆT

Nguyên chiến sĩ Đại đội 4 Tiểu đoàn 12 Trung đoàn 58 Sư đoàn 308
 Khi cầm bút viết những dòng này thì cuộc chiến khốc liệt ở Quảng Trị đã lùi xa được 34 năm, trong quãng thời gian đó cứ mỗi khi nhớ đến hai tiếng Quảng Trị hoặc có dịp gặp lại các đồng đội cũ thì bao nhiêu ký ức kỷ niệm về cuộc chiến ấy lại hiện về.

Đơn vị chúng tôi là tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly thuộc Trung đoàn 58 Sư đoàn 308. Chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ một tiểu đoàn lựu pháo 122 ly mà tiểu đoàn này lại có nhiệm vụ chi viện cho bộ binh trong các trận đánh hiệp đồng binh chủng. Trận địa lựu pháo ở đâu thì trận địa cao xạ cũng nằm gần đó để đánh trả máy bay địch. Đêm 30 tháng 3 năm 1972, tiếng súng mở màn chiến dịch Quảng Trị bắt đầu thì ngày 1 tháng 4 năm 1972, đơn vị tôi được lệnh hành quân từ Bãi Hà vào Quảng Trị. Chiến dịch mới mở nên khí thế rất nhộn nhịp. Chúng tôi cũng gặp những xe tải lớn gọi là "đại xa" chở những hòm đạn lớn cho các trận địa lựu pháo và pháo nòng dài. Thế rồi chúng tôi cũng bắt gặp cả những xe kéo lựu pháo, pháo nòng dài và hết sức ngạc nhiên khi lần đầu tiên thấy những tốp nhỏ xe tăng, mỗi tốp 5 đến 6 chiếc, tháp pháo quay ngược cắm đầy lá ngụy trang, thành xe có buộc mấy chú lợn được nhốt trong rọ để làm thực phẩm sau này. Tiếng gầm của những chiếc xe tăng vang vọng cả một vùng rừng núi càng làm cho đường ra trận trở nên náo nhiệt, nhộn nhịp khác thường.

Chúng tôi phải dừng lại để chờ khá lâu vì chỉ có một chỗ duy nhất vượt sông cho những phương tiện cơ giới. Cả đoàn xe gồm xe pháo, xe tăng, xe lội nước đều chờ để đến lượt, lúc đó mặt trận mới mở, đường vận chuyển chưa bị địch phát hiện nên không gian hoàn toàn im ắng, không một tiếng máy bay địch.

 Sang tới bên kia sông Bến Hải, chúng tôi bắt đầu nhận thấy nhiều điều lạ khác hẳn bờ Bắc. Phía tây Quảng Trị, phần giáp với rừng già là những gò đồi thấp mọc toàn cỏ tranh xen lẫn những bụi cây nhỏ hoặc cây lúp xúp. Tới khoảng 10 giờ đêm, sau một ngày hành quân, các khẩu đội đều giấu xe pháo vào các bụi cây nhỏ ven đường mới mở và đào hầm để ngủ qua đêm. Lệnh của trên là từ lúc này trở đi không được ngủ trên mặt đất để tránh thương vong, nhưng suốt đêm đó chúng tôi không sao ngủ được vì thỉnh thoảng một vài tiếng nổ to như sấm lại vang lên, không khí xung quanh như bị dồn ép lại làm chúng tôi kinh hãi.

Sau 3, 4 ngày vào tới Quảng Trị, đại đội cao xạ chúng tôi được trên giao nhiệm vụ mới là bảo vệ cầu Trúc Khê. Đây là cây cầu trên quốc lộ 1 cách Quán Ngang vài cây số nằm trên đường tiến quân của quân ta vào Đông Hà. Trận địa của chúng tôi nằm trên một gò cát trắng rìa làng cạnh quốc lộ 1 và cách cầu khoảng 500 mét. Hai ngày đầu không có gì chứng tỏ đây là chiến trường vì dân cư của mấy làng quanh đó đã bỏ đi hết, ít tiếng bom đạn, có lúc còn im ắng hoàn toàn, chỉ có chiếc OV10 thỉnh thoảng đảo qua đảo lại. Nhưng đến ngày hôm sau, đó là ngày 7 tháng 4 năm 1972, trận đánh đầu tiên để lại thương vong cho đại đội tôi là một ngày đánh khó quên.

Khoảng giữa trưa ngày hôm đó, chiếc OV10 cứ lượn đi lượn lại quanh khu vực cầu, thấy hiện tượng khác thường cả đơn vị đã vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Quả nhiên một lúc sau mấy chiếc F4 kéo đến và chúng tôi thấy một tiếng nổ bụp, đó là tiếng nổ của pháo khói do chiếc OV10 bắn ra chỉ điểm mục tiêu cho F4 đánh phá cầu. Nhận ra mục tiêu, mấy chiếc F4 chọn hướng mặt trời, tăng độ cao rồi bổ nhào. Đại đội tôi tập trung hoả lực của cả bốn khẩu đội bắn chiếc đầu tiên và cả bốn khẩu đều thông báo đã bắt được mục tiêu. Trong đơn vị tôi là trắc thủ đo xa có nhiệm vụ dùng máy đo xa để đo khoảng cách từ mục tiêu đến trận địa. Lúc đó tôi cũng đã bắt được mục tiêu và đo được cự ly khoảng 4.000 mét, tức thì đồng loạt cả bốn khẩu đội nổ súng, những chùm đạn vun vút lao lên, nhưng vì đây là loạt đạn đầu tiên và hơn nữa đơn vị tôi chưa nhiều kinh nghiệm trận mạc nên đạn còn cách xa mục tiêu nhiều lắm. Chiếc F4 vẫn bổ nhào và cắt được bom.

Đây là lần đầu tiên chúng tôi bị đánh vào trận địa. Trận ấy đơn vị tôi hy sinh ba người, bị thương hơn chục người. Ba người hy sinh là các anh Thanh, Tự, Thảo trong đó anh Thanh trẻ nhất, là sinh viên năm thứ hai khoa Sinh Đại học Tổng hợp, cùng nhập ngũ với tôi. Mấy ngày sau, chúng tôi được lệnh rút ra nhưng trong đêm rút lui đó chúng tôi còn bị pháo hạm từ ngoài biển tới tấp bắn vào, may mà không bị thương vong gì.

 Trong tâm trí tôi đến bây giờ vẫn còn in đậm hình ảnh không thể nào quên khi đi qua khu vực khẩu đội 4. Đó là cảnh tượng một khẩu pháo 37 ly nặng hơn 2 tấn bị bom ném trúng hất lên hẳn bờ công sự, ám đen khói bom. Thi thể của các anh trong khẩu đội bị xé nát ra từng mảnh và có những mảnh còn giắt vào khẩu pháo. Mùi khét lẹt của bom, mùi thi thể, mùi của nhựa cây lúp xúp, mùi của đất bị cày tung… tất cả quyện lại thành một thứ mùi khó tả mà chỉ có ai ở chiến trường mới tưởng tượng ra nổi Cũng không hiểu sao mà nhanh thế một bầy quạ từ đâu kéo đến, chúng đậu đen trên khẩu pháo và bụi cây nhỏ gần đấy để tìm kiếm mùi tanh của xác chết.

Khẩu đội 4 có 6 người gồm anh Mâu (khẩu đội trưởng) và anh Ngô Quang Ngọc cùng quê Gia Lâm, anh Thường người dân tộc Thổ quê Thái Nguyên, anh Chí quê Vĩnh Phú, anh Nguyễn Văn Đống sinh viên năm thứ 2 khoa Hoá là người có biệt tài cắt tóc rất đẹp và anh Thẩm Quang Oánh đã tốt nghiệp khoa Lý nhà ở phố Cửa Đông, Hà Nội. Trong số họ chỉ có anh Mâu và anh Thường là có vợ con. Viết tới đây tôi chợt liên tưởng tới thông tin rằng hàng vạn liệt sĩ của chúng ta vẫn chưa tìm thấy phần mộ. Vâng Thế thì các anh trong khẩu đội 4 kia có bao giờ tìm thấy phần mộ? Thế mới hiểu thế nào là sự tàn khốc của chiến tranh. Sau này trong một lần vào thăm chùa Chân Tiên trên phố Bà Triệu, Hà Nội tình cờ tôi đọc thấy tên anh Thẩm Quang Oánh được khắc trên Bia các liệt sĩ của phường Vân Hồ. Phải chăng đó cũng là chút an ủi với anh.

Thiệt hại ngày hôm đó là nặng nhất trong toàn bộ chiến dịch đối với đơn vị tôi. Hôm đó chúng tôi bị hy sinh 9 người, ngoài 6 người trên còn 3 người khác ở sở chỉ huy bị trúng bom. Đó là anh Nguyễn Hữu Định đại đội trưởng, quê Nho Quan, Ninh Bình; anh Nguyễn Văn Chương chính trị viên nhà ở phố Lò Sũ, Hà Nội và anh Vũ Sĩ Lâm sinh viên năm thứ 3 khoa Hóa nhà ở phố Huế, Hà Nội. Riêng ba anh này vẫn còn thi thể. Do thiệt hại quá nặng nề, đại đội tôi mất sức chiến đấu hoàn toàn và phải chờ tới đầu tháng 5 năm 1972 sau khi ta giải phóng Đông Hà đơn vị tôi mới được tăng cường bổ sung người và xe pháo để tiếp tục tham gia chiến dịch.
                 Hà Nội, tháng 8 năm 2006
Logged
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #27 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 02:44:19 pm »


                                     Một thời hoa lửa(Trích)
                                      ĐỖ MINH QUANG
                                      Nguyên chiến sĩ, Tiểu đội thông tin 2W Tiểu đoàn bộ binh 1 Trung đoàn 101 Sư đoàn 325

"Tháng 3 năm 1972, chiến dịch Quảng Trị bắt đầu. Đơn vị tích cực huấn luyện. Khuya mồng 7, rạng sáng mồng 8 tháng 4, báo động di chuyển toàn bộ đội hình trung đoàn, với thông báo là đi diễn tập cấp trung đoàn. Chúng tôi thu dọn lán trại, xếp gọn ba lô và hành quân ra Bến Tắm. Tàu đưa chúng tôi tới ga Kép lúc trời tờ mờ sáng. Chúng tôi chưa rõ đi đâu. Khi đầu tàu được nối xuôi về phía Nam thì chúng tôi hiểu rằng đã đến lúc lên đường vào Nam chiến đấu.

Từ lúc nhập ngũ đến đó, chúng tôi chưa được về thăm gia đình, cũng còn nhiều tâm sự phải gửi gắm lại hậu phương chứ! Chúng tôi tranh thủ viết thư cho người thân. Xin giấy, xin phong bì, xin tem. Hết phong bì thì gấp bằng giấy. Hết giấy thì xé sổ. Hết tem thì thả thư không tem xuống đường. Thế là khi đi qua chắn tàu phố Trần Phú, Điện Biên Phủ, Nguyễn Thái Học, Nam Bộ, Cửa Nam thư bay xuống đường như bươm bướm. May mắn cho tôi là nhà ở ngay phố Tống Duy Tân nên sau ít phút gia đình tôi đã nhận được thư dù không tem, không qua bưu điện. Tàu đến ga Hàng Cỏ khoảng 12 giờ trưa và dừng lại thay đầu máy mất 45 phút. Thật bất ngờ khi thấy mẹ tôi và các em ra ga chia tay tôi. Cả đoàn tàu dài hàng ngàn người ra trận chỉ có hai gia đình biết tin kịp ra tiễn đưa. Đơn vị đã quán triệt đến ga không ai được phép xuống tàu.

Tôi lưỡng lự không biết xử trí ra sao. Thạc nói với anh Tuyến: "Gia đình Quang đấy, anh báo cấp trung đội cho Quang xuống tàu gặp gia đình". Được sự đồng ý của trung đội trưởng và tiểu đoàn trưởng, tôi xuống sân ga gặp gia đình. Một lát sau tàu đã hú còi báo hiệu chuẩn bị khởi hành. Tôi leo lên tàu. Tàu từ từ chuyển bánh, phút chia tay thật nghẹn ngào. Hình như tôi không nói được gì với gia đình ngoài câu: "Con đi nhé!". Mẹ tôi rơm rớm nước mắt, chúng tôi ai cũng rơm rớm nước mắt. Tôi vẫy tay, tiểu đội tôi vẫy tay, cả toa tàu vẫy tay và cả đoàn tàu vẫy tay. Sau đó là một khoảng thời gian im lặng. Lúc này tôi là người hạnh phúc nhất, còn mọi người nghĩ gì? Chắc ai cũng nhớ về người thân của mình và mong ước được gặp lần cuối trước lúc đi xa...".

MAI NGỌC THOẢNG
Nguyên Tiểu đội trưởng thông tin Đại đội 18, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320B
"Lúc đó tôi là hạ sĩ, tiểu đội trưởng thông tin của Trung đoàn 48, chịu trách nhiệm cho việc đảm bảo liên lạc của chỉ huy với các đơn vị trong Thành cổ Quảng Trị. Tôi còn nhớ những trận chiến đấu, đặc biệt là ngày 13 tháng 7 năm 1972, chính là ngày diễn ra đàm phán tại Pa- ri, và đồng thời Trung đoàn cho biết chúng ta quyết tâm giữ Thành cổ Quảng Trị.

Không ai truyền cho ai, nhưng chúng tôi đều biết khẩu hiệu: "Quang Sơn còn, Quảng Trị còn" (Quang Sơn chính là biệt danh của Trung đoàn). Trong điều kiện ngày 13 tháng 7 địch bắn phá ác liệt, đường dây qua sông Thạch Hãn bị đứt, tôi đã cùng đồng đội lao ra sông nối lại dây rồi bơi vào bờ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Sở chỉ huy đã thông báo: chính đồng chí đã vừa nối đường dây cho Trung đoàn nhận mệnh lệnh quan trọng của cấp trên lệnh cho Trung đoàn phải đảm bảo liên lạc với chỉ huy và đánh thắng trong ngày đó".

                                             ĐỒNG MẠNH MỨC
                                             Nguyên chiến sĩ truyền đạt Tiểu đoàn 18 Sư đoàn 325
"Đường hành quân của bộ đội ta từ Bắc vào rất gian khổ nhưng ở đoạn vượt sông sang Thành cổ thực sự ác liệt hơn nhiều. Trên trời pháo sáng, pháo bắn cấp tập, vượt sông rất nguy hiểm. Tôi nhớ có những chiến sĩ trẻ chuẩn bị vượt sông, hỏi tôi: "Đồng chí ơi, tình hình của ta như thế nào?". Tôi nói: "Các đồng chí yên tâm, sang bên thì sẽ biết". Hàng đêm, liên tục các đoàn quân vượt sông để tiếp quân giữ chốt ở Thành cổ. Tôi nhớ nhất có những chiến sĩ trẻ vào có nói với tôi: "Em không biết bơi". Tôi bảo, cứ bám vào phao rồi bơi sang. Bộ đội ta dùng ni lông cho tất cả ba lô vào, buộc chặt lại làm phao, súng cho lên trên". Các chiến sĩ ta chỉ mặc quần đùi bơi sang sông để tiếp tục cầm súng bổ sung. Có đồng chí chưa bơi qua sông được thì hy sinh. Đồng chí trẻ đi với tôi, có tâm sự chuyện quê hương với tôi, lúc bơi đến giữa dòng sông bị trúng đạn, chỉ kịp kêu lên: "Mẹ ơi! Mẹ cứu con!", rồi bị trôi theo dòng nước. Tôi nhớ khi tôi lên đường vào tháng 6 năm 1971, tôi nói "Chào mẹ con đi", mẹ tôi chỉ nói: "Khi nào giải phóng con nhớ về ngay với mẹ". Lúc đó trên đoạn đường đang có lụt lớn, tôi đến được nơi tập trung thì mẹ tôi về, tôi nhìn theo bóng mẹ tôi khuất dần. Khi trở về thì mẹ tôi không còn nữa.

Đơn vị chúng tôi ngoài nhiệm vụ đưa các chiến sĩ mới vào vượt sông thì nhiệm vụ chính là truyền đạt thông tin, có những đồng chí làm nhiệm vụ nối dây thông tin qua Thành. Đơn vị tôi có những "con cá kình" vượt sông thực sự, giữ cho đường dây thông suốt giữa hai bên bờ sông như đồng chí Trần Luân Tín, hiện đang ở Thành phố Hồ Chí Minh và đồng chí Nguyễn Gia Tân công tác ở Bưu điện Hà Nội. Và chúng tôi làm nhiệm vụ chiến đấu trên mảnh đất này như là những "con cá kình", luôn sẵn sàng cầm súng bảo vệ Tổ quốc".
 
                                         Đại tá BÙI ĐỨC NGOAN
                                         Nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn Cao Vân.Trung đoàn 101 Sư đoàn 325
"Từ nơi tạm đứng là Đông Hà - ái Tử, Trung đoàn 101 chúng tôi bước vào chiến đấu từ hạ tuần tháng 7 năm 1972 ở khu bắc Thị xã Quảng Trị, tại vùng An Tiêm - Chợ Sải, nơi ngã ba sông Thạch Hãn - Vĩnh Định. Lúc đầu giành giật nhau từng khu vực, sau đó chúng tôi chiến đấu trong vài tháng tại đây chống bọn thủy quân lục chiến trong mưa bom, bão đạn ác liệt. Ngày ngày chống địch lấn dũi, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, đêm đêm đi tập kích, cải thiện thế phòng thủ. Qua vài tháng tác chiến, quân số Trung đoàn đã giảm sút, mỗi đại đội còn vài chục tay súng, mỗi tiểu đoàn còn khoảng trên dưới 100 tay súng, nhưng ý chí quyết tâm, lòng dũng cảm đã được tôi luyện, tình đồng chí - đồng đội đoàn kết gắn bó keo sơn giữa chiến sĩ với chiến sĩ, và giữa cán bộ với chiến sĩ. Chúng tôi sống chung trong hầm chốt giữ, cùng ăn bánh lương khô, gói gạo sấy, chia sẻ từng điếu thuốc hiếm hoi.

Khi đó tuổi tôi đã trên 40, ngót 50, còn anh em chiến sĩ thì còn trẻ măng, tuổi mười tám, đôi mươi, hơn hẳn nhau một thế hệ tuổi tác nên nhiều chiến sĩ, thường gọi tôi là bố xưng con. Một số anh em còn vui xin được nhận cô con gái rượu của bố. Đôi lúc nhàn rỗi, chúng tôi thường hát câu ví dặm quê hương, ngâm bài thơ đất nước ngàn năm.
Sau này, chiến tranh đã lùi xa, trở về đời sống bình thường, chúng tôi thường gặp nhau cùng sinh hoạt truyền thống bạn chiến đấu Trung đoàn Cao Vân anh hùng tại Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên - vùng châu thổ sông Hồng. Anh em mừng mừng tủi tủi gặp nhau ôn lại chuyện cũ, nhớ thương những người bạn đã ngã xuống trên mảnh đất khói lửa, hỏi thăm nhau tình hình gia đình, vợ con, vượt khó, giảm nghèo, xây dựng kinh tế, dặn dò nhau luôn giữ vững bản chất Bộ đội Cụ Hồ trong mọi tình huống...".
 

                                      ĐOÀN CÔNG TÍNH
                                      Phóng viên chiến trường báo Quân đội nhân dân

"Nhằm phá hủy Thành cổ tới mức không còn một viên gạch dính vào nhau, Mỹ đã dùng loại bom dù thả từng chuỗi, đào bới phá nát các hầm hố. Rồi thả chất độc hoá học kéo từng vệt dài màu vàng trên vòm trời, tỏa dần ra, trùm xuống Thành cổ một thứ khói màu vàng nhạt chết người. Đội ngũ phóng viên Báo Quân đội nhân dân và một số báo khác có tại mặt trận, nhìn làn khói chết chóc, chốc chốc lửa bom đạn chớp loé lên dữ dội, đều muốn biết chiến sĩ ta sống ra sao trong cảnh bom đạn ngút trời đó. Nhưng con đường vào Thành cổ chẳng dễ dàng. Có lời khuyên từ Chỉ huy Mặt trận: không nên để cho phóng viên vào Thành cổ.

 Có điều gì thôi thúc khiến tôi phải tìm mọi cách vào đó cho bằng được. Tôi tìm đến vị trí người ta chỉ dẫn nhưng trước mắt tôi là một bãi dày đặc hố bom, cây cối đổ ngổn ngang... Một lúc trấn tĩnh lại thì nghe có tiếng người từ dưới đất vọng lên. Mừng quá, tôi men theo hào và đi vào căn hầm. Sau khi biết tôi muốn tìm đường vào Thành cổ, tôi nhận được lời khuyên nên bám tuyến đi ra của đường vận chuyển thương binh cũng đủ tài liệu. Nhưng tôi là phóng viên nhiếp ảnh không thể lấy tài liệu gián tiếp. ống kính của tôi đã gắn bó từ đầu với chiến sĩ giải phóng Quảng Trị. Tôi đã đưa được vào ống kính những hình ảnh anh hùng của chiến sĩ đánh sụp "Hàng rào điện tử Mắc Namara", ghi được phút lịch sử các chiến sĩ cắm cờ lên căn cứ Đầu Mầu, hình ảnh cả một trung đoàn 56 của quân ngụy Sài Gòn phản chiến trở về với cách mạng. Giờ đây, tôi phải có hình ảnh chiến sĩ ta chiến đấu tại Thành cổ. Cả nước muốn nhìn thấy họ sống ra sao dưới pháo bầy, bom chùm và bom rải thảm của  B.52 Mỹ.

Nghe tôi trình bày, một nữ du kích thường làm liên lạc ra vào Thành cổ nói vui:
- Nhà báo đã "ngoan cố" muốn vào Thành cổ thì em xin dẫn đường.
Hai nữ du kích đã tự nguyện dẫn đường là cô Lệ, cô Hảo. Các cô cho biết: "Vượt qua sông Thạch Hãn trong đêm rất khó khăn, nguy hiểm. Có lúc mảnh bom rơi như mưa, trên mặt sông đầy ánh pháo sáng...". Tôi đã từng chụp những hình ảnh lúc Thành cổ mới giải phóng, dinh tỉnh trưởng còn nguyên vẹn. Còn đây là Thành cổ ngày 14 tháng 7 năm 1972, dinh Tỉnh trưởng đã nát tan tành và Thành cổ cũng sụt lở. Chỉ còn nụ cười của những người chiến sĩ bảo vệ Thành cổ là nguyên vẹn và rạng rỡ. Anh em nói khi tôi đưa ống kính lên: "Có thể ngày mai đây một số anh em chúng tôi không còn nữa. Nhưng Thành cổ sẽ sống mãi với lịch sử vinh quang của đất nước".

Từ lời nói thiêng liêng như lời di chúc, tôi cũng cảm thấy thêm trách nhiệm nặng nề. Trước khi rời khỏi Thành cổ, mang tài liệu phim ảnh về Hà Nội, tôi đã viết một lời "Di chúc", phỏng theo lời người chiến sĩ đó: "Nếu chẳng may tôi hy sinh trên đường ra Hà Nội, xin nhờ mang hộ mười cuốn phim này giao cho Tòa soạn báo Quân đội nhân dân". Đây là hình ảnh của những người con quê hương Quảng Trị và cả nước, họ đã chiến đấu anh hùng bảo vệ thị xã Quảng Trị, những nụ cười bất diệt của họ sẽ sống mãi với Thành cổ anh hùng".

Nhưng may mắn cho tôi, tôi đã thực hiện chuyến đi trót lọt với những cuốn phim mà tôi đã giữ làm "của gia bảo" cho đến hôm nay gần nguyên vẹn./.
Logged
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #28 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 02:47:10 pm »

 
                                              NGUYỄN HẢI NHƯ
                                              Nguyên Tham mưu trưởng Trung đoàn 48Sư đoàn 320B
"Sở chỉ huy của chúng tôi trong hầm dinh tỉnh trưởng cũng là nơi đặt trạm phẫu vì không còn chỗ nào an toàn hơn nữa. Cho nên chỉ một vài ngày thuyền không sang được là số thương binh nằm ùn lại đấy. Vừa rồi có đồng chí Sử ban tác chiến Sư 325 viết một lá thư cho Viện Lịch sử Quân sự, tôi có được xem. Thư viết khi anh vào nắm tình hình. Gọi là Sở chỉ huy nhưng thực ra anh em trong đó tối tăm không có đèn đuốc gì cả. Anh nói vào đó thì cảm thấy có nhiều mùi: mồ hôi người, bom đạn, vết thương của anh em thương binh. Nhưng sau này, có đặc điểm là hầm bị đánh sập, trời nóng như thiêu như đốt, người trong Sở chỉ huy thì đông: người chỉ huy, thông tin liên lạc, pháo binh, thương binh, tất cả ở trong đó nên cái hơi phụt ra ngoài theo mấy cái cửa ra. Cho nên anh bước vào Sở chỉ huy thì thấy hơi phụt ra như là hơi nước sôi. Chính cái hơi phụt ra này mà hơi bom đạn cũng không vào được.
Nói là trong Sở chỉ huy nhưng chúng tôi cũng rất căng thẳng, chẳng để ý được mùi gì".

                                   Nhớ mãi những đồng đội ngã xuốngtrên đất Thành cổ
                                    TRẦN QUỐC VIỆT
                                    Ghi theo lời kể của Phạm Trọng Quý nguyên chiến sĩ Đại đội 1 Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 18 thuộc Sư đoàn 325

May mắn cho tôi còn sống để làm chứng nhân những khoảnh khắc bi tráng một thời máu lửa ở mặt trận Trị Thiên, nơi có nhiều cán bộ, chiến sĩ của đơn vị đã oanh liệt ngã xuống trên mảnh đất Thành cổ Quảng Trị anh hùng.

 Tôi còn nhớ hôm đó là ngày 7 tháng 5 năm 1972, đơn vị đang đứng chân ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh thì được lệnh hành quân vào Nam. Ngày 10 tháng 5 năm 1972, chúng tôi tập kết tại khu vực Bãi Hà (phía bắc sông Bến Hải). Tại đây, ta bị máy bay địch ném bom trúng đội hình, một số đồng chí hy sinh. Đêm sau, dưới ánh đèn dù chiếu sáng rực cả một vùng dọc sông và máy bay địch liên tục quần đảo khống chế, đơn vị ngụy trang tổ chức vượt sông Bến Hải an toàn. Sáng ngày 12 tháng 5 năm 1972, chúng tôi đến Gio Linh, rồi vượt qua Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang và ngày 16 tháng 5 năm 1972 vượt Thạch Hãn vào Thị xã Quảng Trị đóng quân tại khu vực nhà thờ Tri Bưu (đông bắc Thành cổ). Bắt đầu từ đây là những ngày sống, chiến đấu quyết liệt đầy hy sinh trên mảnh đất Trị Thiên máu lửa.

 Đêm 25 tháng 5 năm 1972, đơn vị được lệnh cơ động vào Thanh Hương. Dọc đường tiến quân, bị pháo địch tập kích, Đào Văn Cao (quê Thái Nguyên), Y Đô (người gốc Ê Đê, quê Gia Lai) hy sinh. Sau khi vượt cuộc đánh chặn bằng pháo của địch, chúng tôi đến khu vực nhà thờ Thanh Hương triển khai đào hầm hào, công sự chiến đấu, chốt giữ điểm cao 27 (gần bờ biển).

Rạng sáng 27 tháng 5 năm 1972, pháo địch từ hạm tàu ngoài biển và các trận địa lân cận của chúng dồn dập bắn vào khu vực chúng tôi chốt giữ. Pháo địch ngớt, những chiếc tàu "há mồm" từ ngoài khơi ập vào đổ quân lên bờ. Trên trời từng tốp máy bay trực thăng HU1A quần đảo, phóng rốc két, xả đạn đại liên như vãi trấu xuống trận địa của chúng tôi. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt. Đạn nổ chát chúa, cát bụi mịt mù. Địch ỷ vào hoả lực mạnh ào ạt xông lên, chúng tôi dựa vào công sự ngoan cường đánh trả, đẩy lùi các cuộc đột kích của địch. Trận đánh này Lê Đình Nam (quê Thái Nguyên), Đinh La (quê Plây Cu, Gia Lai) và anh Nuôi, Tiểu đoàn phó hy sinh.

Trưa ngày 27 tháng 5 năm 1972, anh Trần Thanh Xưng, Tiểu đoàn trưởng lệnh cho đại đội chúng tôi lui về xã Hải Quế triển khai trận địa chốt giữ mới. Tại đây, ngày nào cũng diễn ra nhiều trận đánh địch đột kích quyết liệt. Không gian tháng 5 ở Quảng Trị vốn khô nóng càng thêm hừng hực như cái chảo lửa khổng lồ úp mặt xuống đất, bởi bom đạn cày xới... ác liệt nhất là trận đánh sáng ngày 9 tháng 6 năm 1972, địch dùng xe tăng đột kích vào trận địa từ hướng đông làng Đôn Quế, xã Hải Quế. Tại vị trí chốt tiền tiêu của đại đội có một tổ ba người cảnh giới gồm: Nguyễn Văn Nhân, Đoàn Hùng (quê Thái Nguyên) do Nguyễn Văn Trận chỉ huy (hiện đang công tác tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thái Nguyên). Ngay từ phút đầu trận đánh Nhân và Hùng đã anh dũng hy sinh. Sau đó, Hiền, Triệu (quê Vĩnh Phú), Ngôn (quê Hà Tây), Trần Hải, Nguyễn Văn Việt (quê Thái Nguyên), Lý Văn ảnh (quê Yên Bái)... vĩnh viễn nằm xuống. Tuy bị thương vong nhiều, nhưng chúng tôi vẫn ngoan cường đánh trả, tiêu diệt hàng chục tên địch và giữ vững trận địa...

 Đêm 12 tháng 6 năm 1972, tôi nhận nhiệm vụ chỉ huy Tiểu đội 3 thì pháo địch tập kích vào chốt của đại đội. Đỗ Quảng Thìn (quê Thái Nguyên) hy sinh. Tôi cùng Đinh Quang Thìn (quê Đồng Hỷ, Thái Nguyên, nay là đại tá nghỉ hưu) trực tiếp chôn cất liệt sĩ này tại thôn Đôn Quế (xã Hải Quế). Sáng 12 tháng 7 năm 1972, địch lại nã pháo vào trận địa của đơn vị, sau đó một tốp hai máy bay trực thăng bay đến, dưới bụng có treo một "thùng" nhỏ, tựa như công ten nơ và phụt ra những luồng khói trắng, anh Nguyễn Phi Trường hô to: "Địch thả chất độc, lấy khăn nhúng nước bịt mặt...". Một lúc sau, tôi cảm thấy không khí ngột ngạt, nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng, da thịt bỏng rát như xát ớt. Tôi và một số người bị đổ máu mũi... ít phút sau, một chiếc máy bay phản lực lao đến ném một quả bom lớn xuống làng Trung An. Bom nổ, dựng lên cột khói cao và phụt ra những quầng lửa như hoa cải. Dứt đợt tập kích hoả lực bằng không quân, bộ binh địch được xe tăng yểm hộ, chúng dò dẫm tiến về phía trận địa phòng ngự của chúng tôi, vừa đi vừa bắn như vãi đạn. Hướng tiểu đội của tôi chốt giữ, một chiếc M41 lao đến, tôi dùng B40 nhắm thẳng nó bóp cò, đạn xé gió kéo một vệt lửa dài, rất tiếc không trúng mục tiêu. Song chiếc xe tăng khựng lại và quay đầu tháo chạy. Bọn lính bộ binh cũng bỏ chạy thục mạng... Trận đánh này Chu Văn Dịt (quê Thái Nguyên) hy sinh.

Sau nhiều tháng cơ động chiến đấu ở những vùng xung yếu phía đông và nam Quảng Trị, đơn vị tôi bị tổn thất nhiều, ngày 16 tháng 7 năm 1972, chúng tôi được lệnh quay về Gio Linh củng cố lực lượng. Vào hạ tuần tháng 8, đơn vị lại được lệnh vượt sông Thạch Hãn vào làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ phía nam Thành cổ Quảng Trị. Những ngày này, có thể nói là đỉnh điểm của sự ác liệt ở mặt trận Trị Thiên mà Thành cổ và Thị xã Quảng Trị là "túi lửa". Bởi, địch đã tái chiếm được nhiều vùng, tạo thế bao vây Thị xã Quảng Trị và Thành cổ từ ba hướng.

Sau khi vào Thành, đơn vị được chốt giữ khu tây nam từ trường Bồ Đề trở xuống và đi đánh nhiều trận. Phối hợp với đơn vị bạn, chúng tôi đã đánh vào khu Cầu Sắt, chiếm được mục tiêu. Trận đánh đạt hiệu quả cao, địch bị diệt, nhiều tên tháo chạy. Bắt đầu từ đây cho đến ngày 15 tháng 9 năm 1972 trước khi được lệnh rút khỏi Thành cổ, trong vòng 35 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ, đơn vị đã đánh hàng trăm trận đột kích, diệt hàng trăm tên lính của dư đoàn thủy quân lục chiến và sư đoàn dù được coi là những đơn vị "thiện chiến" của quân ngụy Sài Gòn. Song, cũng phải hứng chịu hàng ngàn quả đạn pháo các loại và hàng chục tấn bom của địch... ác liệt nhất, ngày 30 và 31 tháng 8 năm 1972, tại tuyến phòng ngự của Tiểu đoàn 7 chúng tôi, địch bắn 1.000 đến 2.000 quả đạn pháo một ngày. Ngoài ra hàng chục lần tốp máy bay phản lực thay nhau giội bom. Bầu trời ngày nào cũng như sôi lên, mặt đất luôn luôn bị cày xới, phố xá, làng mạc và nhiều khu vực Thành cổ trở thành bình địa, hoang tàn.

 Những ngày chiến đấu bảo vệ Thị xã và Thành cổ Quảng Trị đã lùi xa 35 năm, song với tôi mãi mãi chẳng bao giờ quên sự khốc liệt và đức hy sinh của những người lính Cụ Hồ, trong đó có rất nhiều cán bộ, chiến sĩ của Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 18 Sư 325 anh hùng...
Logged
vmt
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 959



« Trả lời #29 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2011, 02:59:00 pm »


                                         Trên dòng Thạch Hãn
                                           Đại tá LÊ NGHĨA
                                           Chánh Thanh tra Binh chủng Tăng Thiết giáp Nguyên đại đội phó Đại đội 1 Tiểu đoàn 25 vận tải thuộc Sư đoàn 320B

Tháng 7 năm 1972, Đại đội 1 Tiểu đoàn 25 vận tải thuộc Sư đoàn 320B được giao nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, đạn dược và vận chuyển thương binh cho Trung đoàn bộ binh 48 (mật danh là "Đoàn Quang Sơn") đang chiến đấu bảo vệ Thị xã và Thành cổ Quảng Trị.

Nhận thấy chỉ dùng sức người mang vác vũ khí vào Thị xã và dùng võng cáng thương binh ra với quãng đường hàng chục kilômét dưới hỏa lực của máy bay, pháo binh mặt đất và pháo hạm của địch thì rất vất vả, mà số lượng vũ khí và thương binh chẳng được bao nhiêu; nếu tận dụng thuyền vận chuyển trên sông Thạch Hãn thì hiệu quả sẽ cao hơn nhiều. Ban chỉ huy đại đội đã bàn bạc và thống nhất với phương án của Đại đội trưởng Nguyễn Thanh Mai (sau này là giáo viên của Học viện Lục quân Đà Lạt) là vận động địa phương cho dùng thuyền máy của bà con ngư dân đi sơ tán, bỏ lại ở các thôn, xóm ven sông, làm phương tiện vận chuyển. Được cấp trên chuẩn y, đơn vị khẩn trương lùng tìm những chiếc thuyền trong các lùm cây, bụi cỏ ven sông Thạch Hãn.

 Ngay tuần đầu tiên anh em đã tìm được ba chiếc thuyền với máy móc còn khá tốt và một số thùng dầu mazut để chạy máy, thế là "phân đội vận tải thủy" của đại đội được hình thành. Để hướng dẫn anh em vận hành máy và điều khiển thuyền, đơn vị thành lập một tổ bảo đảm kỹ thuật mà nòng cốt là những đồng chí quê ở hai huyện Giao Thủy và Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ngay trong năm đêm đầu tiên, đơn vị đã thực hiện vận chuyển được khoảng 8 tấn vũ khí vào Thị xã và đưa gần 100 thương binh về tuyến sau an toàn. Nhưng rồi địch cũng phát hiện ra ta dùng thuyền máy tiếp tế cho Thị xã và Thành cổ, thế là một cuộc chiến ác liệt trên sông Thạch Hãn bắt đầu.

Để tìm diệt thuyền của ta, máy bay địch thường xuyên thả đèn dù trên sông và rải bom từ trường xuống nhiều đoạn sông, nhiều nhất là đoạn từ cầu Quảng Trị và thôn Nhan Biều đến căn cứ ái Tử. Với ánh sáng đèn dù từ máy bay địch thả, ta đối phó không khó, cứ nghe tiếng máy bay và tiếng nổ "bụp" trên trời là anh em cho thuyền (đã được ngụy trang kín bằng cành lá) tắt máy áp sát vào bờ, đợi cho máy bay địch bay xa hoặc đèn dù tắt là lại tiếp tục cho thuyền đi. Nhưng đối phó với bom từ trường thì không dễ, bom chìm sâu dưới lòng sông ta không phát hiện được, khi thuyền đi qua dưới tác động của chân vịt, bom sẽ phát nổ làm đắm thuyền. Thời gian đầu bom từ trường của địch đã phá hủy nhiều thuyền của ta và hàng chục cán bộ, chiến sĩ của đơn vị đã hy sinh. Có đêm ta mất một lúc hai thuyền với hơn 10 đồng chí trên đoạn sông ngang căn cứ ái Tử.

Ngày hôm sau đồng chí Phạm Vị - chính trị viên đại đội dẫn một tổ lên tìm kiếm thi hài của anh em, đã phải thu nhặt từng mảnh thi thể liệt sĩ bị bom văng lên bờ sông để chôn cất. Để đối phó với bom từ trường, ban ngày đơn vị cử một tổ được tăng cường 3 chiến sĩ công binh của Sư đoàn và được du kích địa phương giúp đỡ thực hiện rà phá bom một cách rất thô sơ: dùng dây ni lông buộc các thùng đạn đại liên của địch (cách 5 mét một thùng) với độ sâu 1,5 mét đến 2 mét có cây chuối làm phao rồi chăng ngang sông và kéo xuôi dòng chảy để kích cho bom nổ. Trong quá trình rà phá bom trên sông, anh em phát hiện nhiều thi thể bộ đội ta hy sinh trong lúc vượt sông vào Thị xã, trôi trong dòng nước hoặc dạt vào các bãi cạn ven sông. Chúng tôi cùng du kích đưa xác anh em lên bờ mai táng mà lòng sục sôi căm thù địch và thương tiếc đồng đội vô cùng. Ban đêm khi thuyền ngang qua các đoạn sông có bom, để hạn chế thương vong ta tắt máy, chỉ để một đồng chí trên thuyền dùng sào chống giữ hướng, số người còn lại buộc dây vào mũi thuyền lội theo mép nước để kéo thuyền qua đoạn nguy hiểm…

Khoảng từ 12 giờ đêm đến 2 - 3 giờ sáng, khi thuyền đến được bến quy định (bờ phía Thị xã cách cầu Quảng Trị vài trăm mét, đối diện với thôn Nhan Biều) thì anh em nổ ba phát AK làm ám hiệu rồi bốc hàng lên bờ cho bộ đội ta ra lấy, sau đó đưa thương binh quay về. Nhiều đêm khi thuyền đến bến hoặc trên đường rời bến, pháo cối địch bắn như vãi đạn xuống khu vực bến làm một số thuyền trúng đạn chìm xuống lòng sông cùng với số vũ khí chưa kịp chuyển lên bờ hoặc số thương binh nặng vừa đưa xuống thuyền… Sau này anh em rút kinh nghiệm khi đến bến khoảng 1 kilômét thì tắt máy, ngâm mình xuống nước đẩy thuyền đến bến quy định, trả hàng và nhận thương binh xong, lại ngâm mình đẩy xuôi dòng đến khu vực an toàn mới nổ máy…

Khoảng giữa tháng 8 năm 1972, địch chiếm được một số khu vực xung quanh Thị xã. ở phía bắc Thị xã, địch xây dựng một trận địa chốt tại Chợ Sải nằm gần bờ sông Thạch Hãn. Tại đoạn sông này, lòng sông sát bờ nơi có địch, mới đủ độ sâu cho thuyền của ta đi được. Do vậy hàng đêm khi thuyền ta đi qua đây, địch từ Chợ Sải ra phục kích trên bờ sông, dùng mìn định hướng Clâymo, súng M72, M79 và các loại hỏa lực khác bắn rất ác liệt, làm chìm một vài thuyền và hy sinh một số anh em. Đại đội phải tổ chức một tiểu đội hỏa lực gồm súng B41, trung liên… bố trí trên bờ đối diện gần thôn Trung Kiên, phối hợp với hỏa lực của đơn vị bạn và du kích để chế áp địch mỗi khi thuyền của ta qua đoạn sông này.

Thời gian này đơn vị tập kết ở thôn Nhĩ Hạ, ở đây có một nhánh cụt của sông Thạch Hãn nên tiện cho việc cất giấu, sửa chữa thuyền mỗi khi có hư hỏng. Khu vực này thường xuyên bị bom  B.52 và pháo hạm địch đánh phá nhiều lần, làm ta tổn thất mất một số thuyền. Cũng cần phải nói thêm rằng, Đại đội 1 của Tiểu đoàn 25 là một đơn vị vận tải bộ, toàn bộ số thuyền máy, nhiên liệu dùng để vận chuyển đều do đơn vị tận dụng các phương tiện của nhân dân đã đi sơ tán bỏ lại là chính, cuối chiến dịch mới được cấp trên bảo đảm cho một số nhiên liệu chạy máy. 81 ngày đêm diễn ra chiến dịch bảo vệ Thị xã và Thành cổ Quảng Trị thì có tới gần 40 đêm thuyền máy của đơn vị vận chuyển vũ khí, thương binh cho các đơn vị đang chiến đấu trong Thị xã, với số lượng thuyền hàng đêm từ 1 đến 3 chiếc mà hầu như đêm nào cũng có tổn thất hy sinh…

Để có được số thuyền máy bổ sung thay thế liên tục cho số thuyền bị bom, đạn địch đánh chìm, đơn vị đã huy động anh em có sự giúp đỡ của du kích và nhân dân các thôn hai bên bờ sông lùng tìm khắp bến, bãi bờ, các nhánh cụt của sông Thạch Hãn, trục vớt mọi loại thuyền có thể sử dụng được. Các loại máy bơm nước, máy xe tải cỡ nhỏ, máy xay xát của bà con được thu gom về, tổ thợ máy gồm các đồng chí Trần Văn Hiển, Nguyễn Cao Mại, Đặng Văn Nhiếp và một số đồng chí khác (những đồng chí này trước khi nhập ngũ là thợ sửa chữa của xí nghiệp vận tải ô tô hoặc phụ trách máy bơm nước ở các hợp tác xã, nên có hiểu biết về kỹ thuật cơ khí) sửa chữa, lắp ráp thành những chiếc thuyền máy, để rồi hàng đêm những thuyền vũ khí lại đều đặn vượt qua bom đạn đến với chiến sĩ ta trong Thị xã Quảng Trị.

Phương tiện thì như vậy, còn nhiên liệu, dầu nhờn dùng để chạy máy đơn vị cũng phải cử một số anh em đi tìm những thùng dầu mazut, dầu nhờn bà con chôn giấu, tìm tới những xe ô tô của địch bỏ lại để hút số dầu còn lại trong thùng chứa của xe mang về sử dụng. Khó khăn gian khổ như vậy nhưng với khẩu hiệu: "Đoàn Quang Sơn còn thì Thị xã còn - Đại đội 1 còn thì Đoàn Quang Sơn còn được cung cấp vũ khí", anh em trong đại đội đã đoàn kết một lòng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vượt qua mưa bom bão đạn của quân thù để đưa những chuyến hàng tới đích.

Nhớ lại những ngày ấy càng không thể quên sự giúp đỡ tận tình, hiệu quả và những tình cảm chân thành của nhân dân và du kích các thôn Nhĩ Hạ, Vinh Quang, Mai Xá, Lâm Xuân… Những con thuyền đánh cá, những đầu máy xe tải nhỏ, máy bơm nước, máy xay xát thóc gạo, những thùng nhiên liệu chạy máy đều là những tài sản lớn mà bà con chắt chiu, dành dụm trong bao năm trời để làm kế sinh nhai. Vậy mà khi chúng tôi xin được trưng dụng để làm phương tiện vận chuyển vũ khí và thương binh thì ai cũng sẵn sàng ủng hộ: "Mấy chú từ Bắc vô đây chẳng tiếc máu xương để giải phóng cho bà con, thì tụi tôi tiếc chi mấy thứ đó…", chân thành và giản dị vậy thôi.

Thời gian đầu luồng lạch, đường sá chưa thông thuộc, bản đồ địa hình lại chẳng có, nên chúng tôi phải nhờ du kích dẫn đường mới khỏi bị lạc. Có những chiếc thuyền, chiếc máy xay xát… của dân cất giấu, còn chủ thì đi sơ tán ở đâu đó, chúng tôi đành phải nhờ du kích người địa phương biết "ông nớ đang ở mô" mà đưa anh em đến trưng dụng. Tôi nhớ nhất có o Hồng, du kích thôn Nhĩ Hạ, mới khoảng 16, 17 tuổi, mặt tròn, da trắng, mắt bồ câu. Khi dẫn đường cho chúng tôi bị pháo bắn dữ dội, một số chiến sĩ chưa quen trận mạc còn hốt hoảng, lúng túng thì o hướng dẫn anh em bò xuống nấp ngay vào những hố đạn pháo vừa nổ còn nồng nặc mùi thuốc súng và đất đang còn nóng hầm hập. Chập tối lúc chúng tôi ra bến đưa thuyền đi, o cũng đi tiễn với câu dặn: "Mấy eng đi cẩn thận".
                             Tháng 9 năm 2007
Logged
Trang: « 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM